Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LIÊN HỆ THỰC TẾ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ ĐỐI VỚI UBND XÃ PHẠM VĂN CỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.47 KB, 25 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Ở đâu có quyền lực thì ở đó có u cầu kiểm sốt quyền lực với vai trị
như một cơng cụ điều tiết, bảo đảm cho quyền lực được sử dụng hợp lý, hiệu
quả; không bị lạm dụng, sử dụng sai mục đích, dẫn đến hậu quả tiêu cực.
Theo Hiến pháp năm 2013 thì quyền lực nhà nước là “sự thống nhất,
có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Cơ chế pháp lý kiểm
soát quyền lực nhà nước là một chỉnh thể các thể chế pháp lý và các thiết
chế của nhà nước có liên quan đến việc kiểm sốt quyền lực nhà nước của
các cơ quan nhà nước, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, cùng vận hành
nhằm ngăn ngừa, loại bỏ những hành vi vi phạm của các cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được tổ chức và thực
hiện theo đúng Hiến pháp và pháp luật. Qua đó đã tạo nền tảng pháp lý cho
cơ chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước dựa trên việc phân
công mạch lạc nhiệm vụ, quyền hạn của các quyền để tạo cơ sở cho cơ chế
kiểm soát quyền lực.
Quyền lực nhà nước là quyền lực được người dân ủy nhiệm. Đó khơng
phải là thứ quyền lực tự thân, hay xuất phát từ đấng siêu nhiên, mà là quyền lực
có nguồn gốc từ người dân. Do đó, xét từ khía cạnh đạo đức, các công chức
trong bộ máy nhà nước phải có nghĩa vụ phục vụ nhân dân, là “đày tớ”, “công
bộc” của nhân dân.
Quyền lực nhà nước bao giờ cũng được giao cho một nhóm người nắm
giữ, nên rất dễ bị các cá nhân thao túng, lạm dụng. Trong mỗi con người,
thường tồn tại hai thái cực: tính vị tha (vì người, vì xã hội) và tính vị kỷ (vì
bản thân mình). Do đó, bên cạnh việc bị chi phối bởi các lý tưởng, niềm tin
cao đẹp, hành vi của con người còn bị chi phối bởi các toan tính cá nhân. Khi
con người được đặt trong một mơi trường q dễ dàng, thuận tiện, thì lịng
tham có thể sẽ nổi lên, lấn át lý trí. Trong hồn cảnh đó, khả năng lạm dụng,
sử dụng quyền lực cơng để “mưu lợi riêng” rất dễ xảy ra.
Quyền lực nhà nước là ý chí chung của xã hội nhưng lại được giao cho
một số ít người với những khả năng hữu hạn khi thực thi. Đã là con người, ai


cũng có thể mắc sai lầm, bởi thế, những người nắm giữ quyền lực nhà nước
cũng có thể mắc sai lầm trong q trình thực thi nó. Tuy nhiên, do tính chất
1


của quyền lực nhà nước, nên nếu để xảy ra sai lầm này, cộng đồng, xã hội sẽ
là đối tượng phải gánh chịu những hậu quả. Do vậy, để giảm thiểu những sai
lầm đáng tiếc đó, quyền lực nhà nước cần được đặt dưới sự kiểm sốt. Do đó,
có rất nhiều vấn đề cần được nghiên cứu để xây dựng nên một hệ thống kiểm
soát quyền lực nhà nước đúng đắn và phù hợp. Hoàn thiện thể chế pháp lý
kiểm sốt quyền lực nhà nước hiện nay sẽ giúp góp phần nghiên cứu tìm ra
những phương pháp kiểm sốt tối ưu.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN
LỰC NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm, đặc điểm của cơ chế pháp lý kiểm
soát quyền lực nhà nước
1.1. Khái niệm cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà
nước
Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước là tổng thể các thể chế
pháp lý và các thiết chế thực hiện hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước, có
mối quan hệ chặt chẽ, được vận hành theo nội dung và các phương pháp do
pháp luật quy định nhằm phòng ngừa, loại bỏ những nguy cơ, những hành vi
vi phạm pháp luật, bảo đảm quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích
và hiệu quả.
Để ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp luật và bảo đảm hiệu quả
hoạt động, pháp luật quy định những biện pháp về kiểm soát việc thực hiện
quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở việc ban hành các quy
định pháp luật mà cần phải tổ chức thực hiện chúng thơng qua một quy trình, có
các yếu tố, với nhiều giai đoạn khác nhau, là cơ chế pháp lý về kiểm soát việc

thực hiện quyền lực nhà nước.
1.2. Đặc điểm của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà
nước
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”; tổ
chức và hoạt động của nó dựa trên một trong những nguyên tắc nền tảng:
2


“Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt
giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, việc phân định thành
ba quyền nói trên là một nhu cầu khách quan. Thực tiễn xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta chỉ ra rằng, việc phân định rành mạch
ba quyền là cách thức tốt nhất để phát huy vai trò của nhà nước đồng thời là
cơ sở để kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước. Cơ chế pháp lý kiểm
soát quyền lực nhà nước được vận hành trên cơ sở hiến pháp và pháp luật, bảo
đảm quyền lực nhà nước được sử dụng đúng và hiệu quả.
Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước là thể chế kiểm soát
quyền lực của “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân”; “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội
ngũ trí thức”.
Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước là thể chế kiểm soát
quyền lực của một nhà nước đơn nhất, nhiều yếu tố tập quyền, được xây dựng
trên nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối
hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp”.
Thiết lập trong cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo,

Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Là một thể chế đang trong quá trình hoàn thiện và tiếp tục phát triển.
2. Các bộ phận cấu thành của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực
nhà nước
2.1. Thể chế pháp lý
Thể chế pháp lý về kiểm sốt quyền lực nhà nước có cấu trúc chặt chẽ
về nội dung và hình thức
Về nội dung, thể chế pháp lý bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội về kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp:
+ Nhóm các quy phạm về phạm vi kiểm soát quyền lực nhà nước
3


+ Nhóm quy phạm về ngun tắc kiểm sốt quyền lực nhà nước
+ Nhóm quy phạm về địa vị pháp lý của chủ thể và đối tượng kiểm soát
quyền lực nhà nước
+ Nhóm quy phạm về trình tự, thủ tục kiểm sốt quyền lực nhà nước
+ Nhóm quy phạm về hình thức, phương pháp kiểm sốt quyền lực
nhà nước
+ Nhóm quy phạm về hậu quả pháp lý của kiểm soát quyền lực nhà nước
Về hình thức, thể chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước được biểu
hiện trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, được sắp xếp theo một
trật tự pháp lý từ hiến pháp đến các văn bản dưới luật. Trong đó, hiến pháp có
giá trị hiệu lực pháp lý cao nhất.
2.2. Thiết chế pháp lý
Thiết chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước được phân chia thành
hai nhóm: các thiết chế kiểm sốt quyền lực bên trong bộ máy nhà nước, các
thiết chế kiểm sốt quyền lực bên ngồi bộ máy nhà nước.
Các thiết chế kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước gồm:

Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tịa án nhân dân,
Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia, Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp…
Các thiết chế kiểm sốt quyền lực bên ngồi bộ máy nhà nước gồm:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Cơng đồn, Hội Nơng
dân, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội
Cựu chiến binh, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp: hội, lien hiệp hội, hội lien
hiệp, Liên đoàn, Hiệp hội, phương tiện truyền thong, cơ quan báo chí – là chủ
thể đồng thời là phương tiện, công cụ để thực hiện kiểm soát quyền lực nhà
nước và cộng đồng dân cư.
2.3. Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của cơ chế pháp lý
kiểm soát quyền lực nhà nước
Giữa các bộ phận của cơ chế pháp lý kiểm sốt quyền lực nhà nước có
mối quan hệ qua lại, tác động chặt chẽ với nhau. Thể chế pháp lý quy định cơ
cấu, tổ chức, quy mơ kiểm sốt quyền lực nhà nước trên cơ sở đó xây dựng hệ
4


thống các thiết chế thực hiện hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước. Ngược
lại, quá trình vận hành hệ thống các thiết chế thực hiện hoạt động kiểm soát
quyền lực nhà nước kiểm nghiệm tính đúng đắn, khoa học, hợp lý của thể chế
pháp lý. Trên cơ sở đó, đặt ra yêu cầu tiếp tục hoàn thiện nội dung và hình
thức của thể chế pháp lý kiểm sốt quyền lực nhà nước.
II. THỰC TIỄN CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
1. Thực tiễn thể chế pháp lý của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực
nhà nước
1.1. Thực tiễn thể chế pháp lý của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền
lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước
- Đối với quyền lập hiến, lập pháp:

Sau Hiến pháp năm 2013, hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của
Quốc hội bằng hình thức giám sát đối với hành pháp và tư pháp được tăng
cường. Tuy nhiên, kiểm soát quyền lực nhà nước bằng phương thức giám sát
tối cao của Quốc hội cũng còn những hạn chế sau đây: giám sát tối cao của
Quốc hội là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước mang tính chính
trị pháp lý ở tầm vĩ mơ, tầm quốc gia đối với các cơ quan và cá nhân do Quốc
hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn, nhưng cả về đối tượng cũng như nội dung
giám sát còn dàn trải, chưa đi sâu giám sát đối với một cơ quan hay một cá
nhân do Quốc hội thành lập hay bầu hoặc phê chuẩn. Ví dụ, tập trung giám sát
một bộ hoặc một bộ trưởng là cơ quan do Quốc hội thành lập và cá nhân do
Quốc hội phê chuẩn. Và vì coi trọng giám sát tối cao theo chiều rộng nên chất
vấn tại nghị trường với tư cách là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà
nước mà chưa đưa đến một trách nhiệm chính trị – pháp lý cụ thể đối với một
cơ quan hay cá nhân nào.
Hiện nay chưa hình thành cơ chế kiểm sốt ngược lại từ phía quyền
hành pháp và quyền tư pháp đối với quyền lập pháp. Trong bản thân quyền
lập pháp cũng phải hình thành cơ chế tự kiểm sốt để bảo đảm cho việc thực
hiện quyền lập hiến và quyền lập pháp cũng như thực hiện quyền giám sát tối
cao và quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước đúng Hiến pháp và luật.
Ngoài Ủy ban Pháp luật với nhiệm vụ bảo đảm tính hợp hiến và hợp pháp của
các dự án luật trước khi Quốc hội xem xét thông qua, chưa hình thành cơ chế
5


trong bản thân Quốc hội để tự kiểm soát hoạt động, bảo đảm hoạt động của
Quốc hội phù hợp với Hiến pháp. Vì thế, quyền lập pháp cịn nằm ngồi cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
- Đối với quyền hành pháp:
Ngoài giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của các cơ quan của
Quốc hội, đại biểu Quốc hội, các cơ quan thực hiện quyền hành pháp còn chịu

sự kiểm soát của quyền tư pháp bằng việc xét xử các quyết định hành chính
và hành vi hành chính. Bên trong quyền hành pháp đã hình thành cơ chế cơ
quan cấp trên kiểm tra cơ quan cấp dưới và cơ chế thanh tra, kiểm tra nội bộ.
Tuy nhiên, các cơ chế này hình thành trong mơ hình nhà nước hành chính
quan liêu bao cấp nên khơng hồn tồn là một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước mà chủ yếu là cơ chế quản lý nhà nước, phục vụ cho quản lý nhà nước.
Thanh tra Chính phủ, thanh tra của các cơ quan quản lý chuyên ngành là
những thiết chế phụ thuộc vào thủ trưởng quản lý nhà nước, chưa phải là một
thiết chế kiểm soát quyền hành pháp theo đúng nghĩa; các kết luận thanh tra
chủ yếu và trước hết phục vụ cho người quản lý nhà nước và người ra quyết
định thanh tra. Chính vì thế, cơ chế tự kiểm soát quyền lực bên trong quyền
hành pháp chưa thực sự phát huy hiệu quả với tư cách là một cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước.
Quyền hành pháp theo các quy định pháp luật hiện hành dường như
khơng có quyền kiểm sốt quyền lập pháp và quyền tư pháp. Luật Tổ chức
Chính phủ chưa quy định quyền kiểm soát việc thực hiện hành pháp trong
hoạt động lập pháp và tư pháp. Vì thế, các hoạt động cơng vụ, cơng chức
mang tính hành pháp trong thực hiện quyền lập pháp; quyền tư pháp cịn nằm
ngồi sự kiểm sốt của quyền hành pháp.
- Đối với quyền tư pháp:
Đối với việc thực hiện quyền tư pháp thì việc kiểm sốt của Nhân dân
giữ vai trò quan trọng hơn là giữa các quyền kiểm sốt lẫn nhau. Thơng qua
các chế định về xét xử công khai, xét xử tập thể, nguyên tắc tranh tụng, xét xử
có hội thẩm nhân dân, quyền được bào chữa của bị can, bị cáo, đương sự,…
mà kiểm soát hoạt động của quyền tư pháp. Tuy nhiên, vì ý thức pháp luật của
Nhân dân cịn hạn chế, nên việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
trước Tịa án chưa thực sự bảo đảm. Theo đó, Nhân dân với tư cách là các
6



cơng dân chưa thể kiểm sốt được việc thực hiện quyền tư pháp trong quan hệ
tố tụng, tư pháp.
Việc thực hiện quyền tư pháp cịn được kiểm sốt bằng sự tham gia của
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vào Hội đồng tuyển chọn thẩm phán quốc
gia; Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
Quyền tư pháp cịn được kiểm sốt bởi quyền lập pháp bằng việc xem xét báo
cáo của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao; bãi bỏ văn bản của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao.
Trong tổ chức và hoạt động của quyền tư pháp thì nguyên tắc độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc nền tảng, xuyên suốt. Vì thế, so với
các nước dân chủ và pháp quyền thì các quy định về kiểm soát việc thực hiện
quyền tư pháp như nêu trên là phù hợp. Vấn đề quan trọng là thực hiện các
phương thức kiểm sốt nói trên sao cho thực chất. Nhất là bảo đảm nguyên
tắc tư pháp độc lập được thực hiện một cách nghiêm túc. Ở Việt Nam, quyền
tư pháp chỉ dừng lại kiểm soát quyền hành pháp thơng qua việc xét xử các
quyết định hành chính và hành vi hành chính khi tổ chức hay cơng dân khởi
kiện ra tịa mà chưa có quyền tài phán các văn bản pháp quy khi công dân hay
tổ chức cho rằng, văn bản quy phạm pháp luật đó trái với Hiến pháp, luật của
Quốc hội như các nước.
Ở nước ta, cũng chưa ra đời cơ chế bảo hiến độc lập (Tòa án Hiến pháp
hay Hội đồng Bảo hiến) nên chưa có điều kiện tài phán các hành vi vi hiến
của cơ quan, cá nhân cao nhất trong bộ máy nhà nước và giải quyết tranh
chấp thẩm quyền giữa các nhánh quyền lực.
Chẳng hạn như, vấn đề kiểm soát quyền lực trong đấu tranh phịng,
chống tham nhũng là một cơng việc khó khăn, phức tạp bởi đây là cơng việc
đấu tranh phịng, chống sự tha hóa quyền lực nhà nước của những người có
chức vụ trong bộ máy nhà nước và trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực nhà

nước theo Luật Phịng, chống tham nhũng. Đặc biệt và khó khăn hơn là đấu
tranh phòng, chống tham nhũng đối với những người có chức danh trong các
cơ quan điều tra, truy tố và xét xử, bởi công việc chống tham nhũng đối với
7


những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ chống tham nhũng. Vì vậy, xây
dựng được cơ chế hữu hiệu kiểm sốt quyền lực nhà nước của người có chức
danh tư pháp trong các cơ quan trực tiếp có nhiệm vụ đấu tranh phịng, chống
tham nhũng có vai trị đặc biệt quan trọng. Việc thực hiện quyền của các chức
danh tư pháp ở nước ta tuy không bị các quyền lập pháp, hành pháp và chưa
bị các tổ chức tội phạm tác động, chi phối nhưng việc thực hiện quyền của
những người này trong đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung, đấu tranh
phịng, chống tham nhũng nói riêng chưa thực sự độc lập.
Việc can thiệp từ bên trong cũng như bên ngoài vào các hoạt động điều
tra, truy tố và xét xử vẫn còn xảy ra. Trong các vụ án dân sự, kinh tế tác động
từ lợi ích tư cịn xảy ra khá nhiều. Pháp luật về kinh tế, dân sự lại chưa thực
sự đầy đủ và chặt chẽ. Do đó, trong xét xử các vụ án dân sự, việc lợi dụng các
kẽ hở của pháp luật để nhũng nhiễu tiêu cực, tham nhũng vẫn còn xảy ra gây
tốn kém công sức và tiền bạc cho các bên tranh tụng. Có vụ tranh chấp dân sự
hết sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm rồi lại quay lại sơ thẩm, phúc thẩm,…
kéo dài hơn chục năm mà vẫn chưa có bản án có hiệu lực pháp luật. Tư pháp
dân sự tuy đã có sự quan tâm trong chủ trương chung về cải cách tư pháp,
nhưng theo đánh giá của các chuyên gia vẫn còn là khâu yếu với nhiều bất
cập trong áp dụng pháp luật về nội dung của tòa án. Bộ luật Dân sự và pháp
luật về kinh tế vẫn còn tồn tại những mẫu thuẫn, chồng chéo cản trở hiệu quả
áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp tại tòa. Pháp luật về tố tụng dân
sự như: các quy định về biện pháp áp dụng khẩn cấp tạm thời; về phân định
thẩm quyền giải quyết tranh chấp,… còn nhiều bất cập.
Trong mối quan hệ tố tụng giữa 3 cơ quan (điều tra, truy tố và xét xử)

thì nặng về phối hợp mà xem nhẹ sự chế ước (kiểm soát) lẫn nhau. Trong
nhiều trường hợp, việc thực hiện nguyên tắc chế ước lẫn nhau giữa 3 cơ quan
trên bị yếu tố phối hợp chi phối, được ngụy trang bởi đấu tranh chống tội
phạm kịp thời, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của địa phương là
“mảnh đất đẻ ra tiêu cực, tham nhũng trong điều tra, truy tố, xét xử”. Trong
đó, cơ chế phản biện, xử lý hành vi tiêu cực của các chức danh tư pháp, như:
điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán chưa thật rõ ràng, minh bạch cả về
hình thức, căn cứ, trình tự, thẩm quyền và hậu quả pháp lý. Cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước bên trong các cơ quan tòa án, kiểm sát, điều tra chưa đủ
mạnh và độc lập. Thanh tra, kiểm tra trong các cơ quan này chủ yếu phục vụ
8


cho cơng tác quản lý nhà nước của ngành mình và phụ thuộc vào người đứng
đầu cơ quan mà không phải là một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
nhằm phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật vì mục đích tiêu
cực tham nhũng của các chức danh tư pháp.
1.2. Thực tiễn thể chế pháp lý của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền
lực nhà nước bên ngoài bộ máy nhà nước
Theo Điều 9 Hiến pháp năm 2013, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai
trò quan trọng trong việc “Thực hiện dân chủ, tăng cường sự đồng thuận xã
hội; giám sát, phản biện xã hội,…”, “Là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân; đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính thống của nhân dân”. Vì
thế, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một chủ thể đại diện cho Nhân dân tham
gia kiểm soát quyền lực nhà nước.
Đối với thực hiện quyền lập pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có chức
năng phản biện xã hội đối với các dự án luật trước khi Quốc hội xem xét
thông qua. Đây là phương thức kiểm sốt trước có tính phịng ngừa nhằm góp
phần phịng, chống các lợi ích cục bộ, chủ quan, khơng phù hợp ý chí nguyện
vọng của Nhân dân ẩn chứa trong các dự án luật, góp phần nâng cao chất

lượng lập pháp. Sau khi luật được Quốc hội xem xét thông qua, Mặt trận Tổ
quốc các cấp lại tiến hành giám sát việc tổ chức thi hành pháp luật; góp phần
kiểm sốt quyền lực nhà nước trong q trình thực hiện pháp luật.
Đối với việc thực hiện quyền hành pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức thành viên đã tự mình hoặc phối hợp với các cơ quan dân cử tiến
hành giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật của cơ quan và người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp; phản biện xã hội các dự thảo văn
bản khi có yêu cầu.
Đối với việc thực hiện quyền tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các thành viên thực hiện kiểm sốt thơng qua việc tham gia là thành viên Hội
đồng tuyển chọn thẩm phán và các chức danh tư pháp, giới thiệu bầu, cử Hội
thẩm Tòa án nhân dân,… Tuy nhiên, giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam đối với các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp mới
được chính thức thực hiện từ sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực đến nay
nên từ nhận thức đến tổ chức thực hiện chưa thật đầy đủ, chưa đều khắp ở mặt
trận các cấp và khơng tránh khỏi cịn hình thức, kém hiệu lực, hiệu quả.
9


Trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngồi, các phương
tiện truyền thơng đại chúng kết hợp với cơng luận có vai trị hết sức quan
trọng trong kiểm sốt quyền lực nhà nước, nhất là trong cơng cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, các cơ quan truyền thơng cần tạo lập
khơng khí dân chủ, cung cấp phương pháp, cách thức, kinh nghiệm để hỗ trợ
tích cực hơn nữa cho Nhân dân thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước.
Công dân với tư cách cá nhân cũng là một chủ thể của cơ chế kiểm soát
quyền lực nhà nước từ bên ngồi. Thơng qua việc thực hiện các quyền bầu cử;
quyền khiếu nại, tố cáo; tham gia quản lý nhà nước;… Hiện nay, do môi
trường pháp lý chưa thật đầy đủ nên công dân với tư cách cá nhân chưa phát
huy đầy đủ vai trò kiểm sốt quyền lực nhà nước của mình. Một số quyền

cơng dân cơ bản có vai trị trong kiểm sốt quyền lực nhà nước chưa được thể
chế như: quyền tham gia quản lý nhà nước, tham gia thảo luận và kiến nghị
với cơ quan nhà nước (Điều 28 Hiến pháp năm 2013).
2. Thực tiễn thiết chế của cơ chế pháp lý kiểm
soát quyền lực nhà nước
2.1. Thực tiễn thiết chế của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà
nước bên trong bộ máy nhà nước
Quốc hội và Hội đồng nhân dân kiểm sốt đối với Chính phủ và Ủy ban
nhân dân các cấp thông qua hoạt động xem xét báo cáo công tác, thẩm tra văn
bản quy phạm pháp luật, chất vấn, thành lập ủy ban hay đoàn giám sát, lấy
phiếu tín nhiệm. Chủ tịch nước kiểm sốt cơ quan hành pháp thông qua quy
định về trách nhiệm báo cáo cơng tác của Chính phủ đối với Chủ tịch nước.
Chủ tịch nước thực hiện quyền đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
Thủ tướng Chính phủ, yêu cầu Chính phủ họp bàn các vấn đề cần thiết. Tòa
án kiểm sốt thực hiện quyền hành pháp thơng qua xét xử vụ án hành chính.
Kiểm tốn nhà nước là thiết chế độc lập lần đầu tiên được hiến định có nhiệm
vụ, quyền hạn kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản cơng của các
cơ quan hành chính nhà nước.
Hiến pháp 2013 ghi nhận: Nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến.
Nhân dân là người “xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp” nhưng lại chưa
thừa nhận cơ chế tài pháp để phán xét các vi phạm Hiến pháp trong thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp theo chủ trương được nêu ra tại
10


Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (năm 2006). Theo
đó, hoạt động thực hiện quyền lập hiến của Quốc hội trên thực tế chưa được
kiểm soát bởi một thiết chế chuyên trách hiến định.
Vai trị của Chủ tịch nước trong hoạt động kiểm sốt việc thực hiện
quyền lập pháp chưa được đề cao. Chủ tịch nước được đề nghị Ủy ban

Thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh nhưng chưa có quyền yêu cầu
Quốc hội xem xét lại luật. Trong khi đó, Thủ tướng Chính phủ cũng khơng
được giao bất kỳ quyền nào tương tự để kiểm soát Quốc hội. Chủ tịch nước
chưa thực hiện quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề mà Chủ
tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Việc bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các bộ, cơ
quan ngang bộ, chính quyền địa phương và các tập đoàn kinh tế nhà nước của
Viện Kiểm sát để chuyển chức năng này cho các cơ quan dân cử và thanh tra,
kiểm tra trong bộ máy hành pháp sau khi sửa đổi Hiến pháp năm 1992 (2001)
đã làm cho việc kiểm sốt qun lực nhà nước khơng được tăng cường.
Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định về hai cơ quan hiến định độc lập
là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Tuy nhiên, tính độc lập
của Kiểm tốn nhà nước hiện vẫn chưa rõ rang, ảnh hưởng đến hiệu lực hoạt
động của cơ quan này. Trong khi đó, các quy định về vị thế, tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia khơng có thay đổi
đáng kể so với Hội đồng bầu cử trung ương trước đây. Vì thế, khó có thể coi
hai thiết chế này là những thiết chế chuyên trách thực hiện nhiệm vụ kiểm
soát quyền lực nhà nước….
2.2. Thực tiễn thiết chế của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà
nước bên ngồi bộ máy nhà nước
Nhìn tổng qt thì hệ thống các thiết chế kiểm sốt quyền lực bên ngồi
bộ máy nhà nước đa dạng, không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền và lãnh đạo đối với Nhà
nước và xã hội. Quyền lãnh đạo của Đảng không chỉ được thừa nhận trong xã
hội bằng uy tín của Đảng mà cịn được hiến định trong Hiến pháp. Các thiết
chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên ngoài bộ máy nhà nước góp phần to
lớn vào cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng, bảo đảm hiệu lực,
hiệu quả của bộ máy nhà nước.
11



Bên cạnh đó, cũng cịn một số hạn chế như: Vai trò lãnh đạo và cầm
quyền của Đảng đối với chức năng quản lý của Nhà nước chưa được phân
định rõ. Hệ thống chính trị cồng kềnh, có hiện tượng chồng chéo về chức
năng, nhiệm vụ giữa cơ quan đảng và nhà nước. Hoạt động kiểm soát quyền
lực nhà nước của Đảng được thể hiện thông qua việc kiểm tra, giám sát việc
thực hiện chủ trương, chính sách của đảng đối với đảng viên, cán bộ, công
chức, cơ quan nhà nước…
Mơ hình hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội chưa hoàn toàn độc lập với cơ quan nhà nước.
Pháp luật chưa tại ra cơ chế công khai, cung cấp thông tin trong hoạt
động giám sát, chưa xác định rõ trình tự, thủ tục, trách nhiệm của cơ quan,
người có thẩm quyền trong việc tiếp nhận giải quyết kiến nghị giám sát.
3. Thực tiễn mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của cơ chế
pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước
Hiến pháp năm 2013 đã xác định Quốc hội thực hiện quyền lập hiến,
quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ thực hiện quyền hành pháp (Điều 94),
Tịa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Đồng thời, Hiến pháp
cũng quy định nguyên tắc trong tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam là
“Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp” (Khoản 3, Điều 2). Hoạt động giám sát của cơ quan quyền
lực nhà nước với cơ quan hành chính nhà nước thời gian gần đây được
thực hiện thường xuyên hơn, đặc biệt là hoạt động chất vấn, bước đầu
thực hiện lấy phiếu tín nhiệm. Tuy nhiên, hoạt động giám sát của Quốc
hội đối với Chính phủ chưa thật hiệu quả. Hoạt động xét xử của Tòa án
đối với các tranh chấp hành chính giữa cơ quan nhà nước và xã hội chưa
có được uy tín trong đời sống pháp luật của xã hội. Hoạt động giám sát
của các cơ quan quyền lực nhà nước, cụ thể là của Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội và Hội đồng nhân dân đối với tịa án cịn rất hình

thức. Tịa án nhân dân nói chung, cụ thể là Tồ án nhân dân cấp cao và Tồ
án nhân dân tối cao vẫn chưa có thẩm quyền giải thích pháp luật, làm hạn chế
khả năng kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp của các tòa án nhân dân cấp
12


dưới; vai trò của Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước trong kiểm
soát quyền lực nhà nước còn chưa rõ nét...
Cùng với việc ban hành nhiều văn bản quy định để kiểm soát quyền
lực nhà nước những năm qua, đặc biệt là các quy định như: Quyết định số
217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị về việc ban hành Quy chế
giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể
chính trị - xã hội; Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính
trị (khóa XI) ban hành Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn
thể chính trị - xã hội và Nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền... Vai trị kiểm soát của các cấp uỷ Đảng và Nhân dân đối
với Nhà nước được chú trọng, nhất là giám sát và phản biện xã hội qua
kênh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có một số bước tiến. Tuy nhiên, ngồi
cơ sở hiến định ở Điều 4 Hiến pháp 2013 thì thể chế pháp lý về kiểm soát
của Đảng đối với quyền lực nhà nước chưa được xây dựng thành luật hoặc
văn bản dưới luật.Trong thực tiễn, nhiều nơi chưa phân định được rõ giữa
lãnh đạo của Đảng và quản lý, điều hành của Nhà nước. Việc ban hành
các luật để cụ thể hố các quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thơng tin, hội họp, lập hội, biểu tình,… vẫn cịn chậm. Các quy định về
trách nhiệm cơng khai, minh bạch chưa đầy đủ. Các quy định về trình tự,
thủ tục, hậu quả pháp lý của cơ chế nhân dân kiểm sốt quyền lực nhà
nước cịn thiếu tính đồng bộ, một số quy định chưa cụ thể hoặc không
thuận tiện nên hiệu lực, hiệu quả không cao.
Chúng ta đã cụ thể hoá những nguyên tắc hiến định về Nhà nước pháp
quyền trong Hiến pháp, đến nay Nhà nước ta đã có những cố gắng vượt bậc

trong xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật vì dân chủ, nhân quyền và sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, với những thành công bước đầu quan
trọng. Đã tạo dựng được về cơ bản cơ chế pháp lý bảo đảm thực thi nguyên
tắc Nhân dân làm chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, quyền lực
nhân dân chi phối và quyết định quyền lực nhà nước. Các quyền hiến định của
Nhân dân, nhất là quyền dân chủ trực tiếp, đã được pháp luật từng bước cụ thể
hoá, đang đi vào thực tiễn đời sống xã hội; trách nhiệm của Nhà nước trước
Nhân dân được thể chế cụ thể hơn. Quyền lực nhà nước được phân công hợp
lý, được giới hạn bằng Hiến pháp và luật. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
vai trò của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các cơ quan nhà nước đều
13


được Hiến pháp, các bộ luật minh định rõ hơn nhiều so với trước đây. Nhân
dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước nhận diện rõ hơn
trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước. Vị trí tối cao của Hiến pháp và luật
được khẳng định; ý thức thượng tôn pháp luật được nâng cao khá rõ trong xã
hội nói chung và trong bộ máy nhà nước nói riêng; ứng xử của Nhà nước đối
với xã hội và thị trường đã bảo đảm theo tinh thần pháp quyền. Các hành vi vi
phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, của các quan chức nhà nước, của
mọi người dân đều bị xử lý và chịu sự tài phán của tịa án, khơng thiên vị,
khơng có vùng cấm. Trách nhiệm cá nhân của từng cán bộ, công chức trong
bộ máy nhà nước (nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo) được xác định cụ thể, rõ
ràng hơn. Sự kiểm sốt quyền lực trong thực thi cơng vụ được bảo đảm theo
hướng cán bộ, cơng chức có quyền càng lớn, chức vụ càng cao thì sự kiểm
sốt quyền lực càng chặt chẽ. Thành tựu lớn nhất là nâng cao nhận thức về
kiểm soát quyền lực nhà nước, ghi nhận thành một nguyên tắc trong Cương
lĩnh và Hiến pháp. Tuy nhiên, bất cập của thể chế ở tầm vĩ mô bắt nguồn từ
nhận thức lý luận về quyền lực nhà nước và kiểm sốt quyền lực nhà nước
cịn chưa mạch lạc. Chưa dứt khoát trao quyền lập hiến cho Nhân dân vì vậy

chủ thể của quyền lập hiến và quyền lập pháp chưa được phân định rõ ràng;
chưa có cơ chế đủ mạnh để bảo vệ Hiến pháp; chưa xây dựng các luật để thể
chế hoá sự kiểm soát của Đảng đối với Nhà nước... Bất cập của thể chế pháp
lý ở tầm vi mô là nhiều nội dung chậm được cụ thể hố, có luật rồi cịn phải
chờ hướng dẫn của nghị định, thông tư, nhiều khi quy định cụ thể trở nên
chồng chéo, mâu thuẫn nhau, gây khó khăn cho việc thực hiện. Những khuyết
điểm, yếu kém trong thực hiện thể chế pháp lý về kiểm sốt quyền lực nhà
nước có cả về chủ quan và khách quan, bên trong và bên ngoài bộ máy nhà
nước. Vai trò giám sát, phản biện xã hội; cơ chế bảo đảm quyền kiểm tra,
giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Nhà nước chưa mạnh mẽ, triển
khai thực hiện chậm, ít hiệu quả. Bộ máy nhà nước vẫn cịn cơng kềnh, nhiều
tầng nấc, chưa được phân cơng thật rành mạch, phân quyền chưa đủ mạnh,
kiểm soát chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng thẩm quyền vừa bị phân mảnh,
manh mún, vừa có sự trùng giẫm, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, vừa dễ
bị lạm dụng.
III. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CƠ CHẾ
PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
14


1. Quan điểm hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà
nước ở Việt Nam
Bảo đảm sự thống nhấttrong nhận thức của đảng viên, cán bộ, công
chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân về mục đích, u cầu của việc hồn
thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước
Kiểm soát quyền lực nhà nước là yêu cầu khách quan, xu thế tất yếu.
Mục đích của kiểm sốt quyền lực nhà nước khơng phải cản trở hoạt động của
Nhà nước, làm Nhà nước yếu đi mà ngược lại kiểm soát quyền lực nhà nước
nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước.Mặt khác, kiểm
soát quyền lực nhà nước nhằm phịng ngừa, ngăn chặn tình trạng vi phạm

pháp luật, lạm quyền; bảo đảm quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục
đích. Do vậy, cần nâng cao nhận thức cho đảng viên, cán bộ, công chức, viên
chức và các tầng lớp nhân dân nhằm tạo ra sự đồng thuận trong xã hội về sự
cần thiết, khách quan phải hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước
trong điều kiện mới.
Nâng cao năng lực thể chế hóa quan điểm của Đảng về kiểm sốt quyền
lực nhà nước trong hoạt động xây dựng pháp luật
Hoạt động xây dựng pháp luật phải thể chế hóa phải kịp thời, đồng bộ;
chương trình xây dựng pháp luật về kiểm sốt quyền lực nhà nước phải bảo
đảm tính khả thi, phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng về kiểm soát
quyền lực nhà nước và phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của đất
nước. Quán triệt quan điểm của Đảng “đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp
lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực
bằng hệ thống pháp luật”. Do vậy, cần sớm “hoàn thiện các quy định của
Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế - xã hội, về kiểm tra, giám sát và
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm sốt quyền
lực, trách nhiệm người đứng đầu, trách nhiệm giải trình, bảo đảm dân chủ,
công khai, minh bạch”. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, luận chứng rõ căn cứ
khoa học và pháp lý để hoàn thiện “cơ chế bảo vệ Hiến pháp” như là một thiết
chế chuyên trách kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thực hiện đầy đủ nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, phân
công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước
Thực hiện sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, mạch lạc giữa các cơ
15


quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong điều kiện chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền như ở nước ta hiện nay,
việc thực hiện sự phân công quyền lực cụ thể, rõ ràng sẽ tạo điều kiện cho bộ
phận quyền lực này có thể kiểm sốt được bộ phận quyền lực khác hiệu quả.

Ngồi ra, thực hiện sự phân cơng quyền lực rõ ràng sẽ khắc phục được sự
trùng lắp, dựa dẫm, ỷ lại hoặc không rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước. Do vậy, cần quán triệt chủ trương của Đảng: “xác định rõ
hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trên cơ
sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân cơng rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền
lực nhà nước”.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố,
xét xử và cơ quan bổ trợ tư pháp trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực của các cơ quan tiến hành
tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án kinh tế, tham nhũng,
chức vụ. Quán triệt quan điểm của Đảng: “Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao
chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của toà án nhân dân, viện
kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ
chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp… phịng ngừa và đấu tranh có
hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật”, không ngừng
tăng cường sự phối hợp, nâng cao hiệu quả “công tác kiểm tra, giám sát,
thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, phát hiện sớm, xử lý
nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng, lãng phí”.
Phát huy vai trị của Đảng cẩm quyền trong hoạt động kiểm sốt quyền
lực nhà nước
Phát huy vai trị và năng lực kiểm tra, giám sát của Ủy ban kiểm tra
các cấp đối với đảng viên, nhất là các đảng viên là cán bộ lãnh đạo quản lý
trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh
những biểu hiện lệch lạc trong thực hiện quy định Điều lệ Đảng, các quy chế,
quy định của Đảng. Các tổ chức đảng có thẩm quyền phải xử lý nghiêm minh,
kịp thời và công khai đối với những đảng viên, nhất là đảng viên giữ các chức
vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật.
16



Quán triệt và thống nhất “thực hiện tốt quy định về kiểm sốt quyền lực trong
cơng tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ
kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi
phạm, kể cả khi đã chuyển cơng tác hoặc nghỉ hưu”.
Hồn thiện quy định pháp luật nâng cao vị trí, vai trị của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội nghề
nghiệp và cơ quan truyền thơng báo chí trong hoạt động kiểm sốt quyền lực
nhà nước
Tiếp tục hồn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm “phát huy vai
trị của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể nhân
dân và các cơ quan thơng tin đại chúng trong q trình hoạch định chiến lược,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trong việc phát hiện, đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãnh phí”. Quy định rõ quy trình, thủ tục và trách nhiệm
của người đứng đầu tiếp nhận, giải quyết những kiến nghị về giám sát của
nhân dân.
Phát huy vai trò và bảo đảm quyền giám sát trực tiếp của nhân dân, góp
phần thực hiện có hiệu quả cơ chế kiểm sốt quyền lực nhà nước
Cần quán triệt sâu sắc quan điểm “dân làm chủ”, thật sự tin tưởng, tôn
trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; tiếp tục thực hiện đúng đắn,
hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở; thực
hiện tốt có hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra,
dân giám sát, dân thụ hưởng”. Xây dựng kịp thời các đạo luật về quyền con
người, quyền cơng dân. Bên cạnh đó, cần phải hồn thiện các quy định của
pháp luật bảo đảm và tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm giải trình trong
hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả trong cơ chế kiểm soát quyền
lực nhà nước
2. Định hướng hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà

nước ở Việt Nam
2.1. Định hướng hoàn thiện thể chế pháp lý của cơ chế pháp lý
kiểm sốt quyền lực nhà nước
* Định hướng hồn thiện thể chế pháp lý của cơ chế kiểm soát bên
17


trong quyền lực nhà nước
Đối với quyền lập pháp: Xác định rõ trình tự, thủ tục để Quốc hội xem
xét lại tính hợp hiến của các đạo luật do Quốc hội đã thơng qua khi có dấu
hiệu vi phạm Hiến pháp; Quy chế hóa hoạt động phối hợp thực hiện quyền lập
pháp giữa các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan của Chính phủ, các bộ,
ngành để phận định rõ nhiệm vụ của từng công đoạn, gắn với trách nhiệm của
tập thể, cá nhân người đứng đầu trong quy trình xây dựng và ban hành luật;
Hồn thiện các quy định về ủy quyền lập pháp và thiết lập cơ chế kiểm soát
chặt chẽ đối với việc ban hành văn bản được Quốc hội ủy quyền; Hoàn thiện
cơ chế đánh giá, giám sát, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn trong Quốc hội và các cơ
quan của Quốc hội.
Đối với quyền hành pháp: Quy định cụ thể hơn về quyền hạn xem xét
báo cáo công tác của Chủ tịch nước đối với việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Thủ tướng Chính phủ và các chức danh trong hệ thống hành pháp do
Chủ tịch nước bổ nhiệm theo Hiến pháp và pháp luật; Phân định thẩm quyền
và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Chính phủ khi Chủ tịch nước yêu cầu
Chính phủ họp, bàn về những vấn đề mà Chủ tịch nước thấy cần thiết theo
Hiến pháp năm 2013; Bảo đảm sự minh bạch, trách nhiệm giải trình trong
hoạt động của cơ quann hành pháp; Hoàn thiện cơ chế đánh giá, giám sát, lấy
phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội
bầu hoặc phê chuẩn đối với Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác
của Chính phủ.

Đối với quyền tư pháp: Bổ sung quy định pháp luật trao quyền cho Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có quyền tun khơng áp dụng một
đạo luật có quy định trái Hiến pháp, tun khơng áp dụng quy định trong văn
bản của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng và chính quyền địa phương khi văn bản đó trái Hiến
pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác…; Bổ sung quy định pháp
luật về yêu cầu và nội dung đối với các quyết định giám đốc thẩm của Tòa án;
Bổ sung quy định pháp luật về yêu cầu công khai hồ sơ vụ án và nội dung các
bản án, quyết định của Tòa án.
* Định hướng hoàn thiện thể chế của cơ chế pháp lý kiểm soát bên
18


ngoài quyền lực nhà nước
Hoàn thiện quy định và quy chế hóa mối quan hệ giữa các cơ quan
kiểm tra, giám sát của Đảng với cơ quan thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử của
Nhà nước, khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo về chức năng của một
số cơ quan của Đảng và Nhà nước.
Bổ sung quy định về trình tự, thủ tục để cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cũng như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các cơ
quan báo chí và nhân dân tiến hành kiểm soát hoạt động xét xử của tịa án bảo
đảm khách quan, cơng bằng và hiệu quả.
Tiếp tục rà soát, sửa đổi những quy định pháp luật mâu thuẫn, quy
phạm lạc hậu và bổ sung những quy phạm mới trong các van bản pháp luật về
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, Ban
Thanh tra nhân dân liên quan đến kiểm soát quyền lực của nhân dân đối với
nhà nước.
Nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật Giám sát của nhân dân và Luật
Phản biện xã hội.
2.2. Định hướng hoàn thiện thiết chế của cơ chế pháp lý kiểm sốt

quyền lực nhà nước
* Định hướng hồn thiện thiết chế của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền
lực bên trong bộ máy nhà nước
Đối với quyền lập hiến, lập pháp: Tiếp tục nghiên cứu xây dựng mơ
hình các thiết chế chuyên trách thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp theo
quy định tại khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013; Mở rộng thẩm quyền của
Chủ tịch nước trong kiểm soát và thực hiện quyền lập pháp của Quốc hội,
đồng thời tang cường quyền hạn của Chủ tịch nước với tư cách là Nguyên thủ
quốc gia; Kiện toàn, đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động tự kiểm
soát quyền lực nhà nước của Quốc hội trong việc thực hiện nhiệm vụ; Nghiên
cứu xây dựng cơ chế để Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp
phải có quyền kiểm sốt đối với Quốc hội; Nghiên cứu, xây dựng cơ chế kiểm
sốt quyền lực từ tịa án đối với hoạt động thực hiện quyền lập pháp đối với
Quốc hội; Tổ chức thường xuyên các đoàn giám sát, trọng tâm vào công tác
ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hoạt động triển khai thực hiện Hiến
19


pháp và pháp luật của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương.
Đối với quyền hành pháp: Đổi mới hoạt động chất vấn của đại biểu
Quốc hội, chứ trọng và nâng cao chất lượng chất vấn; Thay đổi hình thức,
phương pháp lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội và Hội
đồng nhân dân bầu hiện nay để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà
nước đối với cơ quan hành chính nhà nước; Tăng cường kiểm tra việc thực
hiện quyền lực nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ bằng hoạt động giám
sát tối cao của Quốc hội và giám sát của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của
Quốc hội; Tăng cường hiệu quả của cơ chế tự kiểm tra trong hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước, bổ sung quy định pháp luật, xác định rõ trách nhiệm của
người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước với tập thể đơn vị, người đứng
đầu cơ quan hành chính nhà nước với tập thể cấp ủy khi có sai phạm.

Đối với quyền tư pháp: Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức tòa án theo
hướng phân biệt rạch roi quan hệ hành chính và quan hệ tố tụng; Coi trọng
kiểm sốt việc thực hiện quyền hành pháp trong tổ chức và hoạt động của cơ
quan tư pháp; Nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của Tòa án; Nâng cao
trách nhiệm, chuyên môn, phẩm chất đạo đức của những người làm việc trong
cơ quan tư pháp; Nghiên cứu thực hiện ngân sách độc lập của hoạt động của
hệ thống Tòa án và bỏ chế độ “khoán chi” đối với hoạt động hành chính của
Tịa án; Xây dựng đầy đủ, đồng bộ cơ chế phối hợp giữa cơ quan điều tra,
Viện Kiểm sát và Tòa án để giải quyết tốt mối quan hệ giữa các cơ quan tiến
hành tốt tụng hoạt động xét xử các vụ án hình sự.
* Định hướng hồn thiện thiết chế của cơ chế pháp lý kiểm soát quyền
lực bên ngoài bộ máy nhà nước
Đối với Đảng cần quyền cần quán triệt quan điểm “thực hiện tốt quy
định về kiểm sốt quyền lực trong cơng tác cán bộ, chống chạy chức, chạy
quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật đảng, kỷ luật hành chính và xử lý
bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc
nghỉ hưu”. Phát huy vai trò và năng lực kiểm tra, giám sát của Ủy ban kiểm
tra các cấp đối với đảng viên, nhất là các đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản
lý trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh
những biểu hiện lệch lạc trong thực hiện quy định Điều lệ Đảng, các quy chế,
quy định của Đảng. Các tổ chức đảng có thẩm quyền phái xử lý nghiêm minh,
20


kịp thời và công khai đối với những đảng viên, nhất là đảng viên giữ các chức
vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật.
Hoàn thiện các chế định pháp lý nâng cao vị trí, vai trị của các thiết
chế kiểm sốt quyền lực bên ngoài nhà nước như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức chính trị - xã hội….
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan đảng,

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, Ban Thanh tra nhân
dân trong việc cung cấp thông tin, bảo đảm cho các chủ thể giám sát nhân dân
có đầu đủ thơng tin kịp thời, chính xác làm căn cứ để giám sát..
IV. LIÊN HỆ THỰC TẾ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ ĐỐI VỚI UBND XÃ PHẠM VĂN CỘI
Hiện nay, xã Phạm Văn Cội có dân số 9.678 người, số hộ: 2.234 hộ.
Xã được chia thành 05 ấp với 35 tổ nhân dân. Đảng bộ xã có 13 chi bộ trực
thuộc, có 203 đảng viên. Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 2021 – 2026 có 26
đại biểu, thường trực Hội đồng nhân dân gồm 01 Chủ tịch Hội đồng nhân dân
do Bí thư Đảng ủy kiêm nhiệm, 01 Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân chuyên
trách, có 02 Ban gồm Ban Pháp chế và Ban kinh tế - xã hội.
Hoạt động giám sát là một trong hai chức năng cơ bản, quan trọng của
Hội đồng nhân dân xã với vai trò là cơ quan cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng là quyền làm chủ của Nhân dân; được
quy định cụ thể tại Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015.
Nhiệm kỳ 2016-2021, Hội đồng nhân dân xã đã có nhiều đổi mới, phát
huy được vị trí, vai trò là cơ quan quyền lực Nhà nước tại địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân địa phương. Hội
đồng nhân dân đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định pháp
luật; đã xem xét, quyết định nhiều chủ trương, biện pháp trên các lĩnh vực,
vấn đề quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của xã. Các
nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã đã đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi từ thực
tiễn; cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, các quy định của pháp luật
21


và phù hợp thực tiễn của địa phương, được Nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Thơng qua các hoạt động giám sát, đã phát hiện và kiến nghị kịp thời
những vấn đề trong quá trình quản lý, điều hành các mặt của đời sống kinh tế
- xã hội. Hội đồng nhân dân xã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan,

kịp thời phối hợp giải quyết những vấn đề phát sinh ở địa phương. Thường
trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng
nhân dân tích cực tham gia các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân.
Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Hội đồng nhân dân đã xây dựng quy chế phối
hợp công tác giữa Thường trực Hội đồng nhân dân với Ủy ban nhân dân và
Ban Thường trực Ủy ban Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam xã nhằm tăng công tác
phối hợp giữa các đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Hội đồng nhân dân xã đã bàn hành các Nghị quyết về quy chế hoạt
động của Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 2021 - 2026; Quy chế Tiếp công
dân của Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 2021 - 2026; Chương trình hoạt động
tồn khóa của Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2021 – 2026 nhằm cụ thể hóa các
quy định của pháp luật về nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân xã.
Hội đồng nhân dân xã đã quyết định Chương trình giám sát hằng năm
theo đúng quy định của pháp luật, đến nay đã ban hành 04 Nghị quyết về
Chương trình giám sát của Hội đồng nhân dân xã. Nhìn chung, các Nghị
quyết do Hội đồng nhân dân xã ban hành đúng trình tự, có nội dung phù hợp
với yêu cầu thực tiễn, được thực hiện đảm bảo yêu cầu đề ra.
Hội đồng nhân dân xã đã tổ chức 03 kỳ họp Hội đồng nhân dân. Tại kỳ
họp, đã thực hiện chức năng giám sát thông qua việc xem xét báo cáo của của
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; đã tổ chức phiên thảo luận
để đánh giá kết quả thực hiện, bổ sung mục tiêu, nhiệm vụ, đề xuất các giải
pháp trong các Báo cáo trình Hội đồng nhân dân tại kỳ họp.
Các nội dung chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân tập trung chủ
22


yếu vào lĩnh vực quản lý đất đai, tài nguyên, mơi trường, xây dựng, chế độ
chính sách.... Nhìn chung, các phiên chất vấn và trả lời chất vấn đã thường
xuyên được đổi mới, với tinh thần dân chủ, thẳng thắn, nêu cao tinh thần trách

nhiệm trong thực hiện quyền chất vấn, với quan điểm chất vấn không chỉ là
quyền mà còn là trách nhiệm của mỗi đại biểu Hội đồng nhân dân đại diện
cho cử tri xã. Sau phiên chất vấn, Chủ tọa kỳ họp đã có Thơng báo kết luận,
giao Thường trực Hội đồng nhân dân xã, các Ban Hội đồng nhân dân, đại biểu
Hội đồng nhân dân xã tiếp tục theo dõi việc giải quyết của Ủy ban nhân dân
xã và các ngành chức năng; đối với các vấn đề chưa được khắc phục triệt để,
Hội đồng nhân dân xã quyết định đưa vào Chương trình giám sát chuyên đề
hằng năm để Thường trực, hai Ban Hội đồng nhân dân thực hiện giám sát.
Thực hiện chức năng được pháp luật quy định, Hội đồng nhân dân xã
đã triển khai thực hiện hoạt động giám sát theo đúng yêu cầu đề ra, đảm bảo
cơng khai, dân chủ; hình thức giám sát có sự đổi mới. Thơng qua giám sát có
thêm căn cứ thực tiễn đánh giá sự phù hợp của các Nghị quyết của Hội đồng
nhân dân vào thực tiễn cuộc sống; từ đó cần kiến nghị bổ sung, sửa đổi những
quy định, những cơ chế, chính sách phù hợp với địa phương. Các kiến nghị
sau giám sát đã được Ủy ban nhân dân, các ngành chức năng tiếp thu, triển
khai thực hiện đạt kết quả, có chuyển biến rõ nét hơn. Các đại biểu Hội đồng
nhân dân xã đã lắng nghe, thu thập thơng tin từ phía cử tri, phân tích, đánh giá
tính chính xác của thơng tin, đồng thời, đối chiếu với các quy định của pháp
luật hiện hành để xem xét vấn đề, lựa chọn nội dung tham gia chất vấn, kiến
nghị cơ quan chức năng giải quyết.
Mặc dù đạt được nhiều kết quả nêu trên, hoạt động giám sát của Hội
đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân xã cịn có hạn chế như:
- Số lượng đại biểu kiêm nhiệm còn chiếm tỷ lệ khá cao là hạn chế lớn
đến chất lượng hoạt động của người đại biểu Hội đồng nhân dân, đặc biệt là
trong trường hợp đại biểu Hội đồng nhân thực hiện chức năng giám sát thơng
qua hình thức chất vấn tại kỳ họp. Tình trạng nể nang, ngại va chạm là những
23


biểu hiện thường thấy khi trong quan hệ quản lý hành chính người đại biểu

Hội đồng nhân dân lại là công chức thuộc quyền quản lý trực tiếp hoặc thuộc
cơ quan cấp dưới của người được chất vấn.
- Một số kiến nghị sau giám sát của Hội đồng nhân dân đôi lúc chưa được
các cơ quan, tổ chức hữu quan kịp thời chấn chỉnh. Trong khi đó, hệ thống pháp
luật hiện hành lại chưa có chế tài để quy trách nhiệm và xử lý nghiêm những cơ
quan, tổ chức, cá nhân chậm trễ hoặc cố ý trì hỗn việc tiếp thu, giải quyết theo
đúng những kiến nghị của Hội đồng nhân dân sau giám sát.
Để nâng cao chất lượng giám sát của Hội đồng nhân dân xã, trong thời
gian tới kiến nghị một số nội dung để thực hiện như sau:
- Ngoài việc được tập huấn chung vào đầu các nhiệm kỳ như hiện nay,
đề nghị các cơ quan chức năng cấp trên cần xây dựng và tổ chức các lớp tập
huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên sâu cần thiết theo từng lĩnh vực để
đại biểu Hội đồng nhân dân, nhất là các ban của Hội đồng nhân dân cấp xã
thực hiện tốt hơn chức năng giám sát của mình. Mỗi đại biểu Hội đồng nhân
dân xã phải trau dồi kiến thức chun mơn, có kỹ năng tốt để giao tiếp và tích
lũy cho mình những kinh nghiệm phục vụ cho hoạt động của mình.
- Tăng cường hoạt động theo dõi, đôn đốc các đơn vị chịu sự giám sát và
các tổ chức, cá nhân được chất vấn tại kỳ họp. Đối với những kiến nghị đã đến
thời hạn giải quyết mà chưa được thực hiện, Hội đồng nhân dân phải gửi văn
bản nhắc nhở, đôn đốc, yêu cầu báo cáo hay tổ chức tái giám sát việc thực hiện
các kiến nghị sau giám sát. Các kiến nghị sau giám sát của Hội đồng nhân dân
muốn có kết quả tốt, cần thiết phải đưa thành nội dung giải trình, chất vấn tại
các kỳ họp Hội đồng nhân dân; đây là biện pháp kiên quyết đối với những kiến
nghị thực hiện chậm, việc chấn chỉnh, khắc phục hạn chế chưa đạt yêu cầu cần
được trả lời công khai để cử tri theo dõi, giám sát. Mặt khác, thực hiện nghiêm
chỉnh trong công tác sau giám sát cũng đồng nghĩa với việc nâng cao uy tín,
lịng tin của nhân dân vào cơ quan dân cử, đại biểu của nhân dân.

24



PHẦN III: KẾT LUẬN
Vấn đề bản chất cốt lõi của kiểm soát quyền lực nhà nước là đảm bảo
các cơ quan nhà nước vừa có khả năng quản lý được xã hội và kiểm sốt được
chính mình. Kiểm sốt quyền lực nhà nước là nhu cầu tất yếu trong quá trình
tổ chức thực thi quyền lực nhà nước, là yếu tố trung tâm của nhà nước pháp
quyền. Kiểm soát quyền lực nhà nước chỉ có thể có hiệu lực và hiệu quả khi
hoạt động này được thể chế hoá bằng pháp luật, có thể chế pháp lý bảo đảm.
Hồn thiện thể chế, trong đó có thể chế pháp lý, là một trong những khâu đột
phá của nước ta đã được xác định tại Đại hội Đảng toàn quốc, tuy nhiên sau
nhiều năm thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế.Đây là lúc chúng ta cần có thêm
động lực đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân.
Kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta, một mặt phải bảo đảm phòng,
chống sự lạm dụng quyền lực nhà nước có hiệu lực và hiệu quả, mặt khác,
bảo đảm khơng vì Kiểm sốt quyền lực nhà nước mà làm mất đi tính năng
động, sáng tạo, mềm dẻo cần phải có để tiến hành các cơng việc nhà nước. Vì
thế, vấn đề cơ bản của Kiểm sốt quyền lực nhà nước là làm cho bộ máy nhà
nước vừa có khả năng kiểm sốt được xã hội, lại vừa buộc Nhà nước phải tự
kiểm sốt được chính mình. Theo đó, cơ chế Kiểm sốt quyền lực nhà nước
phải là một tổng thể bao gồm cơ chế Kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên
ngồi do các chủ thể khơng phải là Nhà nước thực hiện; cơ chế Kiểm soát
quyền lực nhà nước bên trong do các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tự
kiểm sốt mình và kiểm sốt lẫn nhau. Đồng thời, phải có cơ chế Kiểm soát
quyền lực nhà nước một cách chuyên trách độc lập do luật quy định./.

25


×