Tải bản đầy đủ (.pdf) (569 trang)

XÂY DỰNG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.89 MB, 569 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

-------o-------

BÁO CÁO TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP BỘ
NĂM 2008

Mã số:B08 - 13

XÂY DỰNG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHỦ NHIỆM ĐỀTÀI: TS LƯU VĂN QUẢNG
THƯ KÝ KHOA HỌC: ThS PHẠM THẾ LỰC
CƠ QUAN CHỦ TRÌ: VIỆN CHÍNH TRỊ HỌC

7402
08/6/2009

HÀ NỘI 1/2009


DANH SÁCH CÔNG TÁC VIÊN ĐỀ TÀI
1. TS Lưu Văn Quảng (Chủ nhiệm đề tài) Viện Chính trị học
2. ThS Phạm Thế Lực (Thư ký đề tài)

Viện Chính trị học

3. TS Nguyễn Hữu Đổng


Viện Chính trị học

4. ThS Đinh Văn Minh

Viện Khoa học Thanh tra

5. ThS Đinh Thị Hà

Viện Chính trị học

6. ThS Đinh Thị Thu Hằng

Học viện BC&TT

7. ThS Trương Văn Huyền

Học viện Khu vực 1

8. PGS,TS Lê Minh Quân

Viện Chính trị học

9. PGS,TSKH Phan Xuân Sơn

Viện Chính trị học

10. TS Đặng Đình Tân

Viện Chính trị học


11. PGS,TS Trịnh Đức Thảo

Viện Nhà nước và Pháp luật

12. TS Trịnh Thị Xuyến

Viện Chính trị học

2


MỤC LỤC
1

PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC -

14

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC KIỂM

14

SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1.1. Quyền lực và quyền lực nhà nước

14

1.1.1.1. Quyền lực là gì?


14

1.1.1.2. Quyền lực nhà nước và sự cần thiết của quyền lực nhà nước

16

1.1.2. Tính tất yếu của việc kiểm soát quyền lực nhà nước

23

1.1.3. Một số nội dung liên quan đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhà
nước

28

1.1.4. Hiến pháp - cơ sở chính trị -pháp lý quan trọng bảo đảm cho việc

33

kiểm soát quyền lực nhà nước
1.2.CÁC PHƯƠNG THỨC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

37

1.2.1. Phương thức kiểm soát quyền lực từ bên trong bộ máy nhà nước

37

1.2.1.1. Kiểm soát quyền lực của cơ quan lập pháp


38

1.2.1.2. Kiểm soát quyền lực của cơ quan hành pháp

46

1.2.1.3. Kiểm soát quyền lực của cơ quan tư pháp

49

1.2.2. Các phương thức kiểm soát quyền lực từ bên ngoài nhà nước

52

1.2.2.1. Bầu cử với vai trò là một phương thức kiểm soát quyền lực

53

1.2.2.2.Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các định chế về công
khai minh, bạch của chính quyền

56

1.2.2.3.Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động của các đảng

59

chính trị
1.2.2.4.Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các phương tiện truyền

thông đại chúng

63

1.2.2.5. Vai trò của xã hội dân sự trong việc kiểm soát quyền lực

66

3


1.2.2.6. Kiểm soát quyền lực thông qua quyền khiếu kiện của công dân

69

CHƯƠNG 2. CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ CỦA ĐẢNG TA VỀ KIỂM
SÓAT QUYỀN LỰC

73

2.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực
2.1.2. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề kiểm soát quyền lực
2.2. CÁC PHƯƠNG THỨC KIỂM SÓAT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

73
77
81


73

2.2.1.Phương thức kiểm soát quyền lực bên trong nhà nước
2.2.1.1. Chức năng giám sát tối cao của Quốc hội

82

2.2.1.2. Chức năng thanh tra của Thanh tra Chính phủ

91

82

2.2.1.3. Hoạt động kiểm soát quyền lực của cơ quan tư pháp

101

2.2.2. Các phương kiểm soát quyền lực nhà nước mang tính xã hội

105

2.2.2.1. Hoạt động kiểm tra của Đảng

105

2.2.2.2. Hoạt động giám sát và phản biện xã hội của MTTQ và các tổ

115


chức thành viên
2.2.2.3. Hoạt động kiểm tra, giám sát của thanh tra nhân dân

123

2.2.2.4. Kiểm soát quyền lực thông qua bầu cử của công dân

126

2.2.2.5. Kiểm soát quyền lực thông qua các quy định về tính công khai
minh bạch hoạt động của bộ máy nhà nước

130

2.2.2.6. Họat động giám sát quyền lực nhà nước của các phương tiện
truyền thông đại chúng
2.2.2.7. Kiểm soát quyền lực thông qua hoạt động khiếu nại, tố cáo của
công dân

136

CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CƠ CHẾ
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

144

3.1.1. Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả như một nội


144

dung trọng tâm của xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở

4

140

144


Việt Nam hiện nay
3.1.2. Đổi mới nhận thức về vấn đề kiểm soát quyền lực
3.1.3. Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực theo hướng đảm bảo và
mở rộng các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân
3.2. CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC
NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1.Xây dựng thể chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy của Đảng
3.2.2. Đổi mới nội dung và phương thức bầu cử
3.2.3. Đổi mới nội dung và phương thức kiểm soát quyền lực của các
thiết chế nhà nước theo hướng pháp quyền
3.2.3.1. Đối với Quốc hội
3.2.3.2. Cải cách bộ máy hành chính theo hướng nâng cao tính chuyên
nghiệp và tính trách nhiệm của bộ máy hành pháp
3.2.3.3. Đổi mới hoạt động của cơ quan tư pháp
3.2.4. Xây dựng cơ chế xác định trách nhiệm trong hoạt động của bộ
máy Đảng và Nhà nước
3.2.5. Nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà
nước
3.2.6. Đổi mới tổ chức và hoạt động của MTTQ và các tổ chức thành

viên nhằm nâng cao hiệu quả giám sát và phản biện xã hội
3.2.7. Phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng
trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước
3.2.8.Nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân
KẾT LUẬN

5

146
148
149
149
151
159
159
164
167
169
171
175
180
182
185


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước là những vấn đề
trung tâm của đời sống chính trị. Trải qua nhiều thế hệ, con người đã tìm kiếm
các phương thức tổ chức quyền lực nhà nước khác nhau để thiết lập mối quan

hệ qua lại, phụ thuộc lẫn nhau giữa pháp luật và quyền lực, cá nhân và cộng
đồng, công dân và nhà nước, nhằm đảm bảo tính hiệu quả của việc thực thi
quyền lực.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, quyền lực nhà nước luôn có xu hướng tự
mở rộng và tự tăng cường vai trò của mình. Nhìn chung, các chủ thể khi nắm
giữ quyền lực đều có xu hướng sử dụng nó phục vụ cho những lợi ích cá nhân,
lợi ích cục bộ nhóm của mình, làm cho quyền lực bị tha hóa. Và hậu quả của sự
tha hoá đó dẫn đến quyền lực bị suy thoái, mất tác dụng điều tiết các quan hệ
xã hội, hệ thống quyền lực bị tê liệt. Ở mức độ thấp, nó làm cho xã hội rơi vào
trạng thái ngưng trệ, bất ổn; ở mức độ cao, nó có thể đẩy xã hội vào tình trạng
hỗn loạn.
Do nhận thức được quyền lực luôn có xu hướng bị lạm dụng và những
hậu quả mà nó mang lại, nên kể từ khi xã hội loài người được tổ chức thành xã
hội chính trị, con người đã không ngừng quan tâm tìm kiếm những phương
thức khác nhau để kiểm soát quyền lực, để tạo ra một cơ chế đủ sức ngăn chặn
việc tiếm quyền và sử dụng quyền lực trái với mong muốn của chủ thể cầm
quyền. Từ rất sớm, các nhà tư tưởng ở cả phương Đông và phương Tây đã tìm
kiếm và xây dựng những lý thuyết khác nhau để kiểm soát quyền lực. Nhiều
mô hình kiểm soát quyền lực cũng từ đó được hình thành và phát triển. Trong
số rất nhiều lý thuyết và mô hình được đưa ra, thì cho đến nay, hai lý thuyết
được sử dụng nhiều nhất là lý thuyết phân quyền và lý thuyết tập quyền.
Hạt nhân của lý thuyết phân quyền là sự kiềm chế và đối trọng lẫn nhau
giữa các nhánh quyền lực và loại trừ khả năng tập trung toàn bộ quyền lực

6


trong tay một nhánh quyền lực nào đó. Trong khi đó, theo lý thuyết tập quyền,
quyền lực nhà nước là tập trung thống nhất, được kiểm soát thông qua chức
năng giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, đó là Quốc hội. Lý

thuyết phân quyền chủ yếu được áp dụng ở các nước tư bản chủ nghĩa, còn lý
thuyết tập quyền được sử dụng chủ yếu ở các nước xã hội chủ nghĩa. Cả hai mô
hình kiểm soát quyền lực đều coi trọng cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên
ngoài bằng cách huy động sự tham gia của các hội, hiệp hội, các phương tiện
thông tin đại chúng, các thiết chế dân chủ của người dân với tư cách là những
phương tiện để thực hiện sự giám sát và phản biện xã hội đối với quyền lực nhà
nước. Những cơ chế kiểm soát như vậy đã có tác dụng kiềm chế hiện tượng
lạm dụng quyền lực, vi phạm quyền dân chủ của người dân ...ở những mức độ
đậm nhạt khác nhau.
Ở Việt Nam, sự kiểm soát quyền lực trong bản thân bộ máy nhà nước chủ
yếu thông qua chức năng giám sát của Quốc hội. Về bản chất, đây là sự thể
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này đảm bảo cho nhân dân,
thông qua những người đại diện của mình, có thể kiểm soát toàn bộ hoạt động
của bộ máy nhà nước một cách toàn diện và triệt để. Nhân dân với tư cách là
người chủ của quyền lực, có quyền thực hiện sự kiểm soát theo phương thức
trên nhằm đảm bảo cho quyền lực được thiết lập và thực hiện vì lợi ích của
chính mình.
Có thể nói, trong những năm qua, cách thức tổ chức và thực thi quyền lực
nhà nước nói chung và cơ chế giám sát quyền lực nhà nước nói riêng ở nước ta
đã có những đóng góp tích cực trong việc phát huy hiệu lực quản lý của nhà
nước và quyền dân chủ của nhân dân, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng liên tục
với tốc độ cao của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, thực tiễn vận hành của mô hình tổ chức quyền lực và cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta trong thời gian qua cũng đã bộc lộ
những vấn đề cần được nghiên cứu và giải quyết. Có thể thấy, chúng ta chưa
thực sự tạo ra được “chiếc phanh an toàn” cho sự vận hành của “bánh xe quyền
lực”. Điều này thể hiện ở chỗ, cơ chế kiểm soát quyền lực còn tỏ ra yếu kém,
7



dẫn đến tình trạng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền trong bộ máy nhà nước
diễn ra tương đối phổ biến; có nơi, có lúc vi phạm nghiêm trọng quyền dân chủ
của nhân dân. Hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử còn hình thức, còn
nhiều “vùng cấm” bị bỏ qua trong quá trình giám sát. Hệ thống các cơ quan
kiểm tra, thanh tra tuy khá đầy đủ, nhưng chưa phát huy được vai trò của mình,
hầu như không có khả năng phát hiện và xử lý tệ quan liêu, tham nhũng và các
hiện tượng tiêu cực trong bộ máy. Các cơ quan tư pháp vẫn chưa hòan toàn thể
hiện được tính độc lập trong quá trình xét xử, chưa thực sự là “cán cân công lý”
trong việc bảo vệ pháp luật và bảo vệ quyền lợi của người dân. Vai trò giám
sát, phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên vẫn mang nặng
tính hình thức, ít phát huy tác dụng. Các phương tiện thông tin đại chúng còn
gặp nhiều khó khăn trong hoạt động của mình. Các thiết chế làm chủ của nhân
dân còn chung chung và khó thực hiện..v.v..
Bên cạnh đó, nguyên tắc tập trung dân chủ và cơ chế tập thể lãnh đạo đã
và đang tạo ra tình trạng khó xác định trách nhiệm cụ thể của các cá nhân và tổ
chức trong quá trình thực thi quyền lực. Điều này dẫn đến hiện tượng “núp
bóng tập thể”, nhân danh tập thể để lạm quyền, vụ lợi mà không phải chịu trách
nhiệm. Vì lẽ đó, cơ chế kiểm soát quyền lực tuy có, nhưng chưa phát huy được
hiệu quả.
Những hạn chế nêu trên đã làm cản trở quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân và những nỗ lực nhằm mở rộng và phát
huy dân chủ. Đó chính là mảnh đất màu mỡ để sự tha hoá quyền lực tồn tại và
phát triển, nhiều khi làm cho quyền lực nhà nước bị những lợi ích cục bộ làm
cho biến dạng, đi ngược lại với lợi ích chung mà đáng ra quyền lực phải phục
vụ. Đó cũng là lý do giải thích tại sao trong thời gian qua số lượng đơn, thư
khiếu nại, tố cáo của người dân không hề giảm, số lượng cán bộ bị phát hiện vi
phạm pháp luật ngày càng lớn, các điểm nóng xã hội vẫn xảy ra, các vụ án
tham nhũng bị phát hiện và xử lý ngày càng nhiều. Hàng loạt các vụ án đặc biệt
nghiêm trọng được phát hiện và xử lý trong thời gian qua như: vụ Lã Thị Kim
Oanh (Bộ NN&PTNT), vụ án tham nhũng ở Tổng công ty dầu khí Việt Nam,

8


vụ cấp phát Quota dệt may (Bộ Thương mại), vụ PMU 18 (Bộ GTVT), vụ tham
nhũng đất đai ở Đồ Sơn (Hải Phòng)…đã và đang là hồi chuông cảnh báo
nghiêm khắc về sự yếu kém của hệ thống kiểm soát quyền lực ở nước ta.
Trong bối cảnh kể trên, việc nghiên cứu để tìm ra một cơ chế, xây dựng
được một mô hình kiểm soát quyền lực hiệu quả, đủ sức ngăn chặn tình trạng
lạm quyền, chuyên quyền, hạn chế được tình trạng quan liêu, tham nhũng, đảm
bảo quyền dân chủ của người dân là vấn đề mang tính thời sự hiện nay ở nước
ta. Đó không chỉ là đòi hỏi cấp bách của quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của
đất nước, mà nó còn là tiêu điểm của quá trình mở rộng và phát huy quyền dân
chủ của người dân.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ngoài:
Kiểm soát quyền lực là một phạm trù quan trọng của khoa học chính trị nói
chung và của Chính trị học nói riêng. Vấn đề này từ lâu đã thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của các học giả nước ngoài, đặc biệt là các học giả phương Tây. Đến
nay, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm kiếm thêm những cách thức kiểm soát
gắn liền với phương thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Nhiều khái
niệm, phạm trù và những vấn đề liên quan dường như đã trở nên sáng rõ cả về lý
thuyết và thực tiễn. Hai cơ chế kiểm soát quyền lực được các nhà nghiên cứu bàn
đến nhiều nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực từ các thể chế bên trong nhà nước và
cơ chế kiểm soát quyền lực từ các thể chế bên ngoài nhà nước.
Sự ra đời của cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên trong gắn liền với sự
hình thành và phát triển của lý thuyết phân quyền. Ngay từ thời cổ đại,
Aristotle, trong tác phẩm Nền chính trị (The politics), đã đề xuất phương án
phải phân chia quyền lực thành các bộ phận: Nghị luận, chấp hành và xét xử để
kiểm soát lẫn nhau. Đến thời kỳ cận đại, J.Locke, trong tác phẩm Khảo luận thứ

hai về chính quyền (Two treasures of government), đã cho rằng, trong thể chế

9


chính trị tự do, quyền lực tối cao được chia làm ba lĩnh vực: lập pháp, hành
pháp và liên hợp (quan hệ quốc tế). Các quyền này phải được phân cho các cá
nhân, tổ chức khác nhau nắm giữ chứ không thể tập trung trong tay một người.
Nhưng phải đến Montesquieu, với tác phẩm Tinh thần pháp luật (De L’Esprit
des lois), thì lý thuyết phân quyền mới đạt đến sự hoàn thiện. Tiếp tục phát
triển quan điểm của các tác giả trước đó, ông cho rằng, cách tốt nhất để chống
lạm quyền không phải là tập trung quyền lực nhà nước, mà là phân chia quyền
lực nhà nước ra thành ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nội dung của lý thuyết phân quyền không chỉ dừng lại ở việc phân định
các chức năng cho các nhánh quyền lực mà còn tiến đến kiểm soát các cơ quan
quyền lực - đó chính là cơ chế kiềm chế và đối trọng. Cơ chế này tạo cơ sở để
các nhánh quyền lực thực hiện sự kiểm soát lẫn nhau. Nó tạo lập mối quan hệ
tương tác và phụ thuộc giữa các nhánh quyền lực, sao cho các nhánh đó có thể
độc lập giải quyết các nhiệm vụ được quy định bằng những phương tiện pháp
lý, đồng thời có thể ngăn chặn sự độc chiếm, thao túng, lạm dụng quyền lực
của các nhánh còn lại.
Trái với lý thuyết phân quyền, một số nhà tư tưởng phương Tây lại cho
rằng, quyền lực nhà nước là tập trung, thống nhất vì nó được hình thành trên cơ
sở sự uỷ quyền của dân, nên phải dùng dân chủ để hạn chế và kiểm soát quyền
lực. Các nhà tư tưởng theo lý thuyết này thống nhất với nhau ở chỗ: xét cho
cùng, muốn dân chủ và tự do thì mọi quyền lực đều phải do nhân dân kiểm soát
thông qua hai hình thức chính: (1) Bầu cử theo nhiệm kỳ, lấy phiếu tín nhiệm
chính phủ và những người cầm quyền - tức là quyết định trực tiếp theo đa số; và
(2) Công luận - tức là giám sát và phản biện quyền lực mang tính thường xuyên
của nhân dân. Trong hai hình thức kể trên, thì bầu cử tự do được coi là phương

thức thực hành dân chủ quan trọng nhất. Hình thức giám sát bằng công luận đòi
hòi phải có tự do ngôn luận (đặc biệt là tự do báo chí) và tự do liên hiệp (lập
hội), cũng như các bảo đảm về sự tự hoàn thiện, sự nâng cao dân trí, nâng cao
trách nhiệm xã hội của cá nhân - vốn là các điều kiện thiết yếu của tiến trình

10


hoàn thiện dân chủ. Các tác phẩm bàn về vấn đề này có thể kể đến: Bàn về Khế
ước xã hội (The social contract) của J.J.Rousseau, Luận về tự do (On liberty) của
J.S.Mill và trong các tác phẩm của các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin khi các ông bàn về vấn đề dân chủ của giai cấp vô sản.
Ngày nay, khi khảo sát các vấn đề về tổ chức và thực thi quyền lực nhà
nước, một số nhà nghiên cứu tiếp tục đề cập đến các cơ chế kiềm chế chính
thức ngay bên trong bộ máy nhà nước để đảm bảo sự họat động hiệu quả của
chính phủ. Hai cơ chế kiềm chế chính thức được nhiều nghiên cứu đề cập là:
một nền tư pháp độc lập mạnh và sự phân lập các quyền, để các nhánh quyền
lực có thể kiềm chế và đối trọng lẫn nhau. Những tác giả nghiên cứu về các vấn
đề này phải kể đến Patrick Gunning (2002), Hiểu biết về nền dân chủ - Một
giới thiệu về lý thuyết lựa chọn công cộng (Understanding democracy - An
introduction to Public choice); A.McIntyre (2002), Quyền lực của các thể chế
(Power of Institutions); Nhóm nghiên cứu của nhân hàng thế giới (1998), Nhà
nước trong một thế giới đang chuyển đổi; Micheal G.Roskin, Robert L.Cord
(1991), Khoa học chính trị - một cách giới thiệu (Political Science - An
introduction). v.v..
Nhiều tác giả không chỉ giới hạn trong việc lý giải quan hệ giữa lập
pháp, hành pháp và tư pháp trên quan điểm pháp lý thuần tuý, mà còn nghiên
cứu sự kiểm soát quyền lực nhà nước từ các thể chế và các lực lượng xã hội
khác nhau bên ngoài nhà nước như: các đảng phái chính trị, các phương tiện
thông tin đại chúng, các nhóm lợi ích, và các tổ chức xã hội công dân... như:
Jeffrey H.Birnbaum (1992), Những nhà vận động hành lang - những kẻ ngồi lê

hoạt động như thế nào tại Oasinhtơn (The Lobbyists - How influence peddlers
work their way in Washington); Andrew Heywood (2002): Chính trị (Politics).
Bên cạnh đó, một số tác giả còn đề cập đến những khía cạnh cụ thể nhằm
tạo môi trường cho sự kiểm soát quyền lực như: vấn đề quyền con người, tự do
báo chí, tính trách nhiệm và đạo đức trong khu vực công cộng, sự công khai
hoá và dân chủ hoá các quyết định của chính phủ, xây dựng chế độ kiểm toán
11


độc lập và minh bạch hoá tài chính... Các tác giả tiêu biểu của những nghiên
cứu trên là Stapenhurst Rick, Kpundeh Sahr (1999), Kiềm chế tham nhũng Hướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia (Curbing corruption:
Toward a model for building national integrity); Kriegel và Blandine (1995),
Nhà nước và nhà nước pháp quyền (The State and the rule of law); Micheal
J.Sodaro (2000), Chính trị so sánh - một giới thiệu mang tính

toàn cầu

(Comparative politics - A global introduction) .v.v...
Ở Việt Nam:
Nghiên cứu vấn đề kiểm soát quyền lực ở nước ta vẫn còn là một đề tài
khá mới mẻ và giữa các nhà nghiên cứu còn có những cách tiếp cận khác nhau.
Các tác giả chủ yếu tập trung vào hai hướng: nghiên cứu so sánh các mô hình
của nước ngoài và nghiên cứu mô hình kiểm soát quyền lực ở nước ta.
Nhóm tác giả nghiên cứu các mô hình kiểm soát quyền lực ở nước ngoài
tập trung vào sự phân tích các luận điểm, tư tưởng về kiểm soát quyền lực nhà
nước của các nhà tư tưởng của lý thuyết phân quyền; phân tích mang tính mô tả
hệ thống sự vận dụng và cơ chế vận hành của lý thuyết này trong thiết kế mô
hình kiểm soát quyền lực nhà nước ở các nước tư sản, cụ thể là các chính thể
đại nghị (cả cộng hoà lẫn quân chủ), chính thể cộng hoà (cả cộng hòa tổng
thống và cộng hoà lưỡng tính) thông qua các nhà nước mang tính điển hình

như: Anh, Đức, Mỹ, Pháp, Nhật.
Các công trình tiêu biểu về vấn đề này chủ yếu được đề cập dưới khía
cạnh luật học và chính trị học, chẳng hạn như:
(1) Nguyễn Thị Hồi, Tìm hiểu tư tưởng về nhà nước và phân chia quyền
lực nhà nước của J.Locke và Tìm hiểu tư tưởng phân quyền của Môngtetxkiơ,
Tạp chí Luật học số 3 và số 5, 2001.
(2) Nguyễn Thị Hồi, Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ
chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb Tư pháp, H, 2005.
(3) Nguyễn Đăng Dung, Bộ máy nhà nước và nguyên tắc phân quyền ở
Anh, Tạp chí Luật học số 2, 2002 và Học thuyết phân chia quyền lực - Sự áp

12


dụng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ở một số nước,Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật số 2, 1998.
(4) Nguyễn Đăng Dung, Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb ĐHQG, 2005
(5) Đinh Ngọc Vượng (chủ biên), “Thuyết “Tam quyền phân lập” và bộ
máy nhà nước tư sản hiện đại”, Hà Nội, 2000.
(6) Hồ Việt Hạnh, Tam quyền phân lập ở Nhật bản, Luận án Tiến sỹ
Chính trị học, 2005.
(7) Khoa Luật, ĐHQG HN, Luật Hiến pháp của các nước tư bản, Nxb
ĐHQG, 2001.
Với một cách tiếp cận so sánh rộng hơn, một số đề tài nghiên cứu khoa
học cấp quốc gia, cấp Bộ cũng đã nghiên cứu về cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước với tư cách là một bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị ở một
mức độ nhất định. Khi nghiên cứu hệ thống chính trị ở các nước tư sản, các
công trình này chủ yếu khai thác khía cạnh phân quyền và kiểm soát quyền lực
với mục đích là tìm kiếm những hạt nhân hợp lý, những kinh nghiệm để phục
vụ cho quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam, đặc biệt là trong thiết

kế, tổ chức bộ máy nhà nước. Trong phần nghiên cứu hệ thống chính trị ở các
nước XHCN, đặc biệt là ở Liên Xô và ở các nước XHCN Đông Âu trước đây,
các công trình chủ yếu làm rõ việc vận dụng lệch lạc, không đúng nguyên tắc
tập trung thống nhất trong tổ chức quyền lực nhà nước, chỉ ra sự lỏng lẻo, yếu
kém và không hiệu quả của các thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước - vốn
được xác định là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho Liên Xô sụp
đổ, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình vận
dụng và đổi mới bộ máy nhà nước. Các công trình tiêu biểu cho cách tiếp cận
này có thể kể đến: Chính trị của chủ nghĩa tư bản hiện tại và tương lai Nxb
CTQG, H.2002 của TS Nguyễn Đăng Thành; Tổ chức và hoạt động thanh tra,
kiểm tra, giám sát của một số nước trên thế giới, Nxb CTQG, H.2001; Đề tài
KX 05.02: Chính trị và hệ thống chính trị của các nước tư bản phát triển do GS
Hồ Văn Thông chủ nhiệm; Đề tài KX 04.04: Xây dựng mô hình tổ chức,
phương thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong nhà nước pháp quyền
13


XHCN của dân, do dân và vì dân ở nước ta do PGS.TS Trần Ngọc Đường làm
chủ nhiệm; Đề tài KX 04.01: Cơ sở thực tiễn về nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân và vì dân do GS.VS Nguyễn Duy Quý chủ nhiệm; Đề tài KX
10.10: Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở một số nước trên
thế giới” do PGS, TS Tô Huy Rứa làm chủ nhiệm.v.v...
Bên cạnh việc trình bày, phân tích cách thức vận dụng lý thuyết phân
quyền và cơ chế kiểm soát quyền lực ở một số nhà nước tư sản, nhiều tác giả
cũng đã đề cập đến việc tiếp thu những hạt nhân hợp lý của sự phân quyền cho
việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam và coi đó là
một trong những yếu tố không thể thiếu trong quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền. Các công trình tiêu biểu bàn về vấn đề này là:
(1) Lê Minh Tâm, Bàn về tính thống nhất của quyền lực nhà nước và sự
phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư

pháp, Tạp chí Luật học số 5 , 2002.
(2) Trần Quang Minh, Thống nhất và phân định quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp – phương thức thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 1, 1992.
(3) Nguyễn Cửu Việt, Nhận thức về nguyên tắc tập quyền và vài khía
cạnh trong vấn đề về quan hệ giữa lập pháp và hành pháp ở nước ta hiện nay,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2, 1997.
(4) Lê Cảm, Tổ chức bộ máy quyền lực nhà nước trong giai đoạn xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, số 11, 2001.
(5) Nguyễn Minh Đoan, Góp phần nhận thức về quyền lực nhà nước, Tạp
chí Luật học.
(6) Đinh Văn Mậu, Tăng cường giám sát tính hợp hiến trong hoạt động
quản lý nhà nước - một trong những hướng cơ bản nhằm xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta,T¹p chÝ Quản lý nhà nước, số 4/2002.
(7) TS Thang Văn Phúc và PGS, TS Nguyên Đăng Thành (Chủ biên), Một
số lý thuyết và kinh nghiệm tổ chức nhà nước trên thế giới, Nxb CTQG, 2005.
14


Các công trình nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước là
thống nhất, thuộc về nhân dân và được tập trung ở cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất do toàn thể nhân dân bầu ra là Quốc hội.
Quốc hội thành lập và trao cho các cơ quan nhà nước thực thi quyền hành pháp
và tư pháp, do đó chức năng giám sát của Quốc hội mang tính tối cao.
Một số tác giả đã có những nghiên cứu trực diện các khía cạnh khác nhau
của vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Hầu hết các
công trình này đều cho thấy, các thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt
Nam không mang tính chuyên nghiệp, khả năng ngăn chặn tình trạng lạm
quyền còn yếu, các thiết chế đảm bảo quyền làm chủ của người dân còn hình

thức và khó thực hiện. Đó là lý do giải thích vì sao tình trạng lạm quyền, quan
liêu, tham nhũng khó kiểm soát và ngày càng lộng hành trong đời sống xã hội.
Các công trình bàn về vấn đề này có thể kể đến:
(1) GS, TSKH Đào Trí Úc và PGS, TS Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên),
Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện
nay, Nxb Công an nhân dân, 2003.
(2) PGS, TS Phạm Ngọc Kỳ,Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội,
Nxb CTQG, 2000.
(3) TS Đặng Đình Tân (Chủ biên), Nhân dân giám sát các cơ quan dân
cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới Nxb CTQG, 2006.
(4) Dương Bá Thành, Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Chính trị học, 2004.
(5) Đề tài KX 10-07: Xây dựng cơ chế pháp lý bảo đảm sự kiểm tra, giám sát
của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng, Nhà nước và các thiết chế tổ
chức trong hệ thống chính trị do GS,TSKH Đào Trí Úc làm chủ nhiệm.
Có thể thấy, việc nghiên cứu vấn đề kiểm soát quyền lực dù trực tiếp hay
gián tiếp, từ các góc độ khác nhau đã có những thành tựu đáng ghi nhận:
- Các công trình nghiên cứu ngày càng làm rõ hơn tính tất yếu, nội dung,
bản chất, hình thức và cơ chế kiểm soát quyền lực. Hầu hết các công trình đều
15


khẳng định quyền lực nếu không bị kiểm soát chặt chẽ thì xu hướng lạm quyền sẽ
trở nên phổ biến, có thể tạo ra sự kém hiệu quả trong cơ chế thực thi quyền lực.
- Các công trình trên bước đầu cũng đã cung cấp những luận chứng, luận
cứ cho việc cải cách bộ máy nhà nước, tăng cường và mở rộng dân chủ, đề cao
quyền lực của các cơ quan dân cử, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước ở nước ta một cách hiệu quả.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nói chung
còn mang tính tản mạn, thiếu cách tiếp cận hệ thống về cơ chế kiểm soát quyền

lực, chưa làm rõ được tính chính trị và tính kỹ thuật, tính gián đoạn và tính liên
tục, tính nhà nước và tính xã hội trong việc thiết kế mô hình kiểm soát quyền
lực; chưa xác định được các mức độ khác nhau của cơ chế kiểm soát quyền lực
cũng như nguyên tắc vận hành và tương tác lẫn nhau của các thể chế kiểm soát
quyền lực.
Qua tổng quan trên cho thấy, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu mang
tính hệ thống nào về vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta nhằm cung
cấp luận chứng, luận cứ cho việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước,
khắc phục có hiệu quả tình trạng lạm quyền, chuyên quyền, quan liêu, tham
nhũng, hướng tới một nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
4. Mục tiêu của đề tài
(1) Làm rõ cơ sở lý luận của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ việc
phân tích các cách tiếp cận nghiên cứu, xác định nội dung, tính chất, phương
thức của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
(2) Đánh giá thực trạng tổ chức và vận hành của các chủ thể trong việc
kiểm soát quyền lực nhà nước và các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở
nước ta hiện nay.
(3) Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân ở
nước ta.
5. Nội dung nghiên cứu

16


CHƯƠNG 1: CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1.1. Quyền lực và quyền lực nhà nước
1.1.2. Tính tất yếu của việc kiểm soát quyền lực nhà nước

1.1.3. Một số nội dung liên quan đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước
1.1.4. Hiến pháp - cơ sở chính trị -pháp lý quan trọng bảo đảm cho việc
kiểm soát quyền lực nhà nước
1.2. CÁC PHƯƠNG THỨC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.2.1. Phương thức kiểm soát quyền lực từ bên trong bộ máy nhà nước
1.2.2. Các phương thức kiểm soát quyền lực từ bên ngoài nhà nước
CHƯƠNG 2. CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ CỦA ĐẢNG TA VỀ KIỂM
SOÁT QUYỀN LỰC
2.1.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực
2.1.2. Quan điểm của Đảng ta về vấn đề kiểm soát quyền lực
2.2. CÁC PHƯƠNG THỨC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1.Phương thức kiểm soát quyền lực bên trong nhà nước
2.2.2. Các phương kiểm soát quyền lực nhà nước mang tính xã hội
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CƠ
CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN
LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

17


3.1.1. Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả như một nội dung
trọng tâm của xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay
3.1.2. Đổi mới nhận thức về vấn đề kiểm soát quyền lực
3.1.3. Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực theo hướng đảm bảo và mở
rộng các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân
3.2. CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN

LỰC NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.2.1.Xây dựng thể chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy của Đảng
3.2.2. Đổi mới nội dung và phương thức bầu cử
3.2.3. Đổi mới nội dung và phương thức kiểm soát quyền lực của các thiết
chế nhà nước theo hướng pháp quyền
3.2.4. Xây dựng cơ chế xác định trách nhiệm trong hoạt động của bộ máy
Đảng và Nhà nước
3.2.5. Nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan nhà nước
3.2.6. Đổi mới tổ chức và hoạt động của MTTQ và các tổ chức thành viên
nhằm nâng cao hiệu quả giám sát và phản biện xã hội
3.2.7. Phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng trong
hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước
3.2.8.Nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

18


CHƯƠNG 1
CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC KIỂM
SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
1.1.1. Quyền lực và quyền lực nhà nước
1.1.1.1. Quyền lực là gì?
Quyền lực là hiện tượng có thể quan sát được trong hầu hết các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Kết quả là tồn tại một sự đa dạng về các cấu trúc quyền lực
trong đời sống xã hội. Vấn đề là các hiện tượng quan sát được này cần được
chọn lọc để làm rõ những nội hàm căn bản của quyền lực.
Từ quyền lực có nguồn gốc từ từ potere trong tiếng Latin, có nghĩa là

uy quyền hay quyền điều khiển.
Quyền lực là gì? Có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau do sự đa dạng
trong nhận thức vấn đề. Từ giữa thế kỷ XIX đến nay, khoa học chính trị đã có
những bước phát triển vượt bậc ở nhiều nước, đặc biệt là ở các quốc gia
phương Tây. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều cách định nghĩa khác nhau
về quyền lực:
- “Quyền lực là khả năng của một người trong một mối quan hệ xã hội cụ
thể thực hiện những mong muốn của anh ta bất kể sự kháng cự”(Max Weber),
- “Quyền lực là khả năng tạo ra sản phẩm một cách có chủ đích”
(Russell, 1938, tr.18).
- “Quan điểm trực giác của tôi về quyền lực như sau: A có quyền lực đối
với B khi anh ta có thể buộc B phải làm một điều gì đó mà B không muốn”
(Dahl, 1957, tr.202).
“Quyền lực là khả năng giành được kết quả thông qua hành động phối
hợp. Nó là sản phẩm của việc huy động sự ủng hộ”.1
1

Leslie Lipson (1965), The Great issues of politics, Prentice-Hall, Inc. Englewood Cliffs, N.J, page 67

19


Như vậy, các quan điểm khác nhau về quyền lực gợi ý cho chúng ta một
cái nhìn tương đối rộng rãi và bao quát về vấn đề này. Giống như câu chuyện
“thầy bói xem voi”, quyền lực được định nghĩa, biểu hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau, tuỳ thuộc vào cách tiếp cận và mục tiêu nghiên cứu.
Mặc dù có cách tiếp cận khác nhau, nhưng nhìn chung các nhà nghiên
cứu đều có một cái nhìn khá nhất quán: Quyền lực là năng lực buộc người khác
phải hành động theo ý chí của mình nhờ một sức mạnh nào đó. Tuy nhiên, các
quan niệm trên mới chỉ dừng lại xem xét khái niệm quyền lực ở quan hệ cá

nhân, chưa xem xét nó trong mối quan hệ giữa các giai cấp, các lực lượng xã
hội, các quốc gia dân tộc…
Trong định nghĩa về giai cấp, V.I. Lênin cho rằng, giai cấp này có thể tước
đoạt thành quả lao động của giai cấp khác nhờ có địa vị khác nhau trong hệ
thống sản xuất do lịch sử quy định. Ở đây, quan hệ quyền lực không chỉ là quan
hệ giữa các cá nhân, mà còn là quan hệ giữa các giai cấp; giai cấp này có thể chi
phối giai cấp khác là do vị thế ưu trội của nó trong hệ thống sản xuất của xã hội.
Trong thực tế, quan hệ quyền lực giữa các cá nhân thường gắn với quan
hệ quyền lực giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội, các quốc gia dân tộc…
Nhìn chung, quyền lực trong mối quan hệ với các yếu tố giai cấp và
chính trị, và đặc biệt là với quá trình xung đột xã hội, còn là một khái niệm
phức tạp hơn nhiều so với khái niệm mà chúng ta nói đến ở đây.
Từ phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa sau: Quyền lực là mối quan hệ
giữa các chủ thể hành động của đời sống xã hội, trong đó chủ thể này có thể chi
phối hoặc buộc chủ thể khác phải phục tùng ý chí của mình nhờ có sức mạnh,
vị thế nào đó trong quan hệ xã hội.
Nói cách khác, quyền lực là khả năng mà một chủ thể A tác động đến
hành vi của một chủ thể khác (người B), khiến cho anh ta (người B) phải hành
động theo ý muốn của chủ thể A.
Như vậy, quyền lực trong xã hội luôn có hàm ý năng lực thay đổi hành vi
của người khác (hoặc nhóm người khác) để đạt được mục tiêu của mình, bất kể
sự kháng cự.
20


Quyền lực là một khả năng hay năng lực. Nói quyền lực là khả năng có
nghĩa rằng, nó không nhất thiết phải được hiện thực hóa để tạo ra ảnh hưởng.
Một quyền lực có thể tồn tại, nhưng nó không nhất thiết được sử dụng để gây
ảnh hưởng. Chẳng hạn, một sĩ quan quân đội có những quyền lực nhất định đối
với những người lính dưới quyền, nhưng anh ta không nhất thiết phải sử dụng

quyền lực đó để gây ảnh hưởng. Chỉ cần những người lính dưới quyền ý thức
được rằng, viên sĩ quan có quyền lực thực sự thì họ đã tuân lệnh anh ta rồi.
Quyền lực trong xã hội tồn tại dưới nhiều dạng thức khác nhau. Cách
phân loại quyền lực dựa trên nhiều tiêu chí:
Nếu dựa trên hình thức biểu hiện của quyền lực, theo các tác giả French và
Raven2, sẽ có năm loại quyền lực khác nhau, gồm: Quyền lực chính đáng ((legitimate
power), quyền lực ban thưởng (reward power), quyền lực cưỡng bức (coercive
power) , quyền lực uy tín (Referent power) và quyền lực chuyên gia ((Expert power).
Nếu tiếp cận quyền lực từ các lĩnh vực của đời sống xã hội có thể có các
loại quyền lực: quyền lực xã hội, quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế, quyền
lực gia đình và quyền lực tư tưởng.
Nếu tiếp cận từ góc độ tổ chức, có ba loại quyền lực chính là quyền lực
vị trí, quyền lực quan hệ và quyền lực cá nhân.3
Phân loại theo tiêu chí mức độ của quyền lực: đó là quyền quyết định
(Decision making power), quyền phủ quyết (Veto power) và quyền xác định
nghị trình (Agenda setting power).
Phân loại theo tính chất thời gian: Quyền lực liên tục và quyền lực gián đoạn
1.1.1.2. Quyền lực nhà nước và sự cần thiết của quyền lực nhà nước
Quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm, cơ bản nhất của đời sống chính
trị - xã hội. Từ trước tới nay, vấn đề này được bàn đến như một trong những
công cụ cơ bản nhất để tổ chức và vận hành đời sống xã hội. Cùng với quá trình
2

French, John R.P. and Bertram Raven. “Bases of Social Power.” Studies in Social
Power. Ed. Dorwin Cartwright. University of Michigan, Ann Arbor,1959.
3

Xem: Đại học Harvard (2005), Quyền lực, tầm ảnh hưởng và sức thuyết phục, NXB Thanh Niên, tr.33-49

21



đó, người ta đã tìm kiếm các nguyên tắc, cơ cấu, phương thức tổ chức quyền
lực nhà nước để thiết lập mối quan hệ qua lại, sự phụ thuộc và tác động lẫn
nhau giữa cá nhân và cộng đồng, giữa công dân và nhà nước.
Quyền lực nhà nước là yếu tố không thể thiếu để thiết lập trật tự, các quy
tắc vận hành trong một xã hội. Nói tới xã hội là đã bao hàm quyền lực và ngược
lại. Cái này không thể tồn tại nếu thiếu cái kia. Đây là nền tảng trong tuyên bố
của Aristotle với nghĩa rằng, con người là một động vật chính trị.
Một xã hội không có quyền lực thì không thể tồn tại, bởi vì nó cần được
trao cho một năng lực và được thiết lập bởi các quy tắc tối thiểu mang tính bắt
buộc để con người có thể sống với tư cách là một nhóm, một cộng đồng. Trong
lịch sử phát triển của xã hội loài người, tình trạng hỗn loạn, vô chính phủ kéo
dài thường không phải là một khả năng thực tế. Sự hiện diện của quyền lực là
hết sức cần thiết đối với bất kỳ một nhóm, hay một tập hợp người nào.
Bản thân quyền lực nhà nước không hoàn toàn tạo ra sự tuân lệnh. Vấn đề
là ở chỗ, mỗi cá nhân trong xã hội đều nhận thức về sự cần thiết phải duy trì trật
tự, và cần phải tạo ra một quyền lực chung đứng lên trên xã hội, điều hành mọi
hoạt động trong xã hội để mang lại tự do và an ninh cho tất cả mọi người. Tính tổ
chức của một cộng đồng xã hội sẽ tan rã nếu các thành viên của nó không có khả
năng nhận thức được một trật tự tất yếu mà tất cả mọi người có thể chấp nhận.
+ Yêu cầu của hoạt động sản xuất, của phân công lao động xã hội (đây là
hoạt động cho nhu cầu sống, do vậy, là hoạt động quan trọng nhất) cũng dẫn tới sự
tất yếu tồn tại quyền lực nhà nước. Do nhu cầu tự nhiên của sản xuất đòi hỏi các
thành viên sống trong xã hội phải phối hợp với nhau, từ đó xuất hiện sự cần thiết
“phải phục tùng một sự chuyên chế thực sự, bất chấp tổ chức xã hội là như thế nào”.
Chính vì vậy, mà “một quyền uy nhất định, không kể quyền uy đó đã được tạo ra
bằng cách nào; và mặt khác, một sự phục tùng nhất định, đều là những điều mà
trong bất cứ tổ chức xã hội nào, cũng đều do những điều kiện vật chất trong đó tiến
hành sản xuất và lưu thông sản phẩm, làm cho trở nên tất yếu đối với chúng ta”4.


4

C.Mác và Ph. Ăngghẹn: Toàn tập, Sđd, t.18, tr.421.

22


+ Mặt khác, trong các xã hội luôn tồn tại một tình trạng khách quan là tổng
các giá trị mà xã hội tạo ra bao giờ cũng thấp hơn tổng số nhu cầu của toàn thể
các thành viên của nó. Điều này có nghĩa rằng, trong những xã hội cụ thể luôn
tồn tại những thiếu hụt nhất định. Hệ quả là sự bất đồng, mâu thuẫn xoay quanh
việc phân bổ những giá trị thiếu hụt này là không tránh khỏi. Để giải quyết
những vấn đề trên cần thiết phải có một quyền lực công với chức năng cơ bản
là đưa ra các giải pháp phân bổ giá trị đảm bảo một sự hài hoà nhất định giữa
các giai cấp. Quyền lực công đó về thực chất lại luôn do giai cấp giữ địa vị
thống trị trong xã hội nắm giữ.
Như vậy, quyền lực chính trị nảy sinh từ những nhu cầu chung của cả
cộng đồng xã hội. Nhờ có quyền lực mà xã hội tồn tại trong an ninh, trật tự và
được tổ chức. Sự xuất hiện của quyền lực chính trị đã hướng mọi nỗ lực và
hành vi của mọi thành viên trong xã hội vào việc thực hiện những chuẩn mực
giá trị chung được cả cộng đồng chấp nhận, vì sự tồn tại và vì lợi ích chung của
các thành viên trong xã hội.
Ngay từ thời cổ đại, các nhà tư tưởng đã cho rằng quyền lực là cái vốn có
trong xã hội. Nguồn gốc của quyền lực nói chung và quyền lực nhà nước nói
riêng được giải thích là do hiện tượng siêu nhiên, là ý niệm tuyệt đối, là sản
phẩm của Thượng đế, Chúa trời. Theo Arixtot, con người do tự nhiên có
khuynh hướng sống thành một cộng đồng chính trị. Con người ngay từ đầu đã
liên kết lại với nhau vì các cá nhân không thể sống thiếu nhau. Điều này không
phải là sự lựa chọn mà là sự bắt buộc tự nhiên. Do vậy, trong xã hội tất yếu sẽ

tồn tại một trật tự tự nhiên là có một số người ra lệnh và một số người khác
phải phục tùng.
Trong xã hội phong kiến, sự tồn tại của quyền lực nhà nước được lý giải
theo hướng “quân quyền mệnh trời”. Để củng cố sự thống trị của mình, giai cấp
phong kiến biện hộ rằng quyền lực nhà nước là sản phẩm của Thượng đế, do
Thượng đế trao cho ông Vua, hay Hoàng đế để thay mặt Thượng đế cai quản
trần thế. Chính vì vậy mà vua được coi là Thiên tử và quyền lực nhà nước được
tập trung tuyệt đối vào tay vua.
23


Đến thời Khai sáng, cùng với những đòi hỏi về tự do, dân chủ, giai cấp
tư sản đã chống lại sự chuyên quyền độc đoán của nhà nước phong kiến, đòi
hỏi sự bình đẳng trong việc tham gia nắm giữ quyền lực nhà nước. Xuất phát từ
quan điểm pháp quyền tự nhiên, các học giả tư sản cho rằng quyền lực nhà
nước là sản phẩm của một Khế ước xã hội và sự thoả thuận của các thành viên
trong xã hội chính là cơ sở cho mọi chính quyền hợp pháp. Chính vì vậy, xét về
nguồn gốc, quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự thân mà bắt nguồn
từ quyền lực nhân dân, nhân danh quyền lực nhân dân và luôn chịu sự kiểm
soát của nhân dân. Trong một nhà nước, quyền lực nhân dân là thống nhất dưới
nghĩa chủ quyền quốc gia. Có thể nói, quyền lực nhà nước là biểu hiện tập
trung nhất của quyền lực nhân dân và được trao cho cơ quan đại diện cao nhất
của nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra. Chính việc nhân dân tham gia vào
các cuộc bầu cử để hình thành nên quyền lực nhà nước đã làm cho quyền lực
vừa được tập trung lại vừa đảm bảo tính thống nhất của nó trong nhân dân. Do
vậy, quyền lực nhà nước là quyền lực được người dân uỷ nhiệm cho một số
người thay mặt nhân dân để quản lý nhà nước và xã hội.
Kế thừa các tư tưởng trước đó, nhất là những tư tưởng chính trị thời Khai
sáng, chủ nghĩa Mác – Lênin giải thích sự xuất hiện quyền lực nhà nước gắn
liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người. Khi quyền lực cá nhân, quyền

lực của các cộng đồng tỏ ra quá yếu ớt trước những thách thức của tự nhiên và
của kẻ thù xã hội, xuất hiện nhu cầu cần phải liên hợp, liên kết các cá nhân, các
cộng động lại với nhau. Đây cũng là phương thức hình thành quyền lực xã hội
(hay còn gọi là quyền lực công) buổi ban đầu. Quyền lực xã hội ra đời do nhu
cầu khách quan trong tổ chức đời sống xã hội, đó là việc thực hiện các hoạt
động chung mang tính cộng đồng, nhờ đó xã hội được tổ chức chặt chẽ và theo
một trật tự nhất định. Quyền lực xã hội được các thành viên trong cộng đồng
trao cho một số người có uy tín và kinh nghiệm thừa hành. Những người này
phải nhân danh cộng đồng để thực hiện quyền lực ấy. Họ không có đặc quyền,
đặc lợi cá nhân, không thể bắt cộng đồng phải phục vụ cho lợi ích riêng. Họ
hoàn toàn thực hiện vai trò của mình theo ý chí và quyết định của cộng đồng.
24


Với tư cách này, quyền lực là vũ khí trang bị cho những người được uỷ quyền
để hành động trong khuôn khổ ý chí của cộng đồng.
Cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội đã nảy sinh người giàu - người
nghèo, quan hệ giai cấp xuất hiện, quan hệ người áp bức người thay thế cho
quan hệ bình đẳng, hợp tác. Sự xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp đã làm
xuất hiện một loại quyền lực mới - quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước.
Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp (hay liên minh giai
cấp) nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị của mình, mà về cơ bản là bằng
quyền lực nhà nước.
Trong xã hội có giai cấp, quyền lực chính trị của giai cấp (hay liên minh
giai cấp) cầm quyền được tổ chức thành nhà nước. Hay nói cách khác, quyền
lực nhà nước là quyền lực chính trị của một giai cấp (hay liên minh giai cấp)
được tổ chức thành nhà nước.
Với sự xuất hiện của mình, quyền lực nhà nước được xác định là một
dạng đặc biệt của quyền lực chính trị. Tính chất đặc biệt của quyền lực nhà
nước thể hiện ở chỗ nó là quyền lực công khai, thống nhất, bao trùm toàn xã

hội. Quyền lực nhà nước có đủ sức mạnh để kiểm soát và ràng buộc các chủ thể
khác phải phục tùng. Quyền lực nhà nước là quyền lực đặc thù sử dụng những
biện pháp cưỡng chế mang tính nhà nước. Bộ phận cấu thành quan trọng nhất
tạo nên bản chất của quyền lực nhà nước là ý chí của giai cấp cầm quyền và nó
được hiện thực hoá bởi bộ máy nhà nước.
Như vậy, Quyền lực nhà nước là năng lực hành động của giai cấp hoặc lực
lượng cầm quyền nhằm hiện thực hoá lợi ích của mình thông qua một hệ thống
chuyên chính do giai cấp hay lực lượng đó lập ra.
Trong mối quan hệ giữa quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước, có
thể coi quyền lực chính trị là quyền lực tiềm năng, quyền lực nhà nước là quyền
lực thực tế, vì quyền lực nhà nước có tính chính đáng với tư cách là quyền lực
công (được xã hội ủy quyền và được thừa nhận bởi nhiều lý do khác nhau cả về
lịch sử, văn hóa và sự hợp lý). Điều này có nghĩa rằng, mỗi giai cấp, mỗi lực
25


×