Tải bản đầy đủ (.doc) (186 trang)

Các tổ chức chính trị xã hội trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.34 KB, 186 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TUẤN ANH

CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TUẤN ANH

CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Ngành: Chính trị học
Mã số : 9310201


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. GS, TSKH Phan Xuân Sơn
2. PGS, TS Hồ Xuân Quang

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án
là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án

Nguyễn Tuấn Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 8

1.1.

Các công trình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước.....................8

1.2.

Các công trình nghiên cứu về các tổ chức chính trị - xã hội và việc

kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội
trên thế giới.............................................................................................. 15

1.3.

Các công trình nghiên cứu về các tổ chức chính trị - xã hội và việc
kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội ở
Việt Nam.................................................................................................. 20

1.4.

Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu............................................ 25

Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
TRONG VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC 29

2.1.

Lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước................................................. 29

2.2.

Lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính
trị - xã hội................................................................................................. 49

2.3.

Kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội ở
một số nước trên thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt Nam........69


Chương 3. THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CỦA CÁC TỔ
CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 81

3.1.

Địa vị chính trị - pháp lý của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam...81

3.2.

Các yếu tổ ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước
của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam........................................... 88

3.3.

Nội dung, phương thức và hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước
của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam.........................................100

Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CỦA CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 136

4.1.

Quan điểm nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của
các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam...............................................136

4.2.

Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của
các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam...............................................142


KẾT LUẬN........................................................................................................................167
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ.........................................169
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 170


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

MTTQ

:

Mặt trận Tổ quốc

TAND

:

Tòa án nhân dân

UB

:


Ủy ban

UBND

:

Ủy ban nhân dân

VKSND :

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

:


DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ

Hình 2.1: Mô hình tam giác quyền lực trong hoạch định chính sách
Hình 3.1: Các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam

60
83


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước là những vấn đề trung
tâm trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Quyền lực nhà nước là hình thức
biểu hiện tập trung nhất của quyền lực chính trị. Quyền lực nhà nước là một trong
những công cụ cơ bản nhất để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội thông qua
việc đảm bảo an ninh từ xung đột bên trong và bên ngoài, cung cấp các nguồn lực
và dịch vụ công mà cá nhân và xã hội không thể tự cung cấp được.
Quyền lực nhà nước luôn mang tính hai mặt, một mặt là yếu tố không thể thiếu
để tổ chức và quản lý xã hội, mặt khác nó luôn tiềm ẩn nguy cơ bị tha hóa dẫn đến
chuyên quyền, độc đoán trong thực thi quyền lực; hoặc được sử dụng để phục vụ
cho lợi ích của các cá nhân, nhóm người nào đó trong xã hội, đi ngược lại với lợi
ích của nhân dân với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước. Ngay cả khi quyền
lực nhà nước được sử dụng với mục đích phục vụ cho lợi ích chung thì vẫn tiềm ẩn
nguy cơ mắc sai lầm và gây hậu quả xấu cho xã hội. Do đó, khi có quyền lực nhà
nước tất yếu phải có cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm hạn chế nguy cơ
tha hóa, đảm bảo quyền lực được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bằng nhiều phương thức khác
nhau, có thể bằng các thể chế ở bên trong bộ máy nhà nước, hoặc bằng các thể chế
bên ngoài bộ máy nhà nước. Kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong được thực
hiện trên cơ sở nguyên tắc phân quyền nhằm tạo ra sự chế ước, đối trọng và kiểm
soát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực, các cơ quan quyền lực. Kiểm soát quyền
lực nhà nước từ bên ngoài là sự kiểm soát của các thể chế không mang tính nhà
nước, đó là sự kiểm soát của đảng chính trị; của các phương tiện truyền thông đại
chúng; của nhân dân thông qua việc thực hiện các quyền hiến định, thông qua các tổ
chức có tính đại diện do mình lập nên như các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức
xã hội và các bộ phận khác của xã hội dân sự.
Trong số các tổ chức đại diện lợi ích do nhân dân lập ra, các tổ chức chính trị xã hội có nhiều ưu thế để kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả. Các tổ chức

1



chính trị - xã hội là một bộ phận của xã hội dân sự, thực hiện chức năng bảo vệ lợi
ích của các tầng lớp nhân dân, đồng thời đặt mục tiêu tác động đến nhà nước, làm
thay đổi chính sách của nhà nước theo hướng có cho lợi mình. Ở nhiều nước trên
thế giới, các tổ chức chính trị - xã hội, các nhóm lợi ích hoạt động rất sôi động,
tham gia có hiệu quả vào việc kiểm soát quyền lực nhà nước, bằng nhiều hình thức,
từ giám sát quá trình hoạch định và thực thi chính sách công, đến giám sát tư cách
đạo đức của quan chức, công chức chính phủ,…
Ở Việt Nam, trước yêu cầu đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị, vấn đề
kiểm soát quyền lực đã được nhận thức khá rõ ràng và các cơ chế kiểm soát quyền
lực từng bước thiết lập, góp phần quan trọng để đảm bảo quyền lực nhà nước được
thực thi đúng mục đích và có hiệu quả, đồng thời phát huy quyền làm chủ của nhân
dân và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các tổ chức chính trị - xã
hội trong hệ thống chính trị Việt Nam có địa vị chính trị pháp lý vững chắc, ngày
càng được tạo các điều kiện về cơ chế pháp lý, không ngừng đổi mới phương thức
tổ chức và nội dung hoạt động để thực hiện tốt hơn vai trò kiểm soát quyền lực nhà
nước trên tất cả các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Các tổ chức này bước
đầu có một số đóng góp đáng kể trong việc mở rộng sự tham gia của người dân vào
công việc của nhà nước, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi nhà nước từ mô
hình tập trung, quan liêu, nặng tính chất hành chính mệnh lệnh sang mô hình nhà
nước phục vụ, kiến tạo phát triển.
Tuy nhiên, các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện đang phải đối mặt với
nhiều vấn đề khó khăn, thách thức và hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát
quyền lực nhà nước. Trong đó, có nhiều hạn chế xuất phát từ nhận thức, tư duy;
hoặc do năng lực tổ chức và hoạt động của các tổ chức này chưa đáp ứng kịp các
yêu cầu của thực tiễn đổi mới hệ thống chính trị và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; do còn thiếu vắng những luận chứng luận cứ khoa học về vai trò, nhiệm
vụ kiểm soát quyền lực của các tổ chức chính trị - xã hội, nên chưa phát huy đầy đủ
năng lực các tổ chức này trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước.
Trước yêu cầu “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả


2


quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” [27, tr.38] trong một hệ thống chính trị đặc
thù chỉ có một đảng duy nhất cầm quyền, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn để
trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước
của các tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay là vấn đề cấp thiết. Từ cách đặt
vấn đề như vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Các tổ chức chính trị - xã hội trong việc
kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay” làm hướng nghiên cứu và
viết luận án của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về kiểm soát quyền lực nhà nước của
các tổ chức chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó, đề xuất các quan điểm và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã
hội ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa, phân tích cơ sở lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước; về
các tổ chức chính trị - xã hội; về vai trò, nội dung, phương thức, hiệu quả kiểm soát
quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội.
- Nghiên cứu hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính
trị - xã hội ở một số nước trên thế giới, từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm, các giá
trị tham khảo cho Việt Nam.
- Đánh giá thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt
động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam
hiện nay.
- Xây dựng hệ thống quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát
quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu
đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước của

3


các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các
tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay trên các khía cạnh cơ bản: vai trò, nội
dung, phương thức, hiệu lực pháp lý và hiệu quả.
3.2.2. Phạm vi không gian nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Việt Nam, trên cơ sở tham khảo những yếu tố
hợp lý trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội ở
một số nước trên thế giới.
3.2.3. Phạm vi thời gian nghiên cứu
Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu về việc kiểm soát quyền lực nhà nước của
các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Kiểm soát quyền lực nhà nước là gì? Tính tất yếu, nội dung và các phương
thức kiểm soát quyền lực nhà nước?
- Các tổ chức chính trị - xã hội là gì? Chúng có vai trò như thế nào trong việc
kiểm soát quyền lực nhà nước?
- Các tổ chức chính trị - xã hội ở một số nước trên thế giới và Việt Nam thực
hiện vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước như thế nào?
- Trong hệ thống chính trị Việt Nam, có duy nhất một đảng lãnh đạo và cầm
quyền, vai trò kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội quan
trọng như thế nào?

- Những quan điểm và giải pháp nào cần thực hiện để nâng cao hiệu quả kiểm
soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò khách quan và quan trọng trong việc
kiểm soát quyền lực nhà nước.

4


- Trong điều kiện Nhà nước không tổ chức theo mô hình phân lập các quyền,
không có hệ thống đa đảng đối lập như nhiều nước trên thế giới, kiểm soát quyền
lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam, không chỉ có vai trò
khách quan, mà còn là một trong những phương thức quan trọng nhất trong kiểm
soát quyền lực nhà nước.
- Các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam có khả năng thực hiện kiểm soát
quyền lực nhà nước hiệu quả.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận chủ đạo của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, đề tài còn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận: tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam
về tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước; các lý thuyết chính trị học về tổ chức,
thực thi và kiểm soát quyền lực nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu tham khảo
Phương pháp này được sử dụng trong toàn bộ luận án để tiến hành thu thập
nguồn thông tin thứ cấp từ báo cáo của các cơ quan, tổ chức; sách; đề tài khoa học;
các bài báo; luận văn, luận án của các tác giả có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Với việc sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, luận án có cơ sở lý luận và thực

tiễn để thực hiện tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài, xây dựng cơ sở lý luận,
khảo sát thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội
ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất các quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả
kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức này.

5.2.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu trong chương 3 và chương 4 của luận
án nhằm phân tích những diễn biến trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước
của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay, từ những khía cạnh riêng lẻ,

5


các sự việc khác nhau tổng hợp thành các nhận định, các đánh giá mang tính tổng
quát, xác định nguyên nhân và đề xuất giải pháp hoàn thiện.
5.2.3. Phương pháp phân tích hệ thống
Phương pháp này cho phép nhìn nhận các bộ phận của hệ thống chính trị như
một chỉnh thể với các yếu tố, bộ phận cấu thành và giữa các bộ phận đó có mối quan
hệ tác động qua lại với nhau. Trên cơ sở đó có những đánh giá, nhận xét đúng đắn
về sự vận động của các thể chế chính trị và các sự kiện phức tạp của đời sống chính
trị. Với việc sử dụng phương pháp phân tích hệ thống, luận án phân tích vai trò
kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam trong
mối quan hệ tổng thể của tất cả các bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị, trên
tất cả các phương diện của sự tương tác qua lại của các bộ phận này, từ đó, có sự
nhìn nhận, phân tích, đánh giá và đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện mang
tính hệ thống.
5.2.4. Phương pháp phân tích cấu trúc chức năng
Phương pháp này giúp làm rõ mối quan hệ nội tại giữa cấu trúc và chức năng
của từng bộ phận hợp thành trong hệ thống chính trị và cho rằng những chức năng
cơ bản nhất phải được thực thi để hệ thống đó có thể tồn tại. Luận án sử dụng

phương pháp này để trên cơ sở nghiên cứu về cơ cấu, tổ chức và nguyên tắc hoạt
động của các bộ phận trong hệ thống chính trị, tiến hành phân tích mối quan hệ tác
động giữa các tổ chức đó ở phương diện kiểm soát quyền lực; làm rõ các nội dung,
phương thức, hiệu lực pháp lý, hiệu quả hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước
của các tổ chức chính trị - xã hội.
5.2.5. Phương pháp chính trị học so sánh
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức
chính trị - xã hội một số nước trên thế giới, luận án sử dụng phương pháp chính trị
học so sánh để tiến hành so sánh, đối chiếu với những điều kiện lịch sử cụ thể của
Việt Nam, nhận định những nét tương đồng, khác biệt, từ đó, rút ra các giá trị tham
khảo có thể vận dụng để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ
chức chính trị - xã hội ở Việt Nam.

6


6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất, hệ thống hóa, phân tích cơ sở lý luận về các tổ chức chính trị - xã
hội; về vai trò, nội dung, phương thức, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của
các tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ hai, khảo sát, phân tích thực trạng; đánh giá thành tựu, hạn chế và nguyên
nhân của những hạn chế trong hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ
chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm
soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam trong các giai
đoạn tiếp theo.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận án góp phần hoàn
thiện cơ sở lý luận và thực tiễn kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính
trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, có ý nghĩa tích cực trong việc đổi

mới nhận thức về các tổ chức chính trị - xã hội, về vai trò của chúng trong việc kiểm
soát quyền lực nhà nước.
Về mặt thực tiễn: Những kết luận và giải pháp đề xuất của luận án được xây
dựng trên cơ sở lý luận khoa học; khảo sát, đánh giá thực trạng khách quan, trung
thực, có thể cung cấp cơ sở khoa học cho các cơ quan, tổ chức tham khảo, vận dụng
vào thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ
chức chính trị - xã hội. Ngoài ra, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, học tập, giảng dạy chuyên ngành Chính trị học và các môn khoa
học xã hội và nhân văn có liên quan.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết
cấu gồm 4 chương, 12 tiết.

7


Chương 1.
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ
NƯỚC

1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước là những vấn đề trọng
tâm của khoa học chính trị, được nhiều nhà triết học, chính trị học, xã hội học từ
thời cổ đại đến nay quan tâm nghiên cứu. Có thể khẳng định, từ khi nhà nước ra đời,
các vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy nhà nước trở thành đối tượng nghiên cứu
của nhiều môn khoa học khác nhau, các lý thuyết về tổ chức bộ máy nhà nước, về
quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước cũng ra đời, phát triển và dần
hoàn thiện cùng với lịch sử phát triển của nhân loại. Cùng với quá trình đó, các khái

niệm, phạm trù cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước cũng từng bước được làm
sáng tỏ.
Có hai hướng tiếp cận chính khi nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước
trên thế giới, từ đó, hình thành nên hai phương thức cơ bản để thực hiện sự kiểm
soát quyền lực nhà nước: kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong (kiểm soát của
các thể chế quyền lực nhà nước) và kiểm soát nhà nước từ bên ngoài (kiểm soát của
các thể chế không mang tính nhà nước).
Ở hướng tiếp cận thứ nhất, các nhà chính trị học hướng tới sự tìm kiếm
phương thức hữu hiệu để các cơ quan trong bộ máy nhà nước có thể kiểm soát,
kiềm chế, đối trọng với nhau. Lý thuyết về kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên
trong hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của lý thuyết phân
quyền. Các tác phẩm tiêu biểu đặt nền móng cho hướng tiếp cận này là Chính trị
luận (The Politics) của Aristotle, Hai khảo luận về chính quyền (Two treasures of
government) của J.Locke, Tinh thần pháp luật (De L’Esprit de lois) của
Montesquieu.

8


Ngay từ thời cổ đại, Aristotle đã đề xuất những ý tưởng đầu tiên của nguyên
tắc phân quyền, ông cho rằng phải chia quyền lực nhà nước thành ba bộ phận: nghị
luận, chấp hành và xét xử để chúng có thể đối trọng, kiểm soát lẫn nhau. Đến thời
cận đại, J.Locke xuất phát từ khía cạnh con người - xã hội đã luận giải về quyền lực
nhà nước và đề xuất chia quyền lực nhà nước thành ba lĩnh vực: lập pháp, hành
pháp và liên hợp. Lý thuyết phân quyền được phát triển hoàn thiện trong quan niệm
về tam quyền phân lập của Montesquieu khi ông chia quyền lực nhà nước thành ba
nhánh: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Lý thuyết này đặt cơ sở cho tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước ở các quốc gia hiện đại.
Tiếp nối cách tiếp cận này, nhiều nhà chính trị học hiện nay cũng tìm kiếm các
phương thức hữu hiệu để thực hiện sự kiểm soát quyền lực từ chính cách thức tổ

chức và vận hành các cơ quan quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực từ chính
các cơ quan bên trong bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo nhà nước hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả, tránh tình trạng chuyên quyền, độc đoán. Theo đó, có hai phương
thức cơ bản để thực hiện sự kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong được nhiều
tác giả đề cập đến là: “một nền tư pháp độc lập thực sự mạnh” và “sự phân lập các
quyền để các nhánh quyền lực có thể chế ước và đối trọng lẫn nhau”, sự phi tập
trung trong tổ chức và vận hành các cơ quan nhà nước địa phương. Các công trình
nghiên cứu tiêu biểu là: Patrick Gunning (2002), Hiểu biết về nền dân chủ - một
giới thiệu về lý thuyết lựa chọn công cộng (Understanding democracy - An
introduction to Public choice); A.McIntyre (2002), Quyền lực của các thể chế
(Power of Institutions); Nhóm nghiên cứu Ngân hàng thế giới (1998) Nhà nước
trong một thế giới đang chuyển đổi; Micheal G.Roskin, Robert L.Cord (1991) Khoa
học chính trị - Một cách giới thiệu (Political Science - An introduction).
Ở hướng tiếp cận thứ hai, các nhà nghiên cứu lại cho rằng quyền lực nhà nước
là thống nhất, được hình thành trên cơ sở ủy quyền của nhân dân, nguồn gốc của
quyền lực nhà nước là do nhân dân giao phó để thực hiện những mục tiêu chung vì
sự phát triển của xã hội, do đó, nhân dân mới là chủ thể tối cao có quyền kiểm soát
quyền lực nhà nước thông qua việc thực hiện các quyền dân chủ của mình. Các tác

9


giả nhấn mạnh đến phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài, thông
qua vai trò của “chủ thể tối cao không thể từ bỏ và không thể phân chia được của
quyền lực nhà nước” là nhân dân. Các phương thức kiểm soát quyền lực được đề
cập đến là: Thứ nhất, bầu cử theo nhiệm kỳ, lấy phiếu tín nhiệm chính phủ và những
người cầm quyền, thực hiện quyền bãi miễn của nhân dân. Thứ hai, sử dụng công
luận, tức là thông qua sự giám sát và phản biện quyền lực mang tính thường xuyên
của nhân dân. Các tác phẩm tiêu biểu cho hướng tiếp cận này là: Khế ước xã hội
(The social contract) của J.J.Rousseau, Bàn về tự do (On Liberty) của J.S.Mill và

một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khi bàn về việc xây dựng
chính quyền Công xã Paris và nhà nước Xô Viết.
Trong những thập niên gần đây, các nghiên cứu theo hướng này không chỉ giới
hạn việc kiểm soát quyền lực thông qua việc thực hiện các quyền dân chủ của nhân
dân với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước mà còn mở rộng ra, bổ sung
nhiều phương thức kiểm soát quyền lực từ bên ngoài như: sự kiểm soát của đảng
chính trị, của các tổ chức chính trị - xã hội, của các phương tiện truyền thông đại
chúng, của xã hội dân sự,… Các tác phẩm tiêu biểu là: Seymour Martin Lipset
(1981), Con người chính trị (Political Man); Robert A. Dahl (1989), Bàn về dân chủ
(Democracy and its Critics); John A. Hall (1995), Xã hội dân sự (Civil Society);
Jeffrey H.Birnbaum (1992) Những nhà vận động hành lang - những kẻ ngồi lê hoạt
động như thế nào tại Oasinhtơn (The lobbyists - How influence peddlers work their
way in Washington); Andrew Heywood (2002), Chính trị (Politics),…
Quan điểm chủ yếu của các tác phẩm này là đều thừa nhận vai trò của bầu cử
trong việc kiểm soát quyền lực nhà nước nhưng cho rằng chỉ với bầu cử thì không
đủ sức mạnh để thực hiện sự kiểm soát, do đó, cần phải bổ sung các phương thức
kiểm soát khác từ bên ngoài. Chẳng hạn, R.A.Dahl, trong các tác phẩm của mình,
ông thừa nhận “bầu cử và hệ thống đảng phái cạnh tranh là những điều kiện quan
trọng để các nhà lãnh đạo có trách nhiệm nhất định đến lợi ích của các công dân”,
tuy nhiên, chỉ với hai yếu tố nêu trên thì chưa đủ để đảm bảo sự cân bằng của nền
dân chủ. Sự tồn tại và hoạt động của các “nhóm lợi ích với những quy mô và mục

10


tiêu khác nhau sẽ là điều kiện đủ cho nền dân chủ”. Giá trị của dân chủ nằm trong
nguyên tắc cai trị bởi “những đối lập thiểu số đa dạng” hơn là việc thiết lập “sự cai
trị của đa số” [27, tr.68].
Ở những góc độ tiếp cận khác, nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến các vấn
đề đóng vai trò là môi trường, điều kiện để hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước

được thực hiện có hiệu quả như: đảm bảo quyền con người; tự do ngôn luận, tự do
báo chí; sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của nhà
nước; đạo đức, trách nhiệm của các nhà lãnh đạo;… Những nội dung này được đề
cập đến trong một số tác phẩm tiêu biểu như: Stapenhurst Rick, Kpundeh Sahr
(1999), Curbing corruption - Toward a model for building nationnal integrity (Kiềm
chế tham nhũng - Hướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch của quốc gia);
Kriegel, Blandine (1995), The state and the rule of law (Nhà nước và nhà nước pháp
quyền); Micheal J. Sodaro (2000), Comparative Politics - A global introduction
(Chính trị so sánh - Một giới thiệu mang tính toàn cầu),…
1.1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước
Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam được các nhà nghiên cứu
quan tâm trong mấy thập niên trở lại đây. Từ cuộc vận động góp ý sửa đổi Hiến
pháp 1992 (năm 2013), số lượng các công trình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực
nhà nước tăng lên nhanh chóng, chủ yếu tiếp cận dưới góc độ luật học, chính trị học
và đã cung cấp nhiều giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Công trình nghiên cứu về
kiểm soát quyền lực nhà nước tập trung vào hai hướng: nghiên cứu lý thuyết và thực
tiễn kiểm soát quyền lực ở các nước trên thế giới và nghiên cứu về mô hình kiểm
soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam.
Có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu là: Chính trị của chủ nghĩa
tư bản hiện tại và tương lai (Nguyễn Đăng Thành, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2002); Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta
hiện nay (Đào Trí Úc - Võ Khánh Vinh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2003); Tư
tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số
nước (Nguyễn Thị Hồi, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005); Một số lý thuyết và kinh

11


nghiệm tổ chức nhà nước trên thế giới (Thang Văn Phúc - Nguyễn Đăng Thành,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005); Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở

Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (Đặng Đình Tân, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2006); Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam hiện nay (Trịnh Thị Xuyến, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008); Xây dựng
cơ chế pháp lý bảo đảm sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của
bộ máy Đảng, Nhà nước và các thiết chế tổ chức trong hệ thống chính trị (Đề tài
KX 10-07, Đào Trí Úc chủ nhiệm); Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước
ở Việt Nam hiện nay (Đề tài cấp Bộ năm 2008, mã số B08-13, Lưu Văn Quảng chủ
nhiệm); Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước (Thái Vĩnh Thắng, Nxb Tư pháp,
Hà Nội, 2011); Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước với việc sửa
đổi Hiến pháp 1992 (Trần Ngọc Đường, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2012); Từ
Nhà nước điều hành sang Nhà nước kiến tạo phát triển, (Đinh Tuấn Minh, Phạm
Thế Anh, Nxb Tri Thức, Hà Nội, 2016); Kiểm soát quyền lực nhà nước (Nguyễn
Đăng Dung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2017); Cơ chế pháp lý kiểm soát
quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (Nguyễn Minh Đoan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2018).
Ngoài ra, nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước còn được thể hiện trong
một số luận án, luận văn và các bài báo khoa học: Hồ Việt Hạnh (2005), Tam quyền
phân lập ở Nhật Bản, Luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh; Vũ Duy Tú (2016), Lý thuyết phân quyền: giá trị tham khảo trong xây
dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến
sĩ Chính trị học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội;
Nguyễn Quốc Hùng (2016), Kiểm soát quyền lực tư pháp trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã
hội; Nguyễn Đăng Dung, Quyền lực nhà nước thống nhất, nhưng có sự phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa 3 quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, 2015; Trần Ngọc Đường, Kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập

12



pháp, 2015; Phan Xuân Sơn (2017), Kiểm soát quyền lực trong cơ chế “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”, Tạp chí Cộng sản, số 902 (12/2017).
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã làm rõ một số nội dung cơ bản về kiểm
soát quyền lực nhà nước:
Thứ nhất, phân tích các quan điểm, tư tưởng về kiểm soát quyền lực nhà nước,
về lý thuyết phân quyền của các nhà tư tưởng tư sản trong lịch sử; nghiên cứu thực
tiễn vận dụng các lý thuyết đó trong việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước ở
các quốc gia tư sản hiện nay như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nhật Bản,… Trên cơ sở
phương pháp luật học so sánh và chính trị học so sánh, các tác giả đã tìm kiếm và
chỉ ra các hạt nhân hợp lý, các giá trị tham khảo cho Việt Nam trong việc tổ chức và
thực thi quyền lực nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước. Những kinh nghiệm
được khai thác chủ yếu ở khía cạnh tiếp thu các giá trị hợp lý của lý thuyết phân
quyền để xây dựng “cơ chế vận hành quyền lực có cơ cấu hợp lý, trình tự chặt chẽ,
chế ước hữu hiệu” [66, tr.150]. Ngoài ra, những giá trị tham khảo về giới hạn quyền
lực bằng hiến pháp, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực thông qua bầu cử, thông
qua vai trò các tổ chức của xã hội dân sự, báo chí truyền thông, thông qua chức
năng giám sát của quốc hội, thanh tra chính phủ, xét xử của tòa án,… cũng được các
tác giả đề cập ở những mức độ khác nhau.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu đã từng bước làm rõ hơn tính tất yếu, khái
niệm, nội dung và các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước.
Các tác giả cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề phức tạp, có
nhiều cách hiểu rộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa rộng, kiểm soát quyền lực nhà
nước liên quan đến toàn bộ quá trình “thiết kế, tổ chức và thực thi quyền lực nhà
nước đúng mục đích, hiệu quả nhất”, theo nghĩa hẹp, kiểm soát quyền lực nhà nước
là “toàn bộ các cách thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó nhà nước và xã hội có
thể ngăn chặn, loại bỏ những hành động sai trái của nhà nước, phát hiện và điều
chỉnh việc thực thi quyền lực, đảm bảo mục đích và hiệu quả của quyền lực nhà
nước” [107, tr.36].
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và tham khảo mô hình kiểm soát quyền lực


13


của các nước trên thế giới, các tác giả khẳng định kiểm soát quyền lực nhà nước là
tất yếu khách quan, xuất phát từ “bản chất của quyền lực nhà nước là thuộc về nhân
dân”, “quyền lực nhà nước được ủy quyền nên tiềm ẩn nguy cơ tha hóa”, đặc trưng
của quyền lực nhà nước là “mang tính độc quyền cưỡng chế”, do “bản tính vị kỉ”,
“giới hạn về mặt trí tuệ” của con người nên có khả năng phạm sai lầm trong thực thi
quyền lực [23], [66], [107]. Mục đích của việc kiểm soát quyền lực nhà nước là
nhằm ngăn chặn sự tha hóa quyền lực, hạn chế tính độc tài, độc đoán và nguy cơ sai
lầm, qua đó đảm bảo tính “đúng đắn”, “hiệu lực”, “hiệu quả” trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước vì mục tiêu phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội.
Các công trình nghiên cứu cũng chỉ ra các phương thức cơ bản để kiểm soát
quyền lực nhà nước, trong đó nhấn mạnh hai phương thức cơ bản: kiểm soát quyền
lực nhà nước từ bên trong và kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài. Chẳng
hạn, Nguyễn Đăng Dung, trong công trình “Kiểm soát quyền lực nhà nước” đã chỉ
ra một số phương thức cơ bản để kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam là: 1)
Giới hạn quyền lực nhà nước bằng Hiến pháp; 2) Bầu cử; 3) Phân chia/phân công,
phân nhiệm và tự kiểm tra bên trong theo cơ chế kiềm chế và đối trọng; 4) Xét xử
của Tòa án; 5) Tự do báo chí; 6) Sự công khai, minh bạch của chính quyền; 7) Giám
sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội” [23]. Tương tự, Phan Xuân Sơn, trong bài viết Kiểm soát quyền lực trong cơ
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” cũng xác định các
phương thức cơ bản để kiểm soát quyền lực nhà nước là: 1) Bầu cử; 2) Giới hạn
quyền lực nhà nước bằng Hiến pháp; 3) Kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà
nước; 4) Kiểm soát của các cơ quan tư pháp đối với quyền lực nhà nước; 5) Nhân
dân kiểm soát quyền lực nhà nước [82].
Thứ ba, đánh giá thực trạng tổ chức, vận hành của các chủ thể trong việc kiểm
soát quyền lực nhà nước và các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam

hiện nay. Một số công trình đã có những nghiên cứu trực tiếp vào các khía cạnh
khác nhau của vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay trên tất cả
các lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Kết quả nghiên cứu của các công trình

14


này đều cho thấy, các phương thức, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt
Nam chưa thực sự có hiệu lực, hiệu quả; khả năng ngăn chặn tình trạng tha hóa
quyền lực, tình trạng lạm quyền, độc tài độc đoán chưa cao. Các cơ chế thực hiện sự
kiểm soát quyền lực của nhân dân và các lực lượng xã hội còn mang tính hình thức,
trên thực tế khó triển khai thực hiện, kể cả kiểm soát quyền lực từ bên trong bộ máy
nhà nước cũng chưa được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả. Đây cũng là nguyên
nhân dẫn đến tình trạng lạm quyền, tham ô, tham nhũng ngày càng gia tăng, ảnh
hưởng đến quyền làm chủ của nhân dân và sự phát triển của đất nước.
Thứ tư, trên cơ sở phân tích thực trạng, các công trình nghiên cứu đã đề xuất
một số giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực ở nước ta
hiện nay. Các giải pháp được đề xuất khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực, từ các giải
pháp mang tính tổng thể như đổi mới hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà nước,
tăng cường và mở rộng dân chủ XHCN, đến các giải pháp cụ thể để xây dựng cơ
chế kiểm soát quyền lực có hiệu quả. Các giải pháp mà các nhà khoa học đề xuất đã
góp phần cung cấp cơ sở lý luận, luận chứng, luận cứ cho việc đổi mới hệ thống
chính trị và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ
HỘI VÀ VIỆC KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CỦA CÁC TỔ CHỨC CHÍNH
TRỊ - XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI

Nghiên cứu về các tổ chức chính trị - xã hội và việc kiểm soát quyền lực nhà
nước của các tổ chức chính trị - xã hội ở các nước trên thế giới rất được quan tâm,
các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung ở Mỹ và các nước Châu Âu, nơi có

thực tiễn hoạt động sôi nổi của các tổ chức này. Cần phải nói thêm rằng, quan niệm
về các tổ chức chính trị - xã hội ở các nước trên thế giới có một số điểm khác so với
Việt Nam. Thứ nhất, các tổ chức chính trị - xã hội ở các quốc gia khác nhau, có
nhiều tên gọi khác nhau như: các nhóm lợi ích, các nhóm gây áp lực, các nhóm vận
động hành lang, các hiệp hội, các nghiệp đoàn, các tổ chức xã hội,… Thứ hai, về số
lượng, tính chất của các tổ chức này rất đa dạng, phong phú, chúng hoạt động ở tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, thu hút nhiều thành phần dân cư tham gia và có

15


vai trò quan trọng trong đời sống chính trị của các quốc gia này.
Nghiên cứu về các nhóm lợi ích được đề cập từ khá sớm, James Madison trong
tác phẩm The Federalist Papers (Người Liên bang) đã bàn về sự tồn tại khách quan
và vai trò của các nhóm lợi ích trong nền chính trị Mỹ. Ông xem việc các cá nhân
có lợi ích tương đồng có xu hướng tập hợp với nhau thành các nhóm là điều tự
nhiên. Sự tồn tại của các nhóm lợi ích đa dạng, phong phú là thể hiện quyền tự do
của công dân, đồng thời, là công cụ quan trọng để “bẻ gãy và kiểm soát được sự
lộng hành của phe phái”, khắc phục nan giải của nền dân chủ đại diện, đảm bảo hệ
thống chính trị hoạt động có hiệu quả.
Trong tác phẩm Democracy in America (1835 - 1840), Alexis de Tocqueville
từ sự quan sát của mình đã khẳng định sự tồn tại tất yếu và phổ biến của các nhóm
lợi ích, các hiệp hội trong nền chính trị Mỹ ở giai đoạn ban đầu. Sự hình thành các
hiệp hội, các nhóm lợi ích bắt nguồn từ việc các cá nhân có chung quan điểm sẽ có
xu hướng kết hợp lại với nhau thành một tổ chức. Ông chỉ ra rằng ở Mỹ các nhóm
lợi ích tồn tại đa dạng, hoạt động sôi nổi và đạt được nhiều thành công hơn bất kỳ
quốc gia nào vào thời điểm đó. Thông qua việc tham gia vào các nhóm lợi ích, một
mặt, các cá nhân sẽ gia tăng được quyền lực, sức ảnh hưởng của mình; mặt khác,
các tổ chức ngày càng lớn mạnh sẽ gây chú ý và buộc chính quyền phải có những
ưu tiên nhất định. Các nhóm lợi ích thúc đẩy sự tham gia của người dân vào đời

sống chính trị, là bộ phận chủ yếu của xã hội dân sự.
Đến thời kỳ hiện đại, số lượng các tác phẩm nghiên cứu về các nhóm lợi ích
tăng lên nhanh chóng. Các công trình nghiên cứu tập trung vào hai hướng chính:
làm rõ các vấn đề lý luận chung về nhóm lợi ích và vai trò của các nhóm lợi ích
trong việc tác động đến chính sách công, kiểm soát quyền lực nhà nước.
Ở hướng nghiên cứu thứ nhất, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu là:
Dahl, Một giới thiệu cho lý thuyết dân chủ (A Preface to Democratic Theory, 1956);
Almond, Nghiên cứu so sánh các nhóm lợi ích và quá trình chính trị (Comparative
Study of Interest Groups and the Political Process, 1958); Wilson, Graham, Các
nhóm lợi ích (Interest groups,1990); Putnam, Đồng điệu, lạc điệu: Sự biến mất lạ kỳ

16


của vốn xã hội ở Mỹ (Tuning In, Tuning Out: The Strange Disappearance of Social
Capital in America, 1995); Berry, J.M, Xã hội nhóm lợi ích (The Interest Group
Society, 2009); Halpin, Darren R. and Anthony J. Nownes, Các nhóm lợi ích trong
nền chính trị Mỹ (Interest Groups in American Politics, 2013).
Thông qua các nghiên cứu của mình, các tác giả đã góp phần làm rõ một số
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến các nhóm lợi ích như quan niệm, nguyên
nhân hình thành, đặc điểm, vị trí, vai trò, phân loại,… Cụ thể:
- Các công trình nghiên cứu đã góp phần làm rõ nguồn gốc hình thành các
nhóm lợi ích. Các tác giả đều nhấn mạnh sự tồn tại của các lợi ích là một tất yếu
khách quan, các nhóm lợi ích hình thành một cách tất yếu từ các các cá nhân có
chung lợi ích và tồn tại trong tất cả các xã hội, chúng là bộ phận không thể thiếu
trong hệ thống chính trị của các quốc gia. Bàn về nguồn gốc của các nhóm lợi ích,
Wilson và Graham K. trong tác phẩm Interest groups (Các Nhóm lợi ích) đã cho
rằng, hoạt động của con người luôn nhằm mục đích đạt được lợi ích, do đó, việc các
chủ thể có cùng lợi ích liên kết lại với nhau là tất yếu; chính “xuất phát từ nhu cầu
lợi ích và khát vọng đạt được lợi ích mà các chủ thể lợi ích tự nguyện liên kết, tập

hợp lại với nhau và hình thành nên các nhóm lợi ích trong xã hội” [128].
- Các công trình nghiên cứu cũng làm rõ quan niệm về các nhóm lợi ích. Mặc
dù còn nhiều cách tiếp cận, nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, nhưng các
tác giả đều thống nhất ở những nội dung cơ bản: Nhóm lợi ích là sự tập hợp của các
tổ chức hay các cá nhân, thường được thành lập một cách chính thức trên cơ sở chia
sẻ một hay nhiều mối quan tâm nhằm ảnh hưởng đến chính sách công hoặc lĩnh vực
mình quan tâm. Như vậy, nhóm lợi ích được phân biệt với các bộ phận khác của xã
hội dân sự ở chỗ, hoạt động của nó vừa mang tính xã hội, vừa mang tính chính trị,
đặt mục tiêu tác động lên chính sách của chính phủ theo hướng có lợi cho mình.
Chẳng hạn như trong bài viết The Interest Group Society (Xã hội nhóm lợi ích), tác
giả Jeffrey Berry cho rằng nhóm lợi ích là “một tập đoàn có tổ chức của những
người có cùng chung một số mục đích và họ muốn gây ảnh hưởng vào chính sách
công”[112]. Trong tác phẩm Interest Groups in American Politics (Các nhóm lợi

17


ích trong nền chính trị Mỹ), Halpin, Darren R. và Anthony J. Nownes cũng đưa ra
quan niệm của mình về nhóm lợi ích, các ông cho rằng nhóm lợi ích “bao gồm bất
kỳ tổ chức nào muốn gây ảnh hưởng đến các quyết định chính sách của chính phủ,
đó có thể là các công ty, các tổ chức tôn giáo, các nghiệp đoàn, các tổ chức từ thiện,
các Ủy ban hành động chính trị (PAC),…” [120].
- Các nhà nghiên cứu cũng khẳng định vị trí, tầm quan trọng của các nhóm lợi
ích trong hệ thống chính trị. Sự hoạt động của các nhóm lợi ích góp phần vào sự
thành công của việc hoạch định và thực thi các chính sách công, đảm bảo sự cân
bằng xã hội và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp nhân dân. Robert Dahl trong các
nghiên cứu của mình đã nhấn mạnh đến vai trò của các nhóm lợi ích, xem nhóm lợi
ích là “yếu tố đảm bảo tính cân bằng trong cơ cấu quyền lực của xã hội”, “kết quả
tốt nhất mà chính phủ dân chủ mang lại chỉ có thể đạt được thông qua sự cạnh tranh
trong quá trình hoạt động của các nhóm lợi ích”, từ đó ông ủng hộ quyền tự do lập

hội của công dân. Ở một công trình nghiên cứu khác, Putnam trong tác phẩm
Tuning In, Tuning Out: The Strange Disappearance of Social Capital in America
cũng nhấn mạnh đến vai trò của các nhóm lợi ích ở Mỹ, ông khẳng định các nhóm
lợi ích là “sức mạnh của nền dân chủ, có vị trí đặc biệt trong hệ thống chính trị, có
mối quan hệ chặt chẽ với các đảng phái, các chính trị gia, các công chức nhà nước,
và đây là yếu tố quan trọng có thể làm “ngưng tụ” các vốn xã hội” [129].
- Các tác giả cũng đưa ra quan điểm của mình về phân loại các nhóm lợi ích,
ví dụ như Jeffrey Berry (The Interest Group Society) chia các nhóm lợi ích thành:
“các doanh nghiệp, các tổ chức công đoàn, các hiệp hội chuyên nghiệp, các đoàn thể
liên chính quyền, các nhóm lợi ích công cộng” [112]. Halpin, Darren R. and
Anthony J. Nownes (Interest Groups in American Politics, 2013) quan niệm rằng
nhóm lợi ích là “bất kỳ tổ chức nào muốn gây ảnh hưởng đến chính sách của chính
phủ”, chúng bao gồm: “các công ty, tổ chức từ thiện, tổ chức tôn giáo, các liên đoàn
lao động, nghề nghiệp, các Ủy ban hành động chính trị”,… [120].
Ở hướng nghiên cứu thứ hai, có một số công trình tiêu biểu: Jeffrey
H.Birnbaum, Những nhà vận động hành lang - những kẻ ngồi lê hoạt động như thế

18


nào tại Oasinhtơn (The lobbyists - How influence peddlers work their way in
Washington, 1992); Jeffrey Berry, Vận động cho dân chúng: cách hoạt động chính
trị của các nhóm lợi ích (Lobbying for the People: The Political Behavior of Public
Interest Groups, 1977); Wright, John, Nhóm lợi ích và Quốc hội, vận động hành
lang, đóng góp, và ảnh hưởng, (Interest Groups and Congress, Lobbying,
Contributions, and Influence, 1996); R. Allen Hays, Ai nói lên tiếng nói của dân
nghèo? Các nhóm lợi ích toàn quốc và Chính sách Xã hội (Who Speaks for the
Poor? National Interest Groups and Social Policy, 2001); Grant Jordan and William
A. Maloney, Nền dân chủ và các nhóm lợi ích: Tăng cường sự tham gia?
(Democracy and Interest Groups Enhancing Participation?, 2007); Suzanne

Mulcahy, Vận động hành lang ở Châu Âu (Lobbying in Europe, 2015).
Các tác giả đã phân tích và chỉ ra các phương thức mà các nhóm lợi ích tổ
chức quần chúng dùng để gây ảnh hưởng đến quá trình hoạch định và thực thi các
quyết sách chính trị của giai cấp cầm quyền và góp phần vào việc kiểm soát quyền
lực nhà nước. Những phương thức chủ yếu mà các tác giả chỉ ra: “vận động hành
lang” (lobby); “nghiên cứu, phân tích chính sách”; “gây áp lực”; “thiết lập mối quan
hệ với các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền để hiện thực hóa lợi ích”; “tác động công
khai qua các phương tiện truyền thông”;… Chẳng hạn như, trong tác phẩm Interest
Groups and Congress, Lobbying, Contributions, and Influence (Nhóm lợi ích và
Quốc hội, vận động hành lang, đóng góp, và ảnh hưởng), Wright, John R. đã chỉ ra
các phương thức cơ bản mà các nhóm lợi ích tác động đến chính sách công: “tư vấn,
cung cấp thông tin; đưa ra các sáng kiến chính sách; vận động hành lang; thành lập
các Ủy ban hành động chính trị, gây áp lực truyền thông,…” [133].
Các nghiên cứu nêu trên cũng chỉ ra các tác động tích cực và tiêu cực trong
quá trình tác động của các nhóm lợi ích đến việc hoạch định và thực thi chính sách
công, đến việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Những tác động tích cực được nêu ra
là: cung cấp thông tin, sáng kiến chính sách, mở rộng dân chủ thông qua việc tăng
cường sự tham gia của người dân, hạn chế sai lầm của nhà nước,… Chẳng hạn,
Grant Jordan và William A. Maloney V (Democracy and Interest Groups

19


×