Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

định hướng giá trị lối sống sinh viên ở một số trường đại học tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH




Bùi Thị Bích









ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ LỐI SỐNG
SINH VIÊN Ở MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60 31 80



LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Huỳnh Văn Sơn







Thành phố Hồ Chí Minh – 2007
CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT




ĐHSP : Đại học Sư phạm
ĐHSPKT : Đại học Sư phạm Kỹ thuật
ĐHBK : Đại học Bách Khoa
SD : Độ lệch tiêu chuẩn
STT : Số thứ tự
TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
TB : Trung bình
DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang
Bảng 1.1: Khách thể nghiên cứu phân bố theo giới tính, 4
trường học, năm học, khu vực và điều kiện kinh tế gia đình
Bảng 3.1: Sự lựa chọn các kiểu lối sống của sinh viên 52

Bảng 3.2: Những lối sống được giới trẻ ưu tiên hiện nay 55
Bảng 3.3: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng 56
của các giá trị nhân văn
Bảng 3.4: Đánh giá của sinh viên về tầm quan tr
ọng 58
của các giá trị đạo đức
Bảng 3.5: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng 60
của các giá trị chính trị - pháp luật
Bảng 3.6: Đánh giá của sinh viên về tầm quan trọng 62
của các giá trị kinh tế
Bảng 3.7: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa nam và nữ 64
Bảng 3.8: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa các trường 64
Bảng 3.9: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa sinh viên 65
năm I và nă
m IV
Bảng 3.10: Kết quả so sánh điểm trung bình 66
giữa sinh viên TP.HCM và sinh viên tỉnh
Bảng 3.11: Kết quả so sánh điểm trung bình giữa các điều kiện 66
kinh tế gia đình
Bảng 3.12: Thái độ tích cực của sinh viên đối với các nhóm 67
giá trị lối sống
Bảng 3.13: Sự khác biệt thái độ giữa nam và nữ 69
Bảng 3.14: Sự khác biệt thái độ giữa các trường 70
Bảng 3.15: Sự khác biệt thái độ giữa sinh viên năm I và nă
m IV 71
Bảng 3.16: Sự khác biệt thái độ giữa sinh viên TP.HCM và sinh viên tỉnh 71
Bảng 3.17: Sự khác biệt thái độ giữa các sinh viên có 72
điều kiện kinh tế khác nhau
Bảng 3.18: Mức độ thực hiện các hành vi tích cực của sinh viên 73
Bảng 3.19: Mức độ tồn tại các các hiện tượng tiêu cực trong 75

lối sống sinh viên
Bảng 3.20: Những biểu hiện của lối sống sinh viên hiện nay 81
Bảng 3.21: Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến định hướng 95
giá trị lối sống sinh viên
Bảng 3.22: Sự khác biệt giữa nam và nữ về mức độ
ảnh hưởng 100
của các yếu tố
Bảng 3.23: Sự khác biệt giữa các trường về mức độ ảnh hưởng 102
của các yếu tố
Bảng 3.24: Sự khác biệt giữa sinh viên năm I và năm IV về 103
mức độ ảnh hưởng của các yếu tố
Bảng 3.25: Sự khác biệt giữa sinh viên TP.HCM và sinh viên tỉnh 104
về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố
Bảng 3.26: Sự
khác biệt giữa các sinh viên có điều kiện kinh tế 104
gia đình khác nhau về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố








DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ


Trang
Biểu đồ 3.1: Động cơ học tập của sinh viên 83
Biểu đồ 3.2: Sự khác biệt về hành động trên lớp học giữa sinh viên 85

năm I và năm IV
Biểu đồ 3.3: Sự khác biệt về hành động trong phòng thi 87
giữa các trường
Biểu đồ 3.4: Sự khác biệt giữa sinh viên TP.HCM và tỉnh 88
khi gặp người bị hoạn nạn
Biểu đồ 3.5: Sự khác biệt giữa nam và nữ khi có người rủ xem phim cấm 91
Biểu đồ 3.6: Sự khác biệt trong cách lựa chọn cuộc sống vật chất 93
giữa các sinh viên có điều kiện kinh tế khác nhau














MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Khi xem xét và đánh giá về con người nói chung hay về nhân cách nói riêng, chúng
ta không thể bỏ qua vấn đề định hướng giá trị. Chính sự định hướng giá trị sẽ phản ánh nhu
cầu, nguyện vọng của con người, phản ánh cái mà họ yêu thích và cho là quý giá. Định
hướng giá trị chỉ đạo toàn bộ hoạt động của con người, bởi vì con người thường hướng vào
một loạt giá trị để xác định lối sống cho riêng mình. Biết được đị

nh hướng giá trị của con
người là biết được thái độ, hành vi của họ và sẽ dễ dàng hơn trong giao tiếp cũng như trong
quá trình tổ chức và điều khiển hoạt động.
Giá trị và định hướng giá trị luôn là lĩnh vực được ưu tiên khi bàn về nhân cách sống
của mỗi con người. Từ đại hội lần thứ VIII, Đảng đã đề xuất “xây dựng con người Việt nam
về
tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống” và “hình thành hệ giá trị và chuẩn mực
xã hội mới phù hợp với truyền thống, bản sắc và yêu cầu của thời đại” [14, tr.110 -113].
Bên cạnh đó, trên báo chí, tại các cuộc hội thảo quốc tế, chúng ta luôn bắt gặp những nội
dung phát biểu được đề cập: “giáo dục giá trị, xu thế ưu tiên cho thế kỷ XXI”, “sự biế
n đổi”,
“sự khủng hoảng giá trị”, “sự quay về với những giá trị truyền thống” [63, tr.21]. Có thể nói
việc tìm hiểu giá trị và định hướng giá trị đang là vấn đề có tính toàn cầu, là nhu cầu cấp
bách của mỗi quốc gia, nhất ở các nước đang phát triển.
Tại Việt nam, vấn đề giá trị và định hướng giá trị thời gian gần đây được quan tâm
rất nhiều trên mọ
i bình diện. Nước ta thực hiện đổi mới trên mọi lĩnh vực để cùng hoà nhập
với thế giới hiện đại, một thế giới trong đó nhân loại đang bước sang nền kinh tế tri thức,
quy mô phát triển kinh tế xã hội ngày càng rộng lớn, tính chất ngày càng đa dạng, phức tạp
và tốc độ phát triển ngày càng nhanh. Có biết bao cái mới, cái hay và cái đẹp được con
người đón nhận, tìm kiếm, nhưng d
ường như con người cũng phải gánh chịu những mặt tiêu
cực của sự phát triển - sự lấn lướt của tư duy lý trí, của nền văn minh phương Tây, đe dọa sự
phát triển cân bằng của con người. Khoa học kỹ thuật phát triển làm cho con người thông
minh hơn nhưng cũng dễ trở nên khô khan vô cảm, ích kỷ và thiếu lòng khoan dung. Trong
một xu thế chung như vậy, việc lựa chọn lố
i sống và định hướng giá trị lối sống sao cho vừa
thiết thực, vừa phù hợp với thời đại mà vẫn đậm đà bản sắc dân tộc không phải là đơn giản
đối với mọi người, đặc biệt với tầng lớp thanh niên - sinh viên, những người được coi là
năng động và luôn bắt nhịp với cái mới nhanh nhất, nhạy cảm với cái đẹp sớm nhất.

Hiện nay, hơn 1.319.754 sinh viên Việt nam đang theo học tại các trường Đại học và
Cao đẳng trên cả nước, họ là lớp người ưu tú chuẩn bị trở thành lực lượng lao động có trình
độ cao được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặt nhiều hy vọng trong công cuộc đổi mới đất
nước. Do đó mà việc giáo dục giúp sinh viên định hướng các giá trị trong cuộc sống một
cách hài hoà, phù hợp để có lối sống lành mạnh và cao đẹ
p là việc làm cấp thiết của các cấp
các ngành có liên quan.
Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) là một trung tâm kinh tế lớn của cả nước đang
có hơn 334.797 sinh viên theo học, họ được thụ hưởng sự phát triển năng động và các
phong trào đổi mới của thành phố nhưng cũng đang bị thử thách không ít về đạo đức, lối
sống. Những năm gần đây, một số vấn đề trong lối số
ng của sinh viên tại TP.HCM được
báo chí đề cập nhiều và dư luận xã hội rất quan tâm cả mặt tích cực lẫn tiêu cực, tuy nhiên,
việc nghiên cứu lối sống còn mang tính khái quát, vì vậy phải tìm ra được đâu là động cơ
thúc đẩy, điều chỉnh thái độ và hành vi của sinh viên trong cuộc sống? Dưới góc độ Tâm lý
học, đó là định hướng giá trị lối sống.
Quán triệt đường lối phát triển vă
n hóa, giáo dục và đào tạo của Đảng –“phải đặt
trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống lành mạnh. Phải tạo được sự
chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng, đạo đức, lối sống - một lĩnh vực then chốt trong đời sống
văn hóa dân tộc” [15,tr.24], chúng tôi thực sự quan tâm đến những thay đổi trong lối s
ống
của sinh viên ở vào thời điểm hiện nay tại địa bàn TP.HCM, đặc biệt về mặt định hướng giá
trị lối sống. Vì vậy, chúng tôi quyết định tìm hiểu “Thực trạng định hướng giá trị lối sống
sinh viên ở một số trường đại học tại TP.HCM”.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài nhằm tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị lố
i sống của sinh viên ở một số
trường đại học tại TP.HCM hiện nay; nguyên nhân của thực trạng này, trên cơ sở đó đề xuất

một số biện pháp giáo dục lối sống và định hướng giá trị lối sống cho sinh viên.
3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Để đạt được mục đích nêu trên, người nghiên cứu đề ra những nhiệm vụ phải thực
hiện như sau:
3.1. Khái quát những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài: giá trị, định hướng giá trị,
lối sống, lối sống sinh viên, định hướng giá trị lối sống, định hướng giá trị lối sống sinh
viên.
3.2. Tìm hiểu thực trạng định hướng giá trị lối sống sinh viên ở một số trường đại
học tại TP.HCM. So sánh thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên theo: giới
tính, trường học, năm học, khu vực và điều kiện kinh tế gia đình.
3.3. Tìm hiểu một số yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng định hướng giá trị lối số
ng
sinh viên.
3.4. Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng định hướng giá trị lối sống sinh viên trên
cơ sở đó có những biện pháp giáo dục lối sống và định hướng giá trị lối sống cho sinh viên.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh viên
4.2. Khách thể nghiên cứu
• Sinh viên thuộc năm thứ I và năm IV tại 3 trường
đại học trên địa bàn
TP.HCM, năm học 2006-2007:
- Trường Đại học Sư Phạm (ĐHSP) TP.HCM
- Trường Đại học Sư Phạm Kỹ thuật (ĐHSPKT) TP.HCM
- Trường Đại học Bách Khoa (ĐHBK) TP.HCM
Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên từ 3 trường và phát phiếu tập trung có hướng
dẫn. Tổng số phiếu thu về là 611 phiếu, trong đó có 12 phiếu phải loại bỏ vì không đạt yêu
cầu. Như v
ậy, tổng số phiếu đưa vào xử lý là 599 phịếu và được phân bố như sau:
Bảng 1.1: Khách thể nghiên cứu phân bố theo giới tính, trường học, năm học,

khu vực và điều kiện kinh tế gia đình
Giới tính Trường học Năm học Khu vực
Điều kiện kinh tế
gia đình
Nam Nữ SP
SP
KT
BK I IV
TP
HCM
Tỉnh
Khó
khăn
Trung
bình
Khá
367 232 202 200 197 302 297 112 487 91 439 69
599 599 599 599 599

Phương thức xác định các nhóm sinh viên khi so sánh:
- Các nhóm sinh viên theo trường, phái tính, năm học lấy số liệu toàn thể 599 người.
- Các nhóm sinh viên theo khu vực : 100% sinh viên TPHCM, chọn ngẫu nhiên 25%
sinh viên Tỉnh để ghép chung.
- Các nhóm sinh viên theo điều kiện kinh tế gia đình: 100% sinh viên thuộc nhóm có
điều kiện kinh tế khó khăn và nhóm có điều kiện kinh tế khá. Chọn ngẫu nhiên 20% sinh
viên trong nhóm có điều kiện kinh tế trung bình để ghép chung.
• Một số giáo viên tại các trường đại học có sinh viên được nghiên cứu và được xem
là khách thể nghiên cứu hỗ trợ.
5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Đa số sinh viên tại TP.HCM đều định hướng giá trị lối sống

đúng đắn. Các sinh viên
biết chọn lọc một cách hài hòa giữa các giá trị nhân văn, giá trị đạo đức, giá trị chính trị -
pháp luật và giá trị kinh tế. Có sự khác biệt định hướng giá trị lối sống của sinh viên theo:
giới tính, trường học, năm học, khu vực và điều kiện kinh tế gia đình. Có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến thực trạng định hướng giá trị lối số
ng của sinh viên, phần lớn do sự tác động của
các yếu tố bên ngoài xã hội.
6. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI
Lối sống là một phạm trù rất rộng, biểu hiện đa dạng trong mọi hoạt động của con
người. Trong điều kiện cho phép, người nghiên cứu tập trung tìm hiểu mặt định hướng giá
trị lối sống của sinh viên ở một số trường sau:
- Trường ĐHSP TP.HCM
- Trường ĐHSPKT TP.HCM
- Trường ĐHBK TP.HCM
Nghiên cứu định hướng giá trị lối sống trong đề tài này tập trung nghiên cứu nhận
thức, thái độ và những biểu hiện xu hướng hành vi đối với các giá trị lối sống của sinh viên.
Từ đó biết được phần nào nhân cách sống của sinh viên tại TP.HCM trong giai đoạn hiện
nay.
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để giải quyết nhiệm vụ đã nêu, đề tài được s
ử dụng một số phương pháp nghiên cứu
sau:
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Thu thập tư liệu và các công trình nghiên cứu, đọc và phân tích theo từng bộ phận,
từng mặt, theo lịch sử thời gian để hiểu một cách đầy đủ và toàn diện. Từ đó liên kết các
thông tin từ nguồn tư liệu đã đọc và phân tích để xây dựng hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và
sâu sắc phù hợp vớ
i đề tài nghiên cứu.
7.2. Phương pháp thực tiễn
7.2.1. Phương pháp điều tra bằng bảng câu hỏi

Đây là phương pháp chính khảo sát thực trạng định hướng giá trị lối sống và những
yếu tố ảnh hưởng cũng như nguyên nhân của thực trạng định hướng giá trị lối sống của sinh
viên tại TP.HCM. Bảng câu hỏi chính là công cụ nghiên cứu của đề tài.
Việc xây dựng bảng câu hỏi tiến hành theo 2 giai đoạn:
Giai đoạn 1
: Dựa vào cơ sở lý luận về định hướng giá trị lối sống sinh viên, người
nghiên cứu soạn 2 phiếu thăm dò mở:
- Phiếu thứ nhất: Lấy ý kiến của các thầy cô đang trực tiếp giảng dạy tại các trường
đại học tại TP.HCM.
- Phiếu thứ hai: Lấy ý kiến của sinh viên tại 3 trường đại học: ĐHSP TP.HCM,
ĐHSPKT TP.HCM, ĐHBK TP.HCM, năm học 2006 – 2007.
Giai đo
ạn 2: từ kết quả của hai phiếu thăm dò mở, kết hợp với cơ sở lý luận, người
nghiên cứu xây dựng phiếu điều tra chính thức gồm 10 câu hỏi, trong mỗi câu hỏi bao gồm
nhiều ý (câu hỏi nhỏ).
Cấu trúc của phiếu điều tra gồm có 5 phần
Phần I: Khảo sát sự lựa chọn lối sống của sinh viên gồm có:
Câu 1: Khảo sát sự l
ựa chọn kiểu lối sống của sinh viên: gồm 15 kiểu lối sống cả tích
cực lẫn tiêu cực. Mỗi kiểu lối sống được đánh giá theo 5 mức độ: rất phù hợp (4 điểm), phù
hợp (3 điểm), ít phù hợp (2 điểm), không phù hợp (1 điểm) và hoàn toàn không phù hợp (0
điểm). Người được hỏi sẽ chọn 1 trong 5 mức phù hợp với họ nhất.
Câu 2: Khảo sát các ki
ểu lối sống được giới trẻ quan tâm nhất theo cách xếp hạng
của sinh viên.
Phần II: Khảo sát định hướng giá trị lối sống sinh viên:
Câu 3: Khảo sát nhận thức của sinh viên về mức độ quan trọng của 4 nhóm giá trị lối
sống. Gồm 40 giá trị chia đều cho 4 nhóm:
- Nhóm giá trị nhân văn: từ 1 đến 10
- Nhóm giá trị đạo đức: từ 11 đến 20

-
Nhóm giá trị chính trị - pháp luật : từ 21 đến 30
- Nhóm giá trị kinh tế: từ 31 đến 40
Mỗi giá trị được đánh giá theo 5 mức: Rất quan trọng (4 điểm), quan trọng (3 điểm),
bình thường (2 điểm), không quan trọng(1 điểm) và hoàn toàn không quan trọng (0 điểm).
Câu 4: Khảo sát thái độ của sinh viên về các nhóm giá trị lối sống, gồm 20 nhận định
chia đều cho 4 nhóm giá trị:

- Nhóm giá trị nhân văn: từ 1 đến 5
- Nhóm giá trị đạo đức: từ 6 đến 10
-
Nhóm giá trị chính trị - pháp luật: từ 11 đến 15
- Nhóm giá trị kinh tế: từ 16 đến 20
Thang thái độ được soạn gồm các nhận định tích cực có xen kẽ các nhận định tiêu
cực. Người trả lời chọn 1 trong 5 mức độ: rất đồng ý (4 điểm), đồng ý (3 điểm), phân vân (2
điểm), không đồng ý (1 điểm) và hoàn toàn không đồng ý (0 điểm).Với các câu tiêu cực (*),
các điểm số được quy đổi ng
ược lại.
Câu 5: Khảo sát biểu hiện lối sống sinh viên về các hành vi tích cực, gồm 10 ý, người
trả lời sẽ chọn 1 trong 5 mức độ thực hiện các hành vi ấy: rất thường xuyên (4 điểm),
thường xuyên (3 điểm), đôi khi (2 điểm), không thường xuyên (1 điểm) và hoàn toàn không
thường xuyên (0 điểm).
Câu 6: Khảo sát những hành vi tiêu cực còn tồn tại trong lối sống sinh viên, gồm 18 ý
được đánh giá theo 5 mức độ t
ương tự như các hành vi tích cực: rất thường xuyên (4 điểm),
thường xuyên (3 điểm), đôi khi (2 điểm), không thường xuyên (1 điểm) và hoàn toàn không
thường xuyên (0 điểm).
Câu 7: Khảo sát xu hướng lựa chọn lối sống trong sinh viên, gồm 10 câu hỏi nhỏ đo
những biểu hiện của lối sống được chia thành 3 nhóm
- Về học tập và nghiên cứu khoa học: từ câu 1 đến câu 4

- Về quan hệ giao tiếp - ứ
ng xử: từ câu 5 đến câu 7
- Về sinh hoạt cá nhân: từ câu 8 đến câu 10
Mỗi câu hỏi nhỏ gồm 4 lựa chọn được đánh giá mức độ tích cực từ cao đến thấp,
người trả lời chọn 1 lựa chọn thích hợp nhất.
Phần III: Câu 8: Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng giá trị lối sống sinh
viên, người nghiên cứu đưa ra 30 yếu tố và sắp x
ếp thành 6 nhóm, người trả lời chọn 1 trong
5 mức phù hợp nhất: rất nhiều (4 điểm), nhiều (3 điểm), trung bình (2 điểm), không (1
điểm) và hoàn toàn không (0 điểm).
Nhóm yếu tố gia đình: từ yếu tố 1 đến yếu tố 5
Nhóm yếu tố nhà trường: từ yếu tố 6 đến yếu tố 10
Nhóm yếu tố bạn bè: từ yếu tố 11 đến yếu tố 15
Nhóm yếu tố văn hoá – xã hội: từ yếu tố 16 đến yếu tố 23
Nhóm yếu tố kinh tế: từ yếu tố 24 đến yếu tố 27
Nhóm yếu tố cá nhân: từ yếu tố 28 đến yếu tố 30
Phần IV: Câu 9: khảo sát nguyên nhân của định hướng giá trị lối sống sinh viên, là
câu hỏi mở để cho người được hỏi viết câu trả lời.
Phần V: Câu 10: thu thậ
p các biện pháp giáo dục định hướng giá trị lối sống sinh
viên, cũng là câu hỏi mở để cho người được hỏi viết câu trả lời.
7.2.2. Phương pháp phỏng vấn
Với phương pháp này, người nghiên cứu trò chuyện với một số giáo viên và sinh
viên tại các trường Đại học được nghiên cứu. Nội dung xoay quanh vấn đề về lối sống và sự
lựa chọn các giá trị lối sống của sinh viên hiệ
n nay. Qua đó có thêm những thông tin cụ thể,
sinh động để bổ sung và khẳng định cho những kết luận về thực trạng định hướng giá trị lối
sống sinh viên.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng toán thống kê để xử lý các số liệu đã thu thập được, tất cả các số thống kê

được xử lý với sự trợ giúp của phần mềm máy tính SPSS.

Chương 1: LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Những vấn đề liên quan đến giá trị và định hướng giá trị
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Vào những năm 1968 - 1974, Viện nghiên cứu thanh niên ở Đức đã tiến hành nghiên
cứu ở 1000 học sinh phổ thông và 2000 sinh viên đại học để tìm hiểu sự định hướng giá trị.
Trong những năm 1977 - 1978, Trung tâm nghiên cứu khoa học về thanh niên ở
Bungari nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho thanh niên, trong đó có đề c
ập đến vấn
đề giá trị, đặc biệt là sự khác biệt trong thang giá trị của thanh niên so với thế hệ cha ông.
Năm 1985, Viện nghiên cứu thế giới của Nhật Bản đã chú trọng nghiên cứu thanh
niên của 11 quốc gia lứa tuổi từ 18 – 24 tuổi. Tiếp theo đó, Viện khảo sát xã hội Châu Âu
nghiên cứu trên thanh niên ở 10 nước Châu Âu. Cả hai cuộc điều tra này đều đề cập đến về
vấ
n đề định hướng giá trị của thanh niên nhằm giúp họ chuẩn bị bước vào cuộc sống.
Năm 1986 - 1987, UNESCO đã đề nghị Câu lạc bộ Rome tiến hành điều tra quốc tế
về giá trị đạo đức của con người chuẩn bị bước vào thế kỷ 21 trong tình hình có nhiều biến
đổi đang ảnh hưởng đến xã hội vào những năm cuối thế kỷ 20.
Năm 1988, UNESCO đ
ã phát hành tập tài liệu nghiên cứu về hệ thống cấu trúc của
giá trị, hình thành bộ công cụ đo đạc, kiểm chứng giá trị, giúp cho những công trình nghiên
cứu giá trị đúng hướng.
Hơn 10 năm trở lại đây, các nước Châu Á và Đông Nam Á đã có nhiều cuộc hội thảo
về vấn đề nghiên cứu giá trị và giáo dục giá trị. Các chương trình giáo dục giá trị đã được
đưa vào trong trường phổ thông và c
ộng đồng ở một số nước như: Indonesia, Phillipin,
Singapore, Malaysia và Thái Lan.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị ở đây đã chỉ ra

được những khác biệt trong thang giá trị của thanh niên, xây dựng được những bộ dụng cụ
để đo đạc và kiểm chứng cho nghiên cứu thực tế. Ngoài ra các công trình nghiên cứu còn
được ứng dụng vào trong các trường học và cộng đồng dân cư.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt nam
Từ năm 1986, sau Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam, đất nước ta thực hiện
chính sách mở cửa, chuyển hướng nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường có
sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở cửa là chính sách đúng đắn
nhằm đưa Việt nam hội nhập với cộ
ng đồng thế giới để phát triển. Tuy vậy, chính sách mở
cửa đã và đang tác động đến tất cả các mặt của đời sống xã hội đồng thời tác động đến con
người Việt nam nhất là đời sống tinh thần trong đó vấn đề đạo đức, các giá trị sống của
người Việt nam nói chung và của thanh niên sinh viên nói riêng. Cũng từ đó mà xuất hiện
nhiều công trình nghiên cứu của Ban Khoa Giáo Trung Ương, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung
Ương, các Viện nghiên cứu, các tổ
chức xã hội, đoàn thể về giá trị, định hướng giá trị của
con người Việt nam.
Năm 1987 - 1988, ban Lý luận giáo dục và Giáo dục chuyên nghiệp thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu và điều tra về xu hướng nhân cách của sinh viên”. Đề tài đã chỉ ra những xu
hướng nhân cách của sinh viên và đề cập đến vấn đề giá trị sống của sinh viên với những
đặc trưng nhất định.
Năm 1991 - 1995, ch
ương trình Khoa học công nghệ cấp Nhà nước mã số KX - 07:
“Con người Việt nam - mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” đã được thực
hiện, nhiều nhánh đề tài xuất phát từ đây đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn về định hướng
giá trị của con người Việt nam:
Đề tài mã số KX - 07 - 04 do PGS.TS. Nguyễn Quang Uẩn làm chủ nhiệm, nghiên
cứu: “Giá trị - Định hướng giá trị nhân cách và giáo dụ
c giá trị” [63]. Dựa trên những giá trị
được người Việt nam quan tâm, đề tài chỉ ra xu hướng phát triển nhân cách người Việt nam
trong thời kỳ đổi mới và mở cửa.

Đề tài KX - 07 - 10 do TS. Thái Duy Tuyên làm chủ nhiệm nghiên cứu: “Tìm hiểu
định hướng giá trị của thanh niên trong cơ chế thị trường”[62].
Năm 1996, luận án phó tiến sĩ Triết học của tác giả Dương Tự Đam nghiên cứu:
“Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên trong s
ự nghiệp đổi mới ở Việt nam” [9]. Luận
án đã nêu ra một số biểu hiện đặc trưng, xu hướng phát triển và sự chuyển đổi định hướng
giá trị trong sinh viên. Trên cơ sở đó đề tài đưa ra những giải pháp nhằm giáo dục định
hướng giá trị cho thanh niên sinh viên theo yêu cầu của công cuộc đổi mới.
Cùng năm 1996, Nguyễn Thị Khoa với luận án phó tiến sĩ Tâm lý học: “Định hướ
ng
giá trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ trí thức hiện nay” [37]. Đề tài đã làm sáng tỏ cơ
sở lý luận về giá trị, định hướng giá trị và nêu ra những đặc trưng và xu thế định hướng giá
trị chất lượng cuộc sống gia đình của nữ trí thức, từ đó xây dựng những chuẩn giá trị gia
đình Việt nam hiện đại.
Đầu năm 2002, Đỗ
Ngọc Hà với luận án tiến sĩ “Định hướng giá trị của thanh niên,
sinh viên hiện nay trước sự chuyển đổi về kinh tế, xã hội của đất nước”. Đề tài cho thấy
những giá trị nào điều tiết được cuộc sống hàng ngày và hành vi xã hội của sinh viên, trên
cơ sở đó xây dựng biểu định hướng giá trị của sinh viên Việt nam.
Như vậy, các đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề giá trị và đinh hướng giá trị đã làm
sáng tỏ nhiều vấn đề cả tích cực lẫn tiêu cực của những thay đổi về định hướng giá trị của
ng
ười Việt nam nói chung và của thanh niên sinh viên nói riêng, trên cơ sở đó đề ra những
phương hướng và biện pháp để giúp thanh niên sinh viên hoàn thiện về mặt nhân cách.
Ngoài những đề tài nghiên cứu, còn có một số bài viết và báo cáo về giá trị và định
hướng giá trị được đăng trên các tạp chí khoa học.
1.2. Những vấn đề liên quan đến lối sống
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Thuật ngữ “lối sống” lần đầu tiên được nhà Xã hội họ
c người Đức, Max Weber

(1864 -1920) sử dụng như một khái niệm khoa học trong công trình nghiên cứu Xã hội học.
Sự phân tầng của xã hội được Weber mô tả như hình tam giác: phần đỉnh của tam giác là
tầng lớp trên - những người chủ sở hữu phương tiện sản xuất, phần giữa là tầng lớp trung
lưu và phần đáy là tầng lớp người nghèo không của cải. Mỗi tầng lớp lại chia thành nh
ững
nhóm nhỏ dựa trên địa vị, cơ may, thu nhập và tiện nghi sinh hoạt khác với những “lối
sống” và “mức sống” khác nhau. Chính lối sống, kiểu sống của các nhóm này nói lên sự
phân tầng của xã hội khi được ông mô tả bằng những số liệu thống kê xã hội học [3].
Nhiều mặt, nhiều vấn đề của lối sống được các nhà Xã hội học phương Tây nghiên
cứu trước
đây: việc làm, sự khác biệt về giới, hôn nhân gia đình, ly hôn, tôn giáo. Tuy
nhiên, các vấn đề đó chỉ được nghiên cứu tách rời, chưa theo hệ thống [3].
Vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ 20, ở Liên Xô và các nước
Xã hội chủ nghĩa trước đây, các nhà Xã hội học và Triết học đã phát triển mạnh mẽ lý
thuyết “Lối sống Xô viết” hay “Lối sống XHCN Xô viế
t” với hàng trăm tác phẩm đã đề cập
đến bản chất, cấu trúc và chức năng xã hội của lối sống, chẳng hạn N.M. Kêgiêrov với “Vấn
đề lối sống trong chiến dịch tuyên truyền tư sản hiện nay”, V.I. Daxêpin với tác phẩm “Lối
sống xã hội chủ nghĩa và sự phát triển về mặt tinh thần của con người”, hay
X.X.Visnhicôxki với tác phẩm “Lối sống Xô viết hôm nay và ngày mai”. Tuy có nhiề
u quan
điểm và cách hiểu bản chất của lối sống khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu các tác phẩm
này đều nhất trí với nhau rằng, khái niệm lối sống được đặc trưng cho một hiện thực xã hội,
nó là bản chất của một hình thái kinh tế xã hội nhất định được thể hiện trong đời sống hằng
ngày của các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội khác nhau trong hoạt động sống của cá
nhân. Lối sống được mô tả như một tập hợp những yếu tố của đời sống vật chất, xã hội và
tinh thần của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội và của nhóm người hay từng người trong xã hội,
hoặc được xem xét như một phương thức hoạt động sống của cả một xã hội.
Nhìn chung những nghiên cứu về lối sống của các nhà nghiên cứ
u ở các nước xã hội

chủ nghĩa đều lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở. Tiêu chí của lối sống xã hội chủ nghĩa
được xác lập bằng cách so sánh mang tính đối lập với lối sống tư bản chủ nghĩa. Việc
nghiên cứu thường nặng về lý luận, kinh viện, chưa lý giải đúng mức các biểu hiện cụ thể,
đặc trưng các lối sống, kiểu s
ống hiện thực của các nhóm xã hội hay cá nhân.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt nam
Ở Việt nam, vấn đề lối sống được đề cập đến một cách phong phú. Từ năm 1980,
nhiều vấn đề lý luận về lối sống đã được một số tác giả tập trung nghiên cứu:
Tác giả Vũ Khiêu với “Lối sống là gì”, bên cạnh đó tác giả Hà Xuân Trường với bài
báo: “Từng bước xây dựng nề
n văn hóa mới’ đã đề cập đến nếp sống văn hoá và những mặt
biểu hiện của nó” [ 36 ].
Những vấn đề về lối sống cũng được tác giả Lê Như Hoa đề cập tới khi “Bàn về lối
sống, nếp sống xã hội chủ nghĩa” [17]. Đây là một công trình nghiên cứu lý luận và trình
bày một cách hệ thống các khái niệm, các mặt cần nghiên cứu l
ối sống ở Việt nam theo mô
hình Chủ nghĩa xã hội bao cấp (trước 1986).
Tác giả Đỗ Huy cùng các cộng sự đã bàn tới lối sống có văn hóa trong “Nhân cách
văn hóa trong bảng giá trị Việt nam” [31]. Theo đó, lối sống có văn hóa là lối sống thể hiện
được cái đúng, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với nhau và mỗi lối sống đều có một
hệ chuẩn mực chi phối.
Những công trình này cho thấy các tác gi
ả đã đề cập đến cơ sở lý luận của lối sống
theo những quan điểm khác nhau về mặt lý thuyết và phương pháp luận cho việc nghiên cứu
và xây dựng lối sống Xã hội chủ nghĩa chống lại lối sống Tư bản chủ nghĩa.
Những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi đất nước đổi mới mọi lĩnh vực của đời s
ống
xã hội, có nhiều công trình nghiên cứu lối sống về giới trẻ ở các khía cạnh khác nhau, từ đó
đã phác họa được bức tranh sinh động về lối sống của học sinh, sinh viên và đề ra những
giải pháp giáo dục lối sống cho giới trẻ. Một số tác giả tiêu biểu như:

Trần Thị Minh Đức với công trình “Ảnh hưởng của môi trường ký túc xá sinh viên
với lối sống sinh viên nội trú” [19
], đã đưa ra thực trạng lối sống của sinh viên cả mặt tích
cực lẫn mặt tiêu cực tại môi trường ký túc xá và đưa ra những kiến nghị nhằm cải tạo điều
kiện sống ở ký túc xá cho sinh viên cũng như đưa ra những biện pháp giáo dục lối sống văn
hoá cho sinh viên nội trú.
Tác giả Văn Hùng cùng với bài viết: “Thanh niên với lối sống thời mở cửa” [30], đã
phản ánh tình hình thay đổi lối sống của thanh niên trong thời kỳ mở cửa, đồng thời mở ra
nhiều vấn đề cần quan tâm nghiên cứu về lối sống thanh niên trong điều kiện m
ới.
Tác giả Mạc Văn Trang với công trình “Đặc điểm lối sống của sinh viên hiện nay và
những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên [59], đã xác định khái niệm
lối sống sinh viên và nêu ra một hệ thống những đặc điểm cơ bản của lối sống sinh viên
được biểu hiện qua một loạt các hoạt động. Đặc biệt công trình đã tiến hành khảo sát, thố
ng
kê các số liệu để đưa ra những mặt tích cực và tiêu cực trong lối sống sinh viên và đề xuất
những biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên. Như vậy tác giả tránh chỉ đề cập đến lý
luận về lối sống sinh viên mà đã tiếp cận lối sống sinh viên bằng những phương pháp cụ thể,
mô tả các biểu hiện cụ thể của lối sống sinh viên trong cuộc sống hi
ện thực của họ.
Tác giả Phạm Xuân Cảnh - Chủ tịch Hội sinh viên Hà Nội với đề tài: “Tình hình nếp
sống của sinh viên Hà Nội - Thực trạng và giải pháp” [4], đã phân tích mặt tích cực, tiêu cực
và nêu lên được một số hoạt động cơ bản của sinh viên.
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn cùng với các cộng sự đã điều tra, phân tích các số liệu
thực tế và chỉ ra những m
ặt ưu và khuyết trong lối sống của sinh viên Sư phạm qua đề tài:
“Xây dựng lối sống đạo đức mới cho sinh viên Đại học Sư phạm phục vụ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước” [64]. Công trình đã nêu lên những biểu hiện về lối sống và đạo đức
của sinh viên Sư phạm khá cụ thể và sinh động, qua đó đề xuất những phương hướng và
biệ

n pháp giáo dục lối sống đạo đức lành mạnh cho sinh viên. Giống như tác giả Mạc Văn
Trang, tác giả Nguyễn Quang Uẩn cũng đã tiếp cận lối sống sinh viên Sư phạm trên một số
hoạt động tiêu biểu như:
- Biểu hiện của lối sống sinh viên trong hoạt động học tập
- Biểu hiện lối sống sinh viên trong quan hệ - giao tiếp ứng xử
- Biểu hiện lố
i sống sinh viên trong sinh hoạt tập thể và cá nhân
- Biểu hiện lối sống sinh viên trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi.
Nhìn chung những công trình nghiên cứu của các tác giả trên chủ yếu mô tả khái quát
về đời sống sinh viên, chưa đi sâu vào một hoạt động cơ bản tiêu biểu nào đặc trưng cho lối
sống sinh viên.
Tác giả Phạm Ngọc Định với luận án tiến sĩ Tâm lý học: “Quy trình hình thành hành
vi lối sống chuẩn mực ở học sinh lớp Một theo quan điểm công nghệ giáo dục” [16] đã tiến
hành thực nghiệm để hình thành hành vi lối sống theo chuẩn mực quy định và mẫu hành vi
ở học sinh lớp Một. Công trình đã chỉ ra, nếu tổ chức cho học sinh thực hiện những hành vi
“nề nếp, hành vi giao tiếp, hành vi tác phong” d
ưới sự hướng dẫn của giáo viên theo quy
trình phù hợp sẽ chuyển được những hành vi mẫu của lối sống vào trong mỗi học sinh thông
qua quá trình củng cố, trải nghiệm. Tuy nhiên, cách làm này mới chỉ thực hiện ở học sinh
lớp Một chưa đại diện được cho tất cả các lứa tuổi học sinh.
Tác giả Phạm Khắc Hùng, Phạm Hồng Quang với đề tài: “Thực trạng lối sống củ
a
sinh viên đại học Sư phạm Thái Nguyên” [29] đã góp phần làm phong phú thêm việc nghiên
cứu lối sống của sinh viên, trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp giáo dục lối sống cho
sinh viên ở vùng miền núi phía Bắc.
Tác giả Trần Kiều (Viện Khoa học giáo dục) chủ trì đề tài: “Thực trạng tư tưởng
chính trị – đạo đức – lối sống thanh niên học sinh, sinh viên” đã tiến hành khảo sát khoả
ng
3000 học sinh Trung học Phổ thông và sinh viên về các nội dung trên, tuy nhiên cũng chỉ ở
mức độ khái quát chung, chưa đi sâu vào nghiên cứu chi tiết từng nội dung.

Với Luận án tiến sĩ Tâm lý học, tác giả Nguyễn Ánh Hồng đã “Phân tích về mặt tâm
lý học lối sống của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay” [28]. Luận
án làm rõ một số nội dung tâm lý: những đặc điểm biểu hiện lối số
ng sinh viên qua hoạt
động học tập và qua sự lựa chọn các hoạt động khác. Đặc biệt xác định được ba kiểu sống
đặc trưng của sinh viên TP.HCM.

1.3. Định hướng giá trị lối sống sinh viên
Như đã xét ở trên, có nhiều công trình nghiên cứu mang tính tầm cỡ về vấn đề định
hướng giá trị, về vấn đề lối sống của sinh viên nhưng chúng ta chưa bắt gặp đề tài nào đề
cập đến định hướng giá trị lối sống nói chung và định hướng giá trị lối sống sinh viên nói
riêng.
Định hướng giá trị lối sống là một yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách của
con người. Chính định hướng giá trị lối sống hướng sự lựa chọn chủ quan của cá nhân đối
với các giá trị khách quan của xã hội, là hệ thống tâm thế, là niềm tin và sở thích của con
người đối v
ới một giá trị nào đó trong cuộc sống. Nó thể hiện xu hướng của lối sống: con
người mong muốn, hướng tới cái gì, sống và hoạt động vì những giá trị gì.
Với sự phát triển của kinh tế xã hội như hiện nay, tất cả những ai muốn tiến nhanh,
muốn bắt kịp với thời đại tất yếu phải có sự thay đổi. Sinh viên là những người trẻ năng
động và nhanh nhạy với những cái mới nên họ dễ dàng thay đổi cho phù hợp. Tuy nhiên, sự
thay đổi của họ như thế nào, có phù hợp với truyền thống dân tộc và thực s
ự phù hợp với
yêu cầu của thời đại hay không, nhất là những thay đổi của chiều kích sâu xa bên trong
(định hướng giá trị) làm nên những thay đổi trong bất cứ hành vi nào của lối sống.
Xã hội luôn vận động và biến đổi, nhân cách con người cũng sẽ vận động theo chiều
hướng của xã hội, do đó tìm hiểu định hướng giá trị lối sống của giới trẻ nói chung, đặc biệt
là c
ủa sinh viên là rất cần thiết.
Như vậy, việc nghiên cứu định hướng giá trị lối sống của sinh viên cho đến thời điểm

hiện nay là rất ít và hầu như chưa có, đặc biệt dưới góc độ Tâm lý học, vấn đề này vẫn còn
là “khoảng trống” cần được quan tâm. Trân trọng và kế thừa thành tựu từ những công trình
đi trước, chúng tôi cố gắng tìm một hướng sâu hơn để làm rõ
được bản chất lối sống của
sinh viên bằng cách tập trung vào nghiên cứu mặt định hướng giá trị lối sống.
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN

2.1. Giá trị và định hướng giá trị
2.1.1.Giá trị
2.1.1.1. Khái niệm giá trị
a. Khái niệm giá trị theo từ điển
Trong tiếng Anh, khái niệm giá trị thường được nhắc tới qua hai thuật ngữ có ý nghĩa
gần như nhau, đó là: “value” - giá trị, ý nghĩa, và “worth” - vừa có nghĩa là giá trị, giá cả, ý
nghĩa, vừa có nghĩa là phẩm giá, phẩm chất. Tuy nhiên, ngày nay, thuật ngữ “value” được
dùng phổ biến hơn.
Theo từ điể
n Bách khoa Toàn Thư Xô Viết, “giá trị là sự khẳng định hoặc phủ định ý
nghĩa của các đối tượng thuộc thế giới xung quanh đối với con người, giai cấp, nhóm hoặc
toàn bộ xã hội nói chung. Giá trị được xác định không phải bởi bản thân các thuộc tính tự
nhiên, mà là bởi tính chất cuốn hút của các thuộc tính ấy vào phạm vi hoạt động sống của
con người, phạm vi hứng thú và nhu cầu, các mối quan hệ xã h
ội, các chuẩn mực và phương
thức đánh giá ý nghĩa nói trên được biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức,
trong lý tưởng, tâm thế và mục đích” [theo 63, tr.51-52].
Theo từ điển Triết học do M. M. Rozental (Liên Xô) chủ biên (Nxb Tiến bộ
Maxcơva, 1975), “Giá trị là những định nghĩa về mặt xã hội của các khách thể trong thế giới
chung quanh nhằm nêu bật tác dụng tích cực hoặc tiêu cực của khách thể ấy
đối với con
người và xã hội (cái lợi, thiện và ác, cái đẹp và cái xấu nằm trong những hiện tượng của đời
sống xã hội hoặc tự nhiên). Xét bề ngoài, các giá trị là các đặc tính của sự vật hoặc hiện

tượng, không phải đơn thuần do kết cấu bên trong của bản thân khách thể, mà do khách thể
bị thu hút vào phạm vi tồn tại xã hội của con người và trở thành cái mang những quan hệ xã
hội nhất
định. Đối với chủ thể (con người), các giá trị là các đối tượng lợi ích của nó, còn
đối với ý thức của nó thì thì chúng đóng vai trò những vật định hướng hàng ngày trong thực
trạng vật thể và xã hội, chúng biểu thị các quan hệ thực tiễn của con người đối với sự vật và
hiện tượng xung quanh mình”.
Từ điển Hán - Việt của Giáo sư Nguyễn Lân, giá trị được hiểu : là phạm trù kinh t
ế
của sản xuất hàng hóa, biểu hiện số lao động trừu tượng của xã hội với hao phí vào việc sản
xuất ra hàng hóa; phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hoặc con người;
thẩm chất tốt đẹp, tác dụng lớn lao.
Theo từ điển Tiếng Việt (Nxb Khoa học xã hội), giá trị là: cái mà con người dùng
làm cơ cở để xem xét một vật có lợi ích đến mức nào đối với con người; cái mà con người
dựa vào dùng để xem xét một người đáng quý đến mức về mặt đạo đức, trí tuệ, tài năng;
những quan niệm và thực tại về cái đẹp, sự thật, điều thiện của xã hội; tính chất quy ra đượ
c
thành tiền của một vật trong quan hệ mua bán, đổi chác; độ lớn của một đại lượng, một
lượng biến thiên.
Như vậy, theo từ điển, khái niệm giá trị được hiểu nhiều nghĩa khác nhau, tùy vào
tình huống và trường hợp cụ thể mà khi sử dụng người ta có thể sử dụng nghĩa này hay
nghĩa khác của cùng một khái niệm giá trị.
b. Khái niệm giá trị theo quan điểm c
ủa các nhà khoa học nước ngoài và trong
nước
Tác giả J. H. Fichter, nhà Xã hội học Mỹ đã cho rằng: “tất cả cái gì có ích lợi, đáng
ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân hoặc xã hội đều có một giá trị” [theo 63,
tr.53].
Theo tài liệu “Giáo dục giá trị” (Bộ văn hoá thể thao Philippin), khái niệm giá trị có
thể hiểu: “một vật có giá trị khi nó được thừa nhận là có ích và mong muốn có được những

thứ đó đã ảnh h
ưởng đến thái độ và hành vi của con người. Không chỉ có hàng hoá vật chất
mà cả lý tưởng và những khái niệm đều có giá trị như: sự thật, công lý, lương thiện” [theo
63, tr.54].
Tác giả V.P. Tugarinov (Liên Xô) lại cho giá trị là những khách thể, những hiện
tượng và những thuộc tính của chúng mà tất cả đều cần thiết cho con người (ích lợi, hứng
thú) của một xã hội hay một giai cấp nào đó cũng như một cá nhân riêng lẻ vớ
i tư cách là
phương tiện thoả mãn những nhu cầu và lợi ích của họ, đồng thời cũng là những tư tưởng và
ý định với tư cách là chuẩn mực, mục đích hay lý tưởng [theo 63, tr.54]
L.Dramaliev (Bungari) coi “Giá trị là một thành tố khách quan của xã hội. Nó là một
loại hiện tượng xã hội đặc biệt (một vật, một đối tượng, một liên hệ, một ý niệm), thoả mãn
được những nhu cầu nh
ất định của con người. Giá trị là một phẩm chất khách quan, một đặc
tính, một khả năng thoả mãn những nhu cầu đã trở thành rõ rệt trong quá trình quan hệ quan
lại có tính chất xã hội giữa người với người trong hành vi thực tế của họ. Với tính cách là
một khách thể xã hội, giá trị không thể tách khỏi những nhu cầu, những mong muốn, thái
độ, những quan điểm và những hành động của con ng
ười với tư cách là một chủ thể của các
quan hệ xã hội” [theo 63, tr.54]
Tác giả T. Makiguchi (nhà giáo dục Nhật bản) cho rằng “Giá trị là sự thể hiện có tính
định lượng mối quan hệ giữa chủ thể đánh giá và đối tượng của việc đánh giá” [ 47, tr.104].
Tại Việt nam, nhiều công trình nghiên cứu về giá trị trong đó phải kể đến công trình
nghiên cứu của các tác giả: Trần Văn Giàu, Phạm Minh Hạc và Trần Trọng Thủy.
Tác giả Trần Văn Giàu cho rằng: “giá trị xuất hiệ
n từ mối quan hệ giữa chủ thể và
đối tượng, nghĩa là từ thực tiễn và chiến đấu của con người trong xã hội. Giá trị vì thế được
xác định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được kiểm
nghiệm qua thực tiễn” [20, tr.11].
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Giá trị là tính có nghĩa tích cực, đáng quý, có ích của

các đối tượng v
ới các chủ thể” [23, tr.301].
Còn tác giả Trần Trọng Thủy khi nghiên cứu về “Giá trị, định hướng giá trị và nhân
cách” cũng xem giá trị là một hiện tượng xã hội điển hình, biểu thị các sự vật, hiện tượng,
các thuộc tính và quan hệ của hiện thực, các tư tưởng, các chuẩn mực, mục đích và lý tưởng,
các hiện tượng của tự nhiên và xã hội được con người tạo ra như
ng đều phục vụ cho sự tiến
bộ của xã hội và sự phát triển của cá nhân con người [55, tr.11 ].
c. Khái niệm giá trị theo quan điểm các ngành khoa học
Khái niệm giá trị được rất nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu như: Triết học,
Xã hội học, Đạo đức học, Mỹ học, Tâm lý học, Giáo dục học, Kinh tế học. Cũng vì thế mà
theo mỗi ngành khoa học, khái niệm giá trị được hi
ểu ở những khía cạnh và góc độ khác
nhau:
Theo Kinh tế học, khái niệm giá trị luôn gắn liền với hàng hóa, giá cả và sản xuất
hàng hóa. Phía sau nó là sức lao động, giá trị lao động của con người làm ra hàng hoá.
C.Mac đã từng viết: “Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động của người làm ra là
một lao động được nhân lên cấp số nhân, hay là trong một khoảng thời gian như nhau, nó
tạo ra một giá trị cao hơ
n so với một giá trị trung bình cùng loại” [theo 63, tr.50]. Giá trị sức
mạnh của vật chất này khống chế những vật chất khác khi trao đổi. Để bộc lộ giá trị, vật
phẩm phải có ích lợi, nghĩa là có khả năng thỏa mãn nhu cầu, lòng ham muốn của con
người. Do vậy mà khi phân tích, “giá trị” là vị trí tương đối của hàng hoá trong trật tự ưu
tiên, vị trí của nó ngày càng cao thì giá trị của nó ngày càng lớn.
Dưới góc độ
Triết học, có nhiều quan điểm khác nhau về giá trị. Tuy nhiên ở đây
chủ yếu được xét theo quan điểm Macxit nên giá trị được coi là những hiện tượng xã hội
đặc thù, mọi giá trị đều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của con người. Giá trị là sự thống
nhất giữa cái chủ quan và cái khách quan. [theo 63, tr.51]:
Dưới góc độ Xã hội học, giá trị được quan tâm ở nội dung, nguyên nhân, điều kiện

kinh tế - xã hội cụ thể trong quá trình hình thành hệ thống giá trị nhất định của một xã hội
[38, tr.74].
Giá trị trong Đạo đức học luôn gắn liền với nh
ững khái niệm trung tâm như: cái
thiện, cái ác, công bằng, bình đẳng, bác ái bởi vì khái niệm giá trị thuộc phạm vi đời sống
đạo đức của con người, các quan hệ xã hội và quá trình hình thành các chuẩn mực, quy tắc
đạo đức của xã hội [52, tr.19].
Dưới góc độ Tâm lý học, khái niệm giá trị được nghiên cứu nhằm mục đích tìm hiểu
hành vi, hoạt động của con người và dự báo sự phát triển của nhân cách.
Nhìn chung, theo quan niệm của các nhà khoa họ
c hay dưới góc độ của các ngành
khoa học khác nhau cũng như trong một số từ điển đã định nghĩa khái niệm giá trị đều có
chung một số đặc điểm như sau:
- Mức độ của một vật đáp ứng nhu cầu và thỏa mãn được khát vọng của con người, là
cái được chủ thể đánh giá, thừa nhận trên cơ sở mối quan hệ với sự v
ật đó.
- Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, xã hội với sự phí tổn cần thiết để tạo ra cái lợi đó.
- Mang tính khách quan - nghĩa là sự xuất hiện, tồn tại hay mất đi của giá trị nào đó
không phụ thuộc vào ý thức của con người.
- Được hiểu theo hai góc độ vật chất và tinh thần. Giá trị vật chất là giá trị đo được
bằng tiền bạc dưới góc
độ kinh tế, còn giá trị tinh thần tạo cho con người khoái cảm, hứng
thú và sảng khoái.
- Trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, tình cảm, hành vi của chủ thể
trong mối quan hệ với sự vật mang giá trị.
- Là một phạm trù lịch sử vì giá trị thay đổi theo thời gian, theo sự biến động của xã
hội, phụ thuộc vào tính dân tộc, tôn giáo và cộng đồng.
Theo quan niệm của chúng tôi: Giá tr
ị là những cái cần, cái có ích, có ý nghĩa đối
với cá nhân, tập thể và xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể, giữa

chủ thể với chính mình, được đánh giá và có thể bị thay đổi theo những điều kiện xã hội
- lịch sử cụ thể tuỳ thuộc vào bản chất, trình độ phát triển của nhân cách.
2.1.1.2. Phân loại giá trị
Tùy thuộc vào mục đích tiếp cận mà các tác giả có nhiều cách phân loại giá trị khác
nhau:
Trong tác phẩm “Sự tận cùng của Triết học”, tác giả Mark Lilla (Mỹ) dựa theo sự
tiến hoá của con người, đã nêu lên những giá trị phân biệt giữa con người với động vật bao
gồm : giá trị lý trí, tình cảm, vinh dự, phẩm giá, đạo đức [theo 63, tr.57].
Cách phân loại được coi là khá phổ biến là dựa vào sự thoả mãn nhu cầu vật chấ
t hay
nhu cầu tinh thần của con người mà giá trị được phân chia thành: giá trị vật chất, bao gồm
giá trị kinh tế và giá trị sử dụng; giá trị tinh thần bao gồm giá trị khoa học, giá trị chính trị,
giá trị đạo đức, giá trị pháp luật và giá trị tôn giáo
Theo J. H. Fichter, nhà xã hội học Mỹ, mỗi hiện tượng xã hội có thể coi được dùng
làm khởi điểm cho sự phân loại các giá trị. Ông dùng các căn cứ để phân loại giá trị
là nhân
cách, xã hội và văn hoá [theo 63, tr.57].
Nhà Giáo dục học T.Makiguchi dựa trên hệ thống thang bậc giá trị đã sắp xếp theo
thứ tự Thiện, Ích, Mỹ chia giá trị thành 3 loại: Giá trị kinh tế, giá trị đạo đức, giá trị thẩm
mỹ [47, tr.112].
Dựa vào sự chi phối của giá trị trên hệ thống hành vi của con người, M.Robin và J.R.
William phân loại: hành vi cơ thể, hành vi nhân cách, hành vi văn hoá và các hành vi xã hội.
Từ đó có các giá trị: giá trị tồn tại sinh họ
c, các giá trị tính cách và các giá trị xã hội.
Theo cách phân loại của Rokeach có hai loại giá trị: giá trị mục đích và giá trị công
cụ:
Các giá trị mục đích: thế giới hoà bình, an ninh quốc gia, tự do, bình đẳng, cuộc sống
ý nghĩa, tình bạn chân thành, tôn trọng người khác, thông minh sáng suốt, cuộc sống sung
túc.
Các giá trị công cụ: trách nhiệm, danh dự, lòng tin, thanh lịch, dũng cảm, hợp tác,

trong sạch, khoan dung, kỷ luật [theo 63, tr.58].
Theo cách tiếp cận hệ thống, hệ giá trị
được cấp độ hoá theo các lát cắt sau:
Theo lát cắt thứ nhất, có các hệ giá trị sau:
Hệ giá trị phổ quát của nhân loại
Hệ giá trị của xã hội hiện đại
Hệ giá trị của xã hội thời kỳ quá độ
Hệ giá trị các thành phần cơ cấu xã hội
Hệ giá trị của nhóm
Theo lát cắt khác, giá trị được chia thành:
Hệ giá trị phổ quát toàn nhân loại
Hệ giá trị khu vực (phương Đông, phương Tây)
Hệ giá trị của hình thái kinh tế xã hội (phong kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa)
Hệ giá trị dân tộc
Hệ giá trị thời đại
Cũng theo cách tiếp cận hệ thống, tác giả Thái Duy Tuyên đã phân chia giá trị thành
các loại:
Giá trị nhân văn: biểu thị sự tôn trọng và yêu th
ương con người, thừa nhận quyền
phát triển tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.
Giá trị đạo đức: biểu hiện ở những chuẩn mực quy định mối quan hệ giữa con người
với nhau, giữa con người với tự nhiên và với xã hội (gia đình, cộng đồng) trên tình thần yêu
thương hay thù hận, tôn trọng hay không tôn trọng.
Giá trị văn hoá: những giá trị luôn gắn liền với sự phát tri
ển của khoa học kỹ thuật
công nghệ trên cơ sở tiến bộ xã hội và biểu hiện ở đạo đức, sống có văn hoá và sự phát triển
toàn diện của con người.
Giá trị chính trị - pháp luật, biểu hiện thái độ đối với việc giành và giữ chính quyền,
thể chế nhà nước, với quyền lợi dân tộc, giai cấp, cộng đồng, quyền công dân, mối quan hệ
bình đẳng, công b

ằng, tự do và dân chủ, niềm tin và lý tưởng.
Giá trị kinh tế: hướng vào sự hoạt động của nghề nghiệp, của lao động, sản xuất,
kinh doanh, các hình thức sở hữu, thu nhập và đời sống vật chất, sự giàu nghèo và hưởng
thụ [62, tr.6-11].
Có thể thấy, mỗi cách phân loại giá trị thể hiện mỗi khía cạnh khác nhau. Tuỳ theo
góc độ nghiên cứu mà người ta sẽ chọn cách phân loại giá trị tương ứng và phù h
ợp. Dưới
góc độ Tâm lý học, trong nghiên cứu này, chúng tôi phân loại các giá trị dựa trên cách tiếp
cận hệ thống của tác giả Thái Duy Tuyên. Theo đó, có thể quy về 4 nhóm giá trị tiêu biểu
như sau:
Nhóm giá trị nhân văn: là những giá trị vì con người, hướng con người phấn đấu
cho quyền phát triển tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, được yêu thương và tôn trọng.
Những giá trị nhân văn có tính chất chung cho toàn nhân loại, được thừa nhậ
n ở mọi thời
đại, mọi quốc gia và dân tộc.

×