Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.97 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu …………………….…… … ….…………………… ……… 3
Chương I……………………………… ………………………… …… 5
Những vấn đề chung về đổi mới công nghệ trong công nghiệp …… … … 5
1. Khái niệm về đổi mới công nghệ trong công nghiệp …… ….…….…… … 5
2. Một số phương hướng lựa chọn công nghệ thích hợp trong công nghiệp …… 8
3. Đánh giá công nghệ và chuyển giao công nghệ trong phát triển
công nghiệp……………………………….… ………………………… 9
Chương II ….… …………………………………………………………. 13
Thực trạng đổi mới công nghệ trong các DN công nghiệp
Việt Nam……….………………………….……………………………. 13
1. Hiện trạng của đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp
Việt Nam…………………… …… ……………………………… 13
2. Những nhân tố thúc đẩy và cản trở đối với quá trình đổi mới công nghệ
trongcác doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam ……… ……………… 22
Chương III … …………………………………………………………… 26
Các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động đổi mới công nghệ trong các
doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam ………………………………… 26
1. Các giải pháp đối với doanh nghiệp công nghiệp …………………………. 26
2. Các giải pháp, kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước có liên quan ………… 27
Kết luận ……………………………… …….…………………….…… 30
Danh mục tài liệu tham khảo …… ……………….………………… …. 31
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay,
nhất là từ khi Việt Nam gia nhập làm thành viên của tổ chức thương mại thế giới
WTO, các doanh nghiệp(DN) Việt Nam nói chung và các DN công nghiệp Việt
Nam nói riêng đang phải đối mặt với nhiều cơ hội cũng như thách thức cản trở
trên con đường hội nhập. Muốn tồn tại và phát triển được buộc các DN phải tập
trung không ngừng tự hoàn thiện và làm mới phù hợp với quy luật phát triển


chung. Nước ta là một nước đang phát triển, nền sản xuất nhỏ và nông nghiệp là
chủ yếu. Vì thế thực trạng công nghệ ở nước ta còn lạc hậu so với thế giới cũng
là một điều không có gì làm ngạc nhiên.
Đã hơn 20 năm thực hiện đổi mới cơ chế chính sách, nền kinh tế nước ta đã
chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, và đã mang lại nhiều thành tựu đáng kể, nhưng nhìn chung
thì tình hình phát triển công nghệ vẫn còn kém, công cuộc chuyển giao, đổi mới
công nghệ ở nước ta nói chung và ở các DN sản xuất công nghiệp nói riêng vẫn
còn chậm và có nhiều hạn chế. Vì muốn tìm hiểu rõ hơn về thực trạng đổi mới
công nghệ ở các DN công nghiệp Việt Nam hiện nay nên em đã chọn đề tài cho
đề án môn học Kinh tế và quản lý công nghiệp của mình là: “Đổi mới công
nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam: thực trạng và giải pháp”.
Với mong muốn tìm hiểu rõ những hạn chế còn tồn đọng và có một số giải pháp
để khắc phục những hạn chế đó.
Nội dung của đề án bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung về đổi mới công nghệ trong công nghiệp.
Chương II: Thực trang đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công
nghiệp Việt Nam.
Chương III: Các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động đổi mới công nghệ trong
các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của
thầy giáo – PGS.TS Lê Công Hoa đã giúp em thực hiện được bài viết này. Do
đây là lần đầu tiên làm đề án một môn học nên sẽ không tránh khỏi những sai
2
sót trong bài viết. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy để những
lần thực hiện đề án sau em sẽ hoàn thành tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
3
CHƯƠNG I
Những vấn đề chung về đổi mới công nghệ trong

công nghiệp
1. Khái niệm về đổi mới công nghệ trong công nghiệp.
1.1 Khái niệm chung về công nghệ và đổi mới công nghệ.
Trong thời đại ngày nay, khoa học – công nghệ đang đi trên một con đường
phát triển mạnh mẽ như vũ bão. Nó đã ảnh hưởng sâu rộng đến tất cả các mặt
của đời sống kinh tế xã hội. Đặc biệt, đối với một quốc gia nói chung hay một
DN nói riêng thì khoa học – công nghệ lại là yếu tố cơ bản để tạo nên sức mạnh
kinh tế và khả năng cạnh tranh cho DN đó.
Khái niệm về công nghệ thì hiện nay đang tồn tại rất nhiều quan niệm khác
nhau. Công nghệ (hay công nghệ học hoặc kỹ thuật học) có nhiều hơn một định
nghĩa. Một trong số đó là phát triển và ứng dụng của các dụng cụ, máy móc,
nguyên liệu và quy trình để giúp đỡ giải quyết những vấn đề của con người. Với
tư cách là hoạt động con người, công nghệ diễn ra trước khi có khoa học và kỹ
nghệ. Nó thể hiện kiến thức của con người trong giải quyết các vấn đề thực tế để
tạo ra các dụng cụ, máy móc, nguyên liệu hoặc quy trình tiêu chuẩn. Việc tiêu
chuẩn hóa như vậy là đặc thù chủ yếu của công nghệ.
Hay ví dụ như theo Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc
(UNIDO) định nghĩa công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng
cách sử dụng những kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống, có
phương pháp. Hoặc theo Ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Á – Thái Bình Dương
(ESCAP) định nghĩa thì công nghệ là hệ thống kiến thức về quá trình và kỹ
thuật chế biến vật liệu và thông tin. Từ điển Khoa học Việt Nam phát hành năm
1995 đã tập hợp 6 khái niệm được coi là tiêu biểu về công nghệ…Công nghệ (có
nguồn gốc từ technologia, hay τεχνολογια, trong tiếng Hy Lạp; techne có nghĩa
là thủ công và logia có nghĩa là "châm ngôn") là một thuật ngữ rộng ám chỉ đến
các công cụ và mưu mẹo của con người. Tuỳ vào từng ngữ cảnh mà thuật ngữ
công nghệ có thể được hiểu:
- Công cụ hoặc máy móc giúp con người giải quyết các vấn đề;
4
- Các kỹ thuật bao gồm các phương pháp, vật liệu, công cụ và các tiến trình

để giải quyết một vấn đề;
- Các sản phẩm được tạo ra phải hàng loạt và giống nhau.
Ngoài ra công nghệ còn được hiểu là sự phát triển và sử dụng các dụng cụ,
máy móc, nguyên liệu và phương pháp để giải quyết những vấn đề cho nhân
loại.
Cuối cùng có một định nghĩa được coi là khái quát nhất về công nghệ là
Công nghệ là tất cả những cái gì dùng để biến đổi đầu vào thành đầu ra.
Ngày nay do công nghệ luôn biến đổi trong chu kỳ sống của nó, trong mỗi
giai đoạn nhất định một công nghệ có thể phù hợp với thị trường, với thời đại có
nghĩa là sản phẩm do nó sản xuất ra phải tồn tại được trên thị trường, nhưng cái
gì cũng sẽ phải cũ theo thời gian, và công nghệ cũng vậy, đến một giai đoạn nào
đó nó sẽ không còn phù hợp nữa. Do đó đổi mới công nghệ là một nhu cầu tất
yếu và phù hợp với nhu cầu phát triển của thị trường hàng hóa, nhu cầu khách
hàng.
Có thể khái niệm đổi mới công nghệ là quá trình phát minh, phát triển và
đưa vào thị trường những sản phẩm, quy trình mới. Hay là sự chủ động thay thế
một phần đáng kể(cốt lõi, cơ bản) hoặc toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng
công nghệ khác. Đổi mới công nghệ là kết quả của ba giai đoạn kế tiếp nhau là:
phát minh – đổi mới – truyền bá (thương mại hóa).
Có thể nói đổi mới công nghệ là quá trình thay đổi, ứng dụng khoa học –
công nghệ tiên tiến vào quy trình sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm,
tăng khả năng cạnh tranh cho DN với các đối thủ. Việc thay thế máy móc, thiết
bị đã cũ bằng những máy móc, thiết bị mới tạo cho DN có rất nhiều lợi thế khi
cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, về chi phí sản xuất… Đổi mới công nghệ
bao gồm 2 hình thức chủ yếu là: đổi mới nâng cao và đổi mới triệt để.
Đổi mới nâng cao là cải thiện các công nghệ đã tồn tại, làm cho nó “mới mẻ
và hoàn thiện hơn”. Đổi mới nâng cao ít tốn thời gian, chi phí và ít rủi ro cho
các chủ thể kinh tế.
Đổi mới triệt để là tạo ra các công nghệ thật sự mới mẻ, mang tính đột phá.
Đổi mới triệt để là hình thức đổi mới có các tiêu chí sau:

- Tập hợp các đặc tính hiệu quả hoàn toàn mới.
5
- Giảm chi phí.
- Thay đổi nền tảng cạnh tranh.
Đổi mới triệt để và đổi mới nâng cao thường diễn ra song song với nhau.
Chính vì vậy khi đổi mới triệt để thành công thì nối tiếp nó sẽ là một quá trình
đổi mới nâng cao, làm tăng hiệu suất và mở rộng phạm vi ứng dụng.
1.2 Quá trình hình thành và phát triển đổi mới công nghệ trong công nghiệp.
Vào thế kỷ XVIII, khi mới bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên,
nhiều công nghệ, kỹ thuật được ra đời dựa vào kinh nghiệm sản xuất trực tiếp
của loài người trong quá trình lao động chứ không phải do nghiên cứu khoa học.
Ngay từ buổi đầu công nghiệp hóa, người ta đã định nghĩa được công nghệ.
Tuy chỉ với nghĩa hẹp nhưng qua đó nhận thấy việc công nghệ được biết đến và
áp dụng vào công nghiệp đã bắt đầu từ thời kì sơ khai của quá trình công nghiệp
hóa. Việc áp dụng công nghệ vào công nghiệp chính là việc tạo ra những
phương pháp, giải pháp kỹ thuật sử dụng trong các dây chuyền sản xuất sản
phẩm. Trải qua nhiều thời gian, công nghệ dần dần chuyển thành hàng hóa mua
bán. Và cũng từ đó công nghệ mới thực sự được hiểu theo nghĩa rộng hơn.
Đến khi công nghệ cũ đã trở thành lạc hậu, không thể thích ứng với thời đại
thì lập tức phải được đổi mới công nghệ. Mỗi ngày thị trường sản phẩm càng đa
dạng hóa, việc sản xuất kinh doanh muốn đem lại lợi nhuận tối đa thì buộc các
DN phải tìm mọi cách để cạnh tranh nhau trên thương trường. Đầu tiên để có thể
cạnh tranh được, DN phải bảo đảm chất lượng sản phẩm của mình phải tốt, sau
đó là mẫu mã sản phẩm. Ngay cả việc tổ chức các dịch vụ phục vụ khách hàng
cũng là yếu tố quan trọng để DN có thêm thế mạnh khi cạnh tranh. Muốn được
như vậy thì bắt buộc DN phải có những công nghệ tiên tiến, hiện đại. Như thế
có nghĩa là DN phải chấp nhận thay thế, đổi mới công nghệ cho mình. Việc đổi
mới công nghệ diễn ra được nhờ vào các nguồn:
- Sử dụng công nghệ truyền thống hiện có, cải tiến và hiện đại hóa công
nghệ truyền thống đó.

- Tự nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ mới.
- Nhập công nghệ tiên tiến từ nước ngoài thông qua chuyển giao công
nghệ.
6
Trong ngành công nghiệp, quá trình đổi mới công nghệ diễn ra sẽ được thể
hiện qua các hoạt động cụ thể sau:
- Chế tạo, sử dụng máy móc, thiết bị mới, vật liệu mới, năng lượng mới.
- Áp dụng quy trình, phương pháp công nghệ mới, tiến bộ hơn.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất và quản lý.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm.
Do tính cạnh tranh của thị trường, do sự đa dạng hóa của sản phẩm trên thị
trường ngày càng mạnh mẽ dẫn đến việc áp dụng công nghệ và đổi mới công
nghệ vào công nghiệp ngày càng cần thiết. Đổi mới công nghệ thực sự mang lại
thế mạnh cho sản phẩm của DN khi tiêu thụ. Nó là yếu tố cấu thành cơ sở vật
chất và là phương pháp của sản xuất công nghiệp, nó không chỉ tác động đến
tăng quy mô và tốc độ tăng trưởng của công nghiệp, mà nó còn tác động mạnh
mẽ đến cơ cấu ngành của công nghiệp. Nó còn giúp nâng cao hiệu quả sản xuất
– kinh doanh của công nghiệp, góp phần giải quyết được nhiệm vụ bảo vệ môi
trường, giảm lao động nặng, lao động phổ thông, đơn giản, độc hại…nâng cao
tỷ lệ lao động có chất xám, lao động có kỹ thuật.
2. Một số phương hướng lựa chọn công nghệ thích hợp trong công
nghiệp.
2.1 Sự cần thiết của việc lựa chọn công nghệ thích hợp.
Trong ngành công nghiệp, công việc đổi mới công nghệ rất cần thiết và
phải được thực hiện đa dạng. Bởi trong cơ cấu của ngành có sử dụng rất nhiều
loại công nghệ khác nhau, trong đó mỗi loại công nghệ lại có những phương
thức và trình độ khác nhau. Mỗi phương pháp đổi mới sẽ đòi hỏi chi phí và
mang lại kết quả cũng khác nhau. Vì vậy với những loại công nghệ khác nhau
đó, chúng ta nên áp dụng các phương pháp đổi mới khác nhau để phù hợp, góp
được phần nào giảm chi phí trong quá trình đổi mới và mang lại kết quả tốt

nhất.
2.2 Những căn cứ và nội dung của lựa chọn công nghệ thích hợp.
Một khi muốn thực hiện đổi mới công nghệ thì ta phải hiểu rõ về các công
nghệ hiện có, phải nắm bắt được chính xác về các công nghệ mới. Từ đó mới
bắt đầu lựa chọn công nghệ phù hợp và tốt nhất để thay thế cho công nghệ cũ.
7
Nhưng việc lựa chọn công nghệ cũng cần phải nghiên cứu về các nhu cầu của
việc đổi mới công nghệ, đánh giá trình độ của công nghệ hiện có và khả năng
cạnh tranh của ngành, của DN và các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa cần phải biết
dự đoán sự phát triển của các công nghệ, xem xét quan hệ cung cầu về đổi mới
công nghệ và xu thế phát triển của công nghệ để lựa chọn công nghệ thích hợp.
Mục tiêu phát triển và đổi mới công nghệ của DN là tăng khả năng cạnh
tranh, tăng lợi nhuận, cải thiện vị thế của DN trên thị trường. Việc đánh giá trình
độ công nghệ hiện có của ngành và của DN công nghiệp là một trong những căn
cứ trọng yếu để xác định nội dung của phát triển và đổi mới công nghệ. Bên
cạnh đó, việc xác định công nghệ đang ở đâu trong quá trình phát triển, khuynh
hướng của nó trong tương lai ra sao, công nghệ thay thế nó tiên tiến như thế nào
và thay đổi sẽ diễn ra như thế nào là một điều mà các DN cần thiết phải làm
trước khi bắt tay vào quá trình đổi mới công nghệ. Nhưng trong quá trình đó DN
cũng cần phải chú ý đến một số vấn đề như mục tiêu cụ thể của đổi mới công
nghệ (Đối với nhiều ngành công nghiệp thì đó là hoàn thiện cơ cấu ngành, cơ
cấu sản phẩm, tăng trưởng nhanh, bền vững và việc làm hiệu quả), đa dạng hóa
nhiều trình độ công nghệ ngay trong một DN theo hướng hiện đại hóa công
nghệ truyền thống, công nghệ hiện có, để sử dụng tốt thiết bị máy móc hiện có,
ứng dụng đế sử dụng kỹ thuật công nghệ hiện đại với một số sản phẩm, năng
suất và khả năng cạnh tranh.
Việc lựa chọn công nghệ rất phức tạp, cần được phân tích và đánh giá về
thị trường, về hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, vấn đề môi trường. Những tiêu
chuẩn của việc đổi mới công nghệ đã được đưa ra để áp dụng là:
- Trình độ của công nghệ.

- Hiệu quả kỹ thuật của công nghiệp.
- Tính thích nghi của công nghệ.
- Chi phí đầu tư.
- Tính sinh lợi, năng suất, chất lượng.
- Môi trường vấn đề xử lý phế thải và giảm ô nhiễm môi trường.
3. Đánh giá công nghệ và chuyển giao công nghệ trong phát triển
công nghiệp.
8
3.1 Đánh giá công nghệ.
Công nghệ không tồn tại một cách biệt lập mà nó luôn tồn tại trong “môi
trường của con người”. Các công nghệ khi đã ứng dụng thì nó làm thay đổi môi
trường xung quanh con người. Và môi trường cũng tác động lại đối với công
nghệ bằng một lực thúc đẩy và định hướng cho sự phát triển của công nghệ.
Công nghệ được áp dụng trong công nghiệp thường bao gồm nhiều hướng,
nhiều trình độ khác nhau và mang lại những kết quả, hiệu quả khácnhau. Vì vậy,
việc đánh giá công nghệ là rất cần thiết cho quá trình ra quyết định về chính
sách hay kế hoạch đổi mới công nghệ trong công nghiệp.
Đánh giá công nghệ là sự so sánh giữa công nghệ được phân tích với
những công nghệ đã biết cũng như với công nghệ tiên tiến cần hướng tới. Người
ta còn đưa ra quan niệm về đánh giá công nghệ: Đánh giá công nghệ không chỉ
giới hạn trong “cực tiểu hóa tác hại” của công nghệ và sự phát triển trong sự
thích hợp với môi trường mà còn là “cực đại hóa hiệu quả tích cực” của công
nghệ và phát triển công nghệ “bền vững với môi trường” xung quanh.
Đánh giá công nghệ mang vai trò hết sức quan trọng. Nó được thể hiện qua
một số vấn đề sau:
+ Giúp các DN nói riêng và các quốc gia nói chung xác định được công
nghệ nào là thíc hợp và khả năng thích ứng của nó để tiến hành chuyển giao
công nghệ.
+ Giúp các quốc gia xác định được công nghệ vốn có và công nghệ nhập
khẩu sao cho phù hợp với các mục tiêu phát triển.

+ Giúp các quốc gia quản lý công nghệ phù hợp để bảo vệ môi trường.
Đánh giá công nghệ được tiến hành qua các bước sau:
+ Mô tả công nghệ
+ Liệt kê các yếu tố tác động (Yếu tố tác động này được xác định qua việc
phân tích tác động giữa công nghệ với môi trường xung quanh con người)
+ Phân tích ảnh hưởng
+ Giới hạn phạm vi ảnh hưởng
+ Nghiên cứu đường lối chính sách liên quan
+ Dùng công cụ phân tích.
3.2 Chuyển giao công nghệ trong phát triển công nghiệp.
9
Chuyển giao công nghệ là hoạt động nhằm đưa công nghệ tiên tiến, công
nghệ hiện đại vào sản xuất thông qua việc áp dụng kết quả nghiên cứu khoa học
vào sản xuất hoặc có thể là áp dụng một công nghệ dã hoàn thiện từ DN này
sang DN khác. Chuyển giao công nghệ là sự mua bán công nghệ và là quá trình
đào tạo, huấn luyện để sử dụng công nghệ được tiếp nhận.
Đây là hình thức chủ yếu để đổi mới công nghệ ở các nước đang phát triển.
Tình hình công nghệ trong các nước này do còn yếu kém nên việc chuyển giao
công nghệ là thực chất nhằm để đổi mới, nâng cao công nghệ trong nước.
Qua thực tế chuyển giao công nghệ, người ta đã đưa ra một số thể loại sau
đây được coi là phạm trù của công nghệ:
+ Phân tích nghiên cứu khả thi và khảo sát thị trường trước khi đầu tư.
+ Thiết kế kỹ thuật – công nghệ.
+ Thu tập về một số thông tin về công nghệ đã có.
+ Xây dựng nhà máy và lắp đặt thiết bị.
+ Phát triển công nghệ.
Có 2 kênh (nguồn) chuyển giao công nghệ:
+ Chuyển giao dọc là hình thức chuyển giao từ nghiên cứu sang sản xuất.
+ Chuyển giao công nghệ ngang là hình thức chuyển giao những công
nghệ đã được hoàn thiện từ nước này sang nước khác, từ DN này sang DN

khác.
Các bước để tổ chức thực hiện chuyển giao công nghệ:
Bước 1: Chuẩn bị chuyển giao công nghệ. Đây là giai đoạn cần phải nghiên
cứu lựa chọn chính xác công nghệ cần chuyển giao.
Bước 2: Thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ. Giai đoạn này phải
thực hiện đàm phán, xây dựng và ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. Cần
lưu ý nội dung cơ bản của 1 hợp đồng bao gồm các điều khoản sau:
1/ Tên, địa chỉ bên giao nhận; tên, chức vụ người đại diện ký hợp đồng.
2/ Những khái niệm được sử dụng trong hợp đồng mà hai bên thỏa thuận.
3/ Đối tượng chuyển giao công nghệ: Tên, nội dung, đặc điểm và các dự
kiến đạt được.
4/ Giá cả, điều kiện và phương thức thanh toán.
5/ Thời gian, tiến độ và địa điểm cung ứng công nghệ.
10
6/ Những cam kết của bên giao và bên nhận công nghệ về chất lượng công
nghệ, độ tin cậy, thời gian bảo hành, phạm vi và bí mật công nghệ.
7/ Chương trình đào tạo kỹ thuật và quản lý vận hành công nghệ.
8/ Thời gian có hiệu lực của hợp đồng và các điều kiện liên quanđến viẹc 2
bên mong muốn sửa đổi thời hạn hoặc kết thúc hợp đồng.
9/ Các vấn đề liên quan đến tranh chấp phát sinh trong hợp đồng.
Bước 3: Chuẩn y hợp đồng.
11
CHƯƠNG II
Thực trạng đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp
công nghiệp Việt Nam
1. Hiện trạng của đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công
nghiệp Việt Nam.
1.1 Tình hình đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam
những năm vừa qua.
Có thể nói công nghiệp là một ngành đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế

nước ta. Trong khoảng 10 năm (từ năm 1991 đến năm 2000) tỷ lệ tăng bình
quân của ngành công nghiệp khá cao ( khoảng 14%). Tuy nhiên, nếu so sánh tốc
độ phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam so với thế giới thì tốc độ phát
triển đó là quá chậm. Đặc biệt về mặt công nghệ thì Việt Nam đang còn lạc hậu,
phát triển với một trình độ thấp rất nhiều so với một số nước trong khu vực và
trên thế giới.
Thông tin từ Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết: Phần lớn các DN nước
ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới 2 - 3 thế
hệ. 80 - 90% công nghệ nước ta sử dụng là công nghệ ngoại nhập. Có 76% máy
móc, dây chuyền công nghệ nhập thuộc thế hệ 1960 - 1970, 75% số thiết bị đã
hết khấu hao, 50% là đồ tân trang. Tính chung cho các DN, mức độ thiết bị hiện
đại chỉ có 10%, mức trung bình 38%, lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 52%. Đặc biệt
ở khu vực sản xuất nhỏ, thiết bị ở mức lạc hậu và rất lạc hậu chiếm 70%. Trong
khi đó các DN Việt Nam đầu tư đổi mới công nghệ ở mức thấp, tính ra chi phí
chỉ khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu. Con số này ở n Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%.
Đánh giá của Bộ Khoa và & Công nghệ thì năng lực đổi mới công nghệ là “loại
năng lực yếu nhất” của các DN Việt Nam. (Trích từ “ DN với vấn đề đổi mới
công nghệ: Vẫn là bài toán nhiều nan giải” ngày 28/09/2005 trên website của Bộ
tài chính)
Hay tin từ diễn đàn DN của website Bộ công thương đã từng viết:” Trình
độ trang thiết bị, máy móc lạc hậu, công nghệ chậm được đổi mới đang là cản
trở đối với quá trình phát triển và hội nhập của các doanh nghiệp. Ngoài các
12
doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư, chỉ 30% các doanh nghiệp trong nước được
coi là có trang thiết bị vào loại tương đối tiên tiến, nhưng tốc độ đổi mới thiết bị
công nghệ còn khiêm tốn, khoảng 10-11%. Điều đó đã hạn chế rất nhiều tới việc
nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất. Nhiều sản phẩm sản xuất
trong nước có giá cao hơn sản phẩm cùng loại nhập khẩu từ 20-40%. Việc
chuyển giao công nghệ ở Việt Nam chủ yếu được tiến hành thông qua nhập
khẩu công nghệ. Từ năm 1987, khi Luật đầu tư nước ngoài được thông qua, một

số Công ty liên doanh giữa doanh nghiệp Việt Nam với các nhà đầu tư nước
ngoài đã ra đời và dần cải thiện trình độ công nghệ và kỹ năng thực hành ở một
số doanh nghiệp. Song nhìn chung, công nghệ sản xuất của hầu hết các doanh
nghiệp còn rất lạc hậu, lỗi thời. Thậm chí, trong các doanh nghiệp FDI tình
trạng nhập khẩu công nghệ lạc hậu với giá thành cao vẫn đang diễn ra khá phổ
biến. Theo một khảo sát mới đây, có tới 70% công nghệ nhập khẩu trong các
doanh nghiệp FDI thuộc công nghệ của những năm 60-80, thậm chí có đến 5%
là máy móc cũ được tân trang lại. Trong khi đó, tốc độ triển khai công nghệ mới
trong các doanh nghiệp khá chậm. Mức độ đầu tư cho đổi mới công nghệ của
doanh nghiệp chỉ đạt khoảng 0,3% doanh thu/năm, chủ yếu là mua thiết bị, cải
tiến máy móc phần cứng. Hầu hết các doanh nghiệp tiến hành đổi mới công
nghệ một cách thụ động, mang tính tình huống, do nhu cầu khách quan nảy sinh
trong quá trình sản xuất mà không có kế hoạch dài hạn về đổi mới công nghệ.
Một khảo sát của tổ chức Swiss Contact (Thuỵ Sỹ) và GTZ (Đức) tiến hành trên
1.200 doanh nghiệp tại Việt Nam cho thấy chỉ có khoảng 0,1% doanh nghiệp có
sử dụng tư vấn khi đầu tư mua sắm công nghệ. Trong bối cảnh các doanh nghiệp
Việt Nam phải cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường trong và ngoài
nước, tại sao giới doanh nhân lại chưa thực sự quan tâm tới việc đổi mới công
nghệ và ít đặt hàng với các nhà khoa học trong nước để tìm ra những giải pháp
tiết kiệm nhất cho sản xuất, nghiên cứu sản phẩm mới và thay thế các máy móc
nhập ngoại? “
100 DN ở Hà Nội và Tp.HCM đã được khảo sát và thực trạng yếu kém
trong lĩnh vực trên của DN đã thể hiện rõ: Mức đầu tư cho đổi mới thiết bị -
công nghệ của DN chỉ chiếm 3% doanh thu cả năm. Kết quả sau quá trình khảo
13
sát cũng cho thấy, đa số các DN sử dụng công nghệ của những năm 80 của thế
kỉ trước, 69% DN phụ thuộc vào nguyên vật liệu, 52% phụ thuộc vào thiết bị,
công nghệ nhập khẩu và 19% DN lệ thuộc vào bí quyết công nghệ. Số cán bộ có
kỹ thuật chuyên môn cũng chỉ đạt 7%.
Việc đổi mới công nghệ của DN Việt Nam còn rất chậm, thụ động và chỉ

mang tính tình huống là chính. Đặc biệt, ngành dệt may thiếu thông tin nghiêm
trọng, trong khi ngành này rất cần một địa chỉ tin cậy để thẩm định về nguyên
vật liệu, công nghệ, thiết bị nhưng hầu như chưa có. Theo cuộc điều tra toàn
diện nhất về tình trạng kỹ thuật công nghệ năm 1990 có 78% TSCĐ trong các
DN quốc doanh có thời gian sử dụng từ 5 năm trở lên. So với nguyên giá, giá trị
còn lại của TSCĐ là máy móc, thiết bị chỉ còn chiếm khoảng 54,4%, trong khi
đó nhà cửa và kiến trúc chiếm 63,4%. Qua đó có thể thấy, trong các DN công
nghiệp đã quá chú trọng đến việc đầu tư vào xây dựng cơ bản mà để việc đầu tư
vào đổi mới công nghệ chiếm tỷ lệ còn thấp.
Tình hình quản lý sử dụng công nghệ còn quá lạc hậu, nghèo nàn của các
DN công nghiệp Việt Nam có thể được đánh giá thông qua những thông tin sau:
+ Tỷ lệ các công nghệ hiện đại, tiên tiến chỉ đạt 16%. Tập trung chủ yếu
vào các ngành như dệt(33%), may(46%), khai thác than(37%).
+ Trình độ cơ khí hóa còn thấp. Theo điều tra vào ngày 1/1/1990, trong
ngành công nghiệp chỉ có 63% lao động công nghiệp trung ương, 47% công
nghiệp địa phương được cơ khí hóa và tự động hóa. Mức tỷ lệ này còn rất thấp
so với thế giới.
+ Mức tiêu hao năng lượng, nhiên liệu và lãng phí nguyên liệu do nguyên
nhân công nghệ ở nước ta còn khá cao. Chẳng hạn như so sánh với những nước
đang phát triển ở cùng nhóm về mức tiêu hao năng lượng để sản xuất ra một
đơn vị sản phẩm thì có số liệu phản ánh như sau: hóa chất là 138%, giấy 127%,
than 175%, luyện kim đen 250%,
+ Chất lượng sản phẩm thấp, khó thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng
loại ở nước ngoài. Các tiêu chuẩn về đánh giá sản phẩm ở Việt Nam là thấp hơn
trên thế giới nhưng vẫn còn khoảng 10% DN chưa đạt được tiêu chuẩn đó.
14
+ Hầu hết các công nghệ được trang bị và sử dụng trong thời gian khá dài
và có nhiều nguồn gốc khác nhau. Mặc dù nước ta là một nước XHCN và cũng
có quan hệ với rất nhiều các nước XHCN nhưng việc nhập công nghệ từ những
nước đó về nước ta lạ còn ít (chỉ khoảng 8%). Còn nhập từ những nước tư bản

lại chiếm tỷ trọng rất cao ( khoảng 37,3%) trong số tổng máy móc công nghệ
được sử dụng vào những năm 1986-1990.
+ Hiệu quả sử dụng thiết bị, máy móc công nghệ nhìn chung còn rất thấp.
Nếu xét theo thời gian, có khoảng 80% tổng số thiết bị được sử dụng 1ca/ngày.
Hệ số sử dụng công suất máy móc chỉ đạt 25% - 30%.
1.2 Thực trạng đổi mới công nghệ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam
hiện nay:
Nền kinh tế nước ta đã chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để có thể tồn tại và cạnh tranh
được ở một nền kinh tế mới thì buộc các DN phải tập trung nâng cao chất
lượng, đa dạng hóa, hạ giá thành sản phẩm nhằm mở rộng thị trường của sản
phẩm. Muốn làm được như vậy, DN cần thiết phải thực hiện đổi mới công nghệ
trong hoạt động kinh doanh của mình. Mặt khác, đang nằm trong nền kinh tế thị
trường mở thì các DN nên tự mở rộng thị trường, quan hệ buôn bán trao đổi của
mình. Phải biết học hỏi, tìm tòi những hình thức kinh doanh mới và hiệu quả.
Nhập những công nghệ tiên tiến từ nước ngoài về để làm tăng thêm khả năng
cạnh tranh của DN trên môi trường kinh doanh hoàn thiện nhất.
Ở Việt Nam hiện nay, chúng ta có thể tìm hiểu về thực trạng đổi mới công
nghệ của 2 ngành công nghiệp đại diện là: ngành cơ khí và ngành dệt may. Việc
ứng dụng công nghệ trong chiến lược sản xuất sạch hơn trong công nghiệp ở
nước ta hiện nay như thế nào? Chúng ta sẽ cùng làm rõ những vấn đề đó dưới
đây.
1.2.1 Ngành cơ khí:
Trong những năm qua, ngành cơ khí Việt Nam đã có bước phát triển vượt
bậc và khẳng định được chỗ đứng trong nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế của cả nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì cũng là
lúc các doanh nghiệp cơ khí đã xác định được con đường tốt nhất cho mình để
có thể tồn tại được là cần phải đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản
15
phẩm, đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, làm tăng khả

năng cạnh tranh trên thương trường. Vì thế hầu như trong những năm gần đây
các DN đang tập trung vào việc đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc hiện đại
được mua về để đem vào sản xuất đã diễn ra không ngừng nhắm mục đích phù
hợp với nhu cầu sản xuất sản phẩm đáp ứng thị trường.
Theo các chuyên gia, cho đến hiện nay, ngành cơ khí Việt Nam đang đứng
trước thời cơ để phát triển hơn bao giờ hết, bởi ngay thị trường trong nước đã là
một thị trường lớn. Đặc biệt hơn nữa là hiện nay khi các ngành kinh tế như công
nghiệp, nông lâm – ngư nghiệp, giao thông vận tải, sản xuất tiêu dùng…đều
đang phải đầu tư trang thiết bị mới để thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Tuy nhiên để đáp ứng được nhu cầu này, bản thân ngành cơ khí phải phấn đầu
tư đổi mới, nâng cao được năng lực của chính mình.
Lấy thí dụ điển hình trong ngành cơ khí chế tạo máy, qua cuộc khảo sát 14
DN thuộc lĩnh vực cơ khí cho thấy:
+ Đối với các cơ sở sản xuất trong nước:
− Hầu hết các thiết bị máy móc có độ tuổi trung bình 30 năm.
− Công suất thiết bị sử dụng rất thấp khoảng 20% 30%, các định mức
thiết kế tiêu thụ năng lượng đều rất cao.
− Chất lượng sản phẩm thấp, không ổn định, thiếu phương tiện đo lường
kiểm soát chất lượng.
− Khoảng 20% trang thiết bị được đổi mới, trong đó chỉ có khoảng 10%
thiết bị hiện đại nhưng không đồng bộ, chủ yếu ở các cơ sở sản xuất nhỏ, tư
nhân.
− Một số cơ sở đã áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO.
+ Đối với các cơ sở sản xuất liên doanh:
− Trang thiết bị chủ yếu được sản xuất từ năm 1990 đến năm 1995.
− Mức độ tự động hóa chỉ đạt tới bán phần, chưa có cơ sở đạt mức độ tự
động hóa hoàn toàn.
− Công suất thiết bị đạt từ 70% đến 80%.
− 90% cơ sở áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO.
+ Đối với các cơ sở dịch vụ:

− Công tác chủ yếu là lắp ráp, bảo trì, bảo dưỡng và sửa chữa nhỏ.
16
Hay ngành cơ khí ô tô cũng là một ngành lớn mạnh trong ngành công
nghiệp nước ta. Qua khảo sát 10 DN gồm 6 DN liên doanh, 1 DN quốc doanh, 3
DN tư doanh thuộc lĩnh vực cơ khí ô tô cho thấy:
- Các DN Cơ khí ôtô hoạt động rất đa dạng bao gồm nhiều lĩnh vực: sửa
chữa, mua bán phụ tùng, lắp ráp tổng thành ôtô, thiết kế chế tạo khung thùng
ôtô, thiết kế chế tạo bộ phận ôtô chuyên dùng, mua bán ôtô và dịch vụ hậu mã,
v.v Nhìn chung, các DN cơ khí ôtô đều có mức độ phát triển tương đồng về
trình độ công nghệ.
- Trang thiết bị chủ yếu được sản xuất từ sau năm 1990, đa số thuộc khối
G7 và Nhật.
- Mức độ tự động hóa của thiết bị : do người trực tiếp điều khiển chiếm
50%, bán tự động chiếm 40% và tự động hoàn toàn chiếm 10%.
Hấu hết công nghệ khi được nhập về Việt Nam đều thuộc vào loại thế hệ
lạc hậu, không đồng bộ (95% là thiết bị lẻ) và không có chuyển giao công nghệ.
Thực trạng đổi mới công nghệ trong ngành cơ khí ở nước ta hiện nay vẫn còn
chậm và có nhiều lúng túng trong các bước thực hiện.
1.2.2 Ngành dệt may :
Công nghiệp dệt may là ngành có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát
triển công nghiệp cũng như phát triển kinh tế - xã hội của bất kỳ một quốc gia
nào. Ở nước ta, công nghiệp dệt may được coi là một ngành kinh tế chủ chốt,
thu hút một lực lượng lao động đáng kể, mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho ngân
sách Nhà nước từ xuất khẩu, đồng thời với tư cách là ngành hàng xuất khẩu mũi
nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, công nghiệp dệt
may không những góp phần tăng tích luỹ tư bản cho quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế mà còn tạo cơ hội cho Việt nam hoà nhập kinh tế với
khu vực và thế giới. Như vậy, sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may còn
có ý nghĩa phản ánh kết quả hoạt động kinh tế của cả nước một cách tương đối
tổng hợp.

Tình trạng công nghệ trong ngành dệt may đã được khảo sát qua một số
doanh nghiệp như sau:
17
− Ða số trang thiết bị đang được sử dụng tại các DN đều sản xuất từ khối
G7 và Nhật. Có 1/3 là tương đối mới và 2/3 là mới. Thiết bị cũ hầu như không
còn được sử dụng.
− Mức độ tự động hóa: hầu hết là tự động bán phần, số còn lại là do người
trực tiếp điều khiển.
− Trình độ công nghệ: các DN tự đánh giá có trình độ công nghệ mới
chiếm 75% và trung bình chiếm 25% so với các DN trong nước. So với các DN
cùng lĩnh vực trong khu vực và trên thế giới thì 75% cho là trung bình, 25% cho
là mới.
Còn về tình hình đổi mới công nghệ của các DN trong ngành dệt may hiện
nay được nhìn nhận như sau: “Trong 10 năm qua, các DN dệt may đã đầu tư và
đổi mới công nghệ khá nhiều. 50% thiết bị chế biến bông đã được nhập mới từ
Mỹ. Khâu kéo sợi đã tăng tới gần 2 triệu cọc sợi, nhờ sử dụng các thiết bị có
xuất xứ từ Tây Âu, trong đó có những dây chuyền vào loại hiện đại nhất thế giới
hiện nay, như dây chuyền 12.000 cọc sợi kéo chỉ khâu của Công ty Dệt Phong
Phú. Đánh giá về triển vọng phát triển công nghệ của ngành dệt Việt Nam, bà
Judy Wang, Chủ tịch Công ty Yorkers Trade & Marketing Service (Hồng Kông)
cho rằng, trong những năm vừa qua, thị trường thiết bị và công nghệ dệt may
của Việt Nam đã phát triển khá mạnh. Tuy nhiên, DN Việt Nam tập trung chủ
yếu vào công nghệ may, nên thị trường cho ngành dệt còn tương đối nhỏ. Tuy
vậy, với chiến lược phát triển và chủ động trong việc cung cấp nguyên phụ liệu,
trong vài năm tới, thị trường công nghệ và thiết bị ngành dệt sẽ thực sự bùng nổ
và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà cung cấp nước ngoài tham gia vào hoạt
động kinh doanh. Khi đó, các DN Việt Nam cũng có cơ hội để mua được các
loại thiết bị phục vụ cho quá trình đổi mới công nghệ.” ( Theo báo Đầu tư điện
tử - 28/12/2004). Không những cần trang bị lại máy và thiết bị để tăng năng lực
sản xuất, các DN dệt còn đang đứng trước yêu cầu phải đổi mới công nghệ, thiết

bị để có thể sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của ngành may
xuất khẩu. Riêng Vinatex hiện còn đến 40% máy, thiết bị thuộc các thế hệ cũ,
đang cần được thay thế. Trong thời gian qua, ngành dệt đã đầu tư hàng chục
ngàn tỷ đồng để đổi mới công nghệ và thiết bị. Một số nhà máy đầu tư công
nghệ mới hoàn toàn nhưng lại không được chuyển giao công nghệ sản xuất,
18
công nhân chưa được đào tạo bài bản để tiếp thụ và làm chủ công nghệ mới nên
chưa phát huy được hiệu quả đầu tư. Theo điều tra, ngành dệt hiện có tốc độ đổi
mới công nghệ rất chậm, đến nay mới đổi mới được 30-35%. Nhiều thiết bị kéo
sợi của Trung Quốc, Ấn Độ từ những năm 1970-1975 vẫn còn tồn tại, chưa kể
có những máy dệt đã có từ cách đây 100 năm hiện vẫn được sử dụng. Các thiết
bị hiện đại của Đức, Thụy Sỹ, Italia, Pháp mới chiếm khoảng 30-35%. Thực tế
này dẫn đến năng suất dệt vải của Việt Nam rất thấp, chỉ bằng 30% Trung
Quốc . Cụ thể, với thiết bị kéo sợi, ngành dệt có 1,05 triệu cọc sợi thì trong đó
chỉ có 10 vạn cọc là đầu tư mới, số cọc còn lại hầu hết đã sử dụng 10 năm, thậm
chí 20 năm. Với máy dệt, tình trạng cũng tương tự, chỉ khoảng 20% là máy mới,
số còn lại phải cải tạo hay thanh lý. Với thiết bị nhuộm, hoàn tất thì chỉ có 15%
là đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
1.2.3 Việc ứng dụng công nghệ trong chiến lược sản xuất sạch hơn trong các
doanh nghiệp công nghiệp.
Vấn đề sản xuất sạch hơn trong ngành công nghiệp đã được mọi người, từ
những người dân, đến các doanh nghiệp sản xuất và cho đến chính phủ đã rất
chú trọng từ lâu. Bởi nó ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường sống của chúng ta.
Sản xuất sạch hơn là một công cụ quản lý giúp cải thiện về cả môi trường và
kinh tế. Nói cách khác, sản xuất sạch hơn là công cụ để nâng cao hiệu quả sản
xuất, bảo vệ môi trường cho các DN, cải thiện môi trường sống cho công nhân
và các hộ dân đang sống, làm việc trong và xung quanh các cơ sở sản xuất công
nghiệp. Theo thông tin từ Bộ công thương thì chính phủ đã xây dựng chiến lược
sản xuất sạch hơn để áp dụng cho các DN công nghiệp ở nước ta nhằm mang lại
một môi trường sống và môi trường sản xuất không còn ô nhiễm. Điều cần nhấn

mạnh ở đây là sản xuất sạch hơn không chỉ đơn thuần là việc thay đổi trang thiết
bị sản xuất, mà là vấn đề thay đổi thái độ ứng xử của con người, DN đối với môi
trường và áp dụng các bí quyết nhằm cải thiện quy trình sản xuất và sản phẩm
của mình trên cơ sở phân tích hệ thống sao cho chi phí đạt mức thấp nhất. Thí
dụ, đối với một DN sản xuất giấy, người ta có thể áp dụng nước thải của công
đoạn sau để tái sử dụng cho công đoạn trước, điều này giúp họ vừa tiết kiệm vừa
tái sử dụng được lượng nước đầu vào và thu hồi được cả nguyên vật liệu rơi vãi
trong quá trình sản xuất. Tại Công ty giấy Việt Trì, sau khi áp dụng phương thức
19
sản xuất sạch hơn vào thực tiễn, công ty đã tiết kiệm được gần 800 triệu
đồng/năm, giảm lượng nước thải xuống còn 15%, ngoài ra hàm lượng cặn và
chất rắn lơ lửng trong nước thải cũng giảm đáng kể. Hay tại Công ty thực phẩm
Thiên Hương, lợi ích đem lại từ sản xuất sạch hơn cho công ty mỗi năm là 670
USD, giảm 86% lượng nước thải, tiết kiệm được 10 - 15% lượng nguyên liệu
đầu vào. Tính đến thời điểm hiện nay, cả nước có gần 100 DN đã áp dụng
phương thức sản xuất sạch hơn vào thực tiễn. Phương thức sản xuất sạch hơn là
một phương thức tiếp cận mới áp dụng chiến lược phòng ngừa tổng hợp về môi
trường, nhằm nâng cao hiệu suất sinh thái, giảm thiểu rủi ro. Mà hơn nữa sản
xuất sạch hơn còn đề cập tới vấn đề thay đổi hành vi thái độ ứng xử, áp dụng bí
quyết công nghệ, cải thiện từng quy trình sản xuất trong cả hệ thống sản xuất
sao cho khoa học và hợp lý. Tại cơ sở dệt nhuộm Thuận Thiên, sau khi thực
hiện một số giải pháp sản xuất sạch hơn vào công đoạn sản xuất, DN đã giảm
được 35% lượng nước thải, 30% tải lượng ô nhiễm, 70% khí thải độc hại và tăng
được 30% sản lượng, ngoài ra còn giảm đáng kể tỷ lệ vải vụn và vải thải loại.
Song điều đáng nói là Công ty không phải thay đổi toàn bộ trang thiết bị sản
xuất cũ, mà theo hướng dẫn của các chuyên gia, công ty chỉ thay đổi cải tiến
một số bộ phận và thực hành tiết kiệm tối đa trên các công đoạn sản xuất. Hiện
nay, ở cấp chính phủ, Việt Nam đã ký tuyên ngôn quốc tế về sản xuất sạch hơn.
Cục Bảo vệ Môi trường Việt Nam cũng đã đưa phương thức sản xuất này vào
các hoạt động trọng điểm trong chiến lược môi trường, giai đoạn 2000 - 2010 và

đã xây dựng xong dự thảo quốc gia về sản xuất sạch hơn, nhằm giúp các DN
Việt Nam có cách nhìn mới hơn về quan điểm và nhận thức của mình đối với
phương thức sản xuất này và áp dụng nó vào thực tiễn, nhằm bảo vệ môi trường
và nâng cao hiệu suất kinh doanh. Tháng 9-1999, Việt Nam đã ký Tuyên ngôn
quốc tế về sản xuất sạch hơn (SXSH) và qua đó khẳng định lại cam kết của Việt
Nam về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Trung tâm sản xuất sạch
quốc gia đã được thành lập với sự hỗ trợ của UNIDO năm 1998. Nghị quyết 41-
NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 15-11-2004 về bảo vệ môi trường trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước cũng đưa ra nhiệm vụ đầu tiên về phòng
ngừa và hạn chế các tác động xấu đến môi trường đã nêu rõ "Khuyến khích sử
dụng tiết kiệm tài nguyên, năng lượng; sản xuất và sử dụng năng lượng sạch,
20
năng lượng tái tạo, các sản phẩm và bao bì sản phẩm không gây hại hoặc ít gây
hại đến môi trường; tái chế và sử dụng các sản phẩm tái chế. Từng bước áp dụng
các biện pháp buộc các cơ sở sản xuất, nhập khẩu phải thu hồi và xử lý sản
phẩm đã qua sử dụng do mình sản xuất, nhập khẩu". Ðiều 11 của Luật Bảo vệ
môi trường (sửa đổi) ban hành năm 2005 đã thể hiện sự quan tâm và hỗ trợ của
Nhà nước trong hoạt động SXSH. Luật Chuyển giao công nghệ có hiệu lực vào
ngày 1-7-2007 cũng đã bước đầu xây dựng các quỹ chuyển giao công nghệ giúp
cho các DN, các nhà đầu tư vay vốn đàu tư cho các công nghệ, trong đó khuyến
khích phát triển công nghệ sạch, thân thiện với môi trường.
2. Những nhân tố thúc đẩy và cản trở đối với quá trình đổi mới công
nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam.
2.1 Những nhân tố thúc đẩy :
Nguồn gốc của đổi mới công nghệ trong các DN chính là những yêu cầu
nảy sinh trong quá trình sản xuất. Chính vì vậy nhân tố mà tác động lớn nhất tới
quá trình đổi mới công nghệ chính là những nhân tố bên trong DN. Còn các
nhân tố bên ngoài ít có tác dụng thúc đẩy hơn. Các nhân tố thúc đẩy quá trình
đổi mới công nghệ đặc trưng là những nhân tố sau:
+ Yêu cầu về nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, yêu cầu về nâng

cao năng suất, yêu cầu về nâng cao sức cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất
khẩu được
đánh giá là các nhân tố có tác động lớn nhất đến quá trình đổi mới công nghệ
trong
các DN. 85% số DN được khảo sát đánh giá tác động của yêu cầu nâng chất
lượng và hạ giá thành sản phẩm ở mức độ tác động có ý nghĩa trở lên, trong khi
con số này tương ứng cho yêu cầu nâng năng suất là 95%, yêu cầu nâng cao sức
cạnh tranh là 90% và yêu cầu về mở rộng thị trường xuất khẩu 63%.
+ Chính sách khuyến khích đổi mới công nghệ của nhà nước, các quy
định về luật pháp ( thuế, chính sách vay vốn,…) và chiến lược phát triển ngành
hay chiến lược phát triển của công ty mẹ. Đối với chính sách khuyến khích đổi
mới công nghệ của nhà nước, 51% DN được khảo sát cho rằng nhân tố này tác
động ở mức có ý nghĩa trở. Các con số tương ứng với môi trường luật pháp cụ
21
thể là: quy định về thuế: 65% DN; quy định về ưu đãi vay vốn: 60% DN; quy
định về đất đai: 54% DN. Chiến lược phát triển ngành/của công ty mẹ được 54%
DN đã khảo sát đánh giá là có ý nghĩa thúc đẩy trở lên.
Trong thực tế cho thấy, hiệu quả từ những chính sách của Chính phủ
mang lại rất tích cực, nhưng mức tác động lại chưa rõ rệt và mang lại kết quả
chưa cao vì một số nguyên nhân sau:
+ Sự kém hiểu biết của các DN về những ưu đãi được Nhà nước áp dụng.
+ Thủ tục xét duyệt cho các đối tượng được hưởng ưu đãi còn phức tạp,
rườm rà, và đôi khi chứa đựng yếu tố tiêu cực, lợi dụng chính sách khiến các
DN không hào hứng tham gia.
+ Một số chính sách được ban hành còn chưa thực sự rõ ràng cũng như
thiếu hoặc chậm có các hướng dẫn thi hành cụ thể, đầy đủ, do vậy cản trở cho
quá trình thẩm định của các cơ quan chức năng và tạo điều kiện nảy sinh tiêu
cực. Chẳng hạn Nghị định 119 được ban hành từ năm 1999 nhưng mãi đến năm
2002 mới có thông tư hướng dẫn và triển khai thực hiện.
+ Các chính sách ưu đãi không phù hợp hoặc chưa thực sự hấp dẫn với

các DN.
+ Hiệu lực thi hành của một số văn bản pháp luật trên thực tế chưa được
đảm bảo.
2.2 Những nhân tố cản trở :
Số DN tiến hành đổi mới công nghệ thời gian qua chiếm tỷ lệ cao, nhưng
chủ yếu vẫn ở quy mô nhỏ, với phương thức chính là mua công nghệ của nước
ngoài và bắt chước thiết kế lại theo mẫu. DN muốn làm “cách mạng công nghệ”
trên quy mô lớn gặp phải vô vàn khó khăn. Cơ cấu công nghệ và trình độ công
nghệ trong sản xuất công nghiệp nhìn chung chậm đổi mới. ở những vùng công
nghiệp tập trung như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hà Nội , thì trình độ
công nghệ trong sản xuất công nghiệp cũng đã bị xuống cấp, trong khi đó tỷ lệ
đổi mới hàng năm là rất ít. Qua điều tra thực tế cho thấy vì sao quá trình đổi mới
công nghệ ở các DN còn chậm là vì những nguyên nhân sau:
+ Hiện nay trong đầu tư các DN chỉ chú ý đến thiết bị mà quên rằng công
nghệ hàm chứa cả 4 yếu tố là: thiết bị, con người, thông tin và thiết chế. 4 yếu tố
này có đồng bộ thì mới phát huy được tác dụng của công nghệ. Còn nếu chỉ chú
22
trọng đến thiết bị thôi thì chưa thể coi là đổi mới công nghệ được. Thiết bị chỉ
đem cho DN từ 40-50% năng lực sản xuất. Ở nước ta thường thấy các giám đốc
rất hãnh diện với dây chuyền hiện đại của mình. Nhưng thông tin thì rất sơ sài,
con người thì không đào tạo đến nơi đến chốn còn thiết chế quản lý, mua bán,
chuyển giao công nghệ thì quá lỏng lẻo, trong khi các yếu tố này nhiều lúc còn
quan trọng hơn thiết bị. Vì không thấy được các yếu tố phần mềm của công
nghệ (thông tin, con người, thiết chế) cho nên các DN rất coi nhẹ chuyển giao
công nghệ. Hiện tại có tới 95% chuyển giao là do các công ty mẹ ở nước ngoài
chuyển cho các công ty con đầu tư ở Việt Nam. Số tiền chi phí chuyển giao
công nghệ từ các công ty Việt Nam trả cho công ty nước ngoài là rất ít. Các DN
rất ít thuê chuyên gia kỹ thuật nước ngoài. Đây chính là một cản trở rất lớn cho
sự phát triển và đổi mới công nghệ.
+ Thiếu vốn: Hiện nay, hầu hết các DN vừa và nhỏ trên khắp các địa bàn

cả nước đều gặp một khó khăn đó là năng lực tài chính có hạn. Việc huy động
nguồn vốn để kinh doanh và đổi mới công nghệ rất khó khăn. Trong khi đó, thị
trường vốn trung và dài hạn ở Việt Nam lại chưa phát triển. Việc tiếp cận các
nguồn vốn trung và dài hạn rất khó khăn vì phải thế chấp nhà và đất mà nói
chung là họ không có, cho nên họ không dám mơ tưởng đến “đổi mới công
nghệ”. Ngoài ra, thị trường công nghệ Việt Nam còn nhiều bất cập. 70% ý kiến
các DN cho rằng luật lệ mua bán công nghệ không rõ ràng, nghiêm minh; 57,7%
ý kiến khác cho biết: các DN không muốn mua tri thức công nghệ trong nước do
chất lượng không đảm bảo, chi phí chuyển giao cao, công nghệ không ổn định.
+ Quy trình xin hỗ trợ cho đổi mới công nghệ còn phức tạp và kéo dài. Các
chính sách, văn bản pháp luật hay văn bản hướng dẫn thực hiện liên quan đến
các ưu đãi cho DN trong quá trình đổi mới công nghệ chưa rõ ràng và đầy đủ,
cộng với thái độ làm việc tiêu cực của một số cán bộ chức năng khiến quy trình
xin hỗ trợ cho đổi mới công nghệ tốn kém nhiều thời gian của DN.
+ Theo nghiên cứu, quá trình đầu tư đổi mới công nghệ của DN còn có thể
gặp rất nhiều rủi ro như thời gian hoàn vốn kéo dài, công nghệ bị sao chép do
vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chưa được thực hiện nghiêm ngặt. Có tới
57% DN đánh giá nhân tố rủi ro khi đầu tư là cản trở lớn khi quyết định tiến
hành đổi mới công nghệ.
23
+ Thiếu thông tin công nghệ và thông tin thị trường: là 2 trở ngại lớn với
70% DN trong việc đổi mới công nghệ. Hạn chế này một phần cũng do các DN
chưa đầu tư thích đáng và có hệ thống cho công tác nghiên cứu thị trường sản
phẩm mới/công nghệ mới, mặt khác cũng do các công cụ hỗ trợ của nhà nước về
thông tin chưa thực sự hoạt động có hiệu quả. Cản trở do thiếu thông tin về công
nghệ ở đây bao gồm cả những bất cập trong việc mua sắm trang thiết bị không
phù hợp với trình độ công nghệ hiện có ở một số DN.
+ Thiếu nhân lực có chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết. Trình độ nguồn nhân
lực còn nhiều hạn chế. Trình độ của đa số công nhân kỹ thuật trong các DN hiện
mới chỉ hạn chế ở năng lực tiếp thu và vận hành những công nghệ sẵn có một

cách thụ động. Năng lực lựa chọn và làm chủ công nghệ kèm theo một số cải
tiến nhỏ còn yếu kém.
+ Thiếu cơ hội tiếp xúc, nắm bắt công nghệ mới, cơ hội hợp tác với các tổ
chức khoa học và công nghệ bên ngoài.
24
CHƯƠNG III
Các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động đổi mới công
nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam
1. Các giải pháp đối với doanh nghiệp công nghiệp:
+ Thứ nhất : Tạo mối liên kết chặt chẽ giữa DN công nghiệp và các cơ quan
bộ phận nghiên cứu khoa học. Nếu như trong DN đã có sẵn bộ phận nghiên cứu,
thiết kế thì phải liên tục áp dụng, cải tiến những phương pháp mới vào. Nó sẽ
giúp DN nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, chẳng hạn như DN có thể thực
hiện chiến lược hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Còn với những DN
khác có thể tìm hiểu thông tin về thị trường công nghệ thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng hoặc từ các cơ quan nghiên cứu để có thể tìm cho mình
những công nghệ mới phù hợp với quá trình sản xuất và mang lại hiệu quả sản
xuất cao. Qua mối liên hệ đó giúp DN có thể đổi mới công nghệ một cách nhanh
chóng và nâng cao năng lực sản xuất cho DN.
+ Thứ hai : DN cần chủ động tìm kiếm thông tin, trau dồi kiến thức về công
nghệ mới, tìm hiểu về những thủ tục liên quan đến vấn đề chuyển giao công
nghệ. DN cần tìm hiểu về thị trường công nghệ để biết được trên thị trường hiện
có bao nhiêu loại công nghệ mới, loại nào có khả năng mang lại hiệu quả sản
xuất cho DN là cao nhất, các loại công nghệ đó được xuất xứ từ những nước
nào, giá cả của chúng như thế nào? Từ đó mà DN có thể so sánh và đưa ra sự
lựa chọn chính xác cho mình để chuyển giao công nghệ. Và hơn nữa, DN cần
tìm hiểu rõ thủ tục chuyển giao công nghệ để khi ký kết hợp đồng chuyển giao,
lắp đạt máy móc sẽ diễn ra thuận lợi hơn.
+ Thứ ba : DN cần đào tạo nguồn nhân lực và có những chính sách hợp lý sử
dụng nhân lực. Khi đã đổi mới công nghệ thị DN cần phải có một đội ngũ nguồn

nhân lực có trình độ để tiếp nhận công nghệ mới đó. Công nghệ mới chuyển
giao xong chắc chắn sẽ có trình độ cao hơn công nghệ cũ nên đòi hỏi người sử
dụng cũng phải có năng lực hơn. Vì thế DN cần phải tập trung đào tạo chuyên
môn cho nguồn nhân lực của mình. Có thể tổ chức giảng dạy ngay tại DN và đi
mời các chuyên gia trong và ngoài nước thuộc lĩnh vực chuyên môn đó về giảng
dạy. Hoặc có thể gửi nguồn nhân lực đó đi học ở các trường đào tạo. Như vậy
25

×