1
ĐỀ TÀI
NÂNG CAO TÍNH CẠNH TRANH VÀ
HƯỚNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CÁC
SẢN PHẨM THUỘC CÔNG NGHIỆP
HÓA CHẤT
HÀ NỘI - 2008
2
MỤC LỤC
Trang
I. GIỚI THIỆU CHUNG
II. GIẢM CHI PHÍ SẢN XUẤT, YẾU TỐ QUAN TRỌNG
NHẤT ĐỂ TĂNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
II.1. Một số nguyên nhân tăng chi phí sản xuất
II.2. Một số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí đầu vào
sản xuất
II.2.1. Ảnh hưởng của giá điện
II.2.2. Ảnh hưởng của giá nhiên liệu (than, xăng dầu và khí
đốt)
II.2. 3. Ảnh hưởng của chi phí vận tải
II.2.4. Ảnh hưởng của giá nguyên liệu
3
II.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
II.3.1. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp
II.3.2. Các giải pháp nâng cao NLCT của sản phẩm công
nghiệp
II.3. 3.
Thực tế áp dụng các giải pháp nâng cao NLCT sản
phẩm công nghiệp
III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN MỘT SỐ NGÀNH
HÀNG THUỘC CNHC
III.1. Kết quả đạt được khi tiến hành nâng cấp công nghệ
các ngành sản xuất chủ lực thuộc CNHC
III.1.1. Ngành sản xuất sản phẩm phân đạm từ than
III.1.2. Ngành sản xuất sản phẩm supe lân
III.1.3. Ngành sản xuất sản phẩm PLNC
III.1.4. Ngành sản xuất sản phẩm phân NPK
4
III.1.5. Ngành sản xuất sản phẩm cao su
III.1.6. Ngành sản xuất sản phẩm xút- clo
III.1.7. Ngành sản xuất sản phẩm pin-ac quy
III.1.8. Ngành sản xuất sản phẩm chất giặt rửa
III.2. Giải quyết những điểm chốt của quá trình sản xuất
I. GIỚI THIỆU CHUNG
Chưa bao giờ mà chất lượng tăng trưởng, hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh
của nền kinh tế lại được đề cập nhiều như lúc này, không chỉ trên các phương tiện
thông tin đại chúng, các diễn đàn hội nghị của các cấp, các ngành, mà cả ở các hội
nghị của Chính phủ và tại các kỳ họp Quốc hội. Một trong những vấn đề có tầm
quan trọng hàng đầu của chất lượng tăng trưởng, của hiệu quả sản xuất và sức
cạnh tranh của nền kinh tế là chi phí đầu vào. Tỷ lệ chi phí trung gian so với giá trị
sản xuất đã gia tăng từ 47,8% năm 1999 lên 50,4% năm 2000; 51,6% năm 2001 và
5
52,1% năm 2002 và vẫn tiếp tục ở mức cao trong những năm gần đây. Chi phí đầu
vào sản xuất tăng sẽ đẩy giá thành sản phẩm tăng và hệ quả tất yếu là giá bán sản
phẩm phải tăng theo kéo theo giảm tính cạnh tranh của sản phẩm.
Ngành Công nghiệp Hoá chất (CNHC) nước ta là một ngành được hình thành
khá sớm, ngay từ thời ký kháng chiến chống Pháp và hiện là ngành công nghiệp đa
ngành, đa chủng loại sản phẩm. Nhìn chung, công nghệ và thiết bị sản xuất của
CNHC nước ta hiện nay mới ở trình độ dưới trung bình của khu vực và thế giới;
giá trị của nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng và công lao động thường chiếm tỷ
lệ lớn trong giá thành sản phẩm xuất xưởng. Hầu hết các sản phẩm của CNHC chủ
yếu vẫn tiêu thụ nội địa. Tuy đã có một số loại sản phẩm đã bắt đầu thâm nhập thị
trường quốc tế như lốp ô tô, ac quy, phân lân nung chảy, v.v , nhưng có thể nhận
thấy những sản phẩm có khả năng xuất khẩu của CNHC nước ta đều là những loại
được sản xuất bằng công nghệ và thiết bị hiện đại, mới được nhập khẩu từ các
nước tiên tiến (như lốp ô tô, ac quy, v.v ) hoặc các sản phẩm có liên quan đến ưu
thế tài nguyên (như phân lân nung chảy), hoặc các sản phẩm gia công đơn thuần
trên cơ sở nguyên liệu nhập ngoại (các chất giặt rửa, thuốc bảo vệ thực vật, v.v ).
Để sản phẩm của CNHC tự tin bước vào hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề quan
trọng là phải tăng sức cạnh tranh của sản phẩm bằng những biện pháp đồng bộ.
Ngoài ra đối với mỗi doanh nghiệp và ngành hàng, việc xác định hướng đầu tư
phát triển cũng rất quan trọng. Tiềm lực của doanh nghiệp là hữu hạn nên xác định
đúng hướng cần đầu tư sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tập trung nguồn lực để
không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và chính điều này có thể tác động đến sự phát triển
của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Ở đây chỉ đề cập đến vấn đề liên quan đến giảm chi phí sản xuất để nâng tính
cạnh tranh và hướng đầu tư phát triển của một số sản phẩm thuộc CNHC.
6
II. GIẢM CHI PHÍ SẢN XUẤT, YẾU TỐ QUAN TRỌNG NHẤT
ĐỂ TĂNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH
II.1. Một số nguyên nhân tăng chi phí sản xuất
Đối với một sản phẩm công nghiệp ở nước ta, hiện nay các nhà nghiên cứu
kinh tế đều cho rằng có nhiều nguyên nhân làm gia tăng chi phí đầu vào, trong đó
có thể tóm gọn vào 7 nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, sử dụng công nghệ cũ và lạc hậu. Hiện tại, mặc dù công nghiệp
nước ta đã đạt được nhiều kết quả vượt trội, nhưng trình độ công nghệ nói chung
còn thấp. Tỷ trọng doanh nghiệp công nghiệp của Việt Nam thuộc nhóm ngành
công nghệ cao chỉ đạt 20,6%, thấp hơn tỷ trọng tương ứng 29,1% của Philippin,
29,7% của Inđônêxia, 30,8% của Thái Lan, 51,1% của Malaixia, 73,0% của
Xingapo. Công nghiệp Việt Nam thuộc nhóm trung bình thấp với tỷ lệ ngành công
nghệ trung bình là 20,7%; còn ngành công nghệ thấp chiếm tới 58,7% , trong khi
các ngành công nghệ thấp tương ứng ở Inđônêxia chiếm 47,7%, Philippin 45,7%,
Thái Lan 42,7%, Malaixia 24,3%, Xingapo 10,5%. Trong các ngành công nghiệp,
thì ngành công nghiệp chế biến của Việt Nam có tỷ lệ công nghệ tiên tiến là thấp
nhất. Cụ thể, công nghệ cao chỉ chiếm 15,7%, công nghệ thấp chiếm tới 52,8%,
còn lại là công nghệ trung bình. Nếu tính theo giá trị gia tăng thì tỷ trọng công
nghệ cao của công nghiệp nước ta còn thấp hơn nữa, vì phần lớn những ngành
công nghệ cao lại chủ yếu là lắp ráp.
7
Trình độ kỹ thuật - công nghệ thấp chủ yếu do vốn sản xuất kinh doanh thấp.
Năm 2004, mức trang bị tài sản cố định bình quân trên 1 lao động của các cơ sở
kinh tế cá thể ở nước ta chỉ có 8,6 triệu đồng, của doanh nghiệp ngoài quốc doanh
chỉ có 36,6 triệu đồng, của doanh nghiệp Nhà nước cao hơn cũng chỉ có 132,1
triệu đồng, còn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao nhất, đạt 191,6
triệu đồng. Hệ số đổi mới tài sản cố định hiện mới đạt 19%, thấp hơn so với mức
24 - 25% của mục tiêu đề ra.
Thứ hai, tỷ lệ khấu hao tài sản cố định trong giá thành tăng lên, một mặt do
đầu tư vào thiết bị công nghệ mới, mặt khác do tăng tỷ lệ trích khấu hao để thu hồi
vốn nhanh.
Việc lãng phí và thất thoát lớn trong đầu tư xây dựng và trong sản xuất, làm
cho giá thành công trình vống lên không đúng thực chất, cũng góp phần làm gia
tăng khấu hao.
Ngoài ra không ít doanh nghiệp còn chủ động khai tăng chi phí đầu vào để
gian lận thuế.
Thứ ba, giá nhà đất tăng và đang ở mức rất cao, làm cho chi phí đầu tư xây
dựng, chi phí thuê trụ sở, địa điểm sản xuất kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp, làm cho giá cả sản phẩm vật chất và
dịch vụ dâng cao.
Thứ tư, giá của nhiều chủng loại nguyên, nhiên vật liệu đầu vào là hàng
nhập khẩu giá cao, với cước phí vận tải quốc tế tăng. Ngay trong 3 tháng đầu của
năm 2008, chi phí đầu vào sản xuất tăng đột biến so với cùng kỳ năm 2007: giá
xăng dầu tăng trên 50% làm tăng chi phí vận tải; giá sắt thép tăng gần gấp đôi làm
tăng chi phí đầu tư, nghĩa là sẽ làm tăng khấu hao đưa vào giá thành sản phẩm; giá
8
chất dẻo cũng tăng làm tăng chi phí bao bì, v.v Trong tất cả các ngành sản xuất
công nghiệp, ngay trong những tháng đầu năm 2008, giá các nguyên liệu nhựa,
bông và sợi dệt, gỗ, sơn keo, v.v đều tăng mạnh làm tăng chi phí về nguyên liệu
trong các ngành hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu USD. Trong CNHC, giá phân
bón và nguyên liệu sản xuất phân bón cũng tăng quá cao, có nhiều loại đã tăng giá
1,5- 2 lần so với cùng kỳ năm 2007 như: DAP tăng gấp đôi lên trên 1000 USD/tấn;
giá urê, kali, SA cũng tăng 1,5 lần so với cùng kỳ năm trước. Riêng giá lưu huỳnh
hiện tại tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm 2007 và so với thời kỳ 2002-2003 thì
tăng lên đến 6 lần. Chỉ một số mặt hàng trên đã làm mức đầu vào sản xuất tăng
gần 1 tỉ USD, chiếm khoảng 5% tổng kim ngạch nhập khẩu trong 3 tháng đầu năm
2008.
Ngoài ra nhiều doanh nghiệp ở nhiều ngành kinh tế còn thay đổi chủng loại
nguyên vật liệu, mua nguyên liệu có chất lượng cao hơn, có giá trị lớn hơn để phù
hợp với thị trường, nhất là thị trường xuất khẩu, để tăng tính cạnh tranh và đây
cũng là một yếu tố làm tăng thêm chi phí đầu vào sản xuất.
Thứ năm, việc tăng giá điện, giá xăng dầu, than, cước phí vận chuyển, lãi
suất ngân hàng, tăng lương cho người lao động theo quy định về mức lương tối
thiểu, v.v đã trực tiếp tác động đến chi phí sản xuất.
Thứ sáu, việc gia tăng các chi phí liên quan đến bảo vệ môi trường, bao
gồm chi phí di chuyển nhà máy, chi phí xử lý chất thải cũng là yếu tố làm tăng
thêm chi phí sản xuất.
Thứ bảy, các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước, còn phải
chịu gánh nặng nhiệm vụ xã hội như các khoản đóng góp cho chính sách xã hội,
cứu trợ thiên tai bão lụt, trách nhiệm xây dựng địa bàn cơ sở, v.v Các khoản
9
đóng góp này đáng lẽ được trích từ quỹ phúc lợi của doanh nghiệp, nhưng ở một
số doanh nghiệp do quỹ còn nhỏ bé so với nhu cầu phúc lợi của bản thân doanh
nghiệp, nên doanh nghiệp đã tìm cách đưa chi phí này vào chi phí sản xuất, làm
cho giá thành sản phẩm bị dâng cao.
Trên đây là một số nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng chi phí đầu vào sản
xuất của các sản phẩm công nghiệp ở nước ta. Cũng vì thế mà giá bán sản phẩm
trong nước thường cao hơn so với giá sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế.
Ví dụ so với giá nhập khẩu (CIF) thì giá xi măng sản xuất trong nước bằng 115%,
giấy 127%, phân urê 131%, xút 163%, phôi thép 125%, đường 140% so với giá
quốc tế; giá điện bán cho công ty nước ngoài, cước vận tải biển, cước phí thực tế
về điện thoại quốc tế của nước ta cũng vẫn cao hơn hầu hết các nước trong khu
vực và thường cao gấp 2 - 3 lần nước có mức giá trung bình. Xếp hạng năng lực
cạnh tranh quốc gia của Việt Nam theo Diễn đàn kinh tế thế giới thuộc loại thấp,
kém ổn định và chậm được cải thiện.
CNHC nước ta hiện nay cũng có nhiều đặc điểm tương tự với các ngành sản
xuất công nghiệp nói chung như đã trình bày ở trên, trong đó có thể thấy rõ một số
nguyên nhân làm tăng chi phí đầu vào sản xuất của CNHC như sau:
1. Giá của tất cả các loại nguyên, nhiên liệu và năng lượng đầu vào, bất kể
cả là hàng nhập khẩu hoặc cung cấp trong nước, đều tăng cao. Đây là nguyên nhân
chính dẫn đến làm tăng chi chí sản xuất của hầu hết các đơn vị thuộc CNHC. Ví
dụ so với cách đây 1 năm giá lưu huỳnh cho sản xuất axit sunfuric, giá DAP, urê,
kali làm nguyên liệu cho sản xuất phân bón đều tăng mạnh như đã nêu ở trên; giá
chì cho sản xuất acquy cũng tăng 3 lần trong cùng thời kỳ. Giá xăng dầu trong
nước trong thời gian gần đây cũng tăng mạnh theo giá dầu mỏ thế giới (khoảng
gần 3 lần trong thời kỳ 2003-2008), Giá điện cho sản xuất, giá than đá cho sản
10
xuất phân bón tuy được Chính phủ chỉ đạo nhưng cũng đã tăng nhiều đợt và tới
đây sẽ tiếp tục tăng nữa.
2. Nhiều dây chuyến sản xuất vẫn sử dụng công nghệ và thiết bị cũ, lạc hậu,
khiến tỷ lệ sử dụng nhân công cao, hiệu suất sử dụng năng lượng thấp. Có một số
dây chuyền sản xuất được đầu tư thêm thiết bị nhưng vẫn trong tình trạng chắp vá
hoặc không đồng bộ. Có một số dây chuyền được đầu tư mới hoàn toàn với công
và thiết bị tiên tiến nhưng thường lại hạn chế về công suất sản xuất, không tận
dụng ưu thế về quy mô sản xuất để giảm giá thành. Từ trình độ công nghệ và thiết
bị thấp lại thường đi đôi với chất lượng sản phẩm thấp, kém sức cạnh tranh, giá
bán thấp kéo theo hiệu quả sản xuất thấp.
Sở dĩ có hiện tượng này là do hầu hết các cơ sở thuộc CNHC đều khó khăn
về vốn đầu tư. Hiện tại, tổng tài sản bình quân trên 1 lao động của nhiều doanh
nghiệp trong ngành là thấp và giá trị về trang thiết bị bình quân trên 1 lao động
càng rất thấp. Một số doanh nghiệp có dây chuyền đầu tư mới cũng chỉ có mức
đầu tư cố định vài trăm triệu đồng/ lao động. Đối với các doanh nghiệp lớn có
đông lao động như công ty Supephôtphát và Hoá chất Lâm Thao, Cổ phần Công
nghiệp cao su miền Nam, TNHH một thành viên Phân đạm và Hoá chất Hà Bắc,
TNHH một thành viên Apatit Việt Nam, v.v thì mức bình quân về đầu tư trang
thiết bị càng thấp.
Tổng công ty Hoá chất Việt Nam (VINACHEM) là một tổng công Nhà
nước lớn, đại diện cho ngành Công nghiệp Hóa chất nước ta, nhưng cũng đang
phải đương đầu với tình trạng thiếu vốn đầu tư trong khi thiết bị sản xuất còn lạc
hậu và thiếu đồng bộ (Bảng 1). Tuy trong những năm gần đây, tất cả các doanh
nghiệp trong Tổng Công ty đều có các dự án đầu tư chiều sâu, nâng cấp thiết bị
11
sản xuất, nhưng nhìn chung tỷ lệ đổi mới tài sản cố định (trong đó có thiết bị) vẫn
thấp hơn so với mục tiêu đề ra.
Bảng 1 : Mức đầu tư cố định của một số doanh nghiệp lớn của VINACHEM năm
2007
STT
Tên doanh nghiệp,
ngành nghề chính
Giá trị
doanh
nghiệp
(triệu
đồng)
Giá trị
thiết bị
(triệu
đồng)
Số lượng
lao động
(người)
Bình quân
giá trị thiết
bị/dầu người
(tr. đ/người)
1 Công ty Supephôtphat
và Hoá chất Lâm Thao
(sản xuất phân bón)
1.278.312 45.560 3.155 14,5
2 Công ty TNHH một
thành viên Phân đạm và
Hoá chất Hà Bắc (sản
xuất phân bón)
1.323.448 21.619 2.328 9,28
12
3 Công ty Phân lân nung
chảy Văn Điển (sản xuất
phân bón)
246.474 0,6 645 0,0 (?)
4 Công ty CP Phân lân
Ninh Bình (sản xuất
phân bón)
124.363 1.963 480 4,08
5 Công ty CP Cao su Sao
Vàng (sản xuất sản
phẩm cao su)
473.069 127.644 1.595 79,38
6 Công ty CP Cao su Đà
Nẵng(sản xuất sản phẩm
cao su)
584.408 122.706 1.608 76,30
7 Công ty TNHH một
thành viên Hoá chất Cơ
bản miền Nam (sản xuất
hoá chất)
361.439 23.197 1.200 19,33
8 Công ty TNHH một
thành viên Apatit Việt
Nam ( khai thác và
906.135 64.612 2.959 21,83
13
tuyển quặng apatit)
9 Công ty CP Bột giặt LIX
( sản xuất chất giặt rửa)
152.173 8.351 867 9,63
10 Công ty CP Thuốc sát
trùng Việt Nam (sản
xuất thuốc BVTV)
276.922 12.197 520 23,45
11 Công ty TNHH một
thành viên Hơi kỹ nghệ
–Que hàn (sản xuất que
hàn và khí công nghiệp)
204.424 97.312 590 164,93
12 Công ty CP Ac quy Tia
Sáng ( sản xuất acquy)
137.094 32.899 305 107,86
13 Công ty CP Pin- Acquy
miền Nam (sản xuất pin
và ac quy)
442.319 52.479 1.650 31,81
14 Công ty CP Phụ gia và
sản phẩm dầu mỏ (sản
xuất dầu mỡ nhờn và các
65.383 6.074 110 55,21
14
chất lỏng thuỷ lực)
Tổng cộng 6.605.963 616.613,6
18.012 34,23
Nguồn: VINACHEM
3. Quy mô sản xuất của hầu hết các dây chuyền sản xuất hiện có của CNHC
đều nhỏ, không phát huy được hiệu quả về “quy mô sản xuất”, khiến sản phẩm
phải “gánh” chịu chi phí cao về quản lý, hạ tầng cơ sở, v.v Ngoài ra, do nhiều
dây chuyền sản xuất không tận dụng triệt để được sản phẩm phụ, chất thải và năng
lượng thải nên rất lãng phí, giá thành sản xuất càng cao, đồng thời còn có thể gây
ra ô nhiễm môi trường.
4. Vốn lưu động của các doanh nghiệp trong ngành đều rất thấp so với
doanh thu, có doanh nghiệp vốn lưu động chỉ bằng một vài phần trăm tổng doanh
thu trong năm, vì vậy ngoài khó khăn về nguồn vay vốn, thì lãi suất vốn vay cũng
là một yếu tố góp phần tăng chi phí đầu vào sản xuất. Ngoài ra, nhiều sản phẩn của
CNHC được tiêu thụ theo phương thức đại lý và trả chậm (nhất là các loại phân
bón, săm lốp, v.v ) vì thế ảnh hưởng của việc thiếu vốn càng trầm trọng.
5. Tỷ lệ khấu hao tài sản cố định trong giá thành sản phẩm đối với các dây
chuyền đã hết khấu hao thường thấp, nhưng đối với các dây chuyền mới đầu tư
thường khá cao. Lý do được đưa ra là do sức ép cần tăng tỷ lệ trích khấu hao để
nhanh thu hồi vốn nhằm sớm đổi mới máy móc thiết bị hoặc đầu tư thêm thiết bị
mới.
15
6. Gia tăng các chi phí liên quan đến bảo vệ môi trường, bao gồm chi phí di
chuyển nhà máy, chi phí xử lý chất thải tại nhiều doanh nghiệp trong ngành. Đặc
biệt trong thời gian qua, các công ty như Supephôtphat và Hoá chất Lâm Thao,
Phân bón Bình Điền, Phân bón miền Nam, Hoá chất cơ bản miền Nam, Hơi Kỹ
nghệ- Que hàn, v.v đã phải chi phí rất lớn để thực hiện chuyển đổi công nghệ sản
xuất, di chuyển cơ sở sản xuất hoặc xử lý môi trường.
7. Tất cả các doanh nghiệp trong ngành, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước
còn phải có nghĩa vụ xã hội như các khoản đóng góp cho chính sách xã hội, cứu
trợ thiên tai bão lụt, trách nhiệm góp phần xây dựng địa phương, v.v Các khoản
đóng góp này được lấy từ quỹ phúc lợi, nhưng suy cho cùng, thì cũng là từ sản
xuất nên vẫn góp phần làm cho giá thành sản phẩm bị dâng cao.
II.2. một số yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí đầu vào sản xuất
Trong sản xuất công nghiệp, chi phí đầu vào sản xuất bao gồm nhiều yếu tố.
Trong đó có các yếu tố tương đối “tĩnh” như khấu hao thiết bị, hạ tầng (liên quan
đến vốn đầu tư ) và các yếu tố “động” như chi phí về nguyên liệu, nhiên liệu, năng
lượng và chi phí tiền công lao động, thuế, công tác thị trường (liên quan đến sự
vận động của vốn lưu động).
Ngoài ra các doanh nghiệp còn có những khoản chi phí khác như chi phí cho
áp dụng tiêu chuẩn, bản quyền, môi trường và thực hiện các công tác xã hội, v.v
16
Tuy nhiên việc phân chia như trên chỉ mang tính tương đối vì tuỳ theo điều
kiện sản xuất kinh doanh của từng sản phẩm và trong từng giai đoạn cụ thể mà tác
động của một số yếu tố nào đó sẽ nổi trội hơn.
Ở đây chúng tôi chỉ xem xét đến tác động của một số yếu tố như giá nguyên
liệu, nhiên liệu và năng lượng và cước phí vận tải đối với chi phí đầu vào của sản
phẩm. Vì các yếu tố này là những yếu tố quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và tính
hiệu quả của một dây chuyền sản xuất, nhất là đối với các ngành công nghiệp sử
dụng nhiều năng lượng (sản xuất xi măng, thép, hóa chất, v.v ), giá sản phẩm
thấp (sản xuất phân bón, xi măng) hoặc có tỷ trọng về giá nguyên liệu cao trong
giá thành sản phẩm (sản xuất giấy, một số hóa chất cơ bản, phân bón, ac quy, chất
giặt rửa, săm lốp cao su, v.v ).
III.2.1. Ảnh hưởng của giá điện
Điện là một yếu tố có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của nhiều
lĩnh vực công nghiệp vì dạng năng lượng này tạo nguồn động lực trong hầu hết
các hoạt động của cơ sở sản xuất. Điện có vai trò trong các hoạt động sau đây của
một cơ sở sản xuất công nghiệp: phát động và vận hành các hoạt động cơ học của
các dây chuyền sản xuất, chiếu sáng, thông gió và đảm bảo môi trường sản xuất,
đo lường và kiểm soát hoạt động của các thiết bị và dây chuyền sản xuất, phục vụ
sinh hoạt của người lao động, v.v
Tuỳ theo từng ngành công nghiệp mà chi phí chung về điện có thể rất khác
nhau trong giá thành sản phẩm.
17
Thực tế trong thời gian qua, sự thay đổi (tăng) giá điện đã khiến hầu hết các
ngành sản xuất nước ta bị ảnh hưởng. Giá nhiều sản phẩm công nghiệp tăng.
Chúng ta đã biết, theo phương án giá điện bình quân tăng lên 842 đồng/kWh
(cao hơn 7,6% so với trước đó) và các ngành sản xuất đặc thù như luyện thép, sản
xuất nước sạch, phân urê, hóa chất đã không được trợ giá điện từ 1/1/2007. Khi
đó các doanh nghiệp sử dụng nhiều điện thuộc các ngành sản xuất trên đã phải
xem xét ngay tác động của tăng giá điện tới lĩnh vực sản xuất của mình.
Theo Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học thị trường giá cả Ngô Trí Long,
việc tăng giá điện trong thời kỳ đó đã dẫn đến việc tăng giá thành sản xuất của
nhiều mặt hàng thiết yếu như xi măng, sắt thép, phân bón, hóa chất, v.v Tuy
nhiên, việc tăng giá sẽ tùy thuộc vào đặc thù của từng loại sản phẩm do tỉ lệ sử
dụng khác nhau về điện năng trong sản xuất.
Để làm rõ tác động của giá điện đối với sản xuất công nghiệp ở nước ta, ở
đây xin nêu một vài trường hợp điển hình có liên quan nhiều đến chi phí về điện.
Sản xuất thép :
Ông Phạm Chí Cường - Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam cho biết, trước đây
sản xuất phôi thép được hưởng giá điện ưu đãi, nhưng từ 1/1/2007 không còn nữa.
Theo quy định của ngành Điện, giá điện dành cho sản xuất tăng 20% vào giờ cao
điểm. Điều này sẽ có tác động nhiều đến sản xuất phôi thép. Lý do là phôi thép
phải nấu luyện liên tục, không thể chỉ làm vào giờ thấp điểm và ngừng vào giờ cao
điểm, vì vậy khi giá điện tăng thì chi phí cho giá thành phôi cũng tăng theo, theo
đó giá thép cũng tăng.
18
Theo tính toán của Hiệp hội Thép Việt Nam, các doanh nghiệp đang tiêu thụ
bình quân 700 kWh điện cho 1 tấn phôi. Như vậy với giá mới, chi phí điện trong
giá thành sẽ tăng khoảng 100 nghìn đồng/ tấn phôi. Năm 2007 các doanh nghiệp
sản xuất 1,8 triệu tấn phôi, như vậy chi phí tiền điện cho riêng phôi thép sẽ tăng
thêm khoảng 180 tỷ đồng. Ngoài ra ở khâu cán thép, chi phí về điện cũng tăng
thêm 10 nghìn đồng/tấn. Năm 2007 ngành thép cũng dự kiến cán 4 triệu tấn thép,
chi phí về điện sẽ tăng thêm 40 tỷ đồng. Tổng cộng, ngành thép sẽ phải chi thêm
220 tỷ đồng tiền điện.
Sản xuất xi măng và gốm xây dựng :
Đối với sản xuất xi măng, chi phí về điện cũng lớn. Theo tính toán của Tổng
công ty Xi măng Việt Nam, để sản xuất 1 tấn xi măng, ngoài tiêu hao về than đốt
lò, còn cần phải tiêu hao hết 120 kWh điện. Năm 2007 với sản lượng xi măng của
toàn Tổng Công ty là 14 triệu tấn, do giá điện tăng 20% vào giờ cao điểm nên mỗi
tấn xi măng phải chi phí thêm hơn 10 nghìn đồng tiền điện và sẽ tăng chi phí sản
xuất lên trên 100 tỉ đồng so với trước đó.
Ông Trần Đình Thể - Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Thuỷ tinh và
Gốm xây dựng cho biết, năm 2006, Tổng Công ty này đã sử dụng hết 128,9 triệu
kWh điện với giá bình quân 881 đồng/kWh. Tổng chi phí cho điện hết 114 tỷ
đồng, chiếm khoảng 5% chi phí sản xuất. Năm 2007, Tổng công ty sử dụng hết
140 triệu kWh điện. Với mức tăng giá điện vào giờ cao điểm là 20%, chi phí cho
phần tăng này năm 2007 của Tổng Công ty đã tăng thêm 3% so với trước.
Sản xuất của một số ngành trong CNHC:
Ngoài những vai trò quan trọng tương tự như trong các ngành sản xuất công
nghiệp khác, trong một số lĩnh vực sản xuất thuộc CNHC, năng lượng điện có vai
19
trò đặc thù và không thể thay thế được bằng các dạng năng lượng khác, chẳng hạn:
tạo các phản ứng điện hoá trong sản xuất theo phương pháp điện phân như sản
xuất xút-clo, sản xuất một số hóa chất theo phương pháp oxyhóa khử bằng dòng
điên, hoá thành acquy, v.v , hoặc tạo chế độ nhiệt chính xác và linh hoạt cho các
thùng phản ứng, v.v Giá điện tăng sẽ trực tiếp nâng cao giá thành sản xuất đối
với các sản phẩm trong ngành, đặc biệt đối với những sản phẩm thuộc các ngành
cần dùng nhiều điện và có tỷ trọng về giá điện lớn trong giá thành sản phẩm.
Trong năm 2007, VINACHEM đã nhiều lần họp để xem xét tác động của giá
điện lên sản xuất. Một số sản phẩm của Tổng Công ty như sản xuất xút - clo, phốt
pho vàng, đất đèn, acquy, phân bón, v.v sử dụng nhiều điện và tỷ trọng giá điện
trong chi phí đầu vào khá cao. Thực tế cho thấy có những trường hợp chỉ cần thay
đổi không nhiều về giá điện, sản xuất đã có thể từ lãi thành lỗ.
Cũng tương tự như ở ngành Thép, khi sản xuất một số sản phẩm thuộc
CNHC, dây chuyền sản xuất phải chạy liên tục không kể giờ cao điểm hay thấp
điểm về cấp điện, ví dụ sản xuất xút-clo, phân lân nung chảy, đất đèn, phốt pho
vàng, v.v Vì vậy không thể tránh được giá điện cao vào giờ cao điểm. Mặt khác
khi giá điện tăng thì các nhà cung cấp nguyên liệu cũng tăng giá bán do chính họ
cũng bị ảnh hưởng của việc tăng giá điện. Như vậy là một số sản phẩm của CNHC
bị hai hoặc nhiều tầng tăng giá về điện chứ không phải một tầng. Tại đây chỉ nêu
lên một vài ngành hàng tiêu biểu của CNHC bị tác động trực tiếp của giá điện.
Phân bón là một trong những ngành sản xuất chịu sức ép cao từ việc tăng giá
điện. Theo tính toán của một số nhà sản xuất trong ngành, nếu giá điện tăng thêm
trung bình 7,6% sẽ khiến đầu vào sản xuất phân bón tăng khoảng 8-9 % hoặc hơn,
có lẽ do chịu 2 tầng tăng giá về năng lượng như đã trình bày. Chẳng hạn, trong
20
năm 2007 giá điện tăng 20% vào giờ cao điểm đã làm tăng đầu vào sản xuất phân
bón khoảng 10% riêng vì giá điện tăng.
Các cơ sở sản xuất xút-clo, sản xuất ac quy là những cơ sở sản xuất “nhạy
cảm” nhất đối việc tăng giá điện.
Trong công nghệ điện phân xút-clo, trung bình chi phí điện năng cho khâu
điện phân/ tấn xút (quy khô) theo công nghệ thùng điện phân diaphram là 2700
kWh, còn theo công nghệ thùng điện phân màng trao đổi ion (membrane) là 2000-
2400 kWh. Tại nhiều cơ sở sản xuất hoá chất ở Việt Nam hiện nay, do được đầu tư
nâng cấp thùng điện phân, nên tiêu hao điện trong quá trình điện phân không vượt
quá 2450-2550 kWh/ tấn xút đối với loại thùng điện phân diaphram, còn đối với
loại thùng điện phân membrane thì tiêu hao điện năng thấp hơn một chút. Tuy
nhiên nếu cộng cả phần điện tiêu hao cho các hoạt động khác trong dây chuyền
sản xuất thì chi phí về giá điện có thể chiếm trên dưới 30 % giá thành sản xuất sản
phẩm xút. Khi giá điện tăng bình quân 7,6 % thì đương nhiên giá thành sản phẩm
xút cũng phải tăng gần 2,5% tương ứng riêng vì tiền điện tăng.
Với các công nghệ sản xuất phôt pho vàng, đất đèn và các dẫn xuất từ đất
đèn (axetylen, muội axêtylen) và một số sản phẩm khác thuộc CNHC cũng có các
kết quả tính toán tương tự về sự phụ thuộc của giá thành sản phẩm vào giá điện.
II.2.2. Ảnh hưởng của giá nhiên liệu (than, xăng dầu và khí đốt)
Hiện tại, trong nhiều ngành công nghiệp ở nước ta, mức sử dụng nhiên liệu
(than, dầu, khí tự nhiên, v.v ) vẫn khá lớn nên giá nhiên liệu đã ảnh hưởng trực
tiếp đến giá thành sản phẩm của các ngành này.
21
Than là nhiên liệu vô cùng quan trọng đối một số loại hình sản xuất công
nghiệp, đặc biệt là đối với những loại hình sản xuất cần nhiều năng lượng nhiệt
như luyện kim, phát nhiệt điện, sản xuất xi măng và gốm xây dựng, v.v Than sử
dụng trong công nghiệp gồm nhiều loại như than cốc, than đá, v.v , mỗi loại than
lại được chia ra nhiều chủng loại và cỡ hạt có giá và ứng dụng khác nhau.
Về than cốc, do thiếu nguồn nguyên liệu than mỡ cho công nghiệp than cốc,
nên nước ta chỉ có công nghệ sản xuất than cốc rất nhỏ bé thuộc Tổng Công ty
Thép Việt Nam. Cũng vì vậy phần lớn lượng than cốc sử dụng trong nước đều
phải nhập khẩu, chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc, vì vậy giá than cốc ở Việt
Nam đắt hơn nhiều loại than khác và phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu.
Về than đá, nước ta tương đối sẵn. Chất lượng than đá nước ta đã được đưa
vào tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN), theo đó người sử dụng có thể dễ dàng lựa chọn.
Thậm chí một số hộ sử dụng còn lựa chọn than theo cả xuất xứ của mỏ than. Than
đá ở nước ta chủ yếu là loại than gầy (antraxit) và than ở vùng mỏ than Đông Bắc
(Uông Bí, Vàng Danh, v.v ) là các loại than tốt nhất do có nhiệt trị cao và hàm
lượng xỉ, lưu huỳnh thấp. Một số mỏ than nội địa (ngoài vùng than Đông Bắc)
cũng có chất lượng tốt nhưng cũng có một số loại có hàm lượng lưu huỳnh cao
(trên 3%) hoặc hàm hượng xỉ cao (trên 20%).
Mỗi một công nghệ hoặc dây chuyền sản xuất lại đòi hỏi sử dụng một loại
than khác nhau. Hiện tại ở nước ta giá các loại than tương đối khác nhau, và nhìn
chung giá các loại than có cỡ hạt lớn trên 25 mm (than cục) có giá cao hơn gấp đôi
than cỡ hạt nhỏ (than cám) cùng loại. Vì vậy công nghệ nào sử dụng được than
cám sẽ có nhiều khả năng cạnh tranh hơn so với công nghệ phải sử dụng than cục.
22
Để giảm chi phí về than, trên thế giới người ta có xu hướng nghiên cứu các
dây chuyền công nghệ sử dụng được các loại than cám giá rẻ, hạn chế sử dụng
than cục giá cao hoặc nghiên cứu đóng bánh than từ than cám cho các dây chuyền
bắt buộc phải sử dụng than cục.
Ngoài ra tại nhiều dây chuyền sản xuất quy mô lớn, người ta sử dụng công
nghệ khí hóa than, chuyển than đá thành khí tổng hợp (syngas). Syngas (chứa CO
và H
2
) được sử dụng làm nhiên liệu (để phát điện, tạo hơi ), hoặc trở thành
nguyên liệu cho tổng hợp hóa học (sản xuất phân đạm, metanol và một số hóa chất
khác). Phương pháp khí hóa cho phép sử dụng linh hoạt năng lượng từ than và
trong một số trường hợp còn thu được tỷ suất năng lượng cao hơn so với sử dụng
năng lượng nhiệt từ đốt than trực tiếp và góp phần hạ giá sử dụng than.
Trong vài thập kỷ gần đây, việc dùng xăng dầu và các loại khí tự nhiên làm
nguồn phát năng lượng cho hoạt động sản xuất công nghiệp và giao thông vận tải
ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và đẩy than vào vị trí thứ yếu. Tuy nhiên do gần đây
giá dầu mỏ ngày càng tăng (đầu năm 2008 có lúc đã đạt mức trên 120 USD/thùng)
nên than đá đang được quan tâm trở lại và giá than cũng đang tăng mạnh trên thị
trường thế giới.
Các nhiên liệu có nguồn gốc dầu mỏ hiện vẫn là nguồn nhiên liệu quan
trọng nhất trong sản xuất công nghiệp và đời sống của thế giới. Nước ta là nước
xuất khẩu dầu mỏ nhưng do chưa có công nghiệp lọc dầu nên vẫn phải nhập mỗi
năm hàng chục triệu tấn xăng dầu. Ngoài ra ở nước ta còn phải nhập khẩu thêm
khí hóa lỏng từ các nước trong khu vực do nguồn cung trong nước còn hạn chế.
Nhìn chung, các loại nhiên liệu (than, sản phẩm dầu khí) có vai trò trong các
hoạt động sau đây của một cơ sở sản xuất công nghiệp: tạo ra năng lượng nhiệt và
23
nhiệt độ cần thiết cho các quá trình sản xuất (gia công, xử lý vật liệu) và các quá
trình xử lý nhiệt thường được tiến hành trong các thiết bị đặc biệt (các loại lò
nung, lò sấy, thùng phản ứng, v.v ; tạo ra năng lượng cơ học để phát động và vận
hành các hoạt động cơ học của các dây chuyền sản xuất và quá trình này phải
thông qua các quá trình chuyển hoá nhiệt-cơ có sử dụng nồi hơi hoặc không sử
dụng nồi hơi (động cơ đốt trong, động cơ điezen, v.v ).; phục vụ sinh hoạt của
người lao động (tạo nước nóng, hệ thống sưởi hơi ở các xứ lạnh, v.v ).
Cũng như đối với năng lượng điện, tuỳ theo từng ngành công nghiệp cụ thể
mà chi phí chung về nhiên liệu có thể rất khác nhau trong giá thành sản phẩm.
Việc tăng giá than, dầu mỏ, khí đốt sẽ trực tiếp đánh vào giá thành sản xuất đối với
sản xuất công nghiệp nói chung và nhất là đối với các ngành sản xuất cần dùng
nhiều nhiên liệu, hoặc có tỷ trọng về chi phí nhiên liệu cao trong giá thành sản
phẩm như các ngành Điện, Xi măng, Thép, Phân bón và Hóa chất, v.v
Sau đây chúng ta chỉ xem xét ảnh hưởng của giá nhiên liệu đối với một số
ngành có sử dụng nhiều than đá ở nước ta. Còn ảnh hưởng của giá xăng dầu
thường lại liên quan đến chi phí vận tải.
Sản xuất thép:
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam, đối với sản xuất thép, với mức tăng giá bán
than theo kế hoạch trong năm 2007, giá thành của thép thành phẩm đã tăng 0,6-
1,0% chưa kể các nguyên nhân tăng chi phí đầu vào khác (như giá phôi thép tăng).
Đối với sản xuất từ phôi thép có nguồn gốc trong nước, thì trong giá phôi thép
cũng có phần tăng giá của than nên thực tế thép thành phẩm sản xuất trong nước
cũng phải chịu tác động kép của việc tăng giá than.
24
Thực tế trong thời gian gần đây, giá thép trong nước đã tăng đột biến từ dưới
10 triệu đồng/tấn vào cuối năm 2006 đã lên gần 15 triệu đồng/ tấn vào giữa năm
2007 và nhảy lên gần 19 triệu đồng/tấn vào đầu năm 2008. Trong sự tăng giá thép
có yếu tố tăng do giá than tăng khá rõ ràng.
Sản xuất xi măng:
Theo tin từ Tổng Công ty Than Việt Nam (nay là Tập đoàn Than- Khoáng
sản Việt Nam), giá than cho sản xuất xi măng đã chính thức được Tổng Công ty
này tăng giá kể từ 1/1/2005. Đây là đợt tăng giá nằm trong chủ trương nâng giá
than bán cho 4 hộ tiêu thụ lớn trong nước như Xi măng, Điện, Phân bón, Giấy.
Trong đợt này, giá than bán cho ngành sản xuất xi măng và các ngành khác có
mức tăng đề xuất là 20%. Sau khi tăng giá than, nhiều bài báo và ý kiến xã hội đã
cho rằng đây là những lý do cơ bản khiến việc tăng giá hàng hóa vào năm 2007.
Trước tình hình giá than tăng, Tổng Công ty Xi măng Việt Nam, một khách
hàng lớn của Tổng Công ty Than, đã chịu sức ép rất lớn.
Lý do là theo tính toán của Tổng Công ty Xi măng Việt Nam, loại than chủ
yếu mà các nhà máy của ngành sử dụng là than cám 3b Hòn Gai. Loại than này đã
tăng thêm tăng tới 17,7% (65,5 nghìn đồng/tấn) so với mức giá năm 2004 (369,5
nghìn đồng/tấn). Đây là đợt tăng giá than cao nhất tới thời điểm đó. Theo giá than
mới thì giá thành của xi măng sản xuất thời gian đó sẽ tăng thêm 9.700 đồng/tấn,
tức là khoảng 1,5%. Theo Tổng Công ty Xi măng Việt Nam, chi phí riêng về than
dùng làm nhiên liệu cho sản xuất xi măng năm 2005 so với năm 2004 tăng thêm
90 tỷ đồng.
Hiệp hội Xi măng Việt Nam nhận định, ngành Xi măng đã gặp rất nhiều khó
khăn khi thực hiện các phương án điều chỉnh giá than và điện, hai nguồn đầu vào
25
quan trọng nhất trong sản xuất xi măng. Một tính toán khác của ngành Xi măng
cho biết kể cả do tăng giá điện và than, thời gian đó bình quân mỗi tấn xi măng đã
phải tăng chi phí sản xuất thêm 30 nghìn đồng.
Để đối phó với giá than tăng khiến giá thành sản phẩm xi măng tăng theo,
ngành Xi măng đã có tờ trình lên Thủ tướng Chính phủ đề nghị nâng giá xi măng
trong giai đoạn 2005-2010 lên khoảng 60 USD/tấn (tức là lên khoảng 1,2 triệu
đồng/tấn) để đảm bảo có tích lũy phục vụ tái đầu tư trong kỳ.
Theo Hiệp hội Xi măng Việt Nam, từ tháng 1/2008 ngành Than đã tăng giá
than bình quân đối với sản xuất xi măng khoảng 70% so với giá than năm 2007.
Chỉ tính riêng việc tăng giá than đợt tháng 1/1/2008, thì chi phí sản xuất một tấn
ximăng bình quân đã phải tăng tiếp lên khoảng 30 nghìn đồng/tấn nữa riêng vì giá
than mà chưa tính đến yếu tố tăng giá khác (xăng dầu, cước vận tải và các vật liệu
nhập khẩu khác như clinker, giấy và hạt nhựa làm vỏ bao, v.v ).
Sau đợt tăng giá lần 1 vào 1/1/2008, ngành Than lại đề xuất tăng giá than
bán trong nước một số đợt nữa trong năm 2008 và đợt 2 ngay từ 1/4/2008. Do yêu
cầu kiềm chế lạm phát nên Chính phủ đã phải chỉ đạo tạm ngừng tăng giá một số
mặt hàng, trong đó có giá than đợt 1/4/2008. Nếu như kịch bản tăng gía than vẫn
tiếp tục được thực hiện thì giá bán than cho các hộ tiêu thụ lớn, trong đó có sản
xuất xi măng, sẽ phải mua than theo giá bình quân tăng 82%. Khi đó dự kiến giá
than cho sản xuất xi măng (như than cám 4a Hòn Gai sẽ tăng tới 1,15 triệu
đồng/tấn, than cám 4b Hòn Gai sẽ tăng 1,1 triệu đồng/tấn ) Theo Hiệp hội
Ximăng Việt Nam, giá than mới này sẽ làm cho giá thành mỗi tấn ximăng bình
quân sẽ phải tăng tiếp thêm 40 - 50 nghìn đồng/tấn nữa.