Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Tài liệu TIỂU LUẬN: Giải pháp đa dạng hoá các phương thức cho vay tại NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.71 KB, 75 trang )










TIỂU LUẬN:
Giải pháp đa dạng hoá các
phương thức cho vay tại
NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây





LỜI NÓI ĐẦU

1- Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:
Nước ta là một nước nông nghiệp, bước vào thời kì phát triển mới đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu: ‘‘Xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp, có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần, quốc phòng an
ninh vững mạnh, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh” Đảng ta đã nhấn mạnh
nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn liền với
công nghiệp chế biến các loại sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản. Những nội dung đó trong những
năm đầu của thế kỷ XXI vẫn còn là nhiệm vụ to lớn của toàn Đảng và toàn dân.
Hà Tây là một tỉnh có tiềm năng kinh tế lớn, đặc thù của tỉnh chủ yếu vẫn là sản xuất


nông nghiệp, là tỉnh có ngành hàng tiểu thủ công nghiệp và làng nghề phát triển, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong mọi lĩnh vực SXKD đặc biệt là chế biến hàng nông sản
phục vụ nhu cầu của bà con nông dân. Bên cạnh đó là các khu vực công nghiệp được hình
thành và phát triển theo định hướng phát triển kinh tế của Đảng, nhà nước và mục tiêu phát
triển kinh tế của tỉnh 2000-2010.
Để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của tỉnh theo hướng chuyển đổi tăng kinh tế công
nghiệp, dịch vụ, kinh tế du lịch, bên cạnh sự quan tâm của nhiều yếu tố, vấn đề đầu tư
vốn cho doanh nghiệp, cá nhân hộ gia đình để phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả
là hết sức quan trọng.
Vì vốn có vai trò quyết định đến việc thực thi các giải pháp khác, nhằm đưa nền
kinh tế địa phương phát triển một bước mới đẩy nền kinh tế của tỉnh theo mục tiêu kế
hoạch đã đề ra. Mặt khác để tiếp tục đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ, du lịch nhu cầu vốn đầu tư cho doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình là rất to lớn.
Tuy nhiên thực tế ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây, thời
gian qua đầu tư tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đã đạt được nhiều
thành quả dư nợ tín dụng tăng trưởng đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, đến nay đã có dấu hiệu chững lại, môi trường kinh doanh cạnh


tranh khắt khe, quy mô tín dụng khó được mở rộng, ở một số lĩnh vực chất lượng tín dụng có
chiều hướng giảm sút, nhu cầu vốn trong nền kinh tế thì lớn, nguồn vốn ngân hàng là đủ đáp
ứng, song vốn ngân hàng vẫn chưa thoả mãn được nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị
trường, tín dụng nông thôn vẫn còn lỗ hổng lớn cần phải được tiếp cận, thị trường thành thị
tuy cạnh tranh lớn xong ở đó tiềm năng còn rất lớn chưa khai thác hết.
Mặt khác trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng có vai trò to lớn trong việc cung
ứng vốn, phục vụ cho đầu tư phát triển, thêm vào đó việc cung ứng những thành tựu khoa
học kỹ thuật vào công nghệ ngân hàng đã giúp cho ngân hàng cung ứng vốn cho khách hàng
với nhiều phương thức khác nhau, hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam mới đang
thực hiện hoạt động cho vay thông qua những phương thức truyền thống, không đáp ứng
được đầy đủ những nhu cầu về vốn cho khách hàng, đã đến lúc NHTM Việt Nam cần phải

đa dạng hoá các phương thức cho vay của mình, đặt vấn đề chất lượng các khoản vay lên
hàng đầu để có thể đáp ứng ngày càng tốt hơn sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá
đất nước.
Việc đa dạng hoá các phương thức cho vay trước hết xuất phát từ vấn đề bức xúc
của khách hàng vay vốn sau đó tạo ra một lợi thế cạnh tranh cho chính ngân hàng trong
điều kiện hiện nay ngoài ra việc đa dạng hoá các phương thức cho vay cũng góp phần
cho ngân hàng có cơ hội được mở rộng hoạt động của mình hơn nữa, hội nhập với nền tài
chính khu vực và quốc tế. Trong khuôn khổ khoá luận tôi xin mạnh dạn lựa chọn đề tài:
Giải pháp đa dạng hoá các phương thức cho vay tại NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây.
2- Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, như đã đề cập ở phần cấp thiết của đề tài, tác giả
khoá luận tập trung nhiên cứu: Thực trạng nhằm tìm ra những giải pháp về phương thức
cho vay khả thi nhất để mở rộng tín dụng, tăng lợi nhuận, phân tán và giảm thiểu rủi ro,
mặt khác do tác dụng của việc áp dụng đa dạng hoá các phương thức cho vay có tác động
đẩy mạnh nghiệp vụ huy động nguồn vốn, phát triển dịch vụ ngân hàng, tăng sức cạnh
tranh cho ngân hàng nông nghiệp, phục vụ tốt mục tiêu định hướng phát triển kinh tế của
tỉnh Hà Tây.




3- Đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài:
- Đối tượng nghiên cứu là hoạt động tín dụng và các phương thức cho vay của
NHTM nói chung và NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây nói riêng.
- Phạm vi nghiên cứu của khoá luận: Được giới thiệu một số vấn đề lý luận và thực
tiễn có liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng và các phương thức cho vay được áp
dụng ở một ngân hàng thương mại cơ sở đó là NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây từ đó đề ra giải
pháp cơ bản nhằm đa dạng hoá các phương thức cho vay tại ngân hàng này.
4- Phương pháp nghiên cứu:
Khoá luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, xem xét sự vật

hiện tượng trong trạng thái vận động, biến đổi không ngừng, thường xuyên có mối liên hệ
qua lại tác động lẫn nhau, sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp số liệu thực tế, vận dụng
lý luận vào thực tiễn để giải thích nguyên nhân và xây dựng các phương pháp thích hợp, mặt
khác sử dụng phương pháp phân tích thị trường: căn cứ cơ sở nội dung định hướng cũng như
nhu cầuvốn cho DN, cá nhân, hộ gia đình kết hợp với căn cứ thể lệ chế độ của ngành để xây
dựng giải pháp nhằm đa dạng hoá các phương thức cho vay tại NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây .
5- Kết cấu đề tài:
Ngoài lời nói đầu kết cấu khoá luận gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động cho vay và phương thức cho vay
của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng các phương thức cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị đa dạng hoá các phương thức cho vay tại Chi
nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây.


CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY VÀ PHƯƠNG THỨC
CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế
1.1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng:
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người cho vay (ngân
hàng thương mại) sang người đi vay (khách hàng) và sau thời gian nhất định theo thoả
thuận bên đi vay hoàn trả cả gốc và lãi cho bên cho vay.
Hoạt động tín dụng là một phần của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Hoạt động này
ra đời từ buổi bình minh của ngân hàng và trở thành một trong hai nghiệp vụ cơ bản của
ngân hàng. Đây cũng là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng bởi vì thu nhập từ
các khoản cho vay chiếm phần lớn thu nhập của ngân hàng, lượng tiền cho vay cũng tăng
lên đáng kể, các hình thức cho vay cũng vô cùng phong phú.
1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế

 Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội
Thứ nhất: Vai trò quan trọng nhất của tín dụng là cung ứng vốn một cách kịp thời cho
các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Nhờ đó mà các
chủ thể này có thể đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như tốc độ tiêu thụ sản phẩm.
Thứ hai: Một hệ thống các hình thức tín dụng đa dạng không những thoả mãn nhu cầu
đa dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín dụng trở
nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí nguồn vốn cho các chủ
thể kinh doanh.
Thứ ba: Việc mở rộng và nâng cao hiệu quả các hình thức tín dụng sẽ tạo sự chủ động
cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh khi nó không
phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân. Điều này giúp cho các nhà
sản xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực sản xuất của xã hội.
Thứ tư: Các nguồn vốn tín dụng được cung ứng luôn kèm theo các điều kiện tín dụng
để hạn chế rủi ro đạo đức và rủi ro lựa chọn đối nghịch buộc những người đi vay phải
quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo mối quan hệ lâu dài với các tổ
chức cung ứng tín dụng.


 Tín dụng là kênh chuyển tải tác động của Nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô
Các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế bao gồm ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế và tạo
công ăn việc làm. Việc đảm bảo đạt được mục tiêu kinh tế vĩ mô hài hoà phụ thuộc một
phần vào khối lượng và cơ cấu tín dụng xét cả về mặt thời hạn cũng như đối tượng tín
dụng. Vấn đề này, đến lượt nó, lại phụ thuộc vào các điều kiện tín dụng như lãi suất, điều
kiện vay, yêu cầu thế chấp, bảo lãnh và chủ trương mở rộng tín dụng được quy định trong
chính sách tín dụng từng thời kỳ. Như vậy thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều
kiện tín dụng, Nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động
của nguồn vốn tín dụng, nhờ đó mà ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế cả về quy
mô cũng như kết cấu. Sự thay đổi của tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ
tác động ngược lại tới tổng cung và các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối
cùng giữa tổng cung và tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ cho phép đạt

được các mục tiêu vĩ mô cấn thiết.
 Tín dụng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội
Các chính sách xã hội, về mặt bản chất được đáp ứng bằng nguồn tài trợ không hoàn
lại từ Ngân sách Nhà nước. Song phương thức tài trợ không hoàn lại thường bị hạn chế
về quy mô và thiếu hiệu quả. Để khắc phục hạn chế này, phương thức tài trợ không hoàn
lại có xu hương bị thay thế bởi phương thức tài trợ có hoàn lại của tín dụng nhằm duy trì
nguồn cung cấp tài chính và có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng chính sách. Chẳng hạn
việc tài trợ vốn cho người nghèo ngày nay được thực hiện phổ biến bằng tín dụng đối với
người nghèo với lãi suất thấp. Thông qua phương thức tài trợ này, các mục tiêu chính sách
được đáp ứng một cách chủ động và hiệu quả hơn. Khi các đối tượng chính sách buộc phải
quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn thì kỹ năng lao
động của họ cũng sẽ được cải thiện từng bước. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho sự ổn
định tài chính của các đối tượng chính sách và từng bước làm cho họ có thể tồn tại độc lập
với nguồn tài trợ. Đó chính là mục đích của việc sử dụng phương thức tài trợ các mục tiêu
chính sách bằng con đường tín dụng.
1.1.3. Phân loại tín dụng ngân hàng
Dựa vào mục đích nghiên cứu mà người ta phân chia hoạt động tín dụng của ngân
hàng thương mại theo những tiêu thức khác nhau.


• Dựa theo mục đích sử dụng tiền vay:
Khi phân chia theo tiêu thức này, các nhà ngân hàng mong muốn tìm ra được
nguồn tiền trả nợ cho ngân hàng. Tuỳ theo mục đích sử dụng tiền vay của những người
vay tiền mà người ta phân chia hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại thành hai
loại chính là:
- Tín dụng tiêu dùng: Mục đích của loại tín dụng này là người đi vay phải sử
dụng tiền vay vào việc tiêu dùng, mua sắm tài sản nhằm mục đích phục vụ lợi ích cá
nhân.
Khi thực hiện hình thức cho vay này, cán bộ tín dụng đã phải tính đến là nguồn
tiền được dùng trả nợ ngân hàng chính là thu nhập cá nhân của người vay tiền. Hình thức

cho vay này chỉ mới xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, khi nền kinh tế hàng hoá phát triển và
những cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra khiến giới tư bản sản xuất đã phải bỏ đi bao
nhiêu hàng hoá khi mà nhu cầu tiêu dùng có nhưng không có cầu thực sự. Hình thức phổ
biến nhất của loại hình này là cho vay trả góp, một loại hình đã được áp dụng rất thành
công ở các nước phát triển. Ngân hàng có thể cho các công chức vay để họ mua sắm ôtô,
trả góp nhà ở các nước phương Tây và Mỹ thì việc một người có thể mua ôtô để đi lại trở
nên rất dễ dàng trong khi tài khoản của anh ta không cần phải có 100% hay 50% giá trị
của chiếc xe đó. Điều này đã giúp cho việc tiêu thụ hàng hoá trở nên thuận lợi hơn, do
vậy nó thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Tín dụng công nghiệp, nông nghiệp, thương mại và dịch vụ: Mục đích của
loại tín dụng này là ngân hàng cho các doanh nghiệp vay để phục vụ hoạt động kinh
doanh của mình, nhằm mở rộng sản xuất hay đáp ứng một nhu cầu nào đó về tiền của
doanh nghiệp. Dựa vào đặc điểm của từng ngành mà ngân hàng sẽ thiết lập các điều kiện
cho vay, phương thức cho vay, cách thức trả nợ dựa trên nguồn thu tiền bán hàng của
doanh nghiệp. Có thể phân chia loại hình này theo tiêu thức là cho vay doanh nghiệp sản
xuất và cho vay doanh nghiệp thương mại hay có thể phân chia theo các ngành nghề kinh
tế như: cho vay ngành nông nghiệp, cho vay ngành công nghiệp, cho vay ngành dịch vụ.
• Dựa theo thời hạn:
Dựa vào thời hạn của khoản vay, người ta có thể phân thành các khoản tín dụng
ngắn hạn và tín dụng trung dài hạn.


Tín dụng ngắn hạn: Các khoản vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn đến 12
tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các
nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đây là loại cho vay chiếm tỉ trọng lớn nhất của
các ngân hàng thương mại.
Tín dụng trung dài hạn: Các khoản vay trung và dài hạn là các khoản vay có thời
hạn trên 1 năm.
Đặc điểm:
- Vốn trong nghiệp vụ tín dụng trung dài hạn chủ yếu gắn liền với quá trình luân

chuyển vốn cố định của DN hay TD trung dài hạn tài trợ thiếu hụt về vốn cố định cho
DN.
- Tín dụng trung dài hạn gắn liền với các dự án đầu tư của DN, do đó có quy mô
và thời gian thực hiện kéo dài và tính chất phức tạp cao. Điều này đòi hỏi NH phải có
biện pháp quản lý phù hợp.
- Tín dụng trung dài hạn tiềm ẩn nhiều rủi ro -> lãi suất thường cao.
• Dựa theo hình thức bảo đảm của khoản vay.
Có thể phân chia các khoản cho vay của ngân hàng theo tiêu thức này như sau: các
khoản cho vay có bảo đảm và các khoản cho vay không có bảo đảm.
Các khoản cho vay có bảo đảm là những khoản cho vay mà bên cạnh việc cho
khách hàng vay vốn, ngân hàng còn nắm giữ tài sản của người vay với mục đích xử lý tài
sản đó để thu hồi vốn vay khi người vay vi phạm hợp đồng tín dụng. Quá trình cung ứng
vốn của ngân hàng thương mại, không kể dưới hình thức nào đều làm tăng khối lượng
tiền vào nền kinh tế, làm tăng lượng hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra khi thực hiện việc
cho vay, ngân hàng không trực tiếp quản lý nguồn vốn của mình vì thế có rất nhiều rủi ro
xảy ra, nguy cơ không thu hồi đủ vốn vay là rất cao vì thế các ngân hàng khi cho vay
thường yêu cầu người vay phải có tài sản bảo đảm cho khoản vay. Tài sản bảo đảm có thể
tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như:
- Tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay ngân hàng.
- Tài sản bảo đảm là tài sản của người đi vay.
- Tài sản bảo đả là tín chấp hoặc bảo lãnh của người thứ ba.


Trong cho vay kinh doanh, nguồn thu nợ thứ nhất là doanh thu đối với vay vốn lưu
động, hoặc là khấu hao, lợi nhuận đối với những khoản vay trung và dài hạn. Trong cho
vay tiêu dùng, nguồn thu nợ thứ nhất của ngân hàng là thu nhập cá nhân như tiền lương,
các khoản thu nhập tài chính và các khoản thu nhập khác. Khi đánh giá hoạt động của
khách hàng, nếu ngân hàng nhận thấy là nguồn thu nhập thứ nhất không có cơ sở chắc
chắn thì ngân hàng phải yêu cầu thiết lập thêm cơ sở pháp lý để có thêm nguồn thu nợ
thứ hai, chính là tài sản bảo đảm cho khoản vay đó. Trong quá trình phân tích khách hàng

khi cho vay, người ta quan tâm đến sáu yếu tố là: năng lực (capacity), uy tín (character),
tiền mặt (cash), tài sản bảo đảm (collateral), các điều kiện khác (conditions), kiểm soát
(control). Trong sáu yếu tố trên, tài sản bảo đảm là yếu tố kém quan trọng nhất vì khi cho
khách hàng vay, ngân hàng luôn mong muốn sẽ thu hồi được cả lãi và vốn vay, nếu có rủi
ro xảy ra ngân hàng buộc phải xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi vốn vay, khi này thì ngân
hàng là người gặp khó khăn nhất.
Các khoản cho vay không có bảo đảm là những khoản cho vay mà ngân hàng
không nắm giữ tài sản của người đi vay để xử lý nhằm thu hồi nợ mà thay vào đó là
những điều kiện ràng buộc khác khi kí hợp đồng tín dụng.
Những điều kiện này có thể là: Người đi vay không được giao dịch với ngân hàng
nào khác, hoạt động kinh doanh của người đi vay phải được ngân hàng quản lý. Có như
vậy ngân hàng mới quản lý được tình hình tài chính của người đi vay. Thông thường chỉ
có những khách hàng có quan hệ lâu năm với ngân hàng hoặc những khách hàng có uy
tín, hay những khách hàng mà ngân hàng có tham gia góp vốn vào thì mới được cho vay
không có bảo đảm.
• Dựa theo phương thức hoàn trả:
Căn cứ vào phương thức hoàn trả vốn vay, thì có thể phân loại cho vay của ngân
hàng thành:
- Các khoản vay được hoàn trả một lần: theo phương thức này vốn vay được cấp
cho người vay sau đó khi đến hết thời hạn vay vốn, người đi vay sẽ hoàn trả cho ngân
hàng toàn bộ số vốn vay và lãi một lần.
- Các khoản vay được hoàn trả định kì: theo phương thức này, cứ sau một khoảng
thời gian nhất định người đi vay phải hoàn trả một phần vốn vay cho ngân hàng. Vốn vay


và lãi có thể được hoàn trả theo các phương thức: gốc trả đều, lãi trả theo số dư; vốn vay
được trả theo niên kim cố định; gốc trả theo cấp số cộng hay cấp số nhân, lãi trả theo số

Việc lựa chọn phương thức hoàn trả vốn vay là phụ thuộc vào sự thoả thuận của
ngân hàng với khách hàng, điều này cũng phụ thuộc vào đặc điểm và tình hình hoạt động

của khách hàng. Ngân hàng luôn lựa chọn phương thức hoàn trả vốn vay có lợi cho mình
nhất.
• Dựa vào nguồn gốc hình thành khoản vay:
Theo tiêu thức này, các khoản cho vay của ngân hàng có thể phân chia thành các
khoản cho vay trực tiếp tại ngân hàng và các khoản cho vay gián tiếp qua ngân hàng.
- Các khoản cho vay trực tiếp tại ngân hàng là những khoản cho vay khi khách
hàng đến trực tiếp ngân hàng và xin vay vốn. Hầu hết các phương thức cho vay của ngân
hàng được áp dụng là hình thức này.
- Các khoản cho vay gián tiếp qua ngân hàng là những khoản cho vay mà ngân
hàng có thể mua lại từ một ngân hàng thương mại khác hay từ công ty mua bán nợ.
Việc lựa chọn phương thức cho vay cho phù hợp với tình hình thực tế và nhu cầu
của người đi vay là một vấn đề quan trọng của chính sách cho vay của ngân hàng. Khi
một ngân hàng có một chính sách cho vay phù hợp với nhu cầu về vốn của người sử
dụng, nó sẽ góp phần làm cho đồng vốn huy động được của ngân hàng trở nên có ý
nghĩa, việc sử dụng vốn của ngân hàng hiệu quả, đồng thời nó góp phần vào việc cung
ứng vốn kịp thời cho nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển.
1.2. Phương thức cấp tín dụng của NHTM
1.2.1. Phương thức cấp tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường
Một là: Tín dụng ứng trước
Tín dụng ứng trước là nghiệp vụ tín dụng mà ngân hàng cho khách hàng vay tiền
bằng cách ứng cho họ một số tiền nhờ đó mà khách hàng có vốn phục vụ cho hoạt động
sản xuất và kinh doanh. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thường
có sự chênh lệch về quy mô và thời gian giữa dòng lưu chuyển tiền thu vào và dòng lưu
chuyển tiền chi ra.
Bởi vậy trong những thời điểm thiếu vốn hoạt động thì doanh nghiệp


được ngân hàng cho vay ứng trước để đảm bảo sự cân đối ngân quỹ hàng ngày của họ.
Tín dụng ứng trước được phân chia thình 2 loại sau:
Cho vay từng lần là phương thức cho vay dựa trên cơ sở nhu cầu tín dụng của

từng đối tượng vay cụ thể.
Xuất phát từ đặc điểm của phương thức cho vay từng lần mà các ngân hàng
thương mại thường áp dụng phương thức cho vay này đối với các trường hợp không đủ
điều kiện để được vay theo phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.
Cho vay từng lần là phương thức cho vay thông dụng nhất của các ngân hàng. Bất
cứ một nhu cầu cần bổ sung vốn của doanh nghiệp phát sinh, doanh nghiệp cũng có thể
đến ngân hàng xin vay vốn theo phương thức này. Khi có nhu cầu vay vốn theo phương
thức này, khách hàng phải chuẩn bị một hồ sơ xin vay trong đó tự giới thiệu về mình, ghi
số lượng tiền cần vay, thời hạn trả và một phương án sử dụng tiền vay. Sau đó ngân hàng
sẽ thẩm định hồ sơ xin vay của khách hàng. Quá trình thẩm định của ngân hàng phải tiến
hành đầy đủ và khách quan. Ngân hàng phải thẩm định sáu yếu tố liên quan đến người
vay: tư cách pháp lý, uy tín, tiền mặt, tài sản bảo đảm, các điều kiện khách quan, kiểm
soát, ngoài ra ngân hàng còn phải thẩm định tình hình tài chính của người vay, phương
án sử dụng tiền vay có hiệu quả hay không.
Khi kí kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng và người vay phải thoả thuận với nhau về
số tiền vay (trên cơ sở không được vượt quá tỷ lệ % VTC tham gia vào dự án phương án
sản xuất kinh doanh cho phép theo quy định), lãi suất áp dụng, phương thức giải ngân
vốn và thu hồi vốn vay, thời hạn vay, các điều khoản liên quan đến vấn đề bảo đảm tiền
vay, quyền và trách nhiệm của mỗi bên. Khi nhận tiền vay, người vay nhận được một tờ
giấy nhận nợ hay còn gọi hợp đồng tín dụng. Đây chính là văn bản xác định chính xác số
tiền thực mà người vay nhận từ ngân hàng, trên đó có xác định ngày hoàn trả cụ thể.
Phương thức cho vay này là phương thức cho vay truyền thống thông dụng của
các ngân hàng thương mại. Vì thế mà hiện nay các ngân hàng thường cho vay theo
phương thức này. Tuy nhiên phương thức cho vay này có nhược điểm là mỗi lần cần vay
vốn là khách hàng phải lập một bộ hồ sơ xin vay. Điều này gây tốn kém cho khách hàng.
Đồng thời ngân hàng cũng phải mất công phải thẩm định lại những văn bản do khách
hàng mang đến. Điều này làm tăng chi phí cho cả khách hàng và ngân hàng.


Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng

Hạn mức tín dụng là giới hạn tối đa số tiền cho vay mà ngân hàng có thể cung cấp
cho một khách hàng trong một thời gian nhất định.
Cho vay theo hạn mức tín dụng là phương thức cho vay mà việc cho vay và thu nợ
căn cứ vào quá trình nhập, xuất vật tư, hàng hoá, ngân hàng cho vay khi doanh nghiệp có
nhu cầu vốn phát sinh để nhập vật tư, hàng hoá và ngân hàng thu nợ khi doanh nghiệp có
thu nhập từ việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá.
Như vậy, hạn mức tín dụng được tính dựa trên cơ sở nhu cầu về tài sản lưu động
thời kỳ kế hoạch, vốn lưu động ròng và các khoản nợ phi ngân hàng. Để xác định hạn
mức tín dụng hợp lý ngân hàng phải khẳng định phương án tài chính của doạnh nghiệp và
yêu cầu doanh nghiệp phải khai thác triệt để vốn lưu động ròng và các khoản phi ngân
hàng. Ngân hàng chỉ cho vay phần chênh lệch và theo một tỉ trọng nhất định.
Cho vay theo hạn mức tín dụng là hình thức cho vay mà không xác định chính xác
thời điểm cần vay và thời điểm hoàn trả, khối lượng tiền vay, mà ở đây có sự xen kẽ giữa
thời điểm vay và thời điểm hoàn trả, tạo nên những nhu cầu về vốn không rõ ràng của
doanh nghiệp.
Các đơn vị kinh doanh có những điều kiện như sau sẽ được áp dụng cho vay theo
hạn mức tín dụng:
- Có tín nhiệm với ngân hàng về việc vay vốn và trả nợ, có nhu cầu vay vốn
thường xuyên
- Thường xuyên có tiền thu bán hàng nộp vào ngân hàng, kinh doanh ổn định
Khi đến ngân hàng xin vay vốn, khách hàng chỉ làm một đơn xin vay lần đầu và
các tài liệu liên quan đến việc vay vốn để thiết lập mối quan hệ theo phương thức cho vay
theo hạn mức tín dụng. Nếu ngân hàng xét thấy có đủ điều kiện cho vay vốn theo phương
thức này thì ngân hàng và khách hàng cùng nhau thoả thuận về mức dư nợ cao nhất,
thường mức dư nợ này được tính trong một quý.
Do khi vay khách hàng chỉ phải làm đơn xin vay một lần và ngân hàng cũng chỉ
thẩm định một lần nên tiết kiệm chi phí, thời gian cho cả ngân hàng và khách hàng rất
nhiều.
Phương thức cho vay này thích hợp với những doanh nghiệp thương mại.



Hai là: Tín dụng thấu chi
Khái niệm: Là loại tín dụng mà qua đó ngân hàng cho phép khách hàng được sử
dụng vượt quá số tiền mà họ đã ký thác ở ngân hàng trên tài khoản vãng lai với một số
lượng và thời hạn nhất định.
Đặc điểm của tín dụng thấu chi:
- Giữa ngân hàng và khách hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng để khách hàng
được sử dụng số dư nợ trên tài khoản vãng lai trong một thời hạn nhất định.
- Khách hàng sử dụng vốn bằng cách phát hành séc mang số hiệu tài khoản vãng
lai hoặc bằng các công cụ thanh toán khác.
- Doanh số cho vay có thể lớn hơn hạn mức nếu trong quá trình sử dụng tiền trên
tài khoản khách hàng có tiền nộp vào bên có.
- Hạn mức tín dụng mà khách hàng và ngân hàng đã thoả thuận với nhau chưa
phải là tiền ngân hàng cho vay mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng (có xuất hiện dư nợ
của tài khoản vãng lai) mới được coi là ngân hàng cho vay và được tính lãi trên số dư nợ
đó.
- Vượt chi tài khoản là kỹ thuật cho vay mà số dư nợ thường xuyên biến động vì
thế khó thực hiện được đảm bảo tín dụng bằng hình thức bảo đảm đối vật
Điều kiện vay của phương thức này: Không phải bất cứ nhu cầu cần bổ sung vốn
của doanh nghiệp cũng được vay mà ngân hàng chỉ cho vay đối với những nhu cầu bức
thiết nhất.
Về nguyên tắc: Nếu khách hàng sử dụng quá hạn mức tín dụng đó thì coi như họ
đã vi phạm hợp đồng tín dụng và phải chịu các hình thức chế tài thích hợp. Tuy nhiên nếu
vì lý do khách quan dẫn đến nhu cầu vốn tăng lên ngân hàng xét thấy nhu cầu dó là cần
thiết và hợp lý thì ngân hàng có thể điều chỉnh hạn mức tín dụng cho khách hàng, ngân
hàng không tính lãi trên số tiền thoả thuận cho vay mà tính lãi trên số dư nợ thực tế của
tài khoản vãng lai trong những ngày dư nợ, nếu còn dư nợ gần hết thời hạn cho vay ngân
hàng làm văn bản thông báo cho khách hàng để họ biết và chủ động trả nợ số nợ không
trả hết mà không được ngân hàng cho gia hạn thêm thì sẽ bị ngân hàng áp dụng biện pháp
sử lý như trong hợp đồng tín dụng đã thoả thuận nhằm truy đòi đủ số tiền đã cho vay.



Về bản chất: cho vay thấu chi là trên tài khoản của doanh nghiệp không có tiền
mặt hoặc không có đủ tiền để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thì khách hàng vẫn có quyền chi
theo yêu cầu của mình.
Ưu điểm: Đối với khách hàng loại tín dụng vượt chi tài khoản tạo cho khách hàng
những thuận lợi đáng kể nhờ vào sự chủ động, linh hoạt khi sử dụng, giúp khách hàng
đảm bảo hoạt động của mình thông suốt, tình hình tài chính được ổn định.
Đối với ngân hàng, do bản chất của khoản vay này là khách hàng được chi vượt
quá số tiền trên tài khoản của mình nên bất cứ lúc nào ngân hàng cũng có khả năng đáp
ứng nhu cầu của khách hàng. Hơn nữa, khi có khoản thu tiền bán hàng, ngân hàng có thể
trích tiền đó để thu nợ giảm lãi phải trả ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của khách hàng
mong muốn quản lý vốn có hiệu quả mặt khác sử dụng hình thức tín dụng này nhằm điều
hoà thường xuyên ngân quỹ của họ.
Nhược điểm: Với hình thức tín dụng này, ngân hàng luôn luôn phải dự trữ vốn để
sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng khi họ còn hạn mức tín dụng, nhưng trên thực
tế họ có thể không sử dụng hoặc không sử dụng hết hạn mức tín dụng đó. Trong khi ấy
ngân hàng không được tính lãi trên toàn bộ số tiền và thời hạn cho vay đã thoả thuận (để
giải quyết mâu thuẫn này các ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải trả một khoản
phí cam kết theo một tỉ lệ nhất định tính trên hạn mức tín dụng, không kể đến việc hạn
mức tín dụng đó được sử dụng như thế nào).
Mặt khác tiền ngân hàng cho vay không nhằm mục đích cụ thể nào theo chỉ định
của ngân hàng mà thường do khách hàng tuỳ ý sử dụng. Các đảm bảo nếu có chỉ là yếu tố
phụ, ngân hàng khó có thể kiểm soát được việc sử dụng tiền vay, vì vậy sự rủi ro của
ngân hàng có thể nhiều hơn các nghiệp vụ tín dụng khác. Vì những nhược điểm trên mà
ngân hàng thường hình thức tín dụng này đối với những khách hàng quen thuộc, có tín
nhiệm và ngân hàng có ý muốn giúp đỡ mà thôi.
Ba là: Cho vay dựa trên tài sản bảo đảm
Bảo đảm tín dụng hay còn gọi là bảo đảm tiền vay là việc bảo vệ quyền lợi của
người cho vay dựa trên cơ sở thế chấp, cầm cố tài sản thuộc sở hữu của người đi vay

hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
Từ góc độ của người cho vay bảo đảm phải thể hiện được 3 đặc trưng sau:


Giá trị của bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm
Bảo đảm tín dụng không chỉ là nguồn thu nợ của ngân hàng mà còn có ý nghĩa
thúc giục người đi vay phải trả nợ, nếu không họ sẽ mất tài sản. Nhưng, nếu giá trị của tài
sản nhỏ hơn nghĩa vụ được đảm bảo thì người đi vay dễ có động cơ không trả nợ.
Nghĩa vụ được bảo đảm bao gồm vốn gốc, lãi (kể cả lãi quá hạn) và các chi phí
khác trừ trường hợp các bên có thoả thuận lãi và các loại phí không thuộc phạm vi bảo
đảm được thực hiện nghĩa vụ này.
Tài sản phải có sẵn thị trường tiêu thụ
Mức độ thanh khoản của tài sản có quan hệ đến lợi ích của người cho vay. Mức độ
thanh khoản thấp hay nói cách khác là tài sản khó bán thường khó được ngân hàng chấp
nhận. Mức độ thanh khoản trung bình có thể chấp nhận được nhưng phải tính đến chi phí
do kéo dài thời gian xử lý.
Có đầy đủ sơ sở pháp lý để người cho vay có quyền ưu tiên về xử lý tài sản
Đặc trưng này phải thể được các mặt sau: tài sản phải thuộc sở hữu hợp pháp của
người đi vay hoặc người bảo lãnh và được pháp luật cho phép giao dịch, đồng thời phải
có đủ các cơ sở pháp lý để ngân hàng- chủ thể cho vay được quyền ưu tiên xử lý tài sản
nhằm thu nợ khi người đi vay không thanh toán đúng hạn.
Có ba hình thức bảo đảm tín dụng cơ bản là thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của bên
thứ ba. Theo pháp luật Việt Nam tài sản thế chấp bao gồm bất động sản và giá trị quyền sử
dụng đất. Tài sản cầm cố bao gồm các động sản, kể cả các quyền về tài sản. Bảo lãnh của
bên thứ ba dùng làm bảo đảm tín dụng phải có tài sản của người bảo lãnh làm đảm bảo, trừ
các tổ chức tín dụng.
Trong cho vay thế chấp tài sản, ngân hàng phải giám định tính chất pháp lý của tài
sản thế chấp, tức là xác định tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đi vay, tài sản
được phép giao dịch và không có tranh chấp. Định giá tài sản thế chấp theo quy định tranh
chấp. Định giá tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật, xác định tỉ lệ cho vay so với

giá trị tài sản thế chấp.
Cho vay cầm cố tài sản bao gồm: cho vay cầm cố hàng hoá, chiết khấu ký hoá
phiếu, cầm cố các chứng khoán cho vay bảo đảm bằng tiền gửi, vàng, các khoản phải thu,
hợp đồng nhập khẩu, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Trong đó, cho vay có bảo đảm bằng


hàng tồn kho và các khoản phải thu đã phát triển mạnh trên thế giới trong vài chục năm
trở lại đây, điều này đã tạo điều kiện để các ngân hàng mở rộng tín dụng. Tài trợ các
khoản phải thu và hàng tồn kho có ý nghĩ quan trọng hơn nhiều so với việc sử dụng các
tài sản này làm tài sản đảm bảo. Người cho vay trên cơ sở tài sản phân tích các khoản
phải thu và hàng tồn kho để quyết định một số lượng tiền chính xác có thể cho vay trên
cơ sở đó. Trong phương thức cho vay trên cơ sở tài sản, dư nợ cho vay phải phản ánh
được lượng tài sản đảm bảo: khi giá trị hàng tồn kho và các khoản phải thu giảm xuống,
khoản vay cũng phải giảm theo; khi, và chỉ khi giá trị hàng tồn kho và các khoản phải thu
tăng lên, người cho vay mới có thể tăng giá trị của khoản vay. Để đảm bảo tuân thủ điều
này, người cho vay cần liên tục tiếp cận các luồng thông tin về tài sản đảm bảo và thường
xuyên định hướng cho dòng tiền từ các việc thu hồi các khoản phải thu thực hiện việc
thanh toán cho dư nợ hiện tại. Thêm vào đó, để đảm bảo rằng chất lượng của hàng tồn
kho được duy trì và rằng tình hình tài chính của người đi vay là có thể kiểm soát được,
những người cho vay trên cơ sở tài sản cần liên tục quản lý doanh nghiệp đi vay và đặc
tính của tài sản đảm bảo và định kì tiến hành thanh tra tại chỗ tài sản đảm bảo và điều
kiện tài chính của doanh nghiệp (“kiểm tra thực địa”).
Các hình thức bảo đảm và tài sản bảo đảm có mức độ an toàn khác nhau, vì vậy
việc vận dụng thích hợp các bảo đảm trong từng trường hợp cụ thể là điều kiện để mở
rộng tín dụng và hạn chế rủi ro. Việc vận dụng các bảo đảm phụ thuộc nhiều yếu tố, trong
đó có 3 yếu tố căn bản sau đây: mức độ rủi ro của khách hàng đi vay, quy mô tín dụng và
thời hạn cho vay.
Bốn là: Phương thức cho vay thông qua nghiệp vụ chiết khấu
Khái niệm: Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó
khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán

cho ngân hàng thương mại để lấy một khoản tiền bằng mệnh giá trừ lợi tức và hoa hồng
phí
Điều kiện về chứng từ chiết khấu: Chứng từ phải có mệnh giá cụ thể và được
thanh toán theo mệnh giá ghi trên thương phiếu. Chứng từ phải có thời hạn xác định về
việc thanh toán số tiền ghi trên thương phiếu, Thương phiếu đem đi chiết khấu phải chưa
đáo hạn. Trên thương phiếu phải có sự chấp nhận của người có nghĩa vụ thanh toán số


tiền ghi trên mặt phiếu. Những giấy tờ có thể đem đi chiết khấu là: thương phiếu và một
số giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Người ta thường không đem chiết khấu trái phiếu của
chính phủ và của doanh nghiệp vì đây là những giấy tờ có giá có thời hạn dài, giá mua
hay bán đều khác với mệnh giá ghi trên trái phiếu.
Khi đến xin vay thông qua nghiệp vụ này, khách hàng phải làm đơn xin chiết khấu
và liệt kê tất cả các chứng từ xin chiết khấu. Sau đó ngân hàng sẽ kiểm tra xem các giấy
tờ này còn hạn hay không, người phát hành ra chứng từ đó là ai, độ tin cậy đến đâu.
Khi cho vay theo nghiệp vụ chiết khấu, lãi nhận từ khoản cho vay chính là lệ phí
chiết khấu. Lệ phí chiết khấu được xác định dựa vào lãi suất cho vay cùng kì hạn, chi phí
quản lý. Khách vay sẽ nhận được khoản tiền bằng mệnh giá ghi trên thương phiếu trừ đi
lệ phí chiết khấu. ở đây, người đi vay không phải chịu thiệt gì cả vì thực chất khi bán
hàng chịu thì bao giờ người bán cũng tính thêm một phần trăm nhất định, do vậy khi đem
thương phiếu đi chiết khấu, người đi vay sẽ nhận được giá trị thực của hàng bán được.
Ưu điểm của nghiệp vụ này là ngân hàng đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp thu
được tiền trước hạn, bán được hàng hoá ngay cả khi người mua không có tiền để trả. Do
vậy, doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong việc bán hàng khi khách mua không có khả năng
thanh toán. Ngay cả trong trường hợp người bán có chút nghi ngờ về người mua thì
người bán có thể chịu thiệt một chút để bán đứt thương phiếu. Còn về phía ngân hàng,
đây là một nghiệp vụ sinh lời của ngân hàng. Thu nhập từ nghiệp vụ này sẽ cao hơn các
khoản cho vay thông thường. Độ an toàn cũng cao hơn vì theo luật thì ai kí tên trên
thương phiếu đều có trách nhiệm liên đới về việc thanh toán thương phiếu nên ít nhất có
hai người phải có trách nhiệm thanh toán. Hơn nữa thương phiếu chỉ phản ánh một hoạt

động nhỏ trong toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp nên hầu như không có doanh nghiệp
nào từ chối thanh toán khoản tiền này bởi vì nếu từ chối thanh toán thì sẽ ảnh hưởng đến
việc đi mua hàng hoá chịu của doanh nghiệp trong những lần sau và cũng ảnh hưởng đến
khả năng vay ngân hàng. Nghiệp vụ này có một điểm bất lợi đối với ngân hàng là: đây là
một khoản cho vay gián tiếp thì rủi ro cũng có thể xảy ra vì ngân hàng có thể không quan
sát kĩ lưỡng được người phát hành ra thương phiếu có tình hình tài chính như thế nào.
Trường hợp rủi ro có thể xảy ra là khi ngân hàng không phát hiện ra được các chứng từ
mang đến chiết khấu là của đơn vị có mối quan hệ chuyển tiếp trong hoạt động kinh


doanh và có mối quan hệ sở hữu trong kinh doanh. Tức là công ty con có thể đem thương
phiếu do công ty mẹ kí phát đi chiết khấu. Điều này có thể dẫn đến rủi ro khi mà công ty
mẹ phá sản kéo theo cả sự sụp đổ của công ty con. Do vậy đòi hỏi ngân hàng phải xem
xét kĩ lưỡng mối quan hệ giữa người kí phát thương phiếu và người đem thương phiếu đi
chiết khấu để tránh được những rủi ro không đáng có cho ngân hàng.

1.2.2. Phương thức cấp tín dụng của NHTM Việt Nam
Hiện nay, ngoài việc áp dụng các phương thức cấp tín dụng của NHTM trong nền
kinh tế thị trường, các NHTM Việt Nam còn áp dụng thêm một số phương thức cấp tín
dụng sau:
Một là: Phương thức cho vay theo dự án đầu tư
Khái niệm:
Đây là khoản tín dụng tài trợ cho việc đầu tư mua sắm TSCĐ; thực hiện các dự án
đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ, các dự án đầu tư phục vụ đời sống; hay
xây dựng các công trình được dự tính sẽ mang lại thu nhập trong tương lai. Thông thường
các DN yêu cầu được vay một khoản trọn gói dựa trên chi phí dự tính của dự án đã đề
xuất và cam kết thanh toán khoản vay làm nhiều lần.
Ngân hàng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức đầu tư duy trì
cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn trả nợ, ngân hàng giải ngân theo tiến
độ thực hiện dự án, mỗi lần rút vốn vay khách hàng lập giấy nhận nợ tiền vay trong phạm vi

mức vốn đầu tư đã thoả thuận kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mức đích sử dụng
vốn vay trong hợp đồng tín dụng.
Đặc điểm của phương thức cho vay này là: thời gian hoàn vốn chậm, lãi suất cao,
giá trị khoản vay lớn.
Hai là: Phương thức cho vay hợp vốn
Khái niệm: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án hoặc
phương án vay vốn của khách hàng: trong đó một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp,
phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của quyết định số 1627/2001/QĐ-
NHNN ngày 31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với


khách hàng và quy chế đồng tài trợ của tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước ban hành.


Ba là: Phương thức cho vay tiêu dùng trả góp
Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay
phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho
vay.
Bốn là: Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
Căn cứ nhu cầu vay vốn của khách hàng ngân hàng nơi cho vay và khách hàng thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng: Hạn mức tín dụng dự phòng ngân hàng nơi cho vay cam kết
đáp ứng nguồn vốn cho khách hàng bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ trong thời gian hiệu
lực của hợp đồng, nếu khách hàng không sử dụng hoặc sử dụng không hết hạn mức tín dụng
dự phòng, khách hàng vẫn phải trả phí cam kết tính cho hạn mức tín dụng dự phòng đó. Mức
phí cam kết phải được thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng nơi cho vay.
Năm là: Phương thức cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ
tín dụng
Khái niệm

Là nghiệp vụ tín dụng trong đó ngân hàng chấp nhận cho khách hàng được sử
dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch
vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức
tín dụng. Khi cho vay phát hành sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng
phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước Việt Nam về phát
hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Sáu là: Các phương thức cho vay khác: Mà pháp luật không cấm phù hợp với
quy định tại quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay của
tổ chức tín dụng đối với khách hàng và điều kiện hoạt động kinh doanh của tổ chức tín
dụng và đặc điểm của khách hàng vay vốn.
1.3. Đa dạng hóa các phương thức cho vay của NHTM
1.3.1. Quan niệm về đa dạng hoá các phương thức cho vay của NHTM


Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động lớn của ngân hàng thương mại.
Doanh thu từ hoạt động này thường chiếm đến 70% doanh thu, ở các nước phát
triển, hay đến 90% doanh thu của ngân hàng, ở các nước đang phát triển. Vì vậy mà hoạt
động này thu hút sự chú ý không chỉ của những nhà quản trị ngân hàng, khách hàng mà
còn thu hút sự chú ý của các nhà hoạch định chính sách. Các phương thức cho vay của
ngân hàng là điều mà các khách hàng đi vay quan tâm đến. Bởi vì việc ngân hàng áp dụng
các phương thức cho vay nào liên quan đến nhu cầu của khách hàng, hiệu quả sử dụng vốn
vay. Đa dạng hoá các phương thức cho vay của ngân hàng là việc một ngân hàng áp dụng
nhiều phương thức cho vay, phục vụ cho nhiều đối tượng khách hàng trong nền kinh tế,
nhằm thoả mãn các nhu cầu và mong muốn của khách hàng trong lĩnh vực tín dụng và
nhằm giữ khách hàng truyền thống, mở rộng khách hàng mới trên các thị trường khác
nhau.
1.3.2. Sự cần thiết phải đa dạng hoá các phương thức cho vay của NHTM
- Đa dạng hoá các phương thức cho vay là một yêu cầu đối với ngân hàng thương
mại Việt Nam hiện nay.
Đa dạng hoá các phương thức cho vay là một phần quan trọng trọng quá trình đa

dạng hoá hoạt động của ngân hàng thương mại. Đa dạng hoá các hoạt động của ngân
hàng hiện nay là một đòi hỏi cần thiết đối với mỗi ngân hàng. Hiện nay, khoảng 80%
doanh thu của các ngân hàng thương mại Việt Nam là từ hoạt động tín dụng vì vậy mà
bất cứ một yếu tố nào xảy ra gây bất lợi cho hoạt động cho vay cũng đều ảnh hưởng đến
toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Hơn nữa, hoạt động cho vay được coi là lĩnh vực có
nhiều rủi ro và thất thoát vốn chính vì thế mà các ngân hàng thương mại cần phải coi đa
dạng hoá các phương thức cho vay như là một chiến lược nhằm hạn chế tối đa rủi ro xảy
ra trong hoạt động cho vay.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đất nước ta đang tiến
hành công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện, mà trước tiên là đổi mới về kinh tế: từ một
nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Việc đổi mới cơ chế quản lý đã tạo tiền đề cho
việc đổi mới hoạt động ngân hàng. Hơn nữa, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
đất nước cũng đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải trở thành trung gian tài chính hiệu quả để


có thể huy động được nhiều nguồn lực cả trong và ngoài nước, mở rộng đầu tư, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế, góp phần ổn định đất nước. Điều này đòi hỏi một ngân hàng cần phải
đa dạng hoá hoạt động của mình để đáp ứng được những yêu cầu của đổi mới đất nước.
Đặc biệt, đa dạng hoá các phương thức cho vay sẽ góp phần đưa ra cho nền kinh tế
nhiều hình thức vay vốn đáp ứng được những nhu cầu đa dạng của các thành phần kinh
tế, cung ứng vốn kịp thời cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Do đòi hỏi của nền kinh tế đang đổi mới và phát triển, nhiều ngân hàng và tổ
chức tài chính tín dụng đã ra đời. Song chính sự hoạt động đa dạng của nhiều loại hình
ngân hàng đã tạo nên sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường tài chính. Các ngân hàng
muốn tồn tại và phát triển thì phải tạo ra một vị thế vững chắc trên thị trường, điều này
đòi hỏi các ngân hàng phải đa dạng hoá các hoạt động của mình, đa dạng hoá các phương
thức cho vay để đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của thị trường.
- Xu hướng quốc tế hoá thị trường tài chính quốc tế đã tạo nên một nền kinh tế thế
giới ngày càng liên kết chặt chẽ hơn, trong đó diễn biến thị trường tài chính một nước có

ảnh hưởng quan trọng đến thị trường tài chính các nước khác. Mặt khác, thị trường tài
chính thế giới đang thay đổi nhanh chóng với những công cụ tài chính mới. Công nghệ
ngân hàng ngày nay trở nên sôi động và hấp dẫn hơn bao giờ hết. Điều này đòi hỏi hệ
thống ngân hàng Việt Nam cũng phải đổi mới để tiếp cận và hoà nhập với thị trường tài
chính thế giới.
- Đặc biệt khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ được các cơ quan thẩm quyền lập
pháp của Mỹ và Việt Nam chính thức phê chuẩn đã mở ra cho nền kinh tế Việt Nam nói
chung và toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam nói riêng những cơ hội và thách thức
mới. Dựa vào nội dung của Hiệp định thương mại Việt Mỹ ta có thể nhận thấy một vài
thách thức đối với ngân hàng thương mại Việt Nam như sau: Trong một số năm đầu, khi
còn ở trong "thời kì bảo lưu", các ngân hàng thương mại phía Mỹ chưa triển khai hoạt
động có tính chất "chiếm lĩnh" thị trường Việt Nam, mà chỉ đặt cơ sở thăm dò là chính.
Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng Mỹ sẽ thực sự được đẩy mạnh, cạnh tranh
quyết liệt để chiếm lĩnh thị trường tiền tệ Việt Nam vào giai đoạn được hưởng "đối xử
quốc gia đầy đủ". Họ sẽ triển khai mạnh các hoạt động mà ở các ngân hàng thương mại
Việt Nam đáng lẽ phải được phát triển mạnh những năm qua nhưng lại rất lúng túng,


vướng mắc vì cơ chế và môi trường pháp luật chưa thông thoáng. Đó là hoạt động thuê
mua tài chính, và loại hình cho thuê tiêu dùng ở các đô thị lớn. Những hoạt động này là
thế mạnh và đã ăn sâu vào xã hội Mỹ. Bằng ưu thế hàng hoá, công nghệ Mỹ khi được đưa
vào thị trường Việt Nam, tư bản thương nghiệp Mỹ sẽ gắn kết với tư bản tài chính-ngân
hàng để nắm vững và mở rộng hoạt động ở thị trường Việt Nam thông qua hai hình thức
hoạt động trên.
Ngoài ra, vốn chủ sở hữu của các ngân hàng thương mại quốc doanh của ta hiện
nay chỉ vào khoảng 11.500 tỉ VND, trong khi đó Hiệp định thương mại Việt Mỹ qui định
đối với chi nhánh ngân hàng Mỹ phải có vốn do ngân hàng mẹ cấp với số vốn rất lớn. Do
vậy gây bất lợi rất lớn cho các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Bởi vì vốn chủ sở hữu
là cơ sở để xác định mức dư nợ tối đa đối với một khách hàng và cũng là cơ sở để xác
định số lượng tiền huy động vào. Với số vốn khiêm tốn của mình, ngân hàng thương mại

Việt Nam không thể tài trợ cho một dự án lớn nếu không có sự kết hợp của các ngân hàng
khác. Như vậy nếu các ngân hàng thương mại Việt Nam không tăng được nguồn vốn chủ
sở hữu của mình thì một mảng thị trường cho vay các dự án có vốn đầu tư lớn sẽ bị bỏ ngỏ
và đây là cơ hội cho các ngân hàng Mỹ.
- Một ngân hàng áp dụng nhiều phương thức cho vay khác nhau sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh bởi các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đa dạng hoá các phương thức cho vay sẽ làm tăng lợi nhuận của
ngân hàng.
Việc áp dụng nhiều phương thức cho vay của ngân hàng sẽ đáp ứng
được đầy đủ nhu cầu về vốn của nhiều đối tượng khách hàng, ngân hàng thương mại sẽ
sử dụng triệt để, có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ tín dụng của mỗi
ngân hàng.
Điều này sẽ dẫn đến là giảm được chi phí quản lý, chi phí hoạt động, lợi nhuận
tăng lên, hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng cũng sẽ tăng lên.
Thứ hai, đa dạng hoá các phương thức cho vay giúp cho ngân hàng thương
mại phân tán và giảm thiểu rủi ro.
Mỗi phương thức cho vay đều có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau, vì thế
việc áp dụng một phương thức cho vay với tất cả các đối tượng khách hàng trong một


thời điểm là một việc làm rất mạo hiểm mang lại cho ngân hàng nhiều rủi ro. Hơn nữa
nhu cầu về vốn của người đi vay là rất đa dạng do vậy mà việc áp dụng nhiều phương
thức cho vay khác nhau là điều cần thiết, nó sẽ giúp ngân hàng có thể tránh được những
rủi ro không đáng có.
Thứ ba, đa dạng hoá các phương thức cho vay sẽ thúc đẩy các nghiệp vụ khác
cùng phát triển.
Khi áp dụng nhiều phương thức cho vay, hoạt động cho vay của ngân hàng thương
mại tăng lên, cần có nhiều vốn để cho vay nhiều hơn, vì thế ngân hàng cần huy động
nhiều tiền gửi hơn nữa, do vậy hoạt động nhận tiền gửi của ngân hàng cũng phát triển.
Điều này cũng khiến các ngân hàng phải đưa ra nhiều mức kì hạn tiền gửi và mức lãi suất

hấp dẫn người gửi tiền. Tương tự như vậy, khi hoạt động cho vay phát triển nhiều thì nhu
cầu sử dụng các dịch vụ của ngân hàng cũng tăng lên, do người đi vay có thể sử dụng vốn
để thanh toán cho bạn hàng vì thế sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Mô
hình một ngân hàng đa năng, phục vụ khách hàng theo phương thức "trọn gói" bao giờ
cũng ưu việt hơn phương thức đơn lẻ của ngân hàng chuyên sâu.
Thứ tư, đa dạng hoá các phương thức cho vay sẽ tăng sức cạnh tranh của
ngân hàng trên thị trường tiền tệ, tín dụng.
Trong điều kiện có rất nhiều ngân hàng với các hình thức sở hữu khác nhau, nhiều
ngân hàng liên doanh với nước ngoài và các tổ chức tài chính tín dụng cùng hoạt động thì
sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt hơn. Các ngân hàng, tổ chức tín
dụng muốn tồn tại, phát triển và tạo được vị thế trên thị trường thì đều phải thay đổi, cải
tiến hoạt động sao cho đáp ứng kịp thời, thuận tiện các nhu cầu phong phú, đa dạng của
khách hàng. Muốn vậy, ngân hàng phải đa dạng hoá hoạt động của mình, trong đó đa
dạng hoá các phương thức cho vay là một điều không thể thiếu.
Việc đa dạng hoá còn tạo điều kiện cho việc trao đổi thông tin, tham gia trên thị
trường tiền tệ và thị trường chứng khoán một cách thuận lợi và linh động hơn. Đa dạng
hoá hoạt động của ngân hàng là một giải pháp không thể thiếu để nâng cao hiệu quả hoạt
động của ngân hàng thương mại trong đó đa dạng hoá các phương thức cho vay là một
phần không thể thiếu của đa dạng hoá hoạt động nói chung của ngân hàng.
1.3.3. Nhân tố ảnh hưởng đến đa dạng hoá các phương thức cho vay


* Nhân tố khách quan: đó là tổng hợp các nhân tố bao gồm: kinh tế, chính trị, xã
hội, pháp luật, khoa học công nghệ. Ngoài ra, rủi ro trong hoạt động tín dụng cao dẫn đến
tính tất yếu trong việc đa dạng hoá các phương thức cho vay để giảm thiểu rủi ro tín
dụng.
Hiện nay, sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đã tạo một môi trường kinh doanh
lành mạnh, trao quyền tự chủ kinh doanh cho các TCTD. Đây chính là điều kiện thuận lợi
cho phép một ngân hàng có thể đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình đồng thời
thúc đẩy việc thực hiện đa dạng hoá các phương thức cho vay.

* Nhân tố chủ quan: bao gồm chủ trương, chính sách của ngân hàng
(NHNo&PTNT Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản, cơ chế, chính sách, thể lệ nghiệp vụ
phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các chi nhánh chủ động
trong hoạt động kinh doanh); trình độ của cán bộ nhân viên ngân hàng; quy mô vốn của
ngân hàng; trình độ công nghệ của ngân hàng (việc hiện đại hoá và quản lý dữ liệu tập
trung đã làm cơ sở để ngân hàng phát triển, đa dạng hoá các phương thức cho vay phù hợp
với nhu cầu của khách hàng).
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÁC PHƯƠNG THỨC CHO VAY TẠI CHI NHÁNH NGÂN
HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
TỈNH HÀ TÂY
2.1 Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây
2.1.1 Đặc điểm về tự nhiên
Là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, nằm cạnh khu kinh tế tam
giác Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long, hạt nhân kinh tế của miền Bắc. Tỉnh có diện
tích tự nhiên 2.193 Km2 giáp với thành phố Hà Nội ở hai phía Tây và Nam. Với 3
cửa ngõ vào thủ đô là các quốc lộ 1, 6 và quốc lộ 32.
- Hà Tây có 3 vùng địa lý với khí hậu khác nhau là: vùng đồng bằng sông
Hồng, vùng trung du và vùng miền núi. Tỉnh có 3 nhóm đất chính là: Nhóm đất màu
nâu đỏ, nhóm đất phù sa, đất bồi và nhóm đất lầy thụt. Hà Tây có hai con sông lớn


chảy qua là sông Đà ở phía Tây và sông Hồng ở phía Bắc. Đây là các tuyến vận tải
đường thuỷ lý tưởng để trao đổi hàng hoá đi Tây Bắc, Hà Nội, Hải Phòng.
- Về tài nguyên, Hà Tây có một số khoáng sản chính là: đá vôi, đá granít,
sét, cao lanh, vàng sa khoáng, đồng, pyrit, than bùn, nước khoáng với chất lượng
và trữ lượng cho phép khai thác và chế biến ở quy mô công nghiệp vừa và lớn. Đặc
biệt là công nghiệp khai thác và chế biến vật liệu xây dựng. Môi trường sinh thái ở
Hà tây trong nhiều năm qua đã được chú ý bảo vệ và cải tạo. Độ phì nhiêu của đất
đai được nâng lên, đảm bảo sự canh tác bền vững.

- Là tỉnh đứng thứ 3 có số lượng nhiều về di tích lịch sử (trên 300 di tích).
Nhiều điểm du lịch của tỉnh đạt tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Các cảnh quan này được
hình thành theo 3 cụm: cụm chùa Hương, cụm Ba Vì - Suối Hai - Ao Vua - Đồng
Mô Ngải Sơn và cụm Thạch Thất - Quốc Oai. Do vậy mà dễ có điều kiện quy hoạch
thành những trung tâm du lịch lớn.
-Với những đặc điểm cơ bản về tự nhiên trên, Hà Tây là tỉnh có vị trí địa lý
thuận lợi, có nhiều tiềm năng về tài nguyên, cảnh quan và gần các trung tâm khoa
học kỹ thuật của trung ương, có thể khai thác, có điều kiện để mở rộng giao lưu thị
trường, hợp tác và phát triển với thủ đô Hà Nội và khu vực tam giác kinh tế miền
Bắc Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long.
2.1.2 Đặc điểm về kinh tế - xã hội
Năm 2005, tổng dân số của tỉnh Hà Tây gần 2,5 triệu người với 54 vạn hộ. Tốc độ
tăng dân số là 1,64 % / năm. Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 1.063 người/km2.
Trên 90% dân số sống ở nông thôn, đất đai nông nghiệp bình quân 530 m2/người. Dân
số trong độ tuổi lao động có 1.148.000 người, trong đó gần 80 % là lao động nông
nghiệp. 1/3 số xã có làng nghề tiểu thủ công nghiệp với 120.000 lao động có tay nghề.
Nhìn chung nhân dân trong tỉnh cần cù lao động, có ý thức tự vươn lên, có nhận thức mới
về sản xuất hàng hoá, có năng động hơn trong sản xuất kinh doanh.
Địa bàn hành chính của tỉnh bao gồm 12 huyện, 2 thị xã, 325 xã phường. Toàn
tỉnh có 480.000 hộ dân cư, trong đó hộ nghèo còn 15 % .

×