Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

nghiên cứu lễ hội truyền thống đông đồng bằng sông cửu long phục vụ phát triển du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.33 MB, 132 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH



DƯƠNG THANH XUÂN





NGHIÊN CỨU LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG ĐÔNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG PHỤC VỤ
PHÁT
TRIỂN DU LỊCH










LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC







Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH




DƯƠNG THANH XUÂN




NGHIÊN CỨU LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG ĐÔNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG PHỤC VỤ
PHÁT
TRIỂN DU LỊCH







CHUYÊN NGÀNH: ĐỊA LÍ HỌC
MÃ SỐ: 60 31 95




LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐÀO NGỌC CẢNH


Thành phố Hồ Chí Minh, 2011




LỜI CAM ĐOAN
  
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu có nguồn gốc rõ ràng, tuân thủ đúng nguyên tắc và kết quả trình bày trong
luận văn được thu thập trong quá trình nghiên cứu là trung thực, chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn
LỜI CẢM ƠN
  
Trước tiên tôi xin lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến thầy giáo, người hướng dẫn
khoa học: TS. Đào Ngọc Cảnh đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Tôi cũng chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã dạy tôi trong suốt khóa học Cao học,
cảm ơn Khoa Địa lý Trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho

chúng tôi có cơ hội nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức khoa học của mình.
Xin cảm ơn các đồng nghiệp trong khoa Ngữ Văn trường Đại học Tây Đô đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài, cảm ơn các thầy cô trong
Bộ môn Địa lý, Khoa Sư Phạm trường Đại Học Cần Thơ đã giúp đỡ, động viên tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Ngoài ra, tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến Sở Văn hóa Thể Thao và Du lịch các tỉnh
An Giang, Bạc Liêu, Cần Thơ, Kiên Giang, Sóc Trăng; cảm ơn Hiệp hội du lịch Cần Thơ đã
nhiệt tình giúp đỡ về nguồn tài liệu, số liệu liên quan đến đề tài.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn bạn bè, người thân đã động viên, ủng hộ, giúp đỡ, chia sẽ
những khó khăn, điều đó đã tạo thêm động lực cần thiết để tôi hoàn thành đề tài này.

TPHCM, tháng 8 năm 2011
Tác giả

Dương Thanh Xuân


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long
GDP
Gross domestic product
Tổng thu nhập quốc nội
IUOTO
International of Union Official Travel Organization
Hiệp hội các tổ chức du lịch quốc tế
ODA
Official Development Assistant
Vốn hỗ trợ phát triển chính thức
TPHCM

Thành phố Hồ Chí Minh
TW
Trung ương
UBND
Ủy ban nhân dân
UNESCO
United Nations Educational Scientific and Cultural Organization
Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên hợp quốc
UNWTO
United Nations World Tourism Organization
Tổ chức du lịch thế giới
USD
United States Dollars
Đô la Mỹ
VH-TT&DL
Văn hóa thể thao và du lịch


DANH MỤC BẢN ĐỒ
Bản đồ 1
Bản đồ hành chính ĐBSCL
Bản đồ 2
Bản đồ phân bố các lễ hội ở ĐBSCL
Bản đồ 3
Bản đồ các cụm du lịch lễ hội ĐBSCL

DANH MỤC BIỂU BẢNG
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1. Diện tích, dân số và mật độ dân số ĐBSCL năm 2009

35
Bảng 2.2. Các lễ hội quan trọng ở ĐBSCL (theo Âm lịch)
39
Bảng 2.3. Khả năng khai thác du lịch của một số lễ hội ở ĐBSCL
48
Bảng 2.4. Lượt khách du lịch đến ĐBSCL hai năm 2009 – 2010
70
Bảng 2.5. Doanh thu du lịch ĐBSCL giai đoạn 2000 – 2010
72
Bảng 2.6. Lao động du lịch các tỉnh ĐBSCL giai đoạn 2000 – 2008
73
Bảng 2.7. Xếp hạng cơ sở lưu trú ở ĐBSCL năm 2008
75
Bảng 2.8. Lượt khách du lịch lễ hội ở ĐBSCL giai đoạn 2008 – 2010
76
Bảng 2.9. Đối tượng khách du lịch lễ hội truyền thống ở ĐBSCL
77
Bảng 3.1. Dự báo khách du lịch quốc tế đến vùng ĐBSCL đến năm 2020
109
Bảng 3.2. Dự báo nhu cầu lao động du lịch vùng ĐBSCL đến năm 2020
110
Bảng 3.3. Nhu cầu nguồn nhân lực du lịch của ĐBSCL đến 2020
110
Bảng 3.4. Dự báo thu nhập du lịch vùng ĐBSCL đến 2020
111
Bảng 3.5. Dự kiến các nguồn vốn đầu tư du lịch vùng ĐBSCL đến 2020
112


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Giới hạn nghiên cứu 4
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu 4
6. Đóng góp của đề tài 7
7. Bố cục đề tài 7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 8
1.1. Du lịch 8
1.1.1. Khái niệm về du lịch 8
1.1.2. Các loại hình du lịch 10
1.1.3. Tài nguyên du lịch 15
1.2. Một số vấn đề về văn hóa và du lịch văn hoá 15
1.2.1. Khái niệm văn hóa 15
1.2.2. Cấu trúc của văn hóa 17
1.2.3. Du lịch văn hoá 18
1.3. Lễ hội truyền thống và du lịch lễ hội 19
1.3.1. Khái niệm và phân loại lễ hội 19
1.3.2. Lễ hội truyền thống 20
1.3.3. Vai trò của lễ hội truyền thống đối với du lịch 23
1.3.4. Khái quát lễ hội truyền thống ở Việt Nam 26
CHƯƠNG 2. TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA LỄ HỘI
TRUYỀN THỐNG Ở ĐBSCL TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH 29

2.1. Tổng quan ĐBSCL 29
2.1.1. Vị trí địa lý 29
2.1.2. Đặc điểm tự nhiên 30
2.1.3. Đặc điểm kinh tế xã hội 31




2.2. Tiềm năng du lịch lễ hội truyền thống ở ĐBSCL 32
2.2.1. Khái quát chung về lễ hội truyền thống ở ĐBSCL 32
2.2.2. Tiềm năng lễ hội truyền thống ở ĐBSCL trong phát triển du lịch 40
2.3. Thực trạng khai thác các lễ hội truyền thống trong phát triển du lịch ở ĐBSCL
59

2.3.1. Thực trạng phát triển du lịch ở ĐBSCL 59
2.3.2. Thực trạng khai thác lễ hội truyền thống trong phát triển du lịch ở ĐBSCL 65
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH LỄ HỘI
TRUYỀN THỐNG Ở ĐBSCL 82

3.1. Vấn đề bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống 82
3.1.1. Quan điểm của Đảng và nhà nước về bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống 82
3.1.2. Giải pháp bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống 85
3.2. Định hướng phát triển du lịch lễ hội truyền thống ĐBSCL 89
3.2.1. Định hướng phát triển du lịch của vùng 89
3.2.2. Các chỉ tiêu dự báo phát triển du lịch của vùng 91
3.2.3. Định hướng phát triển du lịch lễ hội truyền thống 95
3.3. Giải pháp phát triển du lịch lễ hội truyền thống ĐBSCL 99
3.3.1. Huy động nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch lễ hội 99
3.3.2. Đầu tư xây dựng cơ hạ tầng, vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch lễ hội 99
3.3.3. Xúc tiến quảng bá, tiếp thị mở rộng thị trường 100
3.3.4. Hợp tác liên kết khu vực và quốc tế 102
3.3.5. Phát triển nguồn nhân lực du lịch lễ hội 103
3.3.6. Phát triển du lịch lễ hội gắn với phát triển cộng đồng 104
3.3.7. Quản lý tốt vấn vệ sinh, an toàn thực phẩm, an ninh trật tự trong mùa lễ hội
106


3.3.8. Xây dựng và đưa vào khai thác hiệu các tuyến du lịch lễ hội mới 107



KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
PHỤ LỤC 116



PHẦN MỞ ĐẦU
  
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, du lịch đã trở thành một xu thế toàn cầu hóa, là xu hướng phát triển tất yếu
khách quan của thời đại đối với mọi quốc gia, dù là nước phát triển hay đang phát triển.
Hòa nhập vào xu thế chung của thế giới, thập kỷ qua ngành du lịch Việt Nam đã
được đẩy mạnh phát triển. Việt Nam là một trong số các quốc gia có ngành du lịch phát
triển nhanh trong thập niên qua. Từ năm 1990 đến nay, du lịch Việt Nam đã có những bước
tiến rất quan trọng kể cả về doanh thu lẫn lượt khách du lịch. Năm 1990, khách du lịch nội
địa là 1 triệu lượt, khách quốc tế là 250 ngàn lượt, đến 2010 số lượng này lần lượt là 28 triệu
lượt khách nội địa, 5 triệu lượng khách quốc tế. Doanh thu du lịch năm 1990 chỉ là 1.350 tỷ
đồng, nhưng đến năm 2010 con số này đã là 96.000 tỷ đồng.
Tiềm năng du lịch hiện nay của Việt Nam khá phong phú và đa dạng, tài nguyên du
lịch dồi dào cả về tự nhiên lẫn nhân văn. Vừa qua, Tổng cục du lịch cũng đã chọn slogan
“Việt Nam – sự khác biệt Á Đông”, qua đó cũng phần nào thấy được sức hút, vẻ đẹp tiềm
ẩn của du lịch Việt Nam.
Ở Việt Nam, bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám
chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục, gần đây du lịch văn hóa được xem là loại
sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế trong đó
có du lịch lễ hội truyền thống. Với sự phong phú của hệ thống lễ hội tại Việt Nam (khoảng

hơn 8.000 lễ hội) với sự trải dài cả về không gian và thời gian của các lễ hội (ở mọi miền đất
nước, ở mọi thời điểm), sức hấp dẫn của lễ hội với du khách quốc tế với những nét văn hóa
đặc sắc, độc đáo. Lễ hội truyền thống của Việt Nam là một tài nguyên vô giá đối với sự phát
triển của du lịch.
So với các khu vực khác trong cả nước, tiềm năng của du lịch lễ hội truyền thống ở
ĐBSCL không nhiều, song nơi đây có những lễ hội rất đặc sắc thu hút khách du lịch mà
những địa phương khác không có. Với truyền thống hàng trăm năm xây dựng, kế thừa nết
văn hóa của nhiều dân tộc, ĐBSCL là nơi diễn ra nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc, hấp dẫn,
thu hút đông đảo người dân và khách du lịch như: lễ hội Bà Chúa Xứ, lễ hội đua bò Bảy
Núi, lễ hội đua ghe ngo Ok Om Bok, lễ hội nghinh ông Nam Hải, lễ hội Nguyễn Trung


Trực, lễ hội Gò Tháp, trong đó có những lễ hội thu hút hàng triệu lượt khách như lễ hội
vía Bà Chúa Xứ ở An Giang. Trong những năm qua, vấn đề khai thác phát triển du lịch lễ
hội truyền thống ở ĐBSCL bước đầu đã có sự quan tâm, tính tích cực của du lịch lễ hội đã
được các cấp các ngành quan tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên sự phát triển du lịch lễ hội truyền
thống nơi đây vẫn còn rất nhiều vấn đề bất cập và chưa tương xứng với tiềm năng vốn có
của vùng, mặc dù du lịch lễ hội truyền thống đã được xem là rất thuận lợi do có những nét
đặc trưng văn hóa riêng biệt nhưng vẫn chưa phát huy được hiệu quả, chưa thu hút được du
khách như mong muốn.
Do đó, việc đánh giá đúng tiềm năng, hiện trạng hoạt động du lịch và trên cơ sở đó
có những đề xuất các giải pháp về mặt bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống, định hướng
và giải pháp nhằm góp phần phát triển du lịch lễ hội truyền thống ở ĐBSCL trong thời gian
tới là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ mong muốn trên, tôi chọn vấn đề “Nghiên cứu lễ hội truyền thống ở
ĐBSCL phục vụ phát triển du lịch” làm đề tài nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu các lễ hội truyền thống phục vụ phát triển du lịch dù chỉ nổi lên
trong thời gian gần đây những nhưng đã được các nhà khoa học quan tâm đặc biệt.
Có nhiều Hội thảo khoa học đã được tổ chức với các tham luận nghiên cứu về lễ hội

truyền thống ở Việt Nam và ĐBSCL như: Lễ hội và du lịch Việt Nam của Trương Thìn
(1993); Một số công trình nghiên cứu về lễ hội truyền thống ở ĐBSCL có liên quan đến đề
tài:
Lễ hội ở Kiên Giang, thực trạng, tiềm năng và một số giải pháp quản lý cần trao đổi
của Bùi Công Ba (2010); Phát triển bền vững lễ hội truyền thống của người Việt ở ĐBSCL
trong giai đoạn hiện nay của ThS. Nguyễn Xuân Hồng (2010).
Ngoài ra còn có một số tham luận nghiên cứu về du lịch lễ hội là: Lễ hội dân gian và
du lịch Việt Nam trong giai đoạn hiện nay của Nguyễn Phương Thảo (1993); Hội lễ đạo
Mẫu và triển vọng du lịch của PGS.PTS. Đặng Văn Lung (1993); Lễ hội dân gian và hoạt
động du lịch ở các tỉnh miền núi, dân tộc thiểu số hiện nay của TS. Vũ Trọng Bình (2007).
Gần đây, Hội thảo quốc tế với chủ đề “Bảo tồn và phát huy lễ hội cổ truyền trong xã
hội Việt Nam đương đại - trường hợp Hội Gióng” (2010) với các tham luận: Khai thác lễ
hội một cách hợp lý để đẩy mạnh phát triển du lịch của TS. Nguyễn Văn Lưu; Từ kinh
nghiệm của Tây Ban Nha, nhìn lại việc phát huy lễ hội cổ truyền thành tài sản du lịch ở
Việt Nam của Nguyễn Thị Khánh Trâm; Tương lai cho các lễ hội truyền thống: Những thực


hành văn hoá mang tính địa phương trong phát triển du lịch của GS.TS. Hyung Yu Park; Lễ
hội ở Nam Định trong bối cảnh giao lưu kinh tế- thương mại-du lịch vùng đồng bằng sông
Hồng của TS. Nguyễn Xuân Năm.
Ngoài ra, có thể kể đến Đề án Phát triển du lịch ĐBSCL đến 2020 của Viện Nghiên
cứu phát triển du lịch Việt Nam (2010) và một số đề án phát triển du lịch của các tỉnh trong
vùng cũng đã đưa du lịch lễ hội trở thành một trong những sản phẩm du lịch chiến lược cần
tập trung phát triển bên cạnh các loại hình du lịch đặc thù khác.
Tuy nhiên, trên đây chỉ là các tham luận trong các hội thảo khoa học với các nghiên
cứu rất khai quát chứ chưa đi sâu. Còn các sách xuất bản về lễ hội truyền thống hiện nay
chủ yếu giới thiệu tổng hợp chung về các lễ hội ở Việt Nam, tập trung vào phần giá trị văn
hóa của các lễ hội trong đó có đề cập các lễ hội ở ĐBSCL chứ chưa có đề tài nào nghiên
cứu về lễ hội truyền thống của vùng, về vai trò của nó đối với phát triển du lịch ở vùng đất
châu thổ này.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Đề tài nghiên cứu nhằm những mục tiêu chủ yếu sau:
- Đặc điểm lễ hội truyền thống vùng ĐBSCL
- Thực trạng khai thác du lịch lễ hội ĐBSCL
- Định hướng và giải pháp pháp triển du lịch lễ hội ĐBSCL
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Tổng quan một số vấn lý luận về du lịch, văn hóa, lễ hội và du lịch lễ hội.
- Khảo sát, kiểm kê, phân tích, đánh giá tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch lễ
hội truyền thống ở ĐBSCL. Qua đó, làm rõ mặt đạt được và hạn chế trong phát triển du lịch
lễ hội truyền thống của vùng.
- Đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống cũng như đưa ra định
hướng và giải pháp thúc đẩy phát triển du lịch lễ hội truyền thống ở ĐBSCL trong thời gian
tới.





4. Giới hạn nghiên cứu
4.1. Về nội dung
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề chủ yếu sau: Đánh giá tiềm năng, hiện
trạng phát triển du lịch lễ hội truyền thống ở ĐBSCL và nêu lên định hướng, giải pháp phát
triển du lịch lễ hội của vùng.
4.2. Về thời gian và không gian
Luận văn tập trung thu thập, nghiên cứu, phân tích số liệu trong giai đoạn từ 2008 -
2010 và nêu những chỉ tiêu dự báo định hướng phát triển du lịch lễ hội vùng ĐBSCL trong
thời gian tới.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu

5.1. Các quan điểm nghiên cứu
5.1.1. Quan điểm hệ thống
Đối tượng nghiên cứu của du lịch là hệ thống lãnh thổ, hệ thống này bao gồm nhiều
thành phần (tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa), có mối liên hệ qua lại, tác động chặt chẽ với
nhau. Do đó, bất kỳ một sự thay đổi nào dù lớn hay nhỏ của một thành phần tất yếu nào đó
dù lớn hay nhỏ sẽ kéo theo sự thay đổi của các thành phần khác trong toàn bộ hệ thống. Đối
với các lễ hội truyền thống ở ĐBSCL cũng vậy, chỉ cần thay đổi nhỏ về môi trường, khâu tổ
chức,… thì sẽ kéo theo những hệ lụy ảnh hưởng đến chất lượng tổ chức, ảnh hưởng đến lượt
khách du lịch,… Do đó, trong nghiên cứu cần phải thấy được mối quan hệ này để đưa ra các
giải pháp đúng đắn giúp cho du lịch lễ hội ở ĐBSCL pháp triển.
5.1.2. Quan điểm tổng hợp
Trong nghiên cứu du lịch nói chung và các lễ hội truyền thống phục vụ phát triển du
lịch ở ĐBSCL nói riêng, việc vận dụng quan điểm tổng hợp có ý nghĩa đặc điệt quan trọng.
Các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan luôn có quan hệ mật thiết với nhau bằng các
mối quan hệ tác động, ảnh hưởng, liên kết, chuyển hoá, thúc đẩy hay ức chế lẫn nhau rất
phức tạp. Các lễ hội truyền thống ở ĐBSCL rất phong phú và đa dạng, chúng có quá trình
hình thành, phát triển trong mối quan hệ nhiều chiều giữa chúng với nhau, giữa chúng với
các đối tượng khác. Quán triệt quan điểm tổng hợp đòi hỏi người nghiên cứu phải xem xét
các sự vật hiện tượng được nghiên cứu trong mối quan hệ tác động giữa chúng, tránh tách
rời hoặc xem xét chúng một cách riêng rẻ.
5.1.3. Quan điểm lãnh thổ


Quan điểm lãnh thổ còn gọi là quan điểm vùng là quan điểm đặc thù của các hiện
tượng kinh tế xã hội. Trong thực tế các sự vật, hiện tượng kinh tế xã hội luôn có sự phân hoá
trong không gian làm cho chúng có sự khác biệt giữa nơi này với nơi khác. Sự khác biệt đó
còn gọi là “sự sai biệt lãnh thổ”. Quán triệt quan điểm “lãnh thổ”, người nghiên cứu phải
chú ý đến sự sai biệt lãnh thổ của các sự vật hiện tượng nhằm tìm ra những nét độc đáo của
lãnh thổ nghiên cứu.
Ở mỗi vùng lãnh thổ, việc phát phát triển du lịch nhờ vào các lễ hội truyền thống

đang là một vấn đề đang được đầu tư mở rộng. Nhưng với mỗi địa phương, đặc biệt như ở
khu vực ĐBSCL thì lễ hội nơi đây cũng có những thế mạnh, những sức hút riêng đối với
khách du lịch. Vì thế khi tiến hành qui hoạch, xúc tiến các giải pháp pháp triển du lịch lễ hội
nơi đây người nghiên cứu phải đảm bảo vừa phát huy được nguồn lực này trong phát triển
du lịch nhưng đồng thời phải ưu tiên phát triển du lịch lễ hội mang tính chuyên biệt tạo ra
sức hút, sức cạnh tranh cho khu vực trong vấn đề phát triển du lịch dựa vào các lễ hội truyền
thống.
5.1.4. Quan điểm viễn cảnh
Nghiên cứu các lễ hội truyền thống phục vụ phát triển du lịch là một công việc không
chỉ phục vụ cho phát triển hiện tại mà phải xét đến sự phát triển trong tương lai. Khi nghiên
cứu, tổ chức quản lý, khai thác, bảo tồn và phát triển các lễ hội truyền thống phục vụ du lịch
đạt kết quả cao, tiết kiệm thời gian, công sức,… người nghiên cứu phải xem xét thực trạng
phát triển du lịch lễ hội của vùng ở thời điểm hiện tại đồng thời dự báo các định hướng,
chiến lược phát triển du lịch lễ hội trong tương lại.
5.1.5. Quan điểm phát triển bền vững
Phát triển bền vững đã trở thành xu hướng, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nói
chung, nó phản ánh xu thế phát triển của thời đại và định hướng cho tương lai của nhân loại.
Đối với việc nghiên cứu các hiện tượng kinh tế xã hội, phát triển bền vững có thể được coi
vừa là quan điểm, vừa là mục tiêu nghiên cứu.
Lễ hội truyền thống được coi như một sản phẩm du lịch quan trọng, là mục đích
khám phá của du khách, là cơ sở quan trọng để hình thành, phát triển du lịch ở một khu, một
điểm du lịch của địa phương. Cho nên, địa phương đó muốn đạt được sự phát triển bền
vững, trước hết cần phải bảo tồn và phát triển các lễ hội truyền thống, khai thác phục vụ du
lịch theo hưỡng bền vững.



5.2. Các phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu
Phương pháp thu thập tài liệu là phương pháp truyền thống được sử dụng trong các

nghiên cứu nói chung và nghiên cứu kinh tế xã hội nói riêng. Khoa học không thể phát triển
được nếu thiếu tính kế thừa, thiếu sự tích lũy những thành tựu của quá khứ.
Các nguồn tài liệu cần thu thập tương đối đa dạng, phong phú bao gồm tài liệu đã
được xuất bản, tài liệu của các cơ quan lưu trữ, các tài liệu trên thực báo đài và cả tài liệu
trên mạng internet,…
Đây là phương pháp thu thập tài liệu để áp dụng việc nghiên cứu lý luận gắn với thực
tiễn, đồng thời thu thập thông tin, số liệu thực tiễn để bổ sung cho các vấn đề lý luận hoàn
chỉnh hơn. Khi nghiên cứu các lễ hội truyền thống phục vụ phát triển du lịch cần thu thập
các tài liệu bằng sách vở, văn bản, kỷ yếu của các công trình khoa học, các tư liệu đã có
trước đó, đồng thời phải tiến hành điều tra, khảo sát, thu thập những thông tin thu thập từ
thực tế để đảm bảo tính xác thực, cập nhật. Đây sẽ là cơ sở dữ liệu phong phú và quan trọng
cho việc thực hiện các phương pháp khác đạt hiệu quả cao.
5.2.2. Phương pháp thực địa
Đối với đề tài nghiên cứu có địa điểm và thời gian cụ thể, nhất thiết phải có quá trình
thực địa. Quá trình này giúp người nghiên cứu thu thập thêm tài liệu có liên quan đến đề tài
(ở dạng ấn phẩm tại điểm hoặc ghi chép), đồng thời kiểm chứng tính chính xác của thực tế
so với sách vở. Qua đó, phương pháp này còn giúp người người nghiên cứu phần nào phát
huy tính độc lập độc tập của mình trong nghiên cứu và có cái nhìn thấu đáo, toàn diện hơn
từ thực tế.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã tiến hành đi thực địa để thu thập dữ liệu,
quan sát, phỏng vấn, chụp ảnh một số lễ hội như: Lễ hội bà chúa Xứ Núi Sam, lễ hội anh
hùng Nguyễn Trung Trực, lễ hội cúng biển Mỹ Long, lễ hội đua bò Bảy Núi, lễ hội đua ghe
Ngo, ).
5.2.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
Sau khi thu thập được nguồn thông tin tư liệu từ các công trình nghiên cứu, từ thực
tiễn, người nghiên cứu cần phải tiến hành xử lý theo mục tiêu của việc nghiên cứu. Trong
quá trình xử lý tài liệu, hàng loạt phương pháp truyền thống được sử dụng như: phân tích,
tổng hợp, thống kê, so sánh,…



Việc sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp có ý nghĩa quan trọng trong việc
làm “sạch” tài liệu, đặc biệt là số liệu. Bởi vì số liệu thu thập được cho cùng một đối tượng
từ nhiều nguồn chắc chắn có sự chênh lệch, và phương pháp này, số liệu đó sẽ được xử lý
sao cho phù hợp với thực tế khách quan. Tiếp theo tài liệu được phân tích tổng hợp, đối
chiếu để từng bước biến chúng thành cơ sở cho những nhận định hoặc kết luận khoa học
cho công trình nghiên cứu của mình.
5.2.4. Phương pháp bản đồ
Đây là phương pháp đặc trưng trong nghiên cứu địa lý nói chung và địa lý du lịch nói
riêng. Bản đồ thể hiện sự phân bố, mối liên hệ và động thái của các hiện tượng tự nhiên,
kinh tế xã hội khác nhau. Cho nên bản đồ vừa là nguồn tư liệu quý giá giúp người nghiên
cứu có thể khai thác nhưng thông tin cần thiết, đồng thời là phương tiện thể hiện một cách
trực quan, khái quát một số đối tượng nghiên cứu của đề tài. Các bản đồ được sử dụng trong
quá trình nghiên cứu bao gồm:
- Bản đồ hành chính ĐBSCL
- Bản đồ phân bố các lễ hội ĐBSCL
- Bản đồ các cụm du lịch lễ hội ĐBSCL
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài có những đóng góp chính sau:
- Tổng quan cơ sở lý luận về du lịch, văn hóa, lễ hội truyền thống và du lịch lễ hội
truyền thống.
- Đánh giá tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch lễ hội ở ĐBSCL.
- Định hướng phát triển du lịch lễ hội ở ĐBSCL.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm khai thác hợp lý tiềm năng lễ hội ở ĐBSCL
phục vụ phát triển du lịch.
7. Bố cục đề tài
Gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng hoạt động của lễ hội truyền thống ở ĐBSCL
trong phát triển du lịch
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển du lịch lễ hội truyền thống ở ĐBSCL




CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
  
1.1. Du lịch
1.1.1. Khái niệm về du lịch
1.1.1.1. Du lịch là một dạng hoạt động của con người
Du lịch là một hiện tượng kinh tế - xã hội còn rất mới mẻ so với nhiều lĩnh vực hoạt
động khác. Ngành khoa học về du lịch trên thế giới được hình thành vào đầu thế kỷ XX và
đến nay vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Trong mấy thập kỷ qua, kể từ khi thành lập
Hiệp hội các tổ chức du lịch quốc tế (IUOTO - International of Union Official Travel
Organization) tại Hà Lan năm 1925 đến nay, khái niệm du lịch vẫn luôn được tranh luận.
Thuật ngữ “Tourism” (Du lịch) hiện nay trở nên rất thông dụng. Thuật ngữ này bắt
nguồn từ tiếng Hy Lạp và trở thành một từ trong tiếng Pháp: “Tour” có nghĩa là đi vòng
quanh, đi dạo chơi,… Trong tiếng Việt, “Du lịch” là một từ Hán - Việt, trong đó “Du” cũng
có nghĩa tương tự như chữ “Tour” (du khảo, du ngoạn, du xuân…).
Du lịch, trước hết có thể hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hay một nhóm người rời
khỏi chỗ ở của mình đi đến các vùng xung quanh để tham quan, nghỉ ngơi, giải trí hay chữa
bệnh. Trong nhiều thế kỉ trước đây, người đi du lịch hầu hết là những người hành hương, lái
buôn, sinh viên và các nghệ sĩ. Vào đầu thế kỉ XX, du lịch vẫn là hoạt động của những
người khá giả, họ đi du lịch để giải trí.
Theo Glusman (Thụy Sỹ, 1930) định nghĩa: “Du lịch là sự chinh phục không gian của
những người đến một địa điểm, mà ở đó họ không có chỗ cư trú thường xuyên”.
Tuyên bố La Hay (Hà Lan) về du lịch đã nêu: “Du lịch là một hoạt động cốt yếu của
con người và của xã hội hiện đại. Bởi một lẽ du lịch đã trở thành một hình thức quan trọng
trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của con người, đồng thời là phương tiện giao lưu
trong mối quan hệ giữa con người với con người”.
Như vậy, trước hết du lịch được hiểu là hoạt động của cá nhân hoặc nhóm dân cư. Du
lịch là hiện tượng những người đi đến một nơi khác ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình

do nhiều nguyên nhân khác nhau, ngoại trừ mục đích kiếm tiền; đồng thời những người này
phải tiêu tiền mà họ kiếm được ở nơi khác. Ngày nay, người ta đã thống nhất rằng về cơ bản


tất cả các dạng hoạt động di chuyển của con người ở trong hay ngoài nước, ngoại trừ việc đi
cư trú chính trị, đi tìm việc làm và đi xâm lược, đều mang ý nghĩa du lịch.
Theo I.I.Pirojnic (1985): “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian
rảnh rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên
của mình nhằm mục đích nghỉ ngơi, giải trí, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần,
nâng cao trình độ nhận thức-văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về
tự nhiên, kinh tế và văn hoá”.
Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch tại Canađa (1991) đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch
là các hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài nơi ở thường xuyên của mình trong một
khoảng thời gian ít hơn thời gian được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của
chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”.
Theo Luật du lịch Việt Nam (2005): "Du lịch là các hoạt động có liên quan đến
chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định ».
1.1.2.2. Du lịch là một ngành kinh tế
Thuở ban đầu du lịch là sự tự thoả mãn nhu cầu của bản thân người đi du lịch. Người
đi du lịch phải tự lo liệu tất cả các khâu trong chuyến đi du lịch của mình. Đến năm 1841
với sự kiện Thomas Cook tổ chức một chuyến du lịch tập thể bằng tầu hoả đã mở đầu cho
sự ra đời hoạt động kinh doanh du lịch. Tuy nhiên, cho đến đầu thế kỷ XX, du lịch vẫn chủ
yếu là hoạt động mang tính cá nhân, khách du lịch phải tự lo lấy việc đi lại, ăn nghỉ,… Sau
chiến tranh thế giới 2, khi dòng khách du lịch tăng lên, việc đáp ứng nhu cầu ăn ở, giải trí,…
đã trở thành một cơ hội kinh doanh. Trên cơ sở đó, ngành kinh tế du lịch đã hình thành và
phát triển mạnh mẽ.
Với căn cứ nêu trên, du lịch còn được hiểu là một hoạt động kinh tế hay một ngành
kinh doanh. Theo nghĩa này, du lịch là toàn bộ các hoạt động phối hợp nhau nhằm thoả mãn
nhu cầu của khách du lịch.

Đứng trên góc độ kinh tế có thể định nghĩa: Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp
bao gồm các hoạt động: tổ chức, hướng dẫn du lịch; sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ
nhằm đáp ứng các nhu cầu của khách du lịch.
Như vậy, khái niệm du lịch thể hiện mối quan hệ tác động tổng hợp của các yếu tố liên
quan đến hoạt động du lịch: Du lịch là tổng thể những hiện tượng và những mối quan hệ
phát sinh từ sự tác động qua lại lẫn nhau giữa khách du lịch, nhà kinh doanh du lịch, chính


quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữ khách du
lịch.
Các chủ thể tham gia vào quá trình hoạt động du lịch trong mối quan hệ tác động lẫn
nhau; trong đó, khách du lịch là trung tâm của toàn bộ hoạt động du lịch.
+ Khách du lịch: du lịch thể hiện ở nhu cầu và sự đáp ứng nhu cầu (sự hài lòng).
+ Nhà kinh doanh du lịch: du lịch thể hiện ở cơ hội kinh doanh nhằm thu lợi nhuận qua
việc cung ứng các dịch vụ du lịch cho khách du lịch.
+ Chính quyền sở tại: du lịch tạo sự phát triển kinh tế địa phương (giải quyết việc làm,
tăng thu nhập, tạo nguồn thu…).
+ Dân cư địa phương: du lịch là cơ hội “làm ăn” của họ đồng thời khách du lịch lại coi
họ là đối tượng du lịch (sự hiếu khách, đặc điểm văn hoá…).






Có thể biểu diễn công thức về du lịch như sau:
Du lịch = Đi lại + Lưu trú, nghỉ ngơi + Vui chơi, giải trí + Tham quan, tìm hiểu
Từ những góc độ nêu trên, có thể định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là một tập
hợp các hoạt động và dịch vụ đa dạng, liên quan đến việc di chuyển tạm thời của con người
ra khỏi nơi cư trú thường xuyên của họ nhằm mục đích giải trí, nghỉ ngơi, văn hoá, dưỡng

sức… và nhìn chung là vì những lí do không phải để kiếm sống” (UNWTO, 1994).
Kết luận: Du lịch là một hiện tượng phức tạp, du lịch liên quan đến hoạt động nghỉ
ngơi của con người cũng như các hoạt động kinh tế phục vụ mục đích đó. Trong quá trình
phát triển, nội dung của khái niệm du lịch không ngừng mở rộng. Khó có thể nói định nghĩa
nào là chính xác nhất, đầy đủ nhất. Việc chúng ta chọn định nghĩa nào sẽ tuỳ theo quan
điểm, góc độ tiếp cận và mục đích sử dụng.
1.1.2. Các loại hình du lịch
Phân loại các loại hình du lịch giúp xác định được những đóng góp về kinh tế cũng
như hạn chế của từng loại hình du lịch, trên cơ sở đó các tổ chức quản lý du lịch sẽ hoạch
định những chính sách phù hợp để khuyến khích hoặc hạn chế đối với từng thể loại du lịch
Du khách
Nhà kinh doanh du lịch
Dân cư sở tại
Chính quyền sở tại


tuỳ theo mục tiêu và chính sách phát triển chung của một vùng, một địa phương hay một
quốc gia.
Phân loại các loại hình du lịch làm cơ sở cho hoạt động marketing của các nơi đến và
các tổ chức kinh doanh du lịch. Mỗi loại hình du lịch có những đặc trưng riêng của nhóm
khách du lịch. Thông qua việc phân tích các loại hình du lịch, mỗi vùng, mỗi địa phương,
quốc gia có thể xác định được điểm mạnh, điểm yếu của mình để lựa chọn khách hàng mục
tiêu phù hợp.
1.1.2.1 Phân loại theo mục đích chuyến đi
- Du lịch thuần túy
+ Du lịch tham quan là một hoạt động của con người để nâng cao nhận thức về mọi
mặt.
+ Du lịch giải trí là loại hình du lịch nảy sinh do nhu cầu thư giãn, nghỉ ngơi, giải trí đề
phục hồi sức khỏe (thể chất và tinh thần) sau những thời gian làm việc căng thẳng, mệt mỏi.
Đời sống xã hội càng phát triển thì nhu cầu vui chơi, giải trí của con người ngày càng tăng.

+ Du lịch thể thao không chuyên là loại hình nhằm đáp ứng lòng ham mê thể thao của
mọi người. Khách du lịch có thể tự mình chọn chơi một môn thể thao nào đó để giải trí.
+ Du lịch khám phá là loại hình du lịch nhằm mục đích nâng cao những mục đích mới
lạ về thế giới xung quanh. Tùy thuộc vào mức độ và yêu cầu có thể chia thành hai loại là du
lịch tìm hiểu và du lịch mạo hiểm.
+ Du lịch nghĩ dưỡng là hoạt động du lịch nhằm khôi phục sức khỏe của con người sau
những ngày lao động vất vả. Địa điểm yêu thích đối với các du khách tham gia hoạt động
nghỉ dưỡng thường là những nơi có khí hậu mát mẻ, trong lành, phong cảnh đẹp,…
- Du lịch kết hợp
+ Du lịch tôn giáo là một hình thức du lịch tâm linh. Khách đến hành hương, chiêm
ngưỡng, cúng bái trong sự tôn kính nghiêm trang, gìn giữ bản sắc tự nhiên cùng với tín
ngưỡng của dân bản xứ.
+ Du lịch học tập, nghiên cứu là loại hình du lịch ngày càng phổ biến do nhu cầu kết
hợp lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành. Một trong những hình thức biểu hiện của loại
hình này là sinh viên của các ngành như địa lý, du lịch, lịch sử, văn hóa, môi trường,…
được tổ chức đi nghiên cứu, tìm hiểu thực tế.
+ Du lịch thể thao kết hợp khác với du lịch thể thao thuần túy ở chỗ chuyến đi của các
vận động viên có mục đích chính là tập luyện, tham dự các hoạt động thể thao. Vì vậy hoạt


động thể thao của vận động viên, huấn luyện viên được coi như một nghề chuyên nghiệp,
giống như nhiều nghề khác của xã hội. Ngoài thời gian tập luyện thi đấu, họ có thể tìm hiểu
các giá trị tự nhiên, văn hóa xã hội ở nơi đến. Vì thế có thể xem chuyến đi của họ là chuyến
du lịch thể thao kết hợp.
+ Du lịch công vụ bao gồm những người đi dự hội nghị, hội thảo, hoặc tham gia các
cuộc họp, đàm phán, kinh doanh,… Bên cạnh mục đích chính của chuyến đi là đi thực hiện
các công việc, họ có thể tranh thủ nghĩ dưỡng, tham quan, ngắm cảnh trong thời gian rãnh
rỗi. Ở loại hình du lịch này, khách thường là những đối tượng có khả năng chi trả cao.
+ Du lịch chữa bệnh với mục đích chính của chuyến đi là để chữa bệnh, nâng cao sức
khỏe cho khách du lịch. Địa điểm đến thường là những khu an dưỡng, chữa bệnh, khu vực

có nguồn nước khoáng, khí hậu trong lành, khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp,…
+ Du lịch thăm thân nhân là loại hình du lịch kết hợp trong chuyến đi với mục đích
thăm hỏi bà con, họ hàng, bạn bè,… Loại hình du lịch này có ý nghĩa quan trọng với các
nước có nhiều Kiều bào sống xa Tổ quốc.
1.1.2.2. Phân loại theo tài nguyên du lịch
- Du lịch văn hóa “là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham
gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống”. (Luật du
lịch Việt Nam, 2005).
Du lịch văn hóa là loại hình du lịch nhằm nâng cao hiểu biết cho du khách về lịch sử,
kiến trúc, kinh tế - xã hội với sự tham gia của cộng đồng, lối sống và phong tục tập quán ở
nơi họ đến thăm. Địa điểm đến thăm của du khách có thể là các di tích văn hóa – lịch sử,
bảo tàng, lễ hội địa phương, liên hoan nghệ thuật, thể thao,…
- Du lịch sinh thái “là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hóa
đị phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững” (Luật du lịch Việt
Nam, 2005).
Du lịch sinh thái là hoạt động nhằm thỏa mãn du khách về tìm hiểu các hệ sinh thái tự
nhiên và văn hóa bản địa. Địa điểm tổ chức loại hình du lịch sinh thái thường là những khu
vực có hệ sinh thái còn tương đối hoang sơ, có phong cảnh đẹp, văn hóa bản địa đang được
bảo tồn gần như nguyên vẹn như các vườn quốc gia, các khu dự trữ sinh quyển, các khu bảo
tồn thiên nhiên, các làng, bản văn hóa,… Loại hình này hiện đang thu hút được sự chú ý của
hầu hết các du khách yêu chuộng thiên nhiên và văn hóa trên toàn thế giới.
1.1.2.3. Phân loại theo lãnh thổ hoạt động


- Du lịch nội địa là tất cả các hoạt động phuc vụ cho nhu cầu của du khách ở trong
nước đi nghỉ ngơi, tham quan các đối tượng du lịch trong phạm vi đất nước mình, chi phí
bằng tiền nội tệ.
- Du lịch quốc tế là loại hình du lịch mà điểm đi và điểm đến của du khách nằm ở các
quốc gia khác nhau. Trong quá trình thực hiện loại hình này sẽ nảy sinh sự giao dịch thanh
toán bằng ngoại tệ. Du lịch quốc tế được chia thành:

+ Du lịch quốc tế chủ động (Inbound): là loại hình du lịch quốc tế, đón tiếp, phục vụ
khách nước ngoài đi du lịch, nghỉ ngơi, tham quan các đối tượng du lịch tại đất nước của cơ
quan cung ứng du lịch, còn gọi là du lịch chủ động nhận khách và thu ngoại tệ.
+ Du lịch quốc tế thụ động (Outbound): là loại hình du lịch phục vụ và tổ chức đưa
khách từ trong nước đi nước ngoài và mất một khoản ngoại tệ.
1.1.2.4. Phân loại theo vị trí địa lý
- Du lịch nghỉ biển là loại hình du lịch gắn liền với biển, thuận lợi cho các hoạt động
tắm biển, thể thao biển,… Loại hình này có tính mùa vụ rõ rệt nên thường được tổ chức vào
mùa nóng với nhiệt độ nước biển và không khí trên 20
o
C.
- Du lịch núi là loại hình du lịch gắn liền với các khu vực có địa hình cao, hoạt động du
lịch ở đây thuận lợi để nghỉ mát vào mùa hè ở các nước nhiệt đới và nghỉ đông ở các nước
xứ lạnh với nhiều hoạt động thể thao mùa đông,…
- Du lịch đô thị mà điểm đến là các thành phố lớn, trung tâm hành chính nổi tiếng với
những kiến trúc tầm cỡ quốc gia, quốc tế đặc biệt cả những khu thương mại lớn phục vụ
chiêm ngưỡng và mua sắm,…
- Du lịch đồng quê thường diễn ra ở những nơi có không khí trong lành yên tĩnh, thanh
bình và thoáng mát. Vì vậy, khu vực này thường có sức hút đối với người dân đô thị, nhất là
các đô thị lớn.
1.1.2.5. Phân loại theo thời gian của cuộc hành trình
- Du lịch ngắn ngày là loại hình du lịch thường kéo dài dưới một tuần, tập trung vào
những ngày cuối tuần, loại hình này thích hợp với đối tượng du khách có ít thời gian.
- Du lịch dài ngày là loại hình du lịch thường gắn với các kỳ nghỉ kéo dài từ vài tuần
đến một năm ở các địa điểm cách xa nơi ở của khách, kể cả trong nước và ngoài nước.
1.1.2.6. Phân loại theo việc sử dụng phương tiện giao thông
- Du lịch xe đạp là loại hình sử dụng phương tiện chính là xe đạp, phát triển ở các khu
vực có địa hình bằng phẳng, con người thân thiện với môi trường. Du lịch xe đạp là loại



hình phổ biến ở các phát triển, du khách có thể dễ dàng thâm nhập vào đời sống của cư dân
bản địa,…
- Du lịch ô tô là loại hình du lịch phổ biến và chiếm ưu thế so với các phương tiện
khác, giá rẻ, dễ tiếp cận với các điểm du lịch.
- Du lịch máy bay là loại hình vận chuyển tiên tiến nhất, trang bị tiện nghi đầy đủ, tốc
độ cực lớn, đi xa mà tốn ít thời gian song giá cả cao, khả năng rủi do lớn. Tuy nhiên ngày
nay số khách đi du lịch bằng máy bay vẫn tăng lên đáng kể.
- Du lịch tàu hoả là loại hình du lịch phổ biến của nhiều du khách với giá thành rẻ, có
thể tranh thủ ngắm cảnh bên đường, tiết kiệm thời gian vì có thể thực hiện hành trình vào
ban đêm, tuy nhiên không chủ động và phải kết hợp với các phương tiện vận chuyển
khác,…
- Du lịch tàu thuỷ là loại hình du lịch xuất hiện từ khá lâu, ngày nay nhiều tàu du lịch
với đầy đủ tiện nghi như phòng ăn, phòng ngủ, bar, bể bơi, sân thể thao… đảm bảo nhiều
loại dịch vụ. Tuy nhiên hình thức du lịch này giá thành cao và không thích hợp cho những
người có vấn đề về sức khỏe.
1.1.2.7. Phân loại theo hình thức tổ chức
- Du lịch có tổ chức theo đoàn là loại hình du lịch có sự chuẩn bị chương trình từ
trước, mỗi thành viên trong đoàn biết được kế hoạch đi du lịch của mình.
- Du lịch cá nhân là hoạt động du lịch do cá nhân tự quyết định chuyến đi, kế hoạch
lưu trú, địa điểm ăn uống. Đây là loại hình ngày càng phát triển và dần chiếm ưu thế trong
hoạt động du lịch.
- Du lịch gia đình là loại hình du lịch do các gia đình tự tổ chức hoặc thông qua các
công ty cung ứng dịch vụ trong thời gian sao cho phù hợp với công việc và thu nhập của
mình.
Kết luận: Hoạt động du lịch có tính phong phú và đa dạng về loại hình. Việc nghiên
cứu các thể loại du lịch và xu hướng phát triển của nó giúp những người làm du lịch xác
định được mục tiêu, nội dung và phương thức kinh doanh thích hợp, có hiệu quả nhất.
Trong thực tế, nhìn chung các loại hình du lịch thường kết hợp với nhau, do đó phải có cách
nhìn tổng hợp về loại hình du lịch.





1.1.3. Tài nguyên du lịch
1.1.4.1. Khái niệm
Tài nguyên hiểu theo nghĩa chung nhất là tất cả các nguồn vật chất, năng lượng, thông
tin có trên trái đất và trong không gian vũ trụ mà con người có thể sử dụng để thỏa mãn các
nhu cầu trong đời sống và sản xuất của mình. Tài nguyên được phân thành tài nguyên thiên
nhiên và tài nguyên nhân văn. Tài nguyên thiên nhiên gắn liền với các nhân tố tự nhiên còn
tài nguyên nhân văn gắn liền với các nhân tố về con người và xã hội.
Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung. Khái niệm tài
nguyên du lịch luôn gắn liền với khái niệm du lịch. Tài nguyên du lịch luôn được coi là tiền
đề, là điều kiện đặc biệt quan trọng để phát triển của du lịch. Bản thân tài nguyên du lịch
cũng có tính lịch sử và có xu hướng ngày càng mở rộng do nhu cầu phát triển du lịch.
Pháp lệnh Du lịch Việt Nam (1999): “Tài nguyên du lịch là cảnh quan tự nhiên, di tích
lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có
thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm
du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch”.
Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Tài nguyên du lịch là cảnh quan tự nhiên, yếu tố tự
nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị
nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình
thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”.
Như vậy, có thể hiểu rằng: Tài nguyên du lịch là những yếu tố tự nhiên hoặc nhân tạo
có khả năng khai thác và sử dụng để thoả mãn nhu cầu du lịch.
Tài nguyên du lịch chia làm 2 nhóm:
- Tài nguyên tự nhiên bao gồm: địa hình, khí hậu, thuỷ văn, tài nguyên sinh vật.
- Tài nguyên nhân văn bao gồm: các di tích lịch sử - văn hoá, các lễ hội, nghề và làng
nghề thủ công truyền thống, các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học, các đối tượng văn
hoá, thể thao hay những hoạt động có tính sự kiện khác.


1.2. Một số vấn đề về văn hóa và du lịch văn hoá
1.2.1. Khái niệm văn hóa
Muốn nghiên cứu vai trò của văn hóa đối với phát triển, trước tiên phải có một khái
niệm chính xác và nhất quán về văn hóa cũng như cấu trúc của nó. Trên thực tế, cũng đã có
rất nhiều người cố gắng định nghĩa văn hóa. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một sự


nhất trí và cũng chưa có định nghĩa nào thoả mãn được cả về định tính và định lượng. Điều
đó, theo tôi, có những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, trong số những người nghiên cứu văn hóa, hoặc, như người ta thường gọi,
những nhà văn hóa, ngoài những định kiến và những hạn chế có tính chất lịch sử, rất nhiều
người bị mắc những bệnh nghề nghiệp. Họ thường qui văn hóa vào những lĩnh vực hạn hẹp
cụ thể, thường bói văn hóa, cũng như bói cuộc sống nói chung, theo kiểu thầy bói xem voi,
bằng cách xem xét những bộ phận cá biệt của nó chứ chưa có một cách tiếp cận tổng thể.
Thứ hai, văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, rất phong phú và phức tạp, do đó khái niệm
văn hóa cũng đa nghĩa. Khi đề cập đến nó mỗi người có một cách hiểu riêng tùy thuộc vào
góc độ tiếp cận của họ là điều dễ hiểu.
Thứ ba, giống như tất cả các ngành khoa học xã hội khác, ngành văn hóa học có lịch sử
phát sinh và phát triển lâu dài trong lịch sử loài người. Trong quá trình lịch sử đó nội dung
của khái niệm văn hóa cũng thay đổi theo.
Đã có rất nhiều các tổ chức, các quốc gia và các chuyên gia nghiên cứu về văn hoá đưa
ra các khái niệm về văn hoá và các vấn đề liên quan, và hiện tại chưa có một khái niệm nào
về văn hoá được thống nhất tuyệt đối. Có thể đưa ra một số quan niệm, khái niệm và định
nghĩa về văn hoá như sau:
Hội nghị quốc tế về văn hóa ở Mexico (1982) để bắt đầu thập kỷ văn hoá UNESCO.
Đã thống nhất đưa ra một khái niệm về văn hoá như sau: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa
là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính
cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và
văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá
trị, những tập tục và tín ngưỡng”.

Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa nên được đề
cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm
của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ
thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin” .
Cựu Tổng Giám đốc UNESCO GS Federico Mayor khi ông đưa ra một định nghĩa:
“Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sông động mọi mặt của cuộc sống
(của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khử cũng như đang diễn ra trong
hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ thông các giá trị, truyền thống thẩm
mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng địinh bản sắc riêng của mình”.

×