Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

BAI TIỂU LUẬN LỊCH sử các học THUYẾT CHÍNH TRỊ PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.03 KB, 15 trang )

ĐẠI HỌC HUÊ
VIỆN ĐÀO TẠO MỞ VÀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
----0O0---

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN LỊCH SỬ CÁC HỌC THUYÊT CHÍNH TRỊ - PHÁP LUẬT

TÊN ĐỀ TÀI
THUYÊT HỌC KHỔNG TỬ VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện: Võ Văn Trung.
Lớp: Luật – Quảng Ngãi 2021.
Trạm đào tạo từ xa: Trường Cao đẳng Công thương TPHCM – Cơ sở đào tạo
Quảng Ngãi.
Cố vấn học tập: Ngô Vĩnh Phước.


Quảng Ngãi, ngày 04 tháng 4 năm 2022


A. PHẦN MỞ ĐẦU

Ở nước ta, sự xuất hiện của Nho giáo đi theo một quá trình lịch sử lâu dài
trong q trình đơ hộ của các triều đại phương Bắc. Sự tồn tại của nó đã được ghi
nhận từ thời kỳ Lý – Trần. Theo Việt Nam sử lược, thời vua Lê Thành Tơng thì Nho
giáo đã thực sự được coi là quốc giáo, ảnh hưởng sâu rộng đến tồn bộ người dân
cũng như tình chính trị quốc gia thời kì này. Từ đây Nho giáo đã thành một cơng cụ,
phương tiện xuất hiện trong xuốt thời kì phát triển của Việt Nam trong việc quản lý
cũng như xây dựng hình tượng con người thời kỳ phong kiến sau này.
Việc xây dựng một nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân do


dân và vì dân đã được Đảng và Nhà nước ta xây dựng từ lâu. Với thực tế đất nước
ngày càng phát triển, nền kinh tế hội nhập toàn cầu việc xây dựng một quốc gia với
tinh thần thượng tôn pháp luật là hết sức cần thiết và nhanh chóng, đẩy mạnh hồn
thiện một nhà nước liêm chính, chấm dứt một sự suy thối về tư tưởng, lối sống của
những bộ phận công chức, cơ quan cơng quyền thì u cầu về nhà nước Pháp quyền
là một đòi hỏi cấp bách và cần thiết.
Một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân với một mục tiêu không đổi, xuyên xuốt trong sự đấu tranh của dân tộc ta
“ dân giàu, nước mạnh, công bằng văn minh” để đạt được mục tiêu mang tính dân
tộc này chúng ta cần phải vận dụng thật tốt tinh hoa, tính túy bản chất tốt đẹp của
dân tộc Việt Nam anh hùng, quật cường và có chọn lọc những thơng tin, tư tưởng có
ý nghĩa tiến bộ. Tư tương lấy dân làm gốc, một xã hội mang tính ổn định có những
“con người đạo đức” cán bộ có phẩm giá, chuyên môn sâu năng lực và phẩm chất
chuẩn mực cần gắn liền với một xã hội phát triển văn minh tiến bộ. Với sự ảnh
hưởng mang tính tương đối, có cả tích cực và tiêu cực thì việc xây dựng một nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay của tư tưởng Nho giáo với
việc xây dựng một nhà nước pháp quyền thực sự ở nước ta cần phải nghiên cứu và
làm rõ những điểm tích cực, từ đó tìm ra phương hướng và đường lối hiệu quả đứng
đắn với những điểm văn mình tốt đẹp, hạn chế và loại bỏ những điểm xấu trong con
đường xây dựng và phát triển đất nước là hết sực thực tiễn. Xuất phát từ những cơ
sở lý luận và thực tiễn nêu trên, bản thân em đã chọn đề tài “Tư tưởng của Khổng
Tử và ảnh hưởng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận kết thúc học phần môn học.


B. PHẦN NỘI DUNG

I. Tư Tưởng Của Khổng Tử
1. Hoàn cảnh kinh tế, chính trị thời kỳ xuất hiện học thuyết Khổng
Tử

Về mặt lịch sử: thời Xuân thu (770 - 403 trước Công nguyên) là thời kỳ xã
hội Trung Quốc biến chuyển từ chế độ chiếm hữu nô lệ mà đỉnh cao là chế độ tông
pháp nhà Tây Chu sang chế độ phong kiến sơ kỳ, thời kỳ trật tự lễ nghĩa, chuẩn mực
đạo đức của xã hội cũ bị băng hoại và mất dần vai trò lịch sử của nó, nhưng trật tự
thể chế, pháp luật và chuẩn mực đạo đức mới đang hình thành, chưa đóng vai trị
thống trị trong xã hội. Chính điều này là một trong những nguyên nhân hình thành
tư tưởng đạo đức của Khổng Tử.
Về mặt kinh tế: với tư cách là cơ sở cho sự tồn tại của xã hội, thời Xuân thu,
nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời kỳ đồ đồng sang thời kỳ đồ sắt. Sự ra
đời của đồ sắt đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất. Nó thúc đẩy
nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực: Nơng nghiệp,
thủ công nghiệp và thương nghiệp. Đặc biệt, những tiến bộ vượt bậc trong sản xuất
nông nghiệp do sự xuất hiện của đồ sắt đã làm cho chế độ “tỉnh điền” cơ sở kinh tế
của chế độ nô lệ dần dần bị tan rã, chế độ tư hữu về ruộng đất từng bước hình thành
và ngày càng phát triển.
Về chính trị - xã hội: trên cơ sở sự chuyển biến về lịch sử và sự phát triển về
kinh tế đã dẫn đến sự biến động về chính trị - xã hội ở thời kỳ Xuân thu. Có thể khái
quát sự biến đổi về chính trị - xã hội Trung Quốc thời kỳ này ở một số mặt sau: một
là, sự phân hóa giai cấp và nạn “tiếm ngơi việt vị”; hai là, các cuộc chiến tranh liên
miên và ác liệt giữa các nước chư hầu hòng tranh giành đất đai, quyền lực, làm bá
chủ thiên hạ. Điều đó, đã làm cho đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, trật tự xã hội
bị đảo lộn.

2. Nội dung cơ bản của thuyết Khổng Tử
2.1.1. Tư tưởng của Khổng Tử về vai trò của đạo đức
Có thể thấy, Khổng Tử khơng đưa ra một định nghĩa, hay khái niệm mang
tính chất tổng quát về đạo đức, mà quan niệm về đạo đức được thể hiện ở nhiều góc
độ, đan xen trong hệ thống tư tưởng của ơng. Theo đó, đạo đức bao gồm những
quan hệ đạo đức như : vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn bè và các



chuẩn mực đạo đức đó là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung, dũng, hiếu đễ,... giữa chúng
có mối liên hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, nó chi phối mọi
suy nghĩ, hành động và là khuôn vàng, thước ngọc để đánh giá phẩm hạnh của con
người. Vì vậy, theo Khổng Tử, đạo đức có những vai trò sau:
Thứ nhất, đạo đức có vai trò quan trọng trong việc tu dưỡng và rèn luyện
nhân cách con người.
Tu thân tức là sửa mình, là quá trình khắc phục những sai lầm, khiếm khuyết
trong suy nghĩ và hành động của mình để mình ngày càng hồn thiện, đúng đắn, tốt
đẹp. Theo Khổng Tử, muốn sửa mình cho thành người có đức hạnh hồn tồn, mỗi
con người cần phải lấy những chuẩn mực đạo đức nhân, nghĩa, lễ, tín, chính danh…
làm cơ sở, nhân tố quan trọng trong việc điều chỉnh nhận thức, hành vi của mình
trong các mối quan hệ với bản thân, gia đình và xã hội cho phù hợp. Vì vậy, Khổng
Tử rất đề cao đạo đức, coi đó là tiền đề, điều kiện quan trọng nhất trong việc tu dưỡng
và rèn luyện nhân cách con người.
Thứ hai, đạo đức có vai trò quan trọng trong việc củng cố, duy trì trật tự ky
cương, ổn định xã hội
Khổng Tử cho rằng, dùng đạo đức trong giáo hóa và cai trị thì dân mới nể
phục mà khơng sai phạm nữa; cịn nếu dùng pháp luật thì dân sợ nhưng khơng nể
phục. Mặt khác, đạo đức có thể cảm hố được lịng người, thu phục được lịng dân
trong việc trị quốc, bình thiên hạ. Vậy nên, khi ông Quý - Khương - tử hỏi Khổng
Tử về cách cai trị, Khổng Tử đáp: “Ông muốn cai trị, cần chi phải dùng sự chém
giết? Nếu tự ông muốn làm thiện, thì dân chúng sẽ trở nên thiện hết cả”. Kế đến,
Khổng Tử cho rằng, đạo đức cịn góp phần khắc phục, loại trừ tình trạng phi nhân
tính, vơ đạo đức, bất chấp kỷ cương, phép tắc trong xã hội. Khổng Tử nói: “Xử
kiện, ta cũng biết xử như người: ta cũng biết xét đoán ai phải, ai quấy và trừng trị
kẻ phạm. Nhưng nếu dạy cho dân biết nghĩa vụ, biết nhường nhịn, biết luật pháp
mà giữ gìn, đặng họ chẳng đem nhau đến tụng đình, như vậy chẳng hay hơn sao?”.
Như vậy, theo Khổng Tử đạo đức có vai trị quan trọng trong việc củng cố, duy trì
trật tự kỷ cương, ổn định xã hội.

Thứ ba, đạo đức và thực hành đạo đức đóng vai trò quyết định đối với việc
tạo lập mẫu người lý tưởng, góp phần tạo lập xã hội lý tưởng
Theo Khổng Tử, mẫu người lý tưởng - người quân tử phải là những người
hội tụ đầy đủ những phẩm chất đạo đức, như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, trung,
hiếu đễ… phải là người tài đức vẹn tồn. Có thể nói, tồn bộ tâm huyết, trí tuệ mẫn
tiệp của Khổng Tử là nhằm chỉ ra bản chất, con đường thực hành về nhân, nghĩa, lễ,
trí, tín, dũng, trung, hiếu đễ,… cho mỗi con người, để họ từng bước hướng tới mẫu
người lý tưởng, góp phần tích cực vào việc xây dựng xã hội thanh bình, êm ấm.

2.1.2. Tư tưởng của Khổng Tử về các quan hệ đạo đức và các
chuẩn mực đạo đức cơ bản
Một là, tư tưởng của Khổng Tử về các quan hệ đạo đức cơ bản


Khổng Tử xác định, con người có năm mối quan hệ đạo đức cơ bản gọi là
“ngũ luân”, gồm quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn bè (quân
thần, phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu).
Trong quan hệ vua tôi, Khổng Tử đề cao đức trung. Ơng cho rằng, dân vì vua
là trung, vua vì dân để được lịng dân tin cũng là trung. Vậy trung của Khổng Tử có
hai chiều giữa dân với vua, đòi hỏi sự hết lòng và thành tâm thật ý trong quan hệ
với nhau.
Quan hệ cha con: Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ hiếu làm
đầu, cha đối với con phải lấy lòng từ ái làm trọng. Khổng Tử cũng chỉ ra những việc
người con cần phải làm để thực hiện điều hiếu nghĩa với cha mẹ. Theo ông, phận
làm người con phải thực hiện điều hiếu nghĩa với cha mẹ suốt đời, khi cha mẹ còn
sống cũng như lúc qua đời chỉ cịn lại nấm mộ. Hiếu là phải có tâm, có lịng thành,
khơng có tâm, khơng có lịng thành thì sẽ không được gọi là hiếu. Quan điểm “cha
ra cha, con ra con” của ơng cũng địi hỏi cha mẹ phải đối xử với con cái cho đúng
đạo của mình.
Quan hệ vợ chồng: Khổng Tử cho rằng, đã là vợ chồng phải thủy chung, hồ

thuận, thương u chăm sóc nhau.
Quan hệ anh em: Anh em là những người cùng huyết thống, phải thật sự u
thương, quan tâm chăm sóc, đồn kết giúp đỡ nhau, tạo khơng khí hồ thuận, kính
trên nhường dưới, êm ấm trong ngồi có như vậy gia đình mới hạnh phúc.
Quan hệ bạn bè: Theo Khổng Tử, trong quan hệ bạn bè, trung, tín ln là
tiêu chuẩn của mọi hành vi.
Hai là, tư tưởng của Khổng Tử về các chuẩn mực đạo đức cơ bản
Về phạm trù nhân, theo Khổng Tử, nhân có hai nội dung cơ bản sau: Thứ
nhất là đối với bản thân mình, người có nhân phải luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức để giúp ích cho nước, cho dân. Ơng nói: “người có nhân trước phải làm những
việc khó; sau thì thâu hoạch cuộc thành tựu của mình”. Thứ hai là đối với người:
nhân có nghĩa là thương người. “Phàn Trì hỏi về đức nhân, Khổng Tử đáp: “nhân là
thương người”. Tình yêu thương con người, theo Khổng Tử phải được xây dựng
trên hai nguyên tắc là trung và thứ. Bàn về chữ trung, Khổng Tử giải thích: “trung là
hết lịng hết dạ, thành tâm thật ý”. Cịn về chữ thứ có nghĩa là: “việc gì mình khơng
muốn chớ làm cho người”.
Về phạm trù nghĩa, Khổng Tử cho rằng, nghĩa là lẽ phải, đường hay việc đúng
phải làm một cách tự nhiên, không suy nghĩ, tính tốn lợi hay hại, được hay mất cho
bản thân, biết tri ân đối với người đã giúp đỡ, cưu mang mình trong những lúc khốn
khó, bần hàn, kính trọng người tài năng và nhân đức. Khổng Tử đã từng nói: “Nghĩa
là cư xử cho thích hợp (nghi); nhưng đại để phải tơn trọng bậc hiền”. Ngồi ra, trong
các mối quan hệ xã hội của con người, như: vua tôi, cha con, anh em, vợ
chồng, bạn bè, nghĩa thể hiện với tư cách là trách nhiệm. Như vậy, nghĩa trong tư
tưởng đạo đức của Khổng Tử giúp cho con người biết phân minh việc phải trái, làm
việc tốt, việc thiện ở đời và hành xử công bằng theo lẽ phải. Cho nên, người có nghĩa,
theo Khổng Tử là người thường biết làm và dám làm những việc lớn, đại sự, suốt đời
phấn đấu cho sự thành công của sự nghiệp chung, lợi ích của tồn thể.


Lễ theo Khổng Tử, không chỉ là quy định, phép tắc, chuẩn mực về mặt đạo

đức trong quan hệ ứng xử giữa người với người, mà lễ còn là trật tự, kỷ cương,
phép nước mà mọi người đều phải thực hiện. Mọi người thực hiện lễ không được
thái quá mà phải đúng mực. Theo ông, bất luận thái độ, hành vi nào của con người,
mặc dù về bản chất là tốt, nhưng thái quá, vượt khỏi lễ đều phản tác dụng, thậm chí
cịn gây nguy hại. Ơng nói: “cung kính quá lễ thành ra lao nhọc thân hình; cẩn thận
quá lễ thành ra nhát gan; dũng cảm quá lễ thành ra loạn nghịch; ngay thẳng quá lễ
thành ra gắt gỏng, cấp bách”.
Đức trung trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử chỉ rõ thái độ, trách nhiệm,
nghĩa vụ của dân, bề tôi đối với nhà vua trong quan hệ vua - tơi. Tức là, bề tơi phải
hết lịng, hết dạ phụng sự nhà vua. Ơng nói: “Vua khiến bầy tơi thì phải giữ lễ phép;
bầy tơi thờ vua thì phải cho hết lòng”. Lòng trung phải xuất phát từ trong tâm con
người. Theo quan niệm của Khổng Tử, trung với vua khơng có nghĩa là bề tơi lúc nào
cũng hồn toàn tuân theo mệnh lệnh của bề trên, mà phải có lịng dạ ngay thẳng, biết
can ngăn, khun nhủ vua theo đúng điều nhân, tránh cho vua phạm những điều lầm
lỗi.
Chữ tín có nghĩa là tạo được lịng tin đối với mọi người bằng sự trung thực, lời
nói phải đi đơi với việc làm. Trong ngũ ln, tín được xem là điều kiện đầu tiên của
mối quan hệ bạn bè “bằng hữu hữu tín” (bạn bè có lịng tin). Tuy nhiên, theo quan
điểm của Khổng Tử, nội hàm của đức tín khơng chỉ bó hẹp trong mối quan hệ bạn
bè mà cịn bao hàm cả lịng tin vơ hạn vào đạo lý của bậc thánh hiền, các mối
quan hệ vua tôi, cha con, chồng vợ,…
Khổng Tử cho rằng, để nhận thức và hành động đúng bản chất của nhân, nghĩa,
lễ, trung, tín,… địi hỏi phải là những người có trí, dũng.
Theo Khổng Tử, trí là sự minh mẫn, sáng suốt của con người, phân biệt được
người chính, kẻ tà; xác định đúng tình huống để có cách ứng xử phải đạo, có tình,
có lý. Về nguồn gốc của trí, bên cạnh việc thừa nhận có loại tri thức bẩm sinh do
trời phú cho những hạng người cao thượng; nhưng mặt khác, Khổng Tử cũng thấy
được vai trò to lớn của sự học trong việc hình thành, mở rộng và nâng cao tri thức
con người. Ơng nói: “Kẻ ham học hỏi, nghiên cứu thì ngày càng thấy xa hiểu
rộng, tức gần với đức trí”. Với Khổng Tử, học khơng chỉ để tu thân, mà mục đích

cao nhất của bậc trí giả là để giúp nước, cứu đời, để tự lập rồi lập nhân, tự đạt rồi
đạt nhân. Nên, ông cho rằng việc dạy học chủ yếu là dạy kẻ cầm quyền trị dân “đủ
lễ, nghĩa, tín... khiến dân từ bốn phương sẽ đưa con đến phục dịch mình...” chứ
khơng phải học nghề “cày cấy”. Khổng Tử đã đưa ra tư tưởng hết sức tiến bộ, đó
là “hữu giáo vơ loại”, song, ơng lại quan niệm có bậc “thượng trí” và kẻ “hạ ngu” .
Sự phân chia này cho thấy nhiều mâu thuẫn và hạn chế trong quan niệm của ông
về đối tượng giáo dục.
Trong tư tưởng Khổng Tử, dũng không chỉ sức khỏe thể chất, sức lực của con
người mà là ý chí, sức mạnh chí khí của con người. Vì vậy, người có dũng, theo Khổng
Tử khơng phải là kẻ ỷ vào bạo lực, vì lợi mà hành động bất chấp đạo lý. Người có đức
dũng, phải là người có ý chí quả cảm, hành động xả thân vì nghĩa, “lập thân” và “đạt
nhân”. Dũng còn là tinh thần can đảm, dám bày tỏ ý kiến đúng đắn của mình, có
những hành động trung thực, thanh cao, dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào.


Theo Khổng Tử, các chuẩn mực đạo đức trên có mối liên hệ thống nhất
với nhau về nội dung, trong đó nhân được coi là chuẩn mực gốc, là tồn đức, các
chuẩn mực nghĩa, lễ, trí, tín, trung, dũng, hiếu, đễ,… cũng từ nhân mà hình thành
và có vai trị bổ sung, chỉ ra cách thức, làm sáng tỏ nội dung của nhân. Các
chuẩn mực đạo đức này trở thành trục chính trong tư tưởng đạo đức của Khổng
Tử.
2.1.3. Tư tưởng của Khổng Tử về các phương pháp giáo dục đạo đức cho
con người trong xã hội
Thứ nhất, phương pháp chính danh
Danh theo Khổng Tử có nghĩa là tên gọi, địa vị, cơng dụng; chính có nghĩa là
ngay thẳng, đúng đắn. Do đó, chính danh là làm cho mọi người ai ở địa vị nào, danh
phận nào thì giữ đúng vị trí và danh phận của mình, cũng khơng dành vị trí của người
khác, khơng lấn vượt và làm rối loạn. Mặt khác, chính danh cịn địi hỏi mỗi người phải
xứng đáng với cái danh mà mình đang mang. Với những nội dung trên, ý nghĩa tích cực
của phương pháp chính danh là làm cho con người ý thức được trách nhiệm và nghĩa

vụ của mình một cách rõ ràng trong các mối quan hệ xã hội.
Thứ hai, phương pháp thuyết giáo tùy nghi
Đó là phương pháp dạy học tùy từng đối tượng. Trong sự nghiệp dạy học của
mình, ơng ln tìm hiểu kỹ về khả năng của học trị, trên cơ sở đó đề ra nội dung,
yêu cầu, phương pháp giáo dục đạo đức phù hợp với từng người.
Thứ ba, phương pháp làm gương
Khổng Tử cho rằng, giáo dục đạo đức có điều dạy mà khơng nói, học trị
nhìn vào thái độ, cử chỉ, hành vi của thầy là có thể rút ra bài học. Mỗi sự mẫu mực,
sự hoàn thiện nhân cách, sự nghiêm túc của thầy đều có thể trở thành những bài học
sinh động cho trị. Vì vậy, với ơng sự làm gương của người thầy quan trọng hơn lời
giảng. Người thầy phải gương mẫu trong mọi hành vi, thái độ, cử chỉ của mình;
đồng thời, phải có kiến thức thâm cao, là tấm gương sống để người học nhìn vào đó
noi theo. Đạt được những tiêu chí đó mới làm thầy trong thiên hạ được, mới có thể
giáo hóa được mọi người.
Thứ tư, phương pháp tự tu dưỡng bản thân
Khổng Tử cho rằng, người học phải biết quan sát người để xét mình, biết tìm
những ưu điểm của người khác để học tập, đồng thời cũng biết nhìn ra những
khuyết điểm của họ để tự sửa chữa bản thân. Thậm chí, khơng ngại học hỏi từ
những người có địa vị thấp hơn mình. Ơng nói: “Thấy ai hiền đức, mình nên tư
tưởng để cố gắng cho bằng người. Thấy ai chẳng hiền, mình nên tự xét, đừng bắt
chước theo”. Mỗi ngày xem xét lại bản thân là cách tự giáo dục hiệu quả tốt nhất, sẽ
nhanh chóng sửa lỗi, hồn thiện bản thân, tránh được sai lầm.
Thứ năm, phương pháp thống nhất giữa học với hành, giữa tri thức và
cuộc sống
Khổng Tử luôn đề cao phương pháp học đi đôi với hành. Theo ông, học để
hiểu biết, nhưng khơng coi hiểu biết là mục đích cuối cùng mà cao hơn thế là phải kết
hợp học với hành, đem những tri thức đã học vận dụng vào trong cuộc sống, tránh nói


suông, học suông. Theo Khổng Tử, nếu chỉ biết thế nào là nhân, lễ, nghĩa,… mà

khơng thực hành nó thì đó mới chỉ là cái biểu hiện hời hợt bên ngồi, khơng có ý
nghĩa, nên ơng địi hỏi học trị phải thực hành những điều đã học được với những
người khác như với vua, với cha mẹ, anh em, bạn bè.
II. Những ưu điểm, hạn chế của học thuyết Khổng Tử
1. Ưu điểm của học thuyết Khổng Tử
Thứ nhất, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử góp phần xây dựng một xã hội có
tôn ti trật tự từ trên xuống dưới, từ bản thân mỗi cá nhân đến gia đình và xã hội.
Trước thực trạng xã hội thời Xuân thu rối loạn, trật tự kỷ cương đảo lộn,
con người sống bất nhân, bất nghĩa, cha không ra cha, con không ra con, vua
không ra vua, tôi không ra tôi, Khổng Tử đã đưa ra các tiêu chuẩn như, như cha
hiền, con thảo, anh tốt em ngoan, chồng biết tình vợ nghe lẽ phải, bề trên từ hiếu,
bề dưới kính thuận, vua nhân từ, tôi trung thành; cùng với các chuẩn mực đạo đức
như: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, trung, dũng,… nhằm định hình trong mỗi con người
cách ứng xử cho phải đạo. Không chỉ đưa ra các yêu cầu, chuẩn mực đạo đức để
con người tu dưỡng, rèn luyện, mà Khổng Tử còn rất đề cao việc học và việc dạy
đạo đức để thực hiện đạo làm người, trở thành người có đạo đức, có trách nhiệm
đối với bản thân, gia đình và xã hội. Với những nội dung trên, tư tưởng đạo đức
của Khổng Tử đã góp phần xây dựng một cộng đồng xã hội có trật tự, kỷ cương,
nền nếp từ gia đình đến ngồi xã hội.
Thứ hai, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử hàm chứa giá trị nhân bản, nhân
văn khá sâu sắc.
Với tư tưởng chọn con người làm yếu tố căn bản, trung tâm, coi trọng xây
dựng và xử lý các mối quan hệ giữa người với người dựa trên các quy tắc, tiêu
chuẩn nhân luân. Tin vào khả năng hoàn thiện của con người. Coi đạo đức tối cao
của con người là nhân, phạm vi hành động là lễ, phương pháp đối xử với mọi người
là trung thứ,… Khổng Tử đã chủ trương quý trọng sinh mạng, vì yêu thương người
thân mà yêu thương mọi người, vì u thương lồi người nên ủng hộ nền chính trị
nhân chính để xây dựng thế giới đại đồng cùng với những nỗ lực để thực hiện khát
vọng hạnh phúc cho con người gắn với việc đánh giá mức độ “thành nhân” của họ;
trong đó, bao gồm cả việc hoàn thiện nhân cách và hoàn thành nghĩa vụ làm người,

khẳng định vai trò của dân, nhấn mạnh cả yếu tố vật chất và tinh thần, không bỏ qua
vai trò của cá nhân, tập thể đứng đầu… đã cho thấy giá trị nhân bản, nhân văn đáng
được ghi nhận trong tư tưởng đạo đức của Khổng Tử.
2. Hạn chế của học thuyết Khổng Tử
Thứ nhất, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử thể hiện quan điểm duy tâm, và
phiến diện về lịch sử
Khổng Tử đã quan niệm đạo đức là nhân tố duy nhất quyết định sự hưng vong,
thịnh suy của triều đại mà quên mất vai trò quyết định của kinh tế, của tồn tại xã hội đã
thể hiện quan điểm duy tâm về lịch sử trong tư tưởng đạo đức của ơng. Bên cạnh đó, tư
tưởng đạo đức của Khổng Tử đã đề cao đến mức tuyệt đối hóa vai trị đạo đức của nhà
vua trong việc ổn định xã hội. Ông coi đạo đức của người quân tử, tức giới cầm quyền,


mang tính quyết định đến đạo đức của tiểu nhân (thảo dân). Đó là quan niệm hết sức
siêu hình, phiến diện và một chiều. Khổng Tử rất quan tâm đến lĩnh vực giáo dục con
người. Mục đích của ơng là nhằm giáo hóa, đào tạo, hồn thiện con người. Theo ông,
sự hoàn thiện con người vừa là nguyên nhân, vừa là điều kiện hồn thiện xã hội, nhưng
ơng lại chú trọng đến con người chủ yếu ở phương diện đạo đức. Quan niệm của
Khổng Tử về con người như vậy khơng thể tránh khỏi tính chất siêu hình.
Thứ hai, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử còn mang dấu ấn đẳng cấp, danh
phận
Bất cứ một thời đại nào trong lịch sử, các nhà triết học ít hay nhiều cũng đều bị
ảnh hưởng bởi những tư tưởng ở thời đại của mình đang sống và giai cấp hay tầng lớp
mà mình là người đại diện, như C.Mác nhận định: “Các triết gia không mọc lên như
nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình”. Khổng Tử cũng vậy, sinh ra và lớn
lên trong giai đoạn chiến tranh triền miên, đạo đức con người bị băng hoại, ông lại là
người có dịng dõi q tộc, vì muốn khơi phục lại xã hội như thời Tây Chu cho nên tư
tưởng của ông không thể không mang dấu ấn đẳng cấp, danh phận.
Vì vậy, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử trên thực chất chỉ đề cao đạo đức của
giai cấp thống trị, hệ thống chuẩn mực đạo đức trong tư tưởng của ông được coi là

“khuôn vàng thước ngọc” buộc mọi người phải thực hiện trong suy nghĩ và hành
động nhằm mục đích phục vụ cho giai cấp thống trị, bảo vệ chế độ phong kiến trì trệ,
lạc hậu. Do đó, nó rất khó có thể dung nạp được những tư tưởng mới mẻ, cách mạng,
và khi trình độ dân trí đã phát triển thì những mặt hạn chế đó trong tư tưởng đạo đức
của Khổng Tử nếu không được khắc phục sẽ trở thành lực cản và ảnh hưởng tiêu cực
đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
III. Ảnh hưởng của Thuyết học Khổng Tử đối với việc xây dựng nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam hiện
1 Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay
Ở Việt Nam, khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên
được nêu ra tại Hội nghị lần 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (ngày
29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa
VII của Đảng (năm 1994) cũng như trong các văn kiện khác của Đảng và Nhà nước.
Tại Hiến pháp năm 2013, bản chất và đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đã được thể chế hóa rõ hơn. Nhà nước pháp chúng ta có thể hiểu
ngắn gọn là nhà nước có hệ thống pháp luật tiêu biểu cho quyền lực của một nhà
nước, một chế độ. Hệ thống này phản ánh ý chí, nguyện vong, tâm tư của nhân dân,
bảo đảm cho nhân dân quyền được làm chủ của mình.
Như vậy, có thể nhận thấy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam vừa mang những đặc điểm của nhà nước pháp quyền nói chung, nhất là tính
thượng tơn Hiến pháp, pháp luật, vừa có những đặc thù của riêng Việt Nam, được
nhấn mạnh ở ba điểm chính sau:
Thứ nhất, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.


Thứ hai, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm

quyền tạo khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp đỡ lẫn
nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc.
Có thể thấy những đặc điểm và tính ưu việt của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa cùng với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì việc lựa chọn xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là điều tất yếu. Theo văn
kiện đại hội biểu tồn quốc lần thứ XII trong q trình xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam cần lưu ý những yếu tố sau đây:
Một, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước phải phục vụ
nhân dân, tôn trọng nhân dân và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân cơng, phối hợp,
kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, tư pháp, hành
pháp. Trong đó, Quốc hội là cơ quan duy nhấ có quyền lập Hiến và lập pháp; Chính
phủ điều hành việc thực thi theo Hiến pháp và pháp luật; các cơ quan tư pháp khi
xét xử chỉ tuân theo pháp luật của nhà nước đã ban hành.
Ba là, mọi cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội chỉ được hoạt động trong khuôn
khổ, giới hạn của Hiến pháp và phát luật.
Bốn là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối, không bằng chỉ
thị, mệnh lệnh, không bao biện làm thay Nhà nước.
Ta thấy rằng việc hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh” địi hỏi phải có sự chung tay vào cuộc của tồn bộ hệ thống chính
trị phấn đấu khơng ngừng nghỉ, với sự đồng lịng chung sức của toàn thể người dân
Việt Nam đưa đất nước ta ngày càng giàu mạnh phồn vinh, trong đó tư tưởng của
Khổng Tử để rút ra những bài học kinh nghiệm, những tinh hoa để áp dụng và loại
bỏ những tiêu cực từ đó con đường đi tới vinh quang của toàn Đảng, toàn dân ta
mới thật sự hiệu quả.
2. Những điểm tích cực của tư tưởng Khổng tử đối với việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Các điểm tích cực của tư tưởng Nho giáo được thể hiện qua những đặc điểm
chính như sau đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay như sau:

Tư tưởng tích cực trong việc giáo dục con người sống phải có đạo đức, có
trách nhiệm với cộng đồng, phải xây dựng một trật tự xã hội ổn định.
Tư tưởng của Nho giáo có ảnh hưởng và nghĩa lớn trong việc xây dựng một
chính quyền của dân do dân và vì dân.
Cán bộ, Cơng chức những người lãnh đạo, điều hành đất nước phải đủ đức
đủ tài, phải có đủ phẩm chất năng lực phát triển đất nước.
3. Những điểm tiêu cực của tư tưởng Khổng tử đối với việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay


Tâm lý coi thường thiếu tôn trọng pháp luật.
Tư tưởng gia trưởng, không dân chủ, không coi trọng phụ nữ và sức mạnh
của thế hệ trẻ.
IV. Một số giải pháp được đưa ra
Tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó
cải tổ những quan điểm, tư tưởng lạc hậu của Khổng giáo: Trong bước phát triển
kinh tế xã hội chủ nghĩa, những quan điểm coi nghĩa trọng hơn lợi, đức trọng hơn
tài, Tình nghĩa hơn lẽ phải mới dẫn đến chủ nghĩa tình cảm, chủ nghĩa gia đình;
khơng đặt vấn đề kinh tế theo góc độ kinh tế, giải quyết theo cách kinh tế, gây ra
tình trạng lùng nhùng. Những con người, ơng già và thanh niên, giống như những
nhà nho xưa trà lá, lề mề và hay nói sng, thiếu khả năng và quả quyết hành động
thực tế, đầy thiện chí thương dân, yêu nước mà căng đầy ảo tưởng; theo ảo tưởng
nên tính tốn sai, đầy thiện chí nên tự tin, cố chấp không những gây ra lùng nhùng
mà giẫy giụa trong lưới lùng nhùng. Đó là chỗ tai hại khó khắc phục nhất của ảnh
hưởng Nho giáo đối với sự nghiệp phát triển kinh tế, thiếu kinh nghiệm tổ chức,
quản lý. Sau đó là những quan niệm phong tục tập quán lạc hậu, dẫn đến thói quen
coi thường pháp luật, điều này ở nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
không phù hợp. Những tập quán này là ảnh hưởng tiêu cực của con đường phát triển
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa cần phải loại bỏ, thay vào đó là những tư tưởng tiến bộ hơn của Khổng

Tử có thế áp dụng phù hợp với thực trạng này ở nước ta.
Phát huy những yếu tớ tích cực, hạn chế việc khơng tơn trọng pháp ḷt
trong tư tưởng của Khởng Tử: Như đã nói phần trên, việc quá coi trọng vấn đề đạo
đức mà xem thường pháp luật là một nhược điểm vô cùng lớn của Nho giáo, cịn
với nhà nước pháp quyền tính thượng tôn pháp luật được đặt lên hàng đầu và là tư
tưởng chủ đạo xuyên xuốt của nhà nước ta. Giáo dục đạo đức cho con người nhằm
xây dụng nên những con người có phẩm chất tốt đẹp, có thể xây dựng và điều hành
đất nước đó, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng cần những con
người có phẩm chất tốt đẹp, có năng lực, người dân cần phải nắm bắt và hiểu rõ
pháp luật, từ đó mà xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật vào đời sống, phải
dùng pháp luật giải quyết các vấn đề, như vậy mới là một công dân của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.Ta cũng cần nhìn mặt tốt của tư tưởng Khổng Tử,
trong đó việc sử dụng đạo đức vào lối sống chính trị, hoạt động quản lý nhà nước
cùng vai trò chủ đạo của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là vô cùng tốt, nếu
áp dụng pháp luật và có yếu tố đạo đức đi kèm thì ắt hẳn cơng cụ pháp luật là hình
phạt sẽ hiệu quả hơn, từ đó mà người dân có thể hiểu biết, tơn trọng pháp luật, lại
vừa có đạo đức, tu dưỡng bản thân để sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật,
đó mới là một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vinh quang, vĩ đại.
Xây dựng cán bộ, công chức trong sạch, không tham nhũng quan liêu,
thượng tôn pháp luật và phát huy tư tưởng dân chủ: Để xây dựng một nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì cần một đội ngũ nguồn nhân lực có
trình độ chun mơn cao, bản lĩnh chính trị vững mạnh, đạo đức lối sống tốt. Nhất
là trong hoàn cảnh chúng ta đang trên đà hội nhập sâu rộng với thế giới, những
bước chuyển mình to lớn của nhân loại đang và sẽ tác động đến đất nước chúng ta


trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều
này càng đặt ra tầm quan trọng, ở tư tưởng Nho giáo của khổng tử thì u cầu về
những người cầm quyền phải có những tiêu chuẩn rất cao, theo đó như ngun tắc
“chính danh” vị trí và nhiệm vụ của ai thì phải đúng bổn phận chức trách của người

đó, khơng được lơ là trong nhiệm vụ, phải là bậc quân tử đại trượng phu để làm
gương cho nhân dân loi theo. Rõ ràng nếu loại bỏ những yếu tố tiêu cực của tư
tưởng Nho giáo thì việc áp dụng các yếu tố tích cực trên vào việc xây dựng một đội
ngũ cán bộ là vơ cùng hợp lý, từ đó mà hinh thành nên phẩm chất của những người
chiến sĩ cách mạng, một lịng vì nước vì dân phục vụ xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giàu mạnh. Từ những luận điểm trên các bước
đầu vào khi tuyển trọn một người công chức nhà nước phải đảm bảo chọn đúng
người có những phẩm chất đạo đức tốt, tư tưởng chính trị vững mạnh, trình độ năng
lực chun mơn cao, đáp ứng tốt trong giai đoạn phát triển nhanh chóng của đất
nước. Việc đánh giá cán bộ cũng là một điểm đáng lưu ý ở đây, phải đánh giá một
cách cơng tâm, khơng lơ là, bỏ qua, tránh tình trạng cả nể, thiếu tính cơng minh
trong việc đánh giá phân loại cán bộ. Tình trạng nhũng nhiễu, quan liêu cũng cần
được loại bỏ, đẩy lùi từ đó mới phát huy và xây dựng một nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam lớn mạnh, hùng cường, một đất nước có nền kinh tế phát
triển với tinh thần thượng tôn pháp luật, là một nhà nước của dân, do dân, vì dân,
người dân được thực sự làm chủ đất nước dưới sự lãnh đạo sáng suốt với những
đường lối đứng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam là một tương lai khơng cịn xa
nữa.
C. PHẦN KÊT ḶN
Tư tưởng của Khổng tử đã xuất hiện ở nước ta từ rất sớm, đi suốt chiều dài
lịch sử có thể thấy, tư tưởng này đã góp sức một phầ khơng nhỏ trong hệ thống tư
tưởng, đời sống tinh thần ở nước ta, trở thành một công cụ quản lý xã hội thời
phong kiến Việt Nam. Ngày nay tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử đã khơng cịn tồn
tại như một hệ tư tưởng chính thức nữa, nhưng ảnh hưởng của nó trong xã hội hiện
nay vẫn còn hiện hữu. Với những tư tưởng tích cực về rèn luyện đạo đức, tinh thần
trách nhiệm với gia đình, xã hội, xây dựng một nhà nước ổn định, chăm lo cho nhân
dân, dưỡng dân, đề cao tính làm gương cho người dân đối với nhà cầm quyền,…
Bên cạnh đó cịn những tư tưởng lạc hậu, khơng phù hợp với tình hình phát triển
của đất nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ngày nay như: Gia trưởng,
bảo thủ, xem thường phụ nữ và lớp trẻ, coi thường pháp luật. Trong con đường xây

dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay chúng ta cần học
tập những tư tưởng tốt, tiến bộ và phụ hợp của tư tưởng Khổng Tử với con đường
toàn Đảng toàn dân ta đã chọn là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay, khắc phục, loại bỏ những tư tưởng cổ hủ lạc hậu làm giảm tính
tơn nghiêm của pháp luật. Nếu nước ta áp dụng hiệu quả những điểm tiến bộ, văn
minh của tư tưởng Khổng Tử cùng những ảnh hưởng tích cực, tốt đẹp để xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay thì giúp đẩy nhanh quá
trình phát triển, xây dựng đất nước dân chủ, dân giàu vững mạnh và mục tiêu quan
trọng nhất là xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam./.


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thanh Bình (2013), Những nội dung chủ yếu trong tư tưởng chính
trị - xã hội của Nho giáo, Thông tin khoa học số 6
2. Nguyễn Đăng Dung (2020), Lịch sử các học thuyết Chính trị, Nxb ĐHQG
Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn q́c lần
thứ VIII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn q́c lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn q́c lần
thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội.
6. Trung Hiếu (2020), Góc nhìn đại biểu: Vai trò lãnh đạo của Đảng với cơ
quan Lập pháp (Bài 2), Cổng thông tin điện tử Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
7. Bùi Quốc Hưng, (2019), Ảnh hưởng của tư tưởng trị quốc đối với việc xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.

8. Chu Hy (Nguyễn Đức Lân dịch), (1998), Tứ thư tập chú, Nxb văn hóa
Thơng tin, Hà Nội.
9. Vũ Khiêu (2009), Nho giáo xưa và nay, Viện khoa học xã hội Việt Nam.
10. Trần Trọng Kim, (2001), Nho giáo, Nxb văn hóa Thơng tin, Hà Nội.
11. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


13. Trần Văn Hải Minh (1991), Bách Gia Chư Tử, Hội nghiên cứu và Giảng
dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh
14. Trương Hữu Quýnh chủ biên, (2015), Đại Cương Lịch Sử Việt Nam, tập
I, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
15. Lưu Ngọc Tố Tâm (2018), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, Hà
Nội.
16. Trương Nguyên Tuệ (2019), Suy nghĩ về thực trạng đạo đức xã hội hiện
nay, Tạp chí ban tuyên giáo Trung ương, Hà Nội.
17. Thông tấn xã Việt Nam (2021), Ngành tư pháp cần chủ động tham mưu
tháo gỡ vướng mắc về thể chế, VietNamplus, Hà Nội.
18. Nguyễn Đức Sự (2011), Vị trí và vai trị của Nho giáo trong xã hội Việt
Nam, Văn Hóa Nghệ An.



×