Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

thực trạng công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội tỉnh bắc ninh giai đoạn 2005-2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.24 KB, 98 trang )

Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
LỜI MỞ ĐẦU
Chi Bảo hiểm xã hội là khâu cuối cùng trong việc thực hiện các chế độ Bảo
hiểm xã hội và liên quan trực tiếp đến cuộc sống của người lao động. Chỉ có chi
đúng, chi đủ, chi kịp thời và an toàn đến tay người tham gia Bảo hiểm xã hội mới
đảm bảo quyền lợi của họ cũng như phát huy hết vai trò của chính sách Bảo hiểm xã
hội. Công tác chi trả Bảo hiểm xã hội phản ánh chất lượng của dịch vụ bảo hiểm xã
hội và trong một trừng mực nhất định, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ
xã hội.
Thuộc hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh
được thành lập ngày 1-10-1997, trên cơ sở tách ra từ Bảo hiểm xã hội Hà Bắc cũ, có
nhiệm vụ thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội. Đến tháng 1-2003 thực hiện thêm
chính sách Bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh. Đối tượng tham gia bảo hiểm ngày càng
đông vì vậy vấn đề chi trả cũng gặp nhiều khó khăn, chẳng hạn như: đối tượng quản
lý và nguồn kinh phí chi trả phức tạp, phương tiện và chi phí chi trả chưa đáp ứng
đủ nên ảnh hưởng không nhỏ đến sự an toàn trong quá trình vận chuyển.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên và mong muốn được tìm
hiểu và đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần giải quyết những khó khăn đó,
trong thời gian thực tập tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh nên em chọn đề tài:
“Thực trạng công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội
tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của
mình. Mục đích của đề tài là nghiên cứu, đánh giá công tác chi trả các chế độ Bảo
hiểm xã hội bắt buộc hiện nay ở Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh không bao gồm
Bảo hiểm y tế. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác này trong
thời gian tới. Kết cấu của chuyên đề, ngoài lời mở đầu và kết luận bao gồm 3
chương:
Chương I: Lý luận chung về Bảo hiểm xã hội và công tác chi trả các chế
độ Bảo hiểm xã hội.
Chương II: Thực trạng công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội tại
Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2005-2008.
Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác chi trả các chế


độ Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh.
Trong quá trình thực tập và viết chuyên đề tốt nghiệp, em đã nhận được sự
giúp đỡ nhiệt tình của các cô, các chú tại cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Bắc Ninh và
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
1
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
cô giáo hường dẫn Th.S Nguyễn Thị Chính. Bản thân em rất cố gắng, xong do thời
gian và trình độ còn hạn chế, nên bài viết của em khó tránh khỏi những thiếu xót
nhất định. Em mong được sự góp ý của các cô chú, các thày cô giáo để bài viết của
em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
2
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ CÔNG TÁC CHI TRẢ
CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội
1.1.1. Sự cần thiết và vai trò của Bảo hiểm xã hội
1.1.1.1. Sự cần thiết của Bảo hiểm xã hội
Để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu của con người như ăn, mặc, ở… con người
phải lao động tạo ra những sản phẩm cần thiết. Của cải của xã hội càng nhiều thì
mức thỏa mãn của con người càng cao, có nghĩa là việc thỏa mãn nhu cầu phụ thuộc
vào khả năng lao động của con người. Trong thực tế cuộc sống, không phải người
lao động nào cũng có đủ điều kiện sức khỏe, khả năng lao động và những may mắn
khác để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo cho mình và gia đình một
cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngược lại, người nào cũng gặp phải những rủi ro, bất
hạnh như ốm đau, thai sản, tai nan lao động, già yếu…, thiếu việc làm do ảnh hưởng
của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội

khác… khi rơi vào các trường hợp đó nhu cầu của con người không thế mà mất đi.
Trái lại có cái còn tăng lên, thậm trí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy,
muốn tồn tại con người và xã hội phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải
quyết khác nhau. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản
thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động phải được bảo trợ
từ cộng đồng và xã hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển thành
nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích
cực đến ý thức và công việc xã hội của nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau.
Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ
thống Bảo hiểm xã hội đã có những cơ sở hình thành và phát triển. Qúa trình công
nghiệp hóa làm cho đội ngũ làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ
thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương
trong các trường hợp ốm đau, thai sản, già yếu, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp, rủi ro… đã trở thành mối đe dọa đối với cuộc sống bình thường của những
người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối
mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người lao động phải tìm
cách giải quyết bằng những hành động tương thân tương ái, đồng thời đòi hỏi giới
chủ và Nhà nước phải có trợ giúp để đảm bảo cuộc sống cho họ.
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
3
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
Con người là trụ cột chính trong xã hội. Trong cuộc sống cũng như trong
hoạt động kinh doanh thường gặp phải những rủi ro mà không ai có thể tránh khỏi.
Khi gặp những rủi ro thì nhu cầu đối với con người và trong sản xuất không mất đi
thậm trí còn tăng lên rất nhiều. Chính vì vây, cuộc sống của con người càng khó
khăn hơn. Còn sản xuất thậm trí bị đình đốn. Khi đó người lao động trích một phần
tiền lương, tiền công và người sử dụng lao động trích một phần lợi nhuận tạo thành
một quỹ chung. Nhà nước cũng tham gia đóng góp vào quỹ. Qũy này dùng để hỗ trợ
những người lao động khi không may họ bị tai nạn, ốm đau, gia cảnh khó khăn giúp
họ ổn định cuộc sống, và Nhà nước cũng đứng ra quản lý quỹ này để đảm bảo tính

khách quan, tính công bằng và chính xác.
Như vậy, sự ra đời của BHXH là một tất yếu khách quan, không phụ thuộc
vào ý muốn của bất kỳ ai và để đáp ứng với sự phát triển chung của xã hội, đòi hỏi
BHXH ngày càng được củng cố và hoàn thiện trong mỗi quốc gia cũng như trên
toàn thế giới. BHXH giúp cho người lao động tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro
nhanh chóng ổn định cuộc sống, tạo tâm lý ổn định và yên tâm làm việc để từ đó
giúp người lao động nâng cao năng suất lao động, góp phần tăng thu nhập của họ
trong tương lai đồng thời kích thích những người lao động chưa tham gia BHXH,
hãy hăng hái tham gia. Và BHXH giúp cho sản xuất trong doanh nghiệp diễn ra liên
tục, tránh được trường hợp đình công, đập phá máy móc của người lao đông.
1.1.1.2. Vai trò của Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia, vai trò đó được thể hiện qua các mặt sau:
- Đối với người lao động:
Trong giai đoạn hiện nay khi đất nước đang ngày càng hoàn thiện quá trình
công nghiệp hóa-hiện đại hóa thì những “rủi ro” như ốm đau, tai nạn lao động –
bệnh nghề nghiệp, thai sản, mất việc làm… lại diễn ra một cách thường xuyên và
ngày càng phổ biến hơn và phức tạp hơn. Khi những rủi ro này xảy ra sẽ gây ra
những khó khăn cho người lao động cả về vật chất lẫn tinh thần, ảnh hưởng không
tốt cho cả xã hội.
Với tư cách là một trong những chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước,
BHXH sẽ góp phần giúp cho cá nhân người lao động gặp phải rủi ro, bất hạnh bằng
cách tạo ra cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi…
giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo cho họ một niềm tin vào tương lai.
Từ đó, góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao động cũng như chất lượng
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
4
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
công việc cho doanh nghiệp nói riêng và cho toàn xã hội nói chung.
- Đối với người sử dụng lao động:

Để có được sản phẩm phục vụ cho cuộc sống của con người và sự phát triển
của xã hội thì cần phải có người tạo ra sản phẩm và nhờ vào quá trình sản xuất để
tạo ra sản phẩm cần thiết cho con người, cho xã hội. Những người biết vận dụng sức
lao động của công nhân để tạo ra sản phẩm cho xã hội đó chính là người sử dụng
lao động. Muốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh được đảm bảo thì người chủ sử
dụng lao động phải tạo được mối quan hệ tốt với người lao động, giải quyết những
vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của người sử dụng lao động thật tốt để người lao
động yên tâm tham gia lao động sản xuất và có niềm tin vào cuộc sống, từ đó lao
động sản xuất hăng hái hơn, tạo ra nhiều sản phẩm tốt hơn làm cho quá trình sản
xuất kinh doanh của người sử dụng lao động đạt kết quả cao. Muốn vây, chủ sử
dụng lao động phải tham gia đóng BHXH cho người lao động của mình để BHXH
đảm bảo những khoản chi trả cần thiết, kịp thời đến người lao động khi họ gặp phải
những rủi ro bất chắc như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp
Việc tham gia đóng BHXH cho người lao động của chủ sử dụng lao động là góp
phần vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển hơn,
nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp cũng như nâng cao thu
nhập cho người lao động và góp phần vào phát triển kinh tế.
- Đối với nền kinh tế:
Góp phần gắn bó giữa giới chủ và giới thợ từ đó làm cho thị trường lao động
phát triển lành mạnh, bền vững. Đặc biệt là mâu thuẫn vốn có của giới chủ và giới
thợ về cơ bản được giải quyết và đây là tiền đề rất quan trọng giúp cho người lao
động nâng cao năng suất lao động, phát huy sáng tạo, góp phần làm cho sản xuất
ngày càng phát triển.
Nhờ có chính sách BHXH mà quỹ BHXH được hình thành và tồn tích lại
theo thời gian và bắt đầu những năm 60 của thế kỷ 20 quỹ BHXH ở các nước, đặc
biệt là các nước phát triển đã trở thành một khâu tài chính trung gian vô cùng quan
trọng góp phần đầu tư, phát triển, tăng trưởng kinh tế cho đất nước.
- Đối với xã hội:
Thứ nhất: cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động dịch
vụ, cơ quan BHXH là một “doanh nghiệp” sản xuất ra những dịch vụ “bảo hiểm”

cho người lao động, một loại dịch vụ mà bất kỳ ai cũng cần đến.
Thứ hai: với tư cách là một trong những chính sách xã hội của Nhà nước,
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
5
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
BHXH sẽ bảo hiểm cho người lao động, hoạt động BHXH sẽ giải quyết những “trục
trặc”, “rủi ro” xảy ra đối với người lao động góp phần phục hồi năng lực làm việc,
khả năng sáng tạo của sức lao động. Sự góp phần này tác động trực tiếp đến việc
nâng cao năng suất lao động cá nhân, đồng thời góp phần tích cực vào nâng cao
năng suất lao động xã hội. BHXH đã gián tiếp tác động đến chính sách tiêu dùng
của quốc gia làm tăng sự tiêu dùng cho xã hội.
Thứ ba: với tư cách là quỹ tiền tệ tập trung, nhằm tác động mạnh đến hệ
thống tài chính ngân sách Nhà nước, tới hệ thống tín dụng tiền tệ ngân hàng. Chính
vì vậy, đặt ra một yêu cầu cho quỹ BHXH là phải tự bảo tồn và phát triển quỹ bằng
nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình thức đầu tư phát triển tiền “nhàn rỗi”
của quỹ. Phần này có tác động không nhỏ tới sự phát triển của đất nước, góp phần
tạo ra những cơ sở sản xuất kinh doanh mới, góp phần tăng thu nhập cá nhân cho
người lao động nói riêng và tăng tổng sản phẩm quốc nội cũng như tăng tổng sản
phẩm quốc dân nói chung.
Thứ tư: BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ
phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Sự phân phối lại thu
nhập này được phân phối theo hai cách: là phân phối theo chiều dọc và phân phối
theo chiều ngang; phân phối giữa những người khỏe với người già, giữa nam với
nữ, giữa người đang được hưởng trợ cấp với người chưa được hưởng trợ cấp và
phân phối lại theo chiều ngang là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế xã hội,
giữa người có thu nhập cao với người có thu nhập thấp. Về mặt kinh tế, nhờ có tổ
chức phân phối lại thu nhập mà đời sống của người lao động và gia đình họ luôn
được đảm bảo trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội do có sự “san sẻ rủi
ro” của BHXH, người lao động chỉ phải đóng một khoản nhỏ trong thu nhập của
mình vào quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang trải

những rủi ro xảy ra, ở đây BHXH thực hiện nguyên tắc “lấy số đông bù số ít”. Tuy
nhiên, tính kinh tế và xã hội của BHXH không tách rời nhau mà đan xen lẫn nhau.
Khi nói đến bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là nói lên tính xã
hội của BHXH, ngược lại khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi
ro xã hội thì đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH.
1.1.2. Bản chất, chức năng và tính chất của Bảo hiểm xã hội
1.1.2.1. Bản chất của Bảo hiểm xã hội
Với những vai trò của BHXH đã nêu ở trên thì bản chất của BHXH được thể
hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
6
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ
thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì
BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH
hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người
sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan
chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và
gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người
như: ốm đau, tai nạn lao đông- bệnh nghề nghiệp… Hoặc có thể là những trường
hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như tuổi già, thai sản… Đồng thời những
biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp những biến
cố, rủi ro, sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn

tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn
được sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao
động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm.
Nếu xét về yếu tố lịch sử thì BHXH được hình thành từ những năm 50 của
thế kỷ 19. Tuy nhiên bây giờ vẫn chưa có một khái niệm thật chuẩn mực về BHXH
vì các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu vẫn còn có nhiều quan điểm khác nhau:
- Nếu đứng trên góc độ tài chính: thì BHXH là quá trình san sẽ rủi ro, san sẻ
tài chính giữa các bên tham gia theo quy định thống nhất của pháp luật Nhà nước.
Sự san sẻ rủi ro giữa những người khỏe mạnh với những người gặp sự kiện bảo
hiểm, những người giàu với những người nghèo thông qua sự đóng góp vào quỹ
tiền tệ tập trung, nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Qũy này được hình thành chủ yếu
do người lao động và người sử dụng đóng góp là chủ yếu, Nhà nước đóng và hỗ trợ
thêm và từ các nguồn khác nữa.
- Nếu đứng trên góc độ pháp lý: BHXH là một cơ chế pháp định bảo vệ người
lao động và gia đình họ thông qua việc sử dụng tiền đóng góp của người lao động
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
7
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
tham gia bảo hiểm và gia đình họ khi người lao động gặp rủi ro. Khi người lao động
hoặc gia đình họ gặp phải rủi ro, hoặc sự kiện bảo hiểm thì quỹ BHXH sẽ chi trả
một khoản tiền giúp họ ổn định cuộc sống.
- Theo tổ chức lao động quốc tế ILO: “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối
với tất cả các thành viên của mình với những khó khăn về kinh tế xã hội do bị
ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động,
tuổi già và chết, y tế, thai sản”.
- Thế giới quan niệm: “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần
thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất
khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ
tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm

bảo an toàn xã hội”.
- Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHXH cũng được xuất phát trên cơ sở
quan hệ lao động và quan hệ quản lý xã hội, cụ thể:
+ Bên tham gia BHXH: có thể bao gồm người lao động, người sử dụng lao
động và nhà nước và có thể chỉ có người lao động và nhà nước.
+ Bên BHXH: thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước đứng ra
thành lập và bảo trợ, cơ quan này tổ chức hoạt động theo đúng khuôn khổ pháp luật.
+ Bên được bảo hiểm chính là người lao động và gia đình họ khi có đủ các
điều kiện ràng buộc cần thiết.
Cơ sở chủ yếu của các mối quan hệ giữa các bên chính là quỹ tài chính
BHXH vì quỹ này do tất cả các bên tham gia đóng góp và mức đóng của từng bên là
do sự thỏa thuận giữa các bên sau đó được tiến hành luật hóa và cụ thể thực hiện.
Đứng trên bình diện xã hội thì BHXH là quá trình sử dụng một phần tổng sản
phẩm quốc nội để đảm bảo an toàn về kinh tế cho người lao động và toàn xã hội.
Bởi vậy, quỹ tài chính BHXH là điều kiện tiên quyết để san sẻ rủi ro, san sẻ tài
chính cho các bên tham gia.
Mục đích chính của BHXH là nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu của người
lao động và gia đình họ trong trường hợp người lao động bị giảm hoặc mất thu
nhập, mất việc làm. Mục đích này được tổ chức lao động quốc tế cụ thể hóa như
sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất đi để đảm bảo
nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe chống lại bệnh tật.
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
8
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư, nhu cầu đặc biệt
của người già và trẻ em.
Tất cả những mục đích nói trên, thế giới ngày nay đều thừa nhận và cho rằng
góp phần đảm bảo ASXH cho từng nước và toàn thế giới.

Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu đảm bảo an toàn
kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình sử dụng thu nhập cá
nhân và tổng sản phẩm trong nước(GDP) để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế cho
người lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất
xã hội.
1.1.2.2. Chức năng của Bảo hiểm xã hội
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì quy cho
cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người khi hết tuổi lao động theo
các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm hoặc mất khả năng lao động
tạm thời, làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng được hưởng trợ cấp
BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn
hưởng theo đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH nó quyết định
nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Phân phối và phân phối lại thu nhập giữa người lao động tham gia BHXH.
Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà có cả người sử dụng lao động.
Các bên tham gia phải đóng góp vào quỹ BHXH. Qũy này được dùng để trợ cấp
cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Như vậy
theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả
chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu ngập cao và
những người có thu nhập thấp… Thực hiện chức năng này có nghĩa BHXH đã góp
phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất từ
đó nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khỏe
mạnh thì hăng hái sản xuất, lao động thì được chủ sử dụng lao động trả tiền công,
khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và khi về già thì được BHXH trợ cấp thay thế
nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ luôn được đảm bảo giúp họ yên
tâm lao động sản xuất. Giúp tăng năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người

SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
9
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
lao động và xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động vốn có những
mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động. Thông
qua BHXH, những mâu thuẫn đó được điều hòa và giải quyết. Đối với Nhà nước và
xã hội thì chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng
vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp
phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an
toàn hơn.
1.1.2.3 Tính chất của BHXH
- Tính khách quan phát sinh không đồng đều theo không gian và thời gian:
Trong quá trình lao động sản xuất, người lao động có thể gặp nhiều biến cố,
rủi ro khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn không kém
như: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng và hợp đồng lao động
luôn được đặt ra để thay thế…Sản xuất càng phát triển thì rủi ro đối với người lao
động càng nhiều và dẫn đến mối quan hệ chủ thợ ngày càng gay gắt. Để giải quyết
vấn đề này nhà nước đứng ra giải quyết thông qua BHXH. BHXH ra đời hoàn toàn
mang tính khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi nước.
- BHXH có tính ngẫu nhiên:
Tính chất này gắn chặt với tính ngẫu nhiên khi phát sinh sự kiện bảo hiểm.
Phát sinh không đồng đều theo không gian và thời gian. Có một số sự kiện mang
tính ngẫu nhiên vào thời điểm nhưng mang tính tất nhiên về thời gian. Từ những
phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian ảnh hưởng đến mức trợ cấp
BHXH theo từng chế độ cho người lao động.
- BHXH vừa có tính kinh tế vừa có tính xã hội, vừa có tính nhân đạo nhân văn
+ Tính kinh tế: tính kinh tế được thể hiện ở chỗ. Qũy BHXH muốn được
hình thành bảo toàn và tăng trưởng quỹ thì phải có sự đóng góp của các bên tham
gia, phải được quản lý chặt chẽ và đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên được
tính rất cụ thể dựa trên sác xuất rủi ro, thiệt hại của tập hợp người tham gia BHXH.

Đối với người sử dụng lao động, việc tham gia đóng góp vào quỹ BHXH cho người
lao động mà họ sử dụng. Xét dưới góc độ kinh tế họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra
một khoản tiền cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Với nhà
nước, BHXH làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đồng thời quỹ BHXH
nhàn dỗi còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Và tính kinh tế còn
được thể hiện đối với người lao động tham gia BHXH là có tham gia đóng góp mới
được hưởng trợ cấp. Đồng thời về cơ bản đóng nhiều thì hưởng nhiều, đóng ít thì
hưởng ít.
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
10
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
+ Tính xã hội: nhìn chung mọi người lao động trong xã hội đều có quyền
tham gia BHXH và BHXH có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động (tuy
nhiên trong thời kì đầu chỉ áp dụng đối với công nhân viên chức hưởng lương).
BHXH bảo hiểm cho mọi đối tượng lao động trong tất cả các ngành nghề, các vùng
miền, thành phần kinh tế, địa phương… Điều đó thể hện tính xã hội rất rộng lớn.
Bất kì một loại hình bảo hiểm nào kể cả bảo hiểm y tế… đều có tính nhân
đạo và nhân văn, điều này được cả thế giới thừa nhận vì bảo hiểm nói chung và
BHXH nói riêng luôn luôn đứng bên cạnh mỗi cá nhân, doanh nghiệp trong những
lúc khó khăn nhất.
1.1.3. Đối tượng Bảo hiểm xã hội
Tuy BHXH ra đời rất lâu, nhưng đối tượng Bảo hiểm xã hội vẫn có nhiều
quan điểm chưa thống nhất. Đôi khi còn nhầm lẫn giữa đối tượng của BHXH với
đối tượng tham gia BHXH.
BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do
người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên
nhân như ốm đau, bệnh tật, tai nạn, già yếu… Chính vì vậy, đối tượng của BHXH là
thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất
khả năng lao động, mất việc làm của những người tham gia BHXH.
Còn đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao

động.Tuy vậy, tùy theo điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có
thể là tất cả hoặc là một bộ phận người lao động tham gia BHXH. Người lao động
tham gia BHXH nhằm đảm bảo cuộc sống cho chính họ và gia đình họ khi họ gặp
phải rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm. Còn người sử dụng lao động họ tham gia bảo
hiểm để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng nhằm ổn định sản xuất.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH đều thực hiện BHXH đối với
các viên chức Nhà nước, những người làm công ăn lương. Vì khi đó BHXH chưa
phát triển và những đối tượng này chỉ có một khoản thu nhập cố định đó là tiền
lương của họ. Nếu họ không may gặp phải rủi ro, hoặc sự kiện bảo hiểm thì họ sẽ bị
mất thu nhập, và không thể trang trải cuộc sống. Khi tham gia BHXH nếu họ không
may gặp phải sự kiện bảo hiểm thì được quỹ BHXH chi trả giúp họ ổn định cuộc
sống.
1.1.4 Các chế độ Bảo hiểm xã hội
Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định
cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
11
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
người lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định được pháp luật hóa
về đối tượng hưởng, nghĩa vụ và mức đóng cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế
độ BHXH thường được biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, các
thông tư, điều lệ… Tuy nhiên, dù có cụ thể đến đâu thì các chế độ BHXH cũng khó
có thể bao hàm được đầy đủ mọi chi tiết trong quá trình thực hiện chính sách
BHXH. Vì vậy, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề
mang tính cốt lõi của chính sách BHXH, để đảm bảo tính đúng đắn và nhất quán
trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Theo khuyến nghị của ILO đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952
tại Giơnevơ, hệ thống các chế độ BHXH bao gồm:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau

3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp tử tuất
Tùy theo điều kiện kinh tế xã hội của từng nước mà hệ thống này có thể thực
hiện được toàn bộ hoặc cũng có thể thực hiện được một số chế độ nào đó. Nhưng
một quốc gia được gọi là có hệ thống chế độ BHXH ít nhất thực hiện được 3 chế độ
trong đó ít nhất phải có một trong năm chế độ sau chế độ (2) Trợ cấp ốm đau; (3)
Trợ cấp thất nghiệp; (4) Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; (8) Trợ cấp
cho người tàn phế; (9) Trợ cấp tử tuất.
Có nhiều yếu tố khoa học tác động đến điều kiện, thời gian và mức hưởng trợ
cấp trong từng chế độ, cũng như khả năng áp dụng bao nhiêu chế độ trong một hệ
thống: như tiền lương, thu nhập của người lao đông, hệ thống tài chính quốc gia…
Thời gian hưởng và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng
trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí BHXH của người lao động trên cơ sở tương
ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời khả năng thanh toán còn phụ thuộc vào khả
năng thanh toán của quỹ tài chính BHXH.
Để hình thành hệ thống chế độ này cần phải dựa trên những cơ sở nhất định
như: cơ sở sinh học, cơ sở môi trường và điều kiện lao động, cơ sở kinh tế xã hội,
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
12
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
luật pháp của từng nước. Sau đây là đặc điểm hệ thống các chế độ:
- Chế độ chăm sóc y tế:
Người lao động là người tạo ra của cải vật chất hoặc tinh thần cho xã hội bởi
vậy muốn xã hội phát triển ổn định, bền vững thì trước hết quan tâm đến sức khỏe
cho họ kể cả khi bình thường hay khi ốm đau, tai nạn. Bởi vậy, tổ chức lao động

quốc tế coi đây là chế độ đầu tiên trong 9 chế độ BHXH. Mục đích là để bảo vệ và
phục hồi cải thiện sức khỏe cho người lao động, từ đó tái sản xuất sức lao động cho
họ giúp họ làm việc một cách bình thường. Đồng thời còn giúp bản thân gia đình họ
ứng phó với các nhu cầu phát sinh cá nhân để đảm bảo cuộc sống.
Chế độ này có đối tượng rất rộng bởi vì không chỉ có người lao động tham
gia BHXH mà thậm chí cả vợ hoặc chồng con cái họ bởi lẽ nếu những người này
được chăm sóc y tế có cuốc sống khỏe mạnh bình thường thì bản thân người lao
động cũng yên tâm, phấn khởi tham gia sản xuất. Góp phần nâng cao năng suất lao
động cá nhân.
Đây là chế độ đặc thù trong 9 chế độ có đối tượng rộng nhưng BHXH sẽ tiến
hành chi trả trợ cấp theo tất cả những chi phí phát sinh trong suốt thời gian điều trị
chăm sóc những người được bảo vệ. Tuy nhiên để tránh chuộc lợi BHXH người ta
quy định người tham gia BHXH phải có ít thất 1 thời gian nhất định có đóng
BHXH. Đây là chế độ BHXH ngắn hạn vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính
chất không hoàn trả. Những nước thiết lập quỹ BHYT thì mức phí phải nộp phụ
thuộc chủ yếu 3 yếu tố: số người tham gia BHXH; số người được chăm sóc y tế
hàng năm; chi phí bình quân một người được chăm sóc y tế hàng năm.
- Chế độ trợ cấp ốm đau:
Ốm đau là loại rủi ro rất phổ biến trong cuộc sống của mỗi con người và hầu
như ai cũng gặp phải. Khi bị ốm đau bản thân người ốm và gia đình gánh chịu
những chi phí phát sinh và nếu tham gia BHXH thì chế độ chăm sóc y tế gánh vác.
Nếu ốm đau còn điều trị dài ngày thì nghỉ ốm sẽ mất thu nhập và thu nhập bị gián
đoạn, khoản chế độ này sẽ được bù đắp hoặc thay thế bởi chế độ ốm đau. Bởi vậy
mục đích của chế độ này là nhằm đảm bảo tính liên tục về thu nhập cho người lao
động và gia đình họ, giúp họ ổn định cuộc sống. Việc quy định mức trợ cấp và thời
gian trợ cấp tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng nước.
Chế độ này cũng là chế độ trợ cấp ngắn hạn, vừa mang tính hoàn trả, vừa
mang tính không hoàn trả.
- Chế độ trợ cấp thất nghiệp
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48

13
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
Thất nghiệp là loại rủi ro nghề nghiệp mà trong cơ chế thị trường người lao
động rất hay gặp phải đây là loại rủi ro có tác động rất lớn đến tất cả vấn đề kinh tế,
chính trị, xã hội của mỗi nước… thất nghiệp do nhiều nguyên nhân khác nhau và
hậu quả vô cùng nặng nề bởi vậy ngày nay tất cả các nước, tất cả các nhà kinh tế,
nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng thất nghiệp là vấn đề nan giải khó giải
quyết. Thất nghiệp luôn đi đôi với lạm phát. Mục đích của chế độ này góp phần ổn
định thu nhập và tâm lý cho người lao động cũng như gia đình họ giúp người lao
động bị thất nghiệp sớm có cơ hội và điều kiện quay trở lại thị trường lao động. Góp
phần ổn định kinh tế xã hội của mỗi nước bởi vì thất nghiệp ảnh hưởng sâu sắc đến
tất cả những lĩnh vực này…
Nếu quan sát thực trạng triển khai Bảo hiểm thất nghiệp ở tất cả các nước
trên thế giới thì mức trợ cấp thất nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào những yếu tố sau:
quỹ BHXH, tình hình biến động của thị trường lao động; chế độ tiền lương của
quốc gia. Điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ. Mức trợ cấp
thất nghiệp luôn luôn nhỏ hơn tiền lương, tiền công trước khi bị thất nghiệp nhưng
phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và gia đình họ trong thời gian
người lao động bị thất nghiệp. Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp ngắn hay dài
phụ thuộc vào thời gian tham gia BHXH của người lao động trước đó và tổ chức lao
động khuyến cáo thời gian trợ cấp có thể 13-26 tuần trong 1 năm. Chế độ trợ cấp
thất nghiệp cũng được coi là chế độ trợ cấp ngắn hạn, vừa mang tính hoàn trả, vừa
mang tính không hoàn trả. Hiện nay, Bảo hiểm thất nghiệp được triển khai dưới 2
dạng chủ yếu đó là: triển khai độc lập với BHXH hoặc coi đó là một chế độ của
BHXH.
- Chế độ trợ cấp TNLĐ-BNN
Đây là một trong những chế độ được triển khai sớm nhất trên thế giới cũng
như ở Việt Nam bởi vì nó đáp ứng nhu cầu thực tế trước mắt của mọi người lao
động, bởi lẽ đây là loại rủi ro có thể phát sinh bất cứ lúc nào, ở đâu. Hiện nay, trên
thế giới có 178 nước triển khai chế độ này. Mục đích là góp phần đảm bảo thu nhập

cho người lao động, gia đình họ khi không may gặp tai nạn lao động…, phục hồi
khả năng lao động cho người lao động từ đó giúp họ sớm quay lại thị trường lao
động, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cả người lao động và người sử dụng lao
động, trách nhiệm này thực hiện cả khi người lao động còn khỏe mạnh lẫn cả khi bị
tan nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Đây là chế độ vừa mang tính ngắn hạn, vừa mang tính dài hạn nên việc quản
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
14
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
lý rất khó khăn nó liên quan đến ngành nghề, giới tính, thời điểm xảy ra tai nạn, nơi
sảy ra tai nạn… Bởi vậy khi luật hóa chế độ này phải hết sức cụ thể và sát với thực tiễn.
- Trợ cấp hưu trí
Trong hệ thống 9 chế độ thì chế độ trợ cấp hưu trí là một chế độ quan trọng
nhất. Vì chế độ này liên quan đến tất cả người lao động trong xã hội từ khi bước vào
độ tuổi lao động đến khi người ta chết. Đặc biệt là mức đóng và mức hưởng của chế
độ này luôn luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng mức phí và trong tổng quỹ
BHXH. Ngoài ra hoạt động thu, chi của chế độ này cũng có liên quan đến tất cả các
cơ quan, các hoạt động BHXH. Chính vì vậy, chế độ hưu trí được đa số các nước áp
dụng và cũng là một chế độ được thực hiện sớm nhất.
Đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động sau khi đã hoàn thành
nghĩa vụ lao động đối với xã hội. Thể hiện sự quan tâm của chính phủ, người sử
dụng lao động không chỉ khi họ còn trẻ khỏe mà cả khi họ đã già yếu không thể lao
động được nữa. Sự quan tâm này không chỉ thuần túy là nghĩa vụ và trách nhiệm
mà còn là đạo lý của mỗi dân tộc, mỗi một chế độ chính trị xã hội. Ngoài ra, giúp
cho người lao động tiết kiệm cho bản thân ngay từ trong quá trình lao động để đảm
bảo ổn định cuộc sống khi về già, từ đó giảm bớt gánh nặng cho gia đình và người
thân và cho xã hội.
Đối tượng, mức trợ cấp và khoảng thời gian trợ cấp phụ thuộc vào điều kiện
kinh tế, xã hội của từng nước.
Chế độ hưu trí là chế độ trợ cấp dài hạn được thực hiện ngoài quá trình lao

động. Số tiền trợ cấp thông thường được cơ quan BHXH chi trả định kỳ theo tháng
cho người về hưu. Chế độ hưu trí là chế độ mang tính chất hoàn trả và ít nhiều có sự
tách biệt qúa trình đóng và hưởng vì người lao động tham gia đóng phí bảo hiểm
trong suốt quá trình lao động và được hưởng trợ cấp khi về hưu. Điều này thể hiện
tính kế thừa liên tục giữa các thế hệ người lao động để hình thành quỹ hưu trí. Vì
vậy, việc xác định mức đóng, mức hưởng rất phức tạp.
- Trợ cấp gia đình
Chế độ này nhằm hỗ trợ cho người lao động đông con có điều kiện vật chất
tối thiểu cần thiết để chăm sóc và nuôi dạy con cái. Khuyến khích người lao động
tham gia BHXH và tạo nguồn lao động tương lai. Góp phần tạo sự bình đẳng trong
xã hội và từ đó tạo sự ASXH, tính đến hết năm 2006 trên thế giới có trên 86 nước
thực hiện trợ cấp gia đình.
Đây là chế độ liên quan đến việc làm vì vậy đối tượng được trợ cấp chỉ bao
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
15
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
gồm những người đang lao động và gia đình họ. Trong đó, chỉ có những lao động
đông con mới được hưởng trợ cấp và trách nhiệm chủ yếu thuộc về người sử dụng
lao động.
Những người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đối với người lao động
đông con gặp hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống bằng cách bổ xung các quyền lợi
cho người được trợ cấp. Cụ thể là bổ sung vào tiền lương, tiền công thậm trí là bằng
hiện vật thiết yếu. Tuy nhiên phần trợ cấp này là bao nhiêu và hình thức chi trả như
thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước.
- Trợ cấp thai sản
So với nam giới thì lao động nữ mang một số đặc điểm là thể chất tình trạng
sức khỏe và tâm sinh lý có những đặc điểm khác hẳn với nam giới và thông thường
là kém hơn nam giới. Bởi vậy, nó liên quan đến công việc mà nữ giới đảm nhiệm.
Những công việc này ảnh hưởng trực tiếp đến chức năng làm vợ, làm mẹ của lao
động nữ. Nên nó chịu ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách BHXH. Vậy khi thiết kế

chính sách BHXH cần phải chú ý đến chính sách sử dụng lao động nữ và chính sách
đãi ngộ đối với họ. Trong hệ thống chính sách BHXH, lao động nữ không chỉ là đối
tượng tham gia BHXH được hưởng trợ cấp mà họ còn là đối tượng nghiêm cứu để
hoàn thành toàn bộ hệ thống BHXH nói chung. Thực hiện tốt chế độ trợ cấp thai sản
sẽ bù đắp thay thế được nguồn thu nhập cho lao động nữ khi họ sinh đẻ và nuôi con
nhỏ. Tái sản xuất cho lao động nữ và những thế hệ lao động kế tiếp, góp phần thực
hiện quyền bình đẳng nam nữ và quyền phụ nữ nói chung.
- Trợ cấp tàn tật
Thực hiện chế độ này nhằm góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động
và gia đình họ khi người lao động không may bị tàn tật, từ đó góp phần đảm bảo an
sinh xã hội, khuyến khích người lao động hăng hái tham gia BHXH. Đây cũng là
một chế độ thể hiện tính nhân đạo nhất. Chế độ này vừa mang tính hoàn trả vừa
mang tính không hoàn trả. Tuy nhiên, đây cũng là chế độ rất dễ bị lạm dụng trong
khâu giám định y khoa.
- Trợ cấp tử tuất
Đây là một chế độ bảo hiểm nhân đạo nhất trong tổng số 9 chế độ BHXH
cho nên hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện, thực hiện chế độ này nhằm
góp phần khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống cho gia đình người lao động
không may bị chết. Khuyến khích những người còn sống tham gia BHXH và góp
phần đảm bảo ASXH cho đất nước. Chế độ này thường được các nước chia làm 2
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
16
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
phần:
+ Trợ cấp mai táng, chon cất cho người lao động bị chết.
+ Trợ cấp dài hạn cho vợ hoặc chồng, bố mẹ 2 bên theo luật quy định nhưng
mức trợ cấp tối đa cho những người này không vượt quá tiền lương đang làm việc
của người lao động khi còn sống.
1.1.5. Qũy Bảo hiểm xã hội
1.1.5.1 Khái niệm và đặc điểm của quỹ BHXH

- Khái niệm: quỹ BHXH là quỹ tiền tệ độc lập, tập trung, nằm ngoài ngân
sách Nhà nước. Qũy BHXH được hình thành chủ yếu từ sự đóng bằng tiền của các
bên tham gia BHXH nhằm mục đích chi trả cho những người được BHXH và gia
đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do gặp các rủi ro, mất khả năng lao động
hoặc mất việc làm.
- Đặc điểm của quỹ BHXH:
+ Qũy BHXH ra đời và tồn tại với mục đích ổn định cuộc sống cho người
lao động và gia đình họ. Qũy này hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nên quản
lý theo nguyên tắc cân bằng thu-chi.
+ Phân phối quỹ BHXH mang tính chất hoàn trả và không hoàn trả. Tính
hoàn trả thể hiện ở chỗ, người lao động là người tham gia và đóng BHXH đồng thời
họ là đối tượng được nhận trợ cấp, họ được chi trả từ quỹ BHXH cho dù chế độ,
thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người sẽ khác nhau tùy thuộc vào biến cố
hoặc rủi ro họ gặp phải cũng như mức đóng và thời gian đóng BHXH của họ. Tính
không hoàn trả thể hiện ở chỗ cùng tham gia và đóng BHXH, nhưng có người được
hưởng trợ cấp nhiều lần, nhiều chế độ. Nhưng có người được hưởng ít lần hơn,
thậm trí không được hưởng. Chính vì đặc điểm này mà một số đối tượng được
hưởng trợ cấp BHXH nhiều hơn mức đóng của họ và ngược lại. Điều đó thể hiện
tính xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH.
+ Qúa trình tích lũy để bảo tồn quỹ và đầu tư quỹ là mang tính nguyên tắc
cụ thể. Đặc điểm này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an
toàn về thu nhập cho người lao động. Vì vậy, BHXH phải tự bảo vệ mình trước
nguy cơ mất an toàn về tài chính, giảm giá trị do yếu tố lạm phát. Do đó, bảo tồn và
tăng trưởng quỹ BHXH trở thành yêu cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt
động của BHXH.
+ Qũy BHXH là hạt nhân của tài chính BHXH, và nó là khâu tài chính trung
gian cùng với tài chính doanh nghiệp và NSNN hình thành nên hệ thống tài chính
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
17
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính

quốc gia chịu sự chi phối của pháp luật nhà nước. Tuy nhiên, mỗi khâu tài chính
được tạo lập, sử dụng cho một mục đích riêng và gắn với một chủ thể nhất định. Vì
vậy, chúng luôn độc lâp với nhau trong quản lý và sử dụng.
+ Sự tồn tại và phát triển của quỹ BHXH là do điều kiện kinh tế xã hội và
điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước. Kinh tế-xã hội ngày
càng phát triển thì ngày càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH, nhu
cầu thỏa mãn về BHXH ngày càng được nâng cao. Đồng thời kinh tế xã hội phát
triển họ càng có điều kiện tham gia và đóng góp BHXH…
1.1.5.2 Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ 3 nguồn sau
+ Người lao động đóng góp
+ Người sử dụng lao động đóng góp
+ Nhà nước bù thiếu
Ngoài ra nó còn được hình thành từ một số nguồn khác như lãi đầu tư quỹ
nhàn rỗi bổ sung thêm, sự đóng góp của các tổ chức quốc tế và các tổ chức từ thiện
khác nếu có. Trong các nguồn hình thành nói trên thì người lao động và người sử
dụng lao động đóng góp là cơ bản và chủ yếu. Thông thường nhà nước chỉ bù thiếu.
Mức đóng BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định
cân đối thu chi cho quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa
học. Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi
từ mức hưởng sau xác định mức phí phải đóng… Việc xác định mức phí đóng
BHXH là khá phức tạp vì nó liên quan đến người lao động và người sử dụng lao
động và Nhà nước.
Phí BHXH được xác định theo công thức:
P=f 1+f 2+f 3x
Trong đó P-Phí BHXH
f 1-Phí thuần túy trợ cấp BHXH
f 2-Phí dự phòng
f 3-Phí quản lý
Vì vậy để xác định mức phí đóng BHXH phải dựa vào nhiều yếu tố, nhiều

thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu lao động theo ngành, độ tuổi, giới
tính… Ngoài ra còn phải xác định được tuổi thọ bình quân của một quốc gia, xác
suất ốm đau, tử vong của người lao động…
1.1.5.3 Mục đích sử dụng quỹ BHXH
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
18
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
- Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH: đây là khoản chi lớn nhất để thực
hiện mục đích lớn nhất của BHXH. Thông thường trên thế giới giới khoản chi này
luôn luôn chiếm 80 đến 85% quỹ BHXH.
- Chi quản lý bộ máy: khoản chi này giúp cho cơ quan BHXH các cấp tổ
chức và thực hiện thành công chính sách BHXH. Nội dung khoản chi này bao gồm:
tiền lương cho cán bộ công nhân viên trong ngành và bồi dưỡng nghiệp vụ….
- Chi dự phòng: bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng khoản chi này cũng
mang tính chất bắt buộc nhằm đảm bảo quỹ BHXH đủ lớn và an toàn. Đặc biệt là
khắc phục kịp thời những biến động lớn trong hệ thống tài chính quốc gia có ảnh
hưởng đến quỹ BHXH.
- Chi đầu tư: khoản chi này bao giờ cũng được quản lý riêng và nó được lấy
từ khoản chênh lệch thu > chi của Qũy BHXH và lấy từ lợi nhuận do đầu tư quỹ
mang lại.
Chi đầu tư bao gồm: vốn gốc, nguồn vốn bổ xung hàng năm và các khoản chi
phí khác để thực hiện đầu tư.
- Những chi phí phát sinh ngoài những khoản chi nói trên như chi phí về
thanh lý, nhượng làm tài sản.
- Nếu quỹ BHXH được hình thành từ 2 loại: quỹ BHXH ngắn hạn và quỹ
BHXH dài hạn thì việc chi trả và việc quản lý thu sẽ được cụ thể hơn.
+ Qũy BHXH ngắn hạn chi cho các chế độ ngắn hạn: ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động và bệnh ngề nghiệp.
+ Qũy BHXH dài hạn chi cho các chế độ dài hạn như: hưu trí và tử tuất.
1.1.5.4 Đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH

- Đầu tư là yêu cầu khách quan: do đặc thù người tham gia BHXH đóng phí
trong một thời gian dài và rất lâu sau họ mới được hưởng chế độ trợ cấp dài hạn
như: hưu trí, tử tuất. Đồng thời số người tham gia đóng phí và hưởng tại một thời
điểm thường có sự chênh lệch dương (đôi khi khá lớn) nên quỹ BHXH tại một thời
điểm nhất định có số tiền kết dư lớn. Mặt khác, quỹ BHXH cũng luôn phải đối mặt
với những nguy cơ rủi ro, như việc tính toán mức đóng-mức hưởng của đối tượng
không khoa học, những biến động xã hội đặc biệt dẫn đến việc bội chi quỹ; bị giảm
giá trị do lạm phát thông thường, do lạm phát từ các cuộc khủng hoảng kinh tế,
chính trị, xã hội trong và ngoài nước tác động….
- Những đặc thù đó đòi hỏi quỹ BHXH phải được chú trọng đến hoạt động
đầu tư tăng trưởng để tránh việc bội chi. Sự quay vòng bảo toàn và tăng trưởng quỹ
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
19
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
BHXH là một đặc trưng cơ bản của hoạt động xã hội trong nền kinh tế thị trường.
Hoạt động đầu tư quay vòng vốn để bảo toàn và tăng trưởng giá trị quỹ BHXH là
một yêu cầu cần thiết khách quan, đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển và phát huy tác
dụng của chính sách BHXH trong việc đảm bảo ASXH và hỗ trợ cho nền kinh tế
phát triển bền vững.
- Lợi ích của hoạt động đầu tư quỹ BHXH: mang lại lợi ích cho chính quỹ
BHXH, đảm bảo cho sự chi trả thường xuyên các đối tượng hưởng chế độ BHXH.
Ngoài ra nguồn vốn lớn có được từ tín dụng quỹ BHXH sẽ hỗ trợ quan trọng để đầu
tư, phát triển một số dự án phát triển kinh tế-xã hội của nhà nước, giúp thúc đẩy
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Hiện nay quỹ BHXH thường được đầu tư vào các lĩnh vực như mua các
loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu địa phương hoặc trái phiếu công ty; gửi tiết
kiệm ở ngân hàng, mua kì phiếu ngân hàng; mua cổ phiếu; cho các công ty vay vốn;
trực tiếp liên doanh hoặc ủy thác kinh doanh; kinh doanh bất động sản. Trong đó,
mua trái phiếu chính phủ và gửi ngân hàng là an toàn hơn cả và được hầu hết các
nước áp dụng.

- Nguyên tắc đầu tư của quỹ BHXH:
+ Nguyên tắc quan trọng đặt lên hàng đầu trong hoạt động đầu tư quỹ
BHXH là an toàn (không chỉ đảm bảo được số vốn đầu tư mà còn giữ được giá trị
thực sự của vốn), nhằm trước hết bảo toàn được quỹ, đảm bảo quyền lợi chính đáng
cho người lao động về chi trả BHXH. Nếu hoạt động đầu tư xảy ra tình trạng không
an toàn thì gánh nặng đè lên vai Nhà nước dẫn đến mất ổn định xã hội-chính trị.
Mất lòng tin ở nhân dân…
+ Khi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH cần đảm bảo tính hiệu quả: vì đầu tư
không sinh lời thì không thực hiện được mục tiêu tăng trưởng quỹ và ảnh hưởng tới
độ an toàn của quỹ và khả năng chi trả trong tương lai…
+ Phải chú trọng đến tính thanh khoản của dòng vốn (dễ luân chuyển vốn) vì
quỹ BHXH luôn vận động không ngừng, đó là quá trình tạo lập và sử dụng quỹ để
chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH.
Tóm lại, đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH có vai trò quan
trọng và góp phần đảm bảo quyền lợi cho người lao động, thực hiện ASXH. Song
với sự vận động không ngừng của thực tiễn kinh tế, nội dung và hình thức đầu tư
cần được tiếp tục nghiên cứu để hoạt động đầu tư quỹ BHXH đạt hiệu quả cao nhất,
phục vụ sự phát triển bền vững của đất nước.
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
20
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
1.2. Công tác chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội
1.2.1. Cơ sở và nguyên tắc chi trả Bảo hiểm xã hội
- Cơ sở chi trả Bảo hiểm xã hội
Chi BHXH là quá trình phân phối sử dụng các nguồn tài chính đã được tập
chung vào quỹ BHXH nhằm mục đích chi trả cho các chế độ BHXH. Mà người lao
động tham gia BHXH được hưởng nhằm mục đích ổn định cuộc sống của họ và gia
đình họ khi họ gặp phải rủi ro hoặc sự kiện bảo hiểm…
Việc chi trả các chế độ BHXH được xây dựng riêng cho từng chế độ và mỗi
quốc gia có những cơ sở khác nhau nhưng cơ bản đều theo một khung nhất định.

Các hoạt động chi trả các chế độ BHXH họ đều dựa vào luật, các văn bản, các quy
định của nhà nước, các văn bản do cơ quan BHXH trung ương hướng dẫn. Đồng
thời căn cứ vào đặc điểm kinh tế, nguồn chi và tiền lương đóng BHXH, điều kiện
làm việc, mức độ rủi ro… để xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp với từng
quốc gia.
- Nguyên tắc chi trả Bảo hiểm xã hội
BHXH là trụ cột chính trong hệ thống ASXH của mỗi quốc gia, là chỗ dựa
cho người lao động lúc gặp khó khăn. Vậy để thực hiện chi BHXH một cách có
hiệu quả cần đạt được mục tiêu chi đúng, chi đủ, chi an toàn và chi kịp thời đến tận
tay đối tượng hưởng. Cần có hoạt động quản lý chi một cách có tổ chức theo đúng
quy định của pháp luật.
+ Chi đúng là chi đúng đối tượng, đúng chế độ, đúng thời hạn … đảm bảo
lợi ích cho người lao động.
+ Chi đủ: là chi đủ khoản tiền trợ cấp mà đối tượng đáng được hưởng.
+ Chi an toàn: là đảm bảo khoản tiền từ cơ quan BHXH đến tay người lao
động không bị thất thoát.
+ Chi kịp thời: là chi đúng thời điểm người lao động cần sự trợ giúp của
BHXH. Nó giúp người lao động yên tâm hơn vào cơ quan BHXH nói riêng và pháp
luật của nhà nước nói chung.
1.2.2. Phân cấp chi trả
Công tác chi trả các chế độ BHXH được tổ chức theo ngành dọc, từ Trung
ương đến địa phương. Tránh tình trạng chống chéo, đảm bảo hiệu quả cao trong
công tác chi trả.
Cơ quan BHXH Trung ương chịu trách nhiệm quản lý chung, cấp và ứng tiền
cho đơn vị cấp dưới để chi trả cho các đối tượng hưởng. Ban hành các Luật, các
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
21
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
thông tư, quyết định giúp cho công tác chi trả được thuận tiện hơn.
Cơ quan BHXH tỉnh chịu trách nhiệm toàn diện trong việc chi trả, quyết toán

các chế độ BHXH trên địa bàn tỉnh quản lý. Trực tiếp chi trả và quyết toán các chế
độ ốm đau, thai sản, chi trả các chế độ BHXH nhận trợ cấp một lần cho người lao
động do BHXH tỉnh quản lý thu BHXH.
Cơ quan BHXH huyện tổ chức chi trả và quyết toán chế độ ốm đau, thai sản,
chi trả các chế độ nhận trợ cấp một lần cho người lao động do BHXH huyên quản lý
thu BHXH và các trường hợp tỉnh ủy quyền. Chi hưu trí, trợ cấp BHXH hàng tháng
trên địa bàn. Chi trả các chế độ BHXH cho người lao động có hồ sơ đề nghị giải
quyết hưởng BHXH nộp tại BHXH huyện.
1.2.3. Phương thức chi trả và quy trình chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội
1.2.3.1. Phương thức chi trả các chế độ Bảo hiểm xã hội
Tùy thuộc vào mô hình của hệ thống BHXH và cơ sở lập luận thể chế tài
chính của mỗi quốc gia mà người ta lựa chọn phương thức chi trả BHXH một cách
cụ thể. Một số yếu tố thường được cơ quan BHXH xem xét để quyết định phương
pháp chi trả:
- Sự phát triển của cơ sở hạ tầng
- Chi phí dịch vụ
- Sự an toàn về tài chính
- Sự thuận tiện cho cơ quan BHXH và người hưởng trợ cấp
Tuy nhiên xét một cách tổng quát thì có hai phương thức chi trả: đó là
phương thức chi trả trực tiếp và phương thức chi trả gián tiếp; tùy thuộc vào từng
địa bàn cụ thể, tùy loại đối tượng hưởng mà cơ quan BHXH có thể lựa chọn phương
thức chi trả khác nhau.
- Phương thức chi trả trực tiếp:
Đây là phương thức chi trả trợ cấp BHXH trực tiếp cho đối tượng hưởng
BHXH không qua các đại lý trung gian, việc chi trả này là do cơ quan BHXH, cán
bộ của ngành trực tiếp thực hiện, chi trả đến tận tay đối tượng hưởng BHXH.
Khi thực hiện công tác chi trả đòi hỏi cán bộ làm công tác chi trả phải có
trách nhiệm chuẩn bị mọi công việc có liên quan đến việc chi trả từ khâu nhận danh
sách đối tượng hưởng, lên kế hoạch và thông báo thời gian chi trả cho từng địa bàn
hoặc đơn vị được phân công phụ trách. Đồng thời họ cũng phải chuẩn bị tiền để chi

trả và thanh toán sau khi chi trả.
Quy trình chi trả trực tiếp
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
22
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
Khi thực hiện phương thức chi trả trực tiếp thì có ưu điểm và nhược điểm như sau:
+ Ưu điểm:
Do cơ quan BHXH trực tiếp chi trả với từng đối tượng hưởng BHXH cho
nên đã xác lập được quan hệ giữa cơ quan BHXH với đối tượng hưởng. Do đó sẽ
nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, hoàn cảnh của từng đối tượng. Đồng thời tuyên
truyền giải thích các chế độ chính sách cho các đối tượng. Phát hiện được những bất
hợp lý để tìm ra biện pháp và hướng giải quyết thỏa đáng.
Thực hiện chi trả trực tiếp còn giúp cho cơ quan BHXH kiểm tra và quản lý
chặt chẽ được đối tượng sẽ nắm bắt được tình hình tăng, giảm để từ đó kịp thời điều
chính hoặc phát hiện trường hợp hưởng không đúng hoặc hưởng trùng chế độ.
Do nắm bắt được đối tượng quản lý cho nên việc chi trả được thực hiện một
cách nhanh gọn, đầy đủ, chính xác, đảm bảo được quyền lợi của đối tượng hưởng,
tạo niềm tin và sự phần khởi cho người dân nói chung.
Phương thức chi trả trực tiếp tạo điều kiện thanh quyết toán của cơ quan
BHXH được kịp thời, khắc phục được hiện tượng dây dưa, tồn đọng của các đại lý
chi trả. Đặc biệt tránh được kẽ hở trong khâu thanh toán, quyết toán cũng như tiêu
cực khác trong khâu chi trả.
+ Nhược điểm:
Không thể tiến hành chi trả nhiều đơn vị, nhiều địa điểm trong cùng một thời
gian, thời gian chi trả bị kéo dài. Đòi hỏi lịch trình công tác của cán bộ phải khoa
học, chính sách đầy đủ. Đối với những khu vực vùng sâu, vùng xa, hải đảo thì việc
chi trả cũng gặp nhiều khó khăn về phương tiện đi lại cũng như là phương tiện vận
chuyển tiền, cũng như phương tiện đảm bảo an toàn cho tiền. Phương thức chi trả
được thực hiện đúng kỳ và đủ số thì nguồn kinh phí chi trả phải được đảm bảo đầy
đủ về số lượng và thời gian. Vấn đề này đòi hỏi cần phải có sự phối hợp chặt chẽ

giữa cơ quan BHXH với kho bạc và ngân hàng. Phương thức này làm tốn nhiều cán
bộ cho công tác chi trả nên chi phí quản lý tăng.
- Phương thức chi trả gián tiếp
Là phương thức chi trả thông qua các đại lý chi trả, thông qua Ngân hàng, thông
qua bưu điện hoặc các đại lý chi trả
Phương thức chi trả thông qua các đại lý chi trả: thì cơ quan BHXH phải ký hợp
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
23
Cán bộ chi trả Đối tượng hưởng
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
đồng trách nhiệm với một số cá nhân làm đại diện chi trả, những cá nhân này
thường là những người đang hưởng chế độ BHXH có trách nhiệm uy tín ở địa
phương và được cơ quan chính quyền địa phương giới thiệu. Hàng tháng, các đại lý
chi trả sẽ nhận danh sách đối tượng hưởng và tiền từ cơ quan BHXH cấp huyện,
hoặc có thể nhận tay ba qua kho bạc hoặc bưu điện. Sau mỗi kỳ chi trả sẽ có quyết
định thanh quyết toán đối với đại diện chi trả.
Quy trình chi trả thông qua các đại lý chi trả:
Phương thức chi trả thông qua ngân hàng hoặc bưu điện: tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế, xã hội của từng nước, từng vùng và đặc điểm của từng chế độ, mà có thể áp
dụng phương pháp nào sao cho phù hợp. Cơ quan BHXH sẽ chuyển tiền và danh
sách đối tượng hưởng cho Ngân hàng hoặc bưu điện. Nếu chuyển vào Ngân hàng
thì cơ quan BHXH sẽ chuyển tiền vào Ngân hàng sau đó Ngân hàng sẽ chuyển tiền
vào các tài khoản cá nhân của họ. Nếu thông qua đường bưu điện thì nhân viên bưu
điện sẽ chuyển đến tận tay đối tượng hưởng thông qua đường bưu điện. Khi thực
hiện phương thức chi trả gián tiếp thì có ưu điểm và nhược điểm sau:
+ Ưu điểm:
Thực hiện phương thức này thì cơ quan BHXH sẽ chi trả được tất cả các địa
bàn, xã phường, thị trấn trong phạm vi tỉnh, thành phố trong cùng một thời điểm.
Cán bộ làm đại lý chi trả là những người của địa phương. Vì vậy mà thường
xuyên nắm bắt được tình hình của đối tượng hưởng do đại lý phụ trách, cho nên sẽ

kiểm soát và phản ánh được kịp thời cho cơ quan BHXH. Cắt giảm đối tượng bị
chết, điều chỉnh lại các đối tượng hưởng các chế độ mà không theo đúng quy định.
Các đại lý chi trả thường là do ủy ban nhân dân giới thiệu với cơ quan
BHXH, được sự giúp đỡ của chính quyền địa phương giúp cho công tác chi trả được
thực hiện một cách thuận lợi và hiệu quả nhất.
+ Nhược điểm:
Nếu chi trả gián tiếp thì cơ quan BHXH không nắm bắt được tâm tư, nguyện
vọng của đối tượng hưởng để giải quyết, giải đáp những thắc mắc cho họ.
Đại lý này ở địa phương giới thiệu, có nhiều người đại lý không có ý thức tốt
thực hiện các quy định của ngành về quản lý tài chính như số tiền lĩnh không đầy
đủ, danh sách chi trả và phiếu lĩnh tiền chưa có chữ ký của đối tượng hưởng. Một số
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
24
BHXH
Đại lý chi trả Đối tượng hưởng
Chuyên đề thực tập GVHD: Th.S. Nguyễn Thị Chính
đại lý chi trả còn thu thêm tiền đối tượng.
Lệ phí chi trả cho các đại lý thường thấp, không khuyến khích được các đại
lý chi trả. Điều kiện đi lai khó khăn trong quá trình thực hiện chi trả.
Mặc dù, phương thức này có thể tiến hành đồng thời trên các địa bàn nhưng
việc chi trả cho đối tượng trong phạm vi một xã lại có thể kéo dài. Đặc biệt là trên
địa bàn có số đối tượng đông, vì vậy việc thanh quyết toán đối với cơ quan BHXH
sau mỗi thời kỳ chi trả thường chậm chễ so với quy định.
Quy trình chi trả thông qua Ngân hàng, Bưu điện:
1.2.3.2. Quy trình chi trả
Quy trình chi trả là sự kế tiếp các khâu có liên quan đến công tác chi trả
nhằm theo dõi sự vận động của đồng tiền từ khi ra khỏi quỹ BHXH đến tay đối
tưởng hưởng BHXH. Đến khi thu hồi chứng từ về và bảo toàn chúng.
Xem xét dưới góc độ nghiệp vụ thì quy trình phụ thuộc chặt chẽ vào cơ chế
quản lý, vào phương thức vận hành từng loại chế độ BHXH. Quy trình chi trả gồm

có: Quy trình chi trả các đối tượng hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng và quy trình
chi trả các đối tượng hưởng trợ cấp BHXH một lần.
SV: Trần Thị Lan Lớp: Bảo hiểm xã hội 48
25
BHXH
Ngân hàng,
Bưu điện
Đối tượng hưởng

×