Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

nghiên cứu tác động cuả quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc đến hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại công ty bhdk khu vực tây bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.96 KB, 109 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Cháy, nổ hàng năm gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng, làm hàng trăm người
chết và bị thương. Cháy có thể xảy ra bất cứ khi nào, ở đâu và với bất cứ ai. Con
người dù luôn có ý thức phòng cháy nhưng vẫn không thể xoá bỏ hoàn toàn nguy cơ
cháy, nổ. Hậu quả do cháy thường rất lớn, đôi khi mang tính chất thảm hoạ.
Để đối phó với cháy, nổ con người đã sử dụng rất nhiều biện pháp khác
nhau như hạn chế sử dụng vật liệu dễ cháy , thực hiện PCCC Tuy nhiên để đối phó
với hậu quả do cháy gây ra, bảo hiểm được coi là hữu hiệu hơn cả. Bảo hiểm cháy ra
đời từ rất sớm (thế kỷ 17) và cho đến nay nó luôn là nghiệp vụ không thể thiếu tại tất
cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ trên thế giới.
Nghị định 130/2006/NĐ-CP của chính phủ ngày 8 tháng 11 năm 2006 Quy
định chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc ra đời đã góp phần hoàn thiện hơn nữa các
văn bản pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm. Nghị định 130/2006/NĐ-CP đã - đang và
sẽ có rất nhiều ảnh hưởng đến hoạt đồng của thị trường bảo hiểm cháy, nổ Việt Nam
như cầu về sản phẩm này sẽ gia tăng, nhu cầu về thoả mãn dịch vụ có chất lượng
cao tăng, ý thức của khách hàng về bảo hiểm thay đổi, doanh thu của các Công ty
bảo hiểm phi nhân thọ tăng
Em lựa chọn đề tài “Nghiên cứu tác động cuả Quy định chế độ bảo hiểm
cháy, nổ bắt buộc đến hoạt động triển khai nghiệp vụ bảo hiểm cháy tại Công ty
BHDK Khu vực Tây Bắc” với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về nghiệp vụ bảo
hiểm cháy, về tác động của Nghị định 130/2006/NĐ-CP đến thị trường bảo hiểm
Việt Nam, và đặc biệt là đến Công ty BHDK Tây Bắc- đơn vị em thực tâp trong 4
tháng qua. Trong quá trình nghiên cứu, em cũng đưa ra một số kiến nghị nhằm đẩy
mạnh quá trình chiếm lĩnh thị phần, tăng doanh thu và uy tín của BHDK Tây Bắc.
Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ một chuyên đề thực tập tốt nghiệp,
trong phạm vi hoạt động của BHDK Tây Bắc.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng bao gồm phương pháp thống kê,
tổng hợp phân tích, và so sánh.
1


Bố cục của đề tài gồm 3 phần:
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM CHÁY, NỔ.
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CHÁY TẠI
CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ KHU VỰC TÂY BẮC.
CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TRIỂN KHAI TỐT NHẤT NGHIỆP
VỤ BẢO HIỂM CHÁY TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ KHU VỰC TÂY BẮC
SAU NGHỊ ĐỊNH SỐ 130/2006/NĐ-CP CỦA CHÍNH PHỦ
Em xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới Th.s Nguyễn Ngọc Hương và các chuyên
viên tại BHDK Tây Bắc đã giúp đỡ em trong quá trình thực hiện.
Hà Nội, tháng 4 năm 2007.
2

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM
BẢO HIỂM CHÁY, NỔ
1.1 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM.
1.1.1 Lý luận chung về bảo hiểm.
Nhu cầu an toàn đối với con người là vĩnh cửu, lúc nào con người cũng
tìm cách bảo về bản thân và tài sản của mình trước những bất hạnh của số phận.
Bảo hiểm ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu phòng vệ chính đáng này. Qua quá trình
phát triển của bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm thương mại, chúng ta nhận thấy,
ban đầu bảo hiểm chỉ mang tính chất sơ khai, tự phát với phạm vi nhỏ hẹp. Do
nhu cầu thực tiễn, dần dần các khái niệm về bảo hiểm cũng đã được hình thành
và phát triển ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trên thực tế, có nhiều khái
niệm về bảo hiểm, nó tuỳ thuộc vào quan niệm của từng lĩnh vực bao gồm luật,
kinh tế học, lịch sử học, khoa học thực tế, lý thuyết rủi ro và xã hội học mà các
khái niệm có nhiều điểm khác nhau. Khái niệm về bảo hiểm, luôn bao gồm cả
bảo hiểm thương mại và bảo hiểm xã hội, bởi hai hình thức này chỉ phân biệt bởi
tính thương mại (kinh doanh rủi ro)và tính xã hội (cân bằng thu chi). Dưới đây,
xin trình bày một số định nghĩa về bảo hiểm đang được thừa nhận trên thế giới,
tại các quốc gia các nghiệp đoàn, và các công ty bảo hiểm.

Theo Uỷ ban thuật ngữ bảo hiểm của Hiệp hội bảo hiểm và rủi ro Hoa Kỳ
thì: "Bảo hiểm là sự tập trung các tổn thất bất ngờ bằng việc chuyển giao những
rủi ro gây ra cho NBH khi họ cam kết bồi thường những tổn thất này, cung cấp
các quyền lợi bằng tiền khác khi tổn thất xảy ra hoặc cung cấp các dịch vụ liên
quan đến rủi ro”
Theo Hiệp hội các nhà bảo hiểm Anh thì: "Bảo hiểm là sự thoả thuận qua
đó một bên (Người bảo hiểm ) hứa sẽ thanh toán cho bên kia (NĐBH hay
NTGBH) một khoản tiền nếu có sự cố xảy ra gây tổn thất tài chính cho người
bảo hiểm. Trách nhiệm thanh toán những tổn thất này được chuyển giao từ
NTGBH đến người bảo hiểm. Để chấp nhận trách nhiệm thanh toán này, NBH
đòi NĐBH một khoản tiền, đó là phí bảo hiểm”
3

Khái niệm được sử dụng tại một số trường đại học và thị trường bảo hiểm
Châu Á: "Bảo hiểm là biện pháp chia nhỏ tổn thất của một người hay một số ít
người cho nhiều người có cùng khả năng chịu rủi ro nào đó thông qua việc tổ
chức ra một quỹ tài chính tập trung huy động từ các cá nhân, tổ chức tham gia
bảo hiểm dưới dạng phí bảo hiểm, để bồi thường hoặc bù đắp những tổn thất do
những rủi ro đó gây ra”
Khi xem xét bảo hiểm từ khía cạnh những bên liên quan khác nhau đến
hợp đồng bảo hiểm, bảo hiểm được định nghĩa như sau:
Từ phía người được bảo hiểm, bảo hiểm là tổ chức hợp lý một nhóm
người có chung một loại rủi ro có thể xảy ra. Các khoản đóng góp về tài chính
của họ cho phép bồi thường những thiệt hại mà một số người trong nhóm phải
gánh chịu khi có tổn thất. Nhờ có bảo hiểm mà tổn thất sẽ nhẹ đi nếu chia sẻ cho
nhiều người và là gánh nặng nếu một vài người phải gánh chịu tất cả.
Trên giác độ của người cung cấp dịch vụ bảo hiểm, ở đây là các doanh
nghiệp bảo hiểm, bảo hiểm là hoạt động kinh doanh mà trong đó, người bảo
hiểm sẽ chấp nhận những rủi ro đối với tài sản hoặc con người của người được
bảo hiểm trên cơ sở người được bảo hiểm thanh toán một khoản phí nhất định.

Một cách tổng quát, bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó một bên là người
đựơc bảo hiểm chấp nhận trả một khoản phí gọi là phí bảo hiểm cho chính mình
hoặc cho người thứ ba khác để trong trường hợp có rủi ro xảy ra nằm trong phạm
vi bảo hiểm sẽ được trả mọt khoản bồi thường từ người bảo hiểm, là người chịu
trách nhiệm với những rủi ro đã cam kết và đền bù thiệt hại theo luật thống kê.
Tất cả những định nghĩa khác nhau về bảo hiểm, tựu chung lại đều làm
bật lên bản chất của bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro giữa nhà bảo hiểm và
người tham gia bảo hiểm trên cơ sở một quỹ tiền tệ tập trung. Vậy rủi ro chính là
một trong những yếu tố góp phần cơ bản cho sự hình thành, ra đời và phát triển
của bảo hiểm.
Khái niệm rủi ro liên quan đến sự không chắc chắn, và rủi ro luôn được
hiểu là sự không chắc chắn liên quan đến việc xảy ra một tổn thất. Rủi ro luôn
bao gồm trong nó yếu tố không may mắn và không lường trước được, về khả
4

năng xảy ra của nó, về thời gian và không gian xảy ra, về mức độ nghiêm trọng
của rủi ro và hậu quả của nó.
Có rất nhiều nguyên nhân để xảy ra rủi ro, nhưng có thể tập hợp rủi ro
vào ba nhóm chính:
Thứ nhất là nhóm các rủi ro do thiên tai gây ra như bão, lũ lụt, hạn hán,
động đất, sét, lốc, sương muối, dịch bệnh, sóng thần làm ảnh hưởng đến đời
sống và sức khoẻ của con người.
Thứ hai là nhóm rủi do do biến động cuả khoa học và công nghệ.
Thứ ba, là nhóm rủi ro môi trường xã hội, những rủi ro này chịu tác động
cuả nhiều yếu tố và ảnh hưởng trực tiếp đến mọi thành viên trong xã hội như ốm
đau, dịch bệnh, mất việc làm, trộm cắp, hoả hoạn
Bất kể nguyên nhân gì, khi xảy ra rủi ro thường gây ra cho con người
những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều tài
sản, làm ngưng trệ hoạt động sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh
nghiệp cá nhân, và làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế- xã hội nói chung.

Để đối phó với các rủi ro có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi ro và hậu
quả của rủi ro gây ra - đó là nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro và nhóm các
biện pháp tài trợ rủi ro.
Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi
ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro:
Tránh né rủi ro tức là tìm ra phương thức hành động khác không có dấu
hiệu của bất cứ yếu tố nào có thể dấn tới rủi ro
Ngăn ngừa tổn thất được sử dụng để đưa ra các hành động làm giảm tổn
thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra khi không thể né tránh được dù đã
tìm mọi cách.
Nhóm biện pháp tài trợ rủi ro. Biện pháp tài trợ rủi ro gồm các biện pháp
chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. (Đây là các biện pháp phải được thực hiện trước
khi rủi ro xảy ra, nhằm mục đích giảm thiểu hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra,
nếu có).
5

+ Chấp nhận rủi ro, tức là người gặp rủi ro tự chấp nhận khoản tổn thất.
Còn gọi là tự bảo hiểm. Có hai hình thức chấp nhận rủi ro, gồm chấp nhận một
cách chủ động và chấp nhận thụ động. Hiệu quả của hai hình thức này không cao
do rơi vào tình huống thụ động, sử dụng không hiệu quả đồng vốn, hoặc sai lệch
trong tính toán lập quỹ dự phòng
+Bảo hiểm: bảo hiểm ngày nay đã trở thành một lựa chọn không thể thiếu
trong hầu hết các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như các cá
nhân.Do nó khắc phục được hầu hết các nhược điểm của các biện pháp khác.
Bảo hiểm chính là sự lựa chọn tối ưu của các chương trình quản lý rủi ro. Rủi ro
được chuyển giao từ người tham gia bảo hiểm sang nhà bảo hiểm. Người tham
gia bảo hiểm nhận được sự tư vấn cho các chương trình kiểm soát rủi ro và đề
phòng hạn chế tổn thất, nhận được khoản tiền bồi thường nhanh chóng, đủ, kịp
thời khi sự kiện bảo hiểm xảy ra
Ngày nay, với những lợi ích thiết thực của bảo hiểm đối với mọi thành

viên, đơn vị tham gia bảo hiểm, khái niệm bảo hiểm đã trở nên ngày một gắn bó
và gần gũi với con người, với các đơn vị sản xuất kinh doanh.
1.1.2 Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm.
Như tất cả các ngành khác, bảo hiểm ra đời do nhu cầu khách quan của
đời sống kinh tế xã hội đòi hỏi. Đó là nhu cầu được bảo vệ, giúp đỡ, chia sẻ hoạn
nạn khi rủi ro, tổn thất xảy ra như đã trình bày trên đây.
Bảo hiểm có nguồn gốc rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân loại
mà thậm chí cho đến bây giờ người ta vẫn chưa xác định được bảo hiểm xuất
hiện khi nào. Từ thời nguyên thuỷ loài người sống bằng nghề săn bắn, họ đã biết
dự trữ những gì săn bắt được. Đến một giai đoạn phát triển hơn, trong những
cộng đồng dân cư nhỏ, hoặc trong một gia đình, nhóm gia đình đã hình thành
một khối lượng lương thực dự trữ nhất định, được dùng tương trợ lẫn nhau khi
mùa màng thất bát. Đây là hình thức sơ khai của bảo hiểm.
Đến thế kỷ XV, khi châu Âu thực hiện những chuyến khai phá tới Châu
Á và Châu Mỹ, mở đường cho cuộc cách mạngg thương mại, ý tưởng về thành
lập một quỹ chung để đối phó với rủi ro đã hình thành khá rõ ràng. Việc tìm ra
6

châu lục mới, vùng đất mới, tạo ra hoạt động thương mại giữa những nơi này
phát triển ngày một nhanh chóng. Đặc biệt là hình thức vận chuyển bằng đường
biển. Theo dó, bảo hiểm, nhất là bảo hiểm hàng hải cũng phát triển theo. Bởi lẽ,
những người chủ hàng, những người bỏ vốn đầu tư vào những chuyến đi mạo
hiểm đó nhận thấy cần phải chia sẻ những rủi ro để tránh tình trạng một số nhà
đầu tư bị mất trắng khoản đầu tư của mình do những con tàu gặp nạn trên biển,
hoặc bị biến mất một cách bí ẩn. Để đáp ứng nhu cầu này, nhu cầu chia nhỏ tổn
thất, người ta đã có hai phương án. Cách thứ nhất là thành lập một liên doanh có
vốn cổ phần, theo đó, một nhóm đầu tư cùng đầu tư vào một đội thuyền chở hàng
chung, cùng chia sẻ rủi ro khi tổn thất và phân chia lợi nhuận mà liên doanh thu
được (Phuơng án này rất gần với hình thức các chủ hàng trên con đường tơ lụa
nổi tiếng đã chia nhỏ hàng hoá của mình thành hàng trăm phần nhỏ, mỗi lạc đà

sẽ chở một lượng hàng mà trong đó bao gồm nhiều phần hàng hoá của các chủ
hàng khác nhau. Lạc đà nào bị cướp, tổn thất được chia đều cho các chủ hàng,
mỗi người tổn thất một phần nhỏ trong tổng số hàng.). Cách thứ hai là bảo hiểm,
theo cách này các nhà buôn và các chủ tàu thuyền chấp nhận trả một khoản tiền
nhất định cho một cá nhân hay tổ chức, người mà đảm bảo rằng nếu hàng hoá
hoặc tàu thuyền của họ bị tổn thất do một số nguyên nhân nhất định nào đó họ sẽ
được trả một khoản tiền để bù đắp thiệt hại xảy ra.
Bảo hiểm hàng hải là lĩnh vực ra đời sớm nhất. Năm 1347, hợp đồng bảo
hiểm hàng hải đầu tiên được phát hành tại Genoa-Ý. Năm 1424, công ty bảo
hiểm đầu tiên, Marietime Insurance Company ra đời. Năm 1583, xuất hiện hợp
đồng bảo hiểm, mà cho đến nay được coi là cổ xưa nhất. Năm 1667, sau vụ cháy
khủng khiếp tại London, làm hơn 13000 ngôi nhà bị cháy, hàng nghìn người thiệt
mạng vào năm 1666, công ty bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên trên thế giới có tên
“Fire Office” hoạt động tại Anh. Sau bảo hiểm hoả hoạn là các quỹ bảo hiểm
nhân thọ cũng xuất hiện từ nhu cầu của cuộc sống, nhu cầu được chăm lo cho
tương lai.
Từ cuối thế ký 19, cuộc đại cách mạng khoa học kỹ thuật trên toàn thế
giới diễn ra sôi động, mang lại nhiều thành tựu, làm xuất hiện nhiều ngành nghề
7

kinh doanh mới. Cùng với đó là sự gia tăng nhanh chóng các rủi ro có nguyên
nhân xuất phát từ nhóm rủi ro do biến động của khoa học công nghệ. Đây là điều
kiện thuận lợi đẩy mạnh sự phát triển bảo hiểm với những sản phẩm như bảo
hiểm ôtô, máy bay, xây dựng lắp đặt
Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm là một sự đáp ứng đòi hỏi khách
quan của cuộc sống đối với những biến động về tài chính do các sự cố bất ngờ
gây ra. Tham gia bảo hiểm tạo điều kiện khôi phục nhanh chóng thiệt hại, góp
phần sớm ổn định cuộc sống và sản xuất. Ngành bảo hiểm tại tất cả các quốc gia
trên thế giới đóng vai trò không thể thay thế trong các trung gian tài chính, góp
một phần lớn vào sự vững mạnh của thị trường tài chính và sự ổn định của nền

kinh tế quốc dân.
1.1.3 Chức năng, vai trò, tác dụng của bảo hiểm.
Mục đích của bảo hiểm: là đem lại sự an tâm, an toàn về mặt tài chính
cho người tham gia bảo hiểm trước những rủi ro có thể xảy ra.
Chức năng của bảo hiểm :xây dựng quỹ tài chính an toàn, tăng trưởng ổn
định, bồi thường đúng đủ, kịp thời.
Vai trò của bảo hiểm :được biết đến một cách tổng quát nhất, như là một
công cụ an toàn thực hiện chức năng bảo vệ con người, bảo vệ tài sản cho xã hội.
Cụ thể:
 Đối với từng người dân: Bảo hiểm đảm bảo về mặt tài chính nhằm
khắc phục hậu quả bất ngờ khi gặp phải rủi ro liên quan đến tính mạng, tình
trạng sức khoẻ và tài sản mà họ sở hữu.
 Đối với các doanh nghiệp: Tham gia bảo hiểm là chuyển giao rủi ro,
ổn định sản xuất, nhanh chóng khắc phục hậu quả khi rủi ro xảy ra bằng STBT.
 Đối với ngân hàng thương mại: Bảo hiểm là nhà đầu tư lớn, sử dụng
nhiều dịch vụ tín dụng, và đưa lại nhiều hợp đồng tín dụng không cần bảo lãnh
của ngân hàng.
 Đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp: hỗ trợ đắc lực cho nhà nông
khôi phục sản xuất khi gặp rủi ro, thiên tai, đảm bảo cho sản xuất và lưu thông
hàng hoá nông nghiệp không bị ngưng trệ gián đoạn.
8

 Hoạt động bảo hiểm phát triển còn góp phần cải thiện môi trường
đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư tạo ra môi trường thuận lợi cho việc hợp
tác kinh tế, kỹ thuật, thương mại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác
hoạt động bảo hiểm còn mang về cho kinh té quốc dân một khoản ngoại tệ đáng
kể.
 Bảo hiểm là nhà tư vấn quản trị rủi ro hàng đầu trong xã hội. Doanh
nghiệp bảo hiểm vì lợi ích của bản thân, xã hội, người tham gia bảo hiểm coi
trọng xây dựng các công trình đề phòng hạn chế tổn thất.

 Thị trường bảo hiểm:, Là một trung gian tài chính bên cạnh ngân
hàng, thị trường chứng khoán.
Tác dụng của bảo hiểm: Bảo hiểm có rất nhiều tác dụng khác nhau:
 Dàn trải tổn thất (phân tán rủi ro
 Bảo vệ: Tham gia bảo hiểm là bảo vệ cho tính mạng tình trạng sức
khoẻ và tài sản trước nguy cơ xảy ra tổn thất.
 Đề phòng hạn chế tổn thất
 Ổn định đời sống sản xuất kinh của người được bảo hiểm.
 Tạo sự an tâm về mặt tinh thần cho người tham gia bảo hiểm.
 Kích thích tiết kiệm
 Đầu tư phát triển kinh tế
 Đẩy mạnh tín dụng
 Tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Với những lợi ích kể trên, bảo hiểm đã ra đời từ rất lâu và ngày càng phát
triển.
1.1.4 Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm.
Hoạt động bảo hiểm thương mại phải tuân thủ theo các nguyên tắc chung
sau đây:
Nguyên tắc 1: Phải tuân theo luật hợp đồng.
Hợp đồng là căn cứ pháp lý để giải quyết những vấn đề pháp lý về
sau.Các hợp đồng bảo hiểm nhất thiết phải là các văn bản pháp lý thể hiện những
quy định cơ bản của luật pháp.
9

Nguyên tắc 2: Lựa chọn rủi ro.
Nhà bảo hiểm được lựa chọn các rủi ro được bảo hiểm, chỉ rủi ro không
ai lường trước được mới được chấp nhận. Thậm chí với những rủi ro bất ngờ
nhà bảo hiểm cũng có thể từ chối bảo hiểm hay chỉ chấp nhận một hay một số rủi
ro trong đó để tiến hành bảo hiểm.
Nguyên tắc 2: Nguyên tắc phân tán rủi ro.

Sau khi chấp nhận rủi ro của bên tham gia bảo hiểm, đến lượt mình, nhà
bảo hiểm cũng có thể gặp phải rủi ro và rất dễ dẫn đến tình trạng phá sản Để
tránh phá sản, đảm bảo hoạt động kinh doanh, nhà bảo hiểm phải tiến hành phân
tán rủi ro hai cách:
+ Đồng bảo hiểm
+Tái bảo hiểm
Nguyên tắc 3: Nguyên tắc có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với
người mua bảo hiểm.
Quyền lợi được bảo hiểm tức là chủ thể tham gia mua bảo hiểm phải
chứng minh được mối liên hệ đối với đối tượng được bảo hiểm. Thông thường,
quyền lợi được bảo hiểm liên quan tới tài sản, trách nhiệm, con người
Nguyên tắc 4: Số đông bù số ít.
. Chỉ có số đông người tham gia bảo hiểm thì mới có cơ sở hình thành
quỹ bảo hiểm đủ lớn, rủi ro mới thực sự được san sẻ. …
Nguyên tắc 5: Nguyên tắc tín nhiệm tuyệt đối.
Khách hàng và nhà bảo hiểm tin tưởng tuyệt đối vào sự trung thực của
hai bên trong cung cấp thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm.
Nguyên tắc 6: Nguyên tắc bồi thường.
Được áp dụng trong các hợp đồng bảo hiểm tài sản, trách nhiệm. Theo
đó, số tiền bồi thường không thể lớn hơn quyền lợi bảo hiểm mà họ có.
Nguyên tắc thế quyền:
Tránh trường hợp người gây thiệt hại không thể tiến hành bồi thường cho
người bị hại, và trường hợp số tiền bồi thường nhận được của người đựơc bảo
hiểm lớn hơn tổn thất thực tế, người ta áp dụng nguyên tắc này. Nhà bảo hiểm
10

được phép thế quyền (thay quyền) người được bảo hiểm đòi tổn thất thuộc phần
trách nhiệm của người gây thiệt hại.
Nguyên tắc 8: Đóng góp bồi thường. Trong trường hợp, một tổn thất
được bảo hiểm bằng nhiều đơn bảo hiểm, bảo hiểm trùng, các doanh nghiệp cùng

tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng góp bồi thường khi tài sản bị tổn thất.
Nguyên tắc 9: Nguyên nhân trực tiếp, được hiểu là nguyên nhân đủ mạnh
và có tác dụng làm chuyển động cả một chuỗi sự kiện dẫn đến một kết quả mà
không cần có sự can thiệp cuả bất kỳ một lực nào khác phát sinh và phát huy tác
dụng từ một nguồn độc lập nào khác. Nguyên nhân trực tiếp không nhất thiết là
nguyên nhân đầu tiên hay cuối cùng, nhưng nó phải là nguyên nhân chủ yếu.
1.1.5. Phân loại bảo hiểm.:
1.1.5.1 Theo đối tượng bảo hiểm:
+Bảo hiểm xã hội.
+Bảo hiểm y tế.
+Bảo hiểm thất nghiệp.
+ Bảo hiểm thương mại.
1.1.5.2 Theo tính chất rủi ro hoặc theo luật kinh doanh bảo hiểm:
+Bảo hiểm nhân thọ
+Bảo hiểm phi nhân thọ.
(Bảo hiểm cháy nổ nằm trong mảng bảo hiểm phi nhân thọ, là loại nghiệp
vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm con người
phi nhân thọ)
.1.1.5.3 Theo kỹ thuật quản lý quỹ tài chính:
+Bảo hiểm quản lý theo kỹ thuật phân chia.
+Bảo hiểm quản lý theo kỹ thuật tồn tích.
Cách phân chia thứ hai, sử dụng phổ biến hơn cả.
1.2. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM CHÁY NỔ.
1.2.1 Cháy và sự cần thiết của bảo hiểm cháy.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm cháy, tuy nhiên theo luật
PCCC hiện nay cháy được hiểu là trường hợp xảy ra cháy không kiểm soát được
11

có thể gây thiệt hại về người, tài sản và ảnh hưởng môi trường.( Điều 3-Luật
PCCC)

Theo số liệu thống kê, hàng năm trên thế giới có khoảng 5 triệu vụ cháy
lớn, nhỏ gây thiệt hại hàng trăm tỷ đôla. Các vụ cháy không chỉ xảy ra ở các
nước có nền kinh tế chậm phát triển mà còn xảy ra ở các nước có nền kinh tế
phát triển như Anh, Pháp, Mỹ nơi mà nền khoa học, công nghệ đã đạt đến đỉnh
cao của sự hiện đại và an toàn thì cháy vẫn xảy ra ngày một tăng cả về số lượng
và mức độ nghiêm trọng. Mỹ môĩ năm có khoảng 2.4 triêụ vụ cháy, làm chết
trên 300 000 người và thiệt hại 1.8 tỷ đôla. Ở Viêt Nam xảy ra rất nhiều vụ cháy
khác nhau, Giá trị thiệt hại lớn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người
dân cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Cho đến thời điểm năm 2007, tình hình cháy nổ tại Việt Nam được thống
kê như sau:
Năm 1962-1991: Tổng số vụ cháy xảy ra là 566 036 vụ cháy, thiệt hại vật
chất 948 tỷ đồng, làm chết 2574 người, các vụ cháy lớn ngày một gia tăng.
Năm 1990: Số vụ cháy đã xảy ra là 902 vụ, làm chết và bị thương 380
người, thiệt hại 11,5 tỷ đồng.
Năm 1992-1993 tổng số vụ cháy là 1710 vụ, làm chết 213 người, bị
thương 348 người, thiệt hại 114, 76 tỷ đồng.
Từ năm 1996 đến 2003, tổng số vụ cháy xảy ra là 8015 vụ, bình quân
1003 vụ mỗi năm, thiệt hại trên 1000 tỷ đồng, cháy lớn chiếm 2.47% tổng số vụ
cháy nhưng thiệt hại lại chiếm tới 67.25% tổng thiệt hại. Thiệt hại về tài sản giai
đoạn này, tăng gấp 20 lần so với cả giai đoạn 1986 đến 1995. Trong số các vụ
cháy, phần lớn xảy ra ở đô thị, đến 62%. Về đối tượng gây cháy, 70,1% xuất
phát từ thành phần kinh tế tư nhân, và nhà dân.
Ngày 14-7-1994: Vụ cháy chợ đồng Xuân Hà Nội, thiệt hại 14 tỷ đồng ,
2364 hộ kinh doanh bị thiệt hại.
Ngày 26-06-1996: Cháy kho xăng dầu 131 Thuỷ Nguyên, thiệt hại 31 tỷ
đồng.
Ngày 18-11-1996: Cháy công ty giầy Đồng Nai, thiệt hại 12 tỷ đồng.
12


Năm 2001, vụ cháy tại Vising Pack thiệt hại trên 1,4 triệu $.
Ngày 29-10-2002: Cháy lớn tại trung tâm thương mại ITC Thành phố Hồ
Chí Minh làm chết 60 người, trên 100 người bị thương, thiẹt hại 1,1 tỷ đồng cho
toà nhà và 100 tỷ đồng cho các tài sản khác.
01-04-2003: Cháy ở Interfood, thiệt haị 70 tỷ đồng.
03-03-04: Chaý ở nhà máy giày Pouyuen, thiệt hại 9000 m² nhà xưởng,
thiệt hại trên 4,4 triệu $
Năm 2005, tại Thành phố Hồ Chí Minh, xảy ra 270 vụ, giảm 92 vụ
( 35%) so với năm 2004. Tổng thiệt hại về tài sản ước tính khoảng 21 tỷ 248
triệu đồng, làm chết 13 người, bị thương 50 người
Ngày 29/12/2006 Tại Thành phố Qui Nhơn, xảy ra vụ cháy chợ Qui
Nhơn, thiệt hại 120 tỷ đ.
Năm 2006, cả nước xảy ra 1648 vụ cháy cơ sở sản xuất kinh doanh và
nhà dân, làm chết 53 người, bị thương 154 người.
Riêng tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, hai trung tâm kinh tế quan
trọng nhất nước, xảy ra tình trạng cháy nổ nhiều nhất nước. Theo thống kê của
phòng PCCC, riêng thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 đã xảy ra 293 vụ cháy,
làm chết 11 người, thiệt hại tài sản 58,7 tỷ đồng. Số vụ cháy xảy ra trên toàn
thành phố gia tăng 24 vụ, thêm 3 người chết, 11 ngưòi bị thương và thiệt hại
hàng tỷ đồng so với 2003. Năm 2007, những tháng đầu năm ,từ tháng 1 đến
tháng 3, tại Hà Nội xảy ra 49 vụ cháy. Tại thành phố Hồ Chí Minh, chỉ riêng
tháng 3/2007 cũng xảy ra 49 vụ cháy,làm chết 3 người và thiệt hại 9,8 tỷ đồng.
Có thể thấy rằng cháy có thể xảy ra bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, với bất
cứ ai, dù đã có ý thức PCCC nhưng vẫn không thể xoá bỏ hoàn toàn nguy cơ
cháy nổ và tổn thất do cháy gây ra thường rất lớn, có khi mang tính chất thảm
hoạ.
Hoả hoạn là vấn đề nhức nhối của xã hội, và là một trong những rủi ro
diễn ra khá phổ biến ở tất cả các nước trên thế giới, Hậu quả thường rất rất lớn
(cả tài sản và con người, và việc gián đoạn kinh doanh); đồng thời ảnh hưởng
nghiêm trọng đến môi trường sống. Tại Indonesia, mỗi năm các vụ cháy rừng tạo

13

ra 1400 triệu tấn Cácbonđioxit (CO2); Hà Lan là 80 triệu tấn Các vụ cháy rừng
ở Indonesia là một vấn đề to lớn, thời gian gần đây, các vụ cháy ngày càng tăng
thêm. Hậu quả từ những vụ cháy là khói bụi được tạo ra từ đó phủ xuống cả một
vùng dân cư rộng lớn, có khi tới hàng tuần lễ, khiến cho người, động vật, cây
trồng đều không có khí thở . Mặc dù tất cả các nước trên thế giới đều rất coi
trọng công tác phòng cháy chữa cháy, tuy nhiên hoả hoạn vẫn xảy ra.
Để đối phó với cháy, con người đã sử dụng rất nhiều biện pháp khác
nhau như các biện pháp PCCC, đào tạo nâng cao trình độ kiến thức và ý thức,
thông tin tuyên truyền về PCCC. Tuy nhiên để đối phó với hậu quả do cháy gây
ra thì bảo hiểm được coi là biện pháp hữu hiệu nhất. Do trước khi ký kết hợp
đồng bảo hiểm, nhà bảo hiểm đã tiến hành đánh giá rủi ro, dù hợp đồng có được
kí kết hay không thì đây cũng vẫn là lời cảnh báo đối với các chủ tài sản. Khi
tham gia bảo hiểm hoả hoạn, vì lợi ích trực tiếp của mình, nhà bảo hiểm luôn
luôn phối hợp với chủ tài sản để tư vấn cho họ về công tác PCCC, về an toàn vệ
sinh lao động, về phương án PCCC, thậm chí phối hợp với lực lượng PCCC để
phối hợp tập dượt các phương án đối phó khi hoả hoạn xảy ra. Chính vì vậy, làm
cho tất cả các bên đều có ý thức về PCCC và luôn sẵn sàng PCCC. Hơn nữa, nếu
tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm luôn luôn phân công, cử cán bộ thường xuyên
theo dõi công tác này, điều này làm công tác đề phòng hạn chế tổn thất rất hiệu
quả. Nếu không may hoả hoạn xảy ra, nhà bảo hiểm sẽ có biện pháp bồi thường
kịp thời để giúp chủ tài sản nhanh chóng ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh,
khắc phục kịp thời việc gián đoạn kinh doanh. Chính vì những lý do nêu trên
đây, bảo hiểm cháy ra đời là sự cần thiết khách quan đối với mỗi nền kinh tế trên
thế giới cũng như đối với mỗi ngành, mỗi cơ quan, mỗi doanh nghiệp…
Tác dụng của bảo hiểm cháy cũng là một trong những nhân tố giải thích
về sự cần thiết của bảo hiểm cháy.
Lịch sử ra đời của bảo hiểm cháy là một minh chứng rõ nét cho tác dụng
của nó. Vào thời kỳ Trung đại, Phục hưng, ở châu Âu vẫn chưa có hệ thống

phòng cháy chữa cháy hữu hiệu. Khi cháy xảy ra, người bị hại thường dựa vào
sự giúp đỡ của phường hội. Phải đến năm 1666, sau vụ cháy lớn ở Luân Đôn kéo
14

dài trong nhiều ngày, người ta mới ý thức được tầm quan trọng của việc thiết lập
hệ thống PCCC và bồi thường cho người bị thiệt hại.Năm 1667 ở Anh xuất hiện
một số văn phòng cung cấp dịch vụ phòng cháy chữa cháy và bảo hiểm cháy.
Năm 1864 công ty bảo hiểm cháy đầu tiên (công ty Friendly Society) ra đời, hoạt
động trên nguyên tắc tương hỗ, sau đó hàng loạt các công ty bảo hiểm cháy khác
được thành lập và dần lan rộng sang các nước káhc trên lục địa châu Âu. Ngày
nay, nghiệp vụ bảo hiểm cháy được tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới và
ngày càng phát triển.
Khi bảo hiểm cháy đi vào hoạt động tại các quốc gia, người ta nhận thấy
những tác động tích cực của nó đến đời sống kinh tế, xã hội của người dân như
sau:
 Tích cực góp phần đề phòng, hạn chế hiện tượng cháy nổ xảy ra trong
xã hội, từ đó góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
 Giúp người dân nâng cao tinh thần ý thức PCCC.
 Trực tiếp góp phần giúp các cơ quan, doanh nghiệp nhà máy ổn định
sản xuất kinh doanh, làm cho quá trình kinh doanh diễn ra liên tục.
 Nghiệp vụ này ra đời đã giúp các công ty bảo hiểm nhân thọ trên thế
giới tăng doanh thu, lợi nhuận, đồng thời tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội.
Ở Việt Nam, nghiệp vụ bảo hiểm cháy được triển khai từ cuối năm 1989.
Qua một số năm thực hiện nghiệp vụ này ngày càng phát triển. Năm 2000 doanh
thu phí bảo hiểm cháy đạt 16200000 USD (khoảng 259 200 triệu đồng), đến năm
2006 đạt 517 tỷ đồng, chiếm 6.36 % tổng doanh thu phí tất cả các nghiệp vụ.,
đứng sau nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới chiếm 34,73%, nghiệp vụ sức khoẻ và
tai nạn con người chiếm 14.6234%, và nghiệp vụ bảo hiểm tài sản và thiệt hại
chiếm 19.1494%. Tốc độ tăng trưởng của nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ năm 2006
là 10.6%, đứng thứ 4 sau nghiệp vụ bảo hiểm Bảo hiểm tài sản và thiệt hại

(35.2%), bảo hiểm con người (14.5%), bảo hiểm hàng hoá vận chuyển nội địa
(19.8%) và đứng trước các nghiệp vụ khác như bảo hiểm hàng không (5%),
bảo hiểm sức khoẻ con người (15%), bảo hiểm xe cơ giới (6.9%) Như vậy mức
15

độ tăng trưởng của bảo hiểm cháy năm qua vẫn chưa phản ánh đúng tiềm năng
của nó.
1.2.2 Những nội dung cơ bản của bảo hiểm cháy.
1.2.2.1 Đặc điểm của rủi ro hoả hoạn.
Rủi ro hoả hoạn có đặc điểm:
-Xảy ra ở bất cứ lúc nào, ở đâu mà không ai lường trước được (dù đã có
biện pháp đề phòng). Theo thống kê trên thế giới, nguyên nhân chủ yếu do chập
điện, do sự bất cẩn của con người, do thời tiết và do khí hậu…Trong đó
-Hậu quả, thiệt hại do hoả hoạn gây ra là rất lớn, đôi khi mang tính chất
thảm hoạ. Cháy trên diện rộng làm rất nhiều tài sản bị thiêu huỷ, người chết và bị
thương.
-Hoả hoạn vẫn có thể khống chế được, vẫn có thể đề phòng và hạn chế
tổn thất nếu các tổ chức, cá nhân có ý thức phối hợp với nhau để chống lại sự
hoành hành của ngọn lửa.
-Hoả hoạn xảy ra thường liên quan đến cả những thiệt hại cuả bên thứ
ba.Nhất là tại các thành phố có mật độ dân cư và cơ sở, doanh nghiệp lớn. Kèm
theo cháy, người ta thường thấy khói đen, và thậm chí sự đổ sụp của các vật liệu
xây dựng nhà cửa gây ra ảnh hưởng tới tài sản, con người xung quanh.
-Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, khi hoả hoạn xảy ra, thường làm
gián đoạn kinh doanh và làm thiệt hại rất lớn thu nhập kinh doanh.
1.2.2.2 Đối tượng của bảo hiểm cháy.
-Là tất cả các loại tài sản thuộc quyền sở hữu, hoặc quản lý hợp pháp của
các đơn vị, tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Tuy nhiên
để giúp cho việc tính phí bảo hiểm được chính xác, công tác bồi thường được
nhanh chóng, đồng thời để giúp người tham gia bảo hiểm nhận biết một cách rõ

ràng thực trạng tài sản tham gia bảo hiểm hoả hoạn của mình, nhà bảo hiểm chia
đối tượng bảo hiểm như sau:
 Công trình xây dựng, vật kiến trúc đã đưa vào sử dụng (trừ đất đai .
 Máy móc thiết bị, phương tiện lao động phục vụ sản xuất kinh doanh.
 Vật tư hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu dự trữ trong kho.
16

 Nguyên nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm đang trong dây
truỳên sản xuất.
 Các loại tài sản khác như: Kho, bãi ,chợ, nhà hàng, khách sạn, cây
xăng…
1.2.2.3 Phạm vi bảo hiểm cháy.
Là giới hạn các rủi ro được bảo hiểm, giới hạn trách nhiệm của các nhà
bảo hiểm. Nhìn chung, các công ty bảo hiểm trên thế giới đều giới hạn trách
nhiệm bồi thường của mình ở các loại thiệt hậi và chi phí sau:
 Thiệt hại do rủi ro được bảo hiểm gây ra.
 Chi phí cần thiết và hợp lý để hạn chế bớt tổn thất về tài sản trong và
sau khi cháy.
 Chi phí dọn dẹp hiện trường sau khi cháy.
Tuy nhiên để phạm vi bảo hiểm thể hiện rõ trong các qui tắc bảo hiểm,
nhà bảo hiểm luôn luôn đưa ra hai loại rủi ro đựơc bảo hiểm bao gồm:
Thứ nhất: Rủi ro hoả hoạn (rủi ro chính hay rủi ro cơ bản, hoặc rủi ro
nhóm A):
Rủi ro này thực chất gồm ba phần, cháy, sét và nổ.
- Cháy được bảo hiểm phải được hội tụ đủ 3 yếu tố:
+Thực chất có sự phát lửa.
+Lửa đó không phải là lửa chuyên dùng (Nhất thiết phải có một cái gì đó
trong đám lửa mà đáng lẽ thứ đó không được có trong đó).
+Về bản chất, đám lửa đó phaỉ là bất ngờ hay ngẫu nhiên đối với người
được bảo hiểm chứ không phải là cố ý, có chủ định của họ hoặc có sự đồng loã

của họ. Tuy nhiên, hoả hoạn xảy ra do bất cẩn của người được bảo hiểm vẫn
thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường.
Khi có đủ 3 điều kiện đó và có thiệt hại về vật chất do những nguyên
nhân được cho là hợp lý gây ra, những thiệt hại đó sẽ được bồi thường cho dù đó
là do bị cháy hay do nhiệt hoặc khói gây ra.
-Sét: Người được bảo hiểm sẽ được bồi thường khi tài sản bị phá huỷ trực
tiếp do sét hoặc sét đánh gây ra cháy. Nếu sét đánh mà không phát lửa hoặc
17

không phá huỷ trực tiếp tài sản thì không thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường.
Cần lưu ý, sét đánh phá huỷ trực tiếp các thiết bị điện tử thì được bồi thường, còn
sét đánh làm thay đổi dòng điện dẫn đến thiệt hại cho thiết bị điện thử htì không
được bồi thường.
-Nổ: Nổ trong rủi ro, phạm vi bảo hiểm bao gồm:
+Nồi hơi phục vụ sinh hoạt.
+Hơi đốt phục vụ sinh hoạt, thắp sáng hoặc sưởi ấm trong một ngôi nhà
không phải nhà xưởng làm các công việc sử dụng hơi đốt.
+Các trường hợp nổ gây ra hoả hoạn đã nghiễm nhiên được bảo hiểm.
Như vậy ở đây chỉ còn lại những thiệt hại do nổ mà không gây cháy.
Những trường hợp liên quan tới nổ dưới đây không cần chú ý khi tiến
hành bồi thường trong hợp đồng bảo hiểm cháy, nổ:
 Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ nhưng không gây cháy thì không được
bồi thường, trừ trường hợp nổ nồi hơi hoặc khí phục vụ sinh hoạt, với điều kiện
là sự nổ đó không phải do các nguyên nhân loại trừ.
 Tổn thất hoặc thiệt hại do cháy xuất phát từ nổ thì được bồi thường,
với điều kiện là sự nổ đó không phải là do các nguyên nhân bị loại trừ.
 Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ cháy: Thiệt hại ban đầu do
cháy được bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả của nổ thì không.
Thứhai: Nhóm rủi ro phụ.
Bên cạnh rủi ro chính thì có các rủi ro phụ. Các rủi ro này chỉ có thể được bảo

hiểm khi đi kèm theo rủi ro chính, tuỳ thuộc vào quyết định của người tham gia
bảo hiểm. Các rủi ro phụ bao gồm: máy bay và các phương tiện hàng không
khác hoặc thiết bị trên các phương tiện đó rơi vào, nổi loạn, bạo động dân sự,
đình công, bể xưởng, động đất, lửa ngầm dưới đất, giông bão, hệ thống chữa
cháy rò rỉ nước…
Trong các nghiệp vụ bảo hiểm, đều có những rủi ro loại trừ. Trên thực tế
có những rủi ro không thể bảo hiểm được. Vì thế, trong bảo hiểm cháy, các loại
trừ được áp dụng như sau:
18

-Tổn thất do hành động cố ý hoặc đồng loã của người được bảo hiểm gây
ra.
-Những tổn thất về:
+ Hàng hoá nhận uỷ hay ký gửi trừ khi những hàng hoá đó được xác
nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm, và người được bảo hiểm
trả thêm phí theo tỷ lệ phí qui định.
+ Tiền bạc, hàng, kim loại, đã quý, chứng khoán, tem phiếu, thư bảo lãnh,
bản vẽ thiết kế, số sách kinh doanh, tài liệu lưu trữ trong máy tính điện tử, bản
mẫu, văn bằng, khuôn mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế trừ khi những hạng mục này
được xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm…
+ Chất nổ nhưng không bao gồm nhiên liệu xăng dầu.
+ Người, động vật và thực vật sống.
+ Những tài sản mà vào thời điểm xảy ra tổn thất được bảo hiểm theo
đơn bảo hiểm Hàng hải, hoặc lẽ ra được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm Hàng hải,
trừ phần thiệt hại vượt quá số tiền được bồi thường theo đơn bảo hiểm Hàng hải
hoặc lẽ ra được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm Hàng hải.
+ Tài sản bị cướp hay bị mất cắp. Trong trường hợp tài sản bị cướp, mất
cắp trong khi xảy ra hoả hoạn mà người được bảo hiểm không chứng mình được
là mất cắp thì vẫn được bồi thường.
+Những thiệt hại mang tính chất hậu quả dưới bất kỳ hình thức nào, trừ

thiệt hại về tiền thuê nhà được xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được
bảo hiểm.
+ Những thiệt hại gây cho bên thứ ba.
+ Những thiệt hại trong phạm vi mức miễn thường.
1.2.2.4 Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm.
Giá trị bảo hiểm (GTBH) là giá trị của tài sản được bảo hiểm. Giá trị này là giá
trị thực tế hoặc giá trị mua mới.
Tài sản được bảo hiểm thường có giá trị rất lớn như: nhà cửa, công trình,
máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, hàng hoá, vật tư trong kho. Có thể xác
định GTBH như sau:
19

-GTBH của các ngôi nhà (nhà xưởng, văn phòng, nhà ở) được xác định
theo giá trị mới hoặc giá trị còn lại.
+Giá trị mới là gía trị mới xây chảu ngôi nhà bao gồm cả chi phí khảo sát
thiết kế.
+Giá trị còn lại là giá trị mới trừ đi hao mòn sử dụng theo thời gian.
-GTBH của máy móc thiết bị và các loại tài sản cố định khác được xác
định trên cơ sở giá mua mới (bao gồm cả chi phí vận chuyển, lắp đặt nếu có)
hoặc giá trị còn lại.
-GTBH của thành phẩm và bán thành phẩm được xác định trên cơ sở giá
thành sản xuất.
-GTBH của hàng hoá mua về để trong kho, cửa hàng được xác định theo
giá mua cộng với chi phí vận chuyển.
Số tiền bảo hiểm (STBH) là giới hạn bồi thường tối đa của người bảo
hiểm trong trường hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ. STBH còn là
căn cứ để xác định phí bảo hiểm. Vì thế, xác định chính xác STBH có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Cơ sở xác định STBH là GTBH.
Trong điều kiện hiện nay, quy mô sản xuất kinh doanh có xu hướng ngày
càng đựơc mở rộng do đó số lượng và giá trị tài sản cũng tăng lên. Đối với các

tài sản cố định, việc xác định STBH căn cứ vào GTBH của tài sản. Đối cới các
tài sản lưu động, giá trị thường xuyên biến động. Vì vậy, STBH có thể xác định
theo giá trị trung bình hoặc giá trị tối đa.
Nếu bảo hiểm theo gía trị trung bình, người được bảo hiểm ước tình và
thông báo cho công ty bảo hiểm biết gía trị số hàng hoá trung bình có trong
kho, trong cửa hàng. Trong thời gian bảo hiểm giá trị trung bình này được coi là
STBH.
Khi tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, công ty bảo hiểm bồi thường
thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá giá trị trung bình đã khai báo.
Nếu bảo hiểm theo giá trị tối đa thì người được bảo hiểm ước tình và
thông báo cho công ty bảo hiểm biết giá trị số lượng hàng hóa tối đa có thể đạt
vào một thời điểm nào đó trong thời gian bảo hiểm. Phí bảo hiểm được tính trên
20

cơ sở gía trị tối đa và thường được thu trước 75%. Khi tổn thất xảy ra thuộc
phạm vi bảo hiểm, công ty bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không
vượt quá gía trị tối đa đã khai báo. Đầu mỗi tháng, mỗi quý (tuỳ theo sự thoả
thuận của 2 bên), người được bảo hiểm thông báo cho công ty bảo hiểm số hàng
tối đa thực có trong tháng, trong quý trước đó. Cuối thời hạn bảo hiểm, trên cơ
sở các gía trị được thông báo, công ty bảo hiểm tính giá trị số hàng tối đa bình
quân của cả thời hạn bảo hiểm và tính lại phí bảo hiểm. Nếu phí tính được trên
cơ sở số giá trị tối đa bình quân nhiều hơn số phí bảo hiểm đã nộp thì người được
bảo hiểm trả thêm cho công ty bảo hiểm số phí còn thiếu.
Trong thời gian bảo hiểm, tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm được người
bảo hiểm bồi thường và số tiền bồi thường (STBT) vượt quá giá trị tối đa bình
quân thì phí bảo hiểm được tính dựa vào số tiền bồi thường đã trả. Trong trường
hợp này số tiền được bồi thường được coi là STBH.
Việc áp dụng bảo hiểm theo giá trị tối đa rất phức tạp, đòi hỏi người bảo
hiểm phải biết giá trị hàng hoá được bảo hiểm, theo dõi chặt chẽ số hàng hoá đó
trong suốt thời gian hiểm. Những tài sản có giá trị lớn công ty bảo hiểm khó có

thể tái bảo hiểm vì tính phí phức tạp và khó khặn.
Ngược lại bảo hiểm theo giá trị trung bình lại đơn giản, dễ theo dõi. Nếu
một loại hàng hoá được bảo hiểm giá trị ít biến động trên thị trường áp dụng
phương pháp này rất thuận tiện.
1.2.2.5 Phí bảo hiểm cháy.
Phí vảo hiểm chính là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Mức phí cao hay thấp
phụ thuộc chủ yếu vào đối tượng được bảo hiểm, xác suất rủi ro cho đối tượng
bảo hiểm trong một số năm trước đó.
Phí bảo hiểm cháy được tính theo công thức:
P= Sb x R
Trong đó:
 Sb là STBH
 R: Tỉ lệ phí bảo hiểm.
 P: Phí bảo hiểm.
21

Có rất nhiều yếu tố làm ảnh hưởng đến biểu phí vì đối tượng của bảo
hiểm cháy đa dạng về chủng loại, mức độ rủi ro. Nếu một công ty có hệ thống
PCCC tốt không thể đóng một mức phí giống như một công ty khác có hệ thống
PCCC kém. Bởi vậy không thể áp dụng cho một biểu phí cố định cho tất cả các
loại công trình, tài sản của những công ty có mức độ rủi ro khác nhau và việc
phòng cháy khác nhau. Thông thường các công ty bảo hiểm áp dụng các tỷ lệ phí
khác nhau cho tất cả ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ sau đó điều chỉnh tỷ lệ
phí theo các yếu tố tăng (giảm) phí. Trên thực tế, một số yếu tố cơ bản sau ảnh
hưởng đến biểu phí:
-Vật liệu xây dựng: Tuỳ theo các yếu tố kết hợp vật liệu xây dựng có thể
chịu đựng được lâu dài hay không đối với sức nóng, người ta chia làm 3 loại:
+Vật liệu nặng khó bắt lửa và có khả năng chịu lửa tốt như bê tông, cốt
thép, đá…loại này được sử dụng để xây dựng công trình loại D.
+Vật liệu trung gian: Là vật liệu nhiều chất hoá học trộn với vật liệu thiên

nhiên, khả năng chịu lửa không tốt bằng vật liệu nặng, loại này được sử dụng để
xây dựng công trình loại N.
+Vật liệu nhẹ: Loại này dễ bắt lửa và không có sức chịu lửa, thường được
để xây dựng công trình loại L.
-Ảnh hưởng của các tầng nhà: Khi xảy ra hoả hoạn, lửa hoặc hơi nóng sẽ
được truyền lên qua các tầng nhà, qua các cầu thang lên xuống, qua lỗ hổng hoặc
qua cửa sổ làm cho các tầng nhà có thể bị sập kéo các thiệt hại bên trong. Do đó,
sức chịu đựng của các tầng nhà cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm.
- Phòng cháy, chữa cháy: Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
việc tính phí. Công tác PCCC là một yếu tổ để điều chỉnh phí bảo hiểm. Nếu
côgn tác PCCC được trang bị tốt để hạn chế thấp nhất rủi ro xảy ra thì phí bảo
hiểm sẽ được tính thấp hơn. Vị trí gần hay xa nguồn nước, đội cứu hoả…cũng
ảnh hưởng đến phí bảo hiểm.
-Cách phân chia đơn vị rủi ro: Theo khoảng cách phân chia hoặc tường
chống cháy. Các đơn vị rủi ro càng gần nhau, phí bảo hiểm càng cao và ngược
lại.
22

-Bao bì đóng gói, chủng loại hàng hoá, cách thức xếp đặt: Tuỳ từng loại
hàng hoá, bao gói hay cách thức xếp đặt hàng hoá mà phí bảo hiểm phải căn cứ
vào đó mà xác định.
Tỷ lệ phí bảo hiểm cháy thường được chia làm 2 bộ phận: Tỷ lệ phí thuần
và tỷ lệ phụ phí.
R=R1+R2
Trong đó:
 R1: Tỷ lệ phí thuần.
 R2 : Tỷ lệ phụ phí.
Khi xác định tỷ lệ phí thuần thường phải căn cứ vào só liệu thống kê
trong một số năm trước đó như: Tổng số đơn vị rủi ro tham gia bảo hiểm cháy;
số đơn vị rủi ro bị cháy; tổng số tiền bảo hiểm cháy; số tiền bồi thường bảo hiểm

cháy…Đơn vị rủi ro trong bảo hiểm cháy được hiểu là nhóm tài sản tách biệt
khỏi nhóm tài sản khác vói khoảng cách không cho phép ngọn lửa từ nhóm này
lan sang nhóm khác (tuy nhiên khoảng cách gần nhất không dưới 12m).
Có 2 phương pháp xác định tỷ lệ phí thuần:
-Xác định theo phân loại, cụ thể là kết hợp các đơn vị rủi ro có thể so
sánh được với nhau về cùng một loại, tính tỉ lệ cho mỗi loại, xem xét các yếu tố
ẩnh hưởng tới tỉ lệ phí (vật liệu xây dựng, công tác PCCC…)
-Xác định tho danh mục: tiến hành theo 3 bứơc:
Bước 1: Rà soát lại danh mục tài sản tham gia bảo hiểm sau đó tiến hành
phân loại theo các danh mục khác nhau,.
Bứơc 2: Căn cứ vào ngành nghề sản xuất kinh doanh để cọn ra một tỷ lệ
phí thích hợp trong bảng tỷ lệ phí có sẵn.
Bước 3: Điều chỉnh tỷ lệ phí theo các yếu tố tăng, giảm phí…Việc điều
chỉnh căn cứ vào các yếu tố như vật liệu xây dựng, PCCC…Tất cả những yếu tố
này đều có thể làm tăng hoặc giảm tỷ lệ phí. Các công ty bảo hiểm thường quy
định như sau:
+Loại D: Giảm tối đa 10% phí bảo hiểm trong biểu phí.
+Loại N: Giữ nguyên tỷ lệ phí.
23

+Loại L: Tăng tối đa 10% phí bảo hiểm trong biểu phí.
Căn cứ vào các yếu tố đó, công ty bảo hiểm có cơ sở để quyết định ký
hay không ký hợp đồng bảo hiểm cháy.
Trong nghiệp vụ bảo hiểm cháy, công ty bảo hiểm cần phải quan tâm đến
các yếu tố làm giảm mức độ rủi ro vì những yếu tố này là cơ sở để giảm mức phí
cơ bản. Tuy nhiên, tổng mức giảm phí về các thiết bị và phương tiện phòng cháy,
chữa cháy của mỗi đơn vị rủi ro không quá 45%. Các yếu tố làm tăng rủi ro
thường bao gồm:
 Thiết bị phòng cháy, chữa cháy;
 Việc trực, kiểm tra, canh gác;

 Thiết bị phương tiện chữa cháy như:
 Công trình có hệ thống phun nước;
 Có hệ thống dập cháy bằng CO2;
 Có hệ thống tự động dập cháy bằng CO2;
 Có ôtô chữa cháy và nhân viên chữa cháy;
 Gần đội cứu hoả công cộng
Khi xem xét việc tăng giảm phí, nhân viên bảo hiểm phải đi thực địa,
xem xét một cách nghiêm túc, đặc biệt khi xem xét các yếu tố này cần hết sức
khách quan, sau đó hai bên thoả thuận với nhau trước khi ký hợp đồng.
Tỷ lệ phụ phí: R2 được nhà bảo hiểm kế hoạch hoá từ trước, và duy nhất
chỉ phụ thuộc vào thời hạn bảo hiểm và công tác quản lý rủi ro sau khi ký kết
hợp đồng. Thông thường phí bảo hiểm thường rất lớn nên người tham gia bảo
hiểm có thể nộp phí một lần hoặc nhiều lần là do 2 bên thoả thuận.
Trong nghiệp vụ này, còn áp dụng các mức miễn thường. Tuỳ theo từng
loại tài sản được bảo hiểm mà mức miễn thường được quy định khác nhau.
Thông thường, trong bảo hiểm cháy áp dụng mức miễn thường có khấu trừ tối
thiểu là 2% STBH nhưng không dưới 100 USD trên mỗi vụ tổn thất và tối đa
không quá 2.000 USD trên mỗi vụ tổn thất. Đây là mức miễn thường bắt buộc
không được giảm phí. Nếu người tham gia bảo hiểm muốn lựa chọn mức miễn
24

thường cao hơn để được giảm phí thì sẽ có thoả thuận riêng về mức miễn thường
và tỷ lệ giảm phí.
1.2.2.6 Thời hạn bảo hiểm.
Thông thường thời hạn bảo hiểm là một năm và tính từ khi người tham
gia bảo hiểm nộp phí cho đến thời điểm 16h ngày cuối cùng của thời hạn bảo
hiểm. Sau khi kết thúc thời hạn bảo hiểm, người được bảo hiểm có thể đóng phí
tiếp và yêu cầu tái tục hợp đồng bảo hiểm.
1.2.2.7 Giám định trong bảo hiểm cháy.
- Khi tài sản của người được bảo hiểm bị hoả hoạn, người tham gia phải

kịp thời thông báo bằng văn bản, hoặc điện thoại, điện tín để cho nhà bảo hiểm
được biết. Nội dung thông báo, ít nhất phải đảm bảo 3 nội dung sau:
 Địa điểm, thời gian xảy ra hoả hoạn.
 Đối tượng thiệt hại.
 Dự báo nguyên nhân gây ra hoả hoạn.
Sau khi nhận được nội dung thông báo này, nhà bảo hiểm phải cử ngay
nhân viên bảo hiểm hoặc người đại diện tới hiện trường để tổ chức công tác giám
định.
- Giám định hoả hoạn là một công việc hết sức phức tạp đối với nhà bảo
hiểm vì tài sản tham gia bảo hiểm và tài sản bị tổn thất rất đa dạng, giá cả ở các
thời điểm khác nhau là rất khác nhau. Hiện trường rất dễ bị xáo trộn, nhân chứng
của các vụ hoả hoạn cũng như lời khai của nhân chứng cũng hết sức khác nhau.
Chính vì vậy, giám định viên bảo hiểm hoả hoạn phải có nghiệp vụ, được
đào tạo bài bản, đặc biệt khi giám định, tuỳ theo tính chất và đặc điểm của từng
nghiệp vụ hoả hoạn, nhà bảo hiểm có thể mời thêm chính quyền địa phương,
công an cùng tham gia giám định.
Khi giám định cần chú ý các vấn đề:
 Thời điểm ban đầu xảy ra hoả hoạn và thời điểm kết thúc hoả hoạn.
 Nguyên nhân gây hoả hoạn.
 Thống kê lại tài sản đã bị thiệt hại.
 Lấy lời khai của các nhân chứng có liên quan.
25

×