Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

qui chế pháp lý chung về đấu thầu trong xây lắp và thực tiễn áp dụng tại công ty trách nhiệm hữu hạn cavico việt nam xây dựng cầu hầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.84 KB, 100 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

1

MỞ ĐẦU
Bất cứ một xã hội nào muốn phát triển một cách phồn vinh thì cũng đều cần
có một cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế xã
hội. Cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế, hoạt động đầu tư, xây dựng cơ
bản được đánh giá là ngành kinh tế kỹ thuật hết sức quan trọng của đất nước, bởi lẽ
nó liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, lại được sử dụng một nguồn tài chính,
nguồn nhân lực hết sức to lớn.
Nếu như trước đây, nguồn vốn cho đầu tư, xây dựng thuộc về ngân sách nhà
nước, nhưng từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt động của
ngành xây dựng cũng có sự phát triển tương ứng. Nguồn vốn này có thể thuộc tất cả
các thành phần kinh tế khác nhau (Ngân sách Nhà nước, kinh tế tư nhân, vay từ nước
ngồi…)
Là cơng ty TNHH một thành viên, cơng ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu
Hầm là một trong số ít các doanh nghiệp ngồi quốc doanh đã thành cơng trong lĩnh
vực kinh doanh đầu tư xây dựng cơ bản – một lĩnh vực được coi là thế mạnh của
các doanh nghiệp xây dựng Nhà nước, với hàng loạt các cơng trình trọng điểm
Quốc gia được đánh giá chất lượng cao như cơng trình thủy điện Đại Ninh, Thủy
điện Bn Kuốp, Thủy điện Bản Vẽ, Thủy điện Bắc Bình….
Với vai trị là cơng ty con, được thừa hưởng nhiều nguồn lực, vật lực và kinh
nghiệm quản lý của Tổng công ty Cavico Việt Nam, trong những năm qua Cavico
Việt Nam xây dựng Cầu Hầm là đơn vị đi đầu về sản lượng và lợi nhuận. Đây thực
sự là môi trường tổ chức hợp lý với đội ngũ cán bộ trẻ năng động, sáng tạo đã góp
phần dựng nên thương hiệu: Nhà đầu tư, nhà thầu chuyên nghiệp Cavico Việt Nam.
Quá trình học tập tại trường đại học Kinh tế Quốc Dân, được tiếp thu những
kiến thức về pháp luật trong kinh doanh dưới nhiều lĩnh vực: Mua bán xuất nhập
khẩu hàng hóa, kinh doanh Bảo Hiểm, tín dụng ngân hàng…. Trong đó, lĩnh vực em
thấy hứng thú và hấp dẫn nhất là kinh doanh đầu tư xây dựng cơ bản. Chính bởi lẽ


đó, em đã chọn cơng ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm là nơi thực tập
của mình.Thời gian thực tập tại cơng ty Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm đã
giúp em trưởng thành hơn trong tư duy cũng như kinh nghiệm thực tế.
Xuất phát từ những lý do trên em đã quyết định chọn đề tài cho chuyên đề tốt
nghiệp của mình :

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

2

“Qui chế pháp lý chung về đấu thầu trong xây lắp và thực tiễn áp dụng tại
công ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm”.
 Mục tiêu chọn đề tài:
Khi chọn đề tài này, dựa trên nền tảng hệ thống pháp luật về đấu thầu của
Việt Nam, em muốn đi sâu, tập chung tìm hiểu các quy định pháp luật về đấu thầu
trong xây lắp nói riêng. Từ đó phân tích các nhân tố nhằm tăng các khả năng cạnh
tranh của nhà thầu, đề xuất một số kiến nghị góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật
về đấu thầu nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động đấu thầu ở Việt Nam nói chung
và tăng khả năng cạnh tranh để thắng thầu đối với công ty Cavico Việt Nam xây
dựng Cầu Hầm – nơi em thực tập nói riêng.
 Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Các qui chế pháp lý về đấu thầu là một đề tài có nội dung hết sức rộng và
phức tạp cả về lý luận và thực tiễn. Nếu căn cứ vào nội dung, đấu thầu được chia ra
làm năm loại: đấu thầu tuyển chọn tư vấn, đấu thầu mua sắm hàng hóa, đấu thầu
trong xây lắp, đấu thầu đối với gói thầu có quy mơ nhỏ, đấu thầu lựa chọn đối tác để

thực hiện dự án. Do đặc điểm hoạt động đấu thầu của công ty Cavico Việt Nam xây
dựng Cầu Hầm nơi em thực tập chỉ áp dụng thực hiện trong lĩnh vực xây lắp, do đó
chuyên đề sẽ đi sâu phân tích vấn đề về đấu thầu trong xây lắp.
 Kết cấu đề tài:
Về mặt kết cấu, ngoài Mục lục, Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu
tham khảo thì chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đấu thầu xây dựng và đấu thầu
trong xây lắp
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy chế pháp lý về đấu thầu trong xây lắp
tại công ty TNHH Cavico Việt Nam xây dựng Cầu Hầm
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện quy chế pháp lý
về đấu thầu trong xây lắp và q trính áp dụng tại cơng ty
 Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, chuyên đề đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học, cụ thể như: so sánh, tổng hợp, phân tích kết hợp với các
phương pháp thống kê, phân tích kinh tế. Phù hợp với từng vấn đề, từng nội dung
nghiên cứu cụ thể mà để tài sử dụng riêng rẽ hoặc kết hợp nhiều phương pháp nhằm
làm rõ nội dung của đề tài.

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

3

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ

ĐẤU THẦU XÂY DỰNG VÀ ĐẤU THẦU TRONG XÂY LẮP
1.1. Một số khái niệm liên quan trong đấu thầu xây dựng
1.1.1. Dự án
Theo nghĩa chung nhất, Dự án là một tổng thể các hoạt động phụ thuộc lẫn
nhau nhằm tạo ra một sản phẩm đơn chiếc trong giới hạn cho phép về không gian
và nguồn lực. Theo quy định tại Điều 4.7 của Luật đấu thầu ngày 29.11.2005 của
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ: “ Dự án là tập hợp
các đề xuất để thực hiện một phần hoặc tồn bộ cơng việc nhằm đạt được mục tiêu
hay yêu cầu nào đó trong một thời gian nhất định dựa trên nguồn vốn xác định.”
Sản phẩm của dự án thường là kết quả lao động mang tính trọn vẹn như một
đoạn đường hay một cây cầu, một bộ phận hồn chỉnh của một cơng trình khoa học,
một cơng trình xây dựng, lắp đặt, vận hành thiết bị làm thay đổi chất lượng của một
thực thể (như dự án xóa đói giảm nghèo, dự án xóa mù chữ, dự án thu hoạch mùa
vụ của một khu vực canh tác). Các dự án mang tính đơn chiếc, đặc thù, tính chuẩn
mực. Mỗi dự án là một đối tượng tương đối độc lập về nguồn lực, trách nhiệm,
quyền hạn và được diễn ra trong một khuôn khổ thời gian nhất định. Khi khn khổ
thời gian đó chấm dứt thì dự án đó cũng tự động chấm dứt. Có dự án chỉ diễn ra
trong một khoảng thời gian ngắn (như xây dựng một cây cầu lớn trong vòng 4 năm)
nhưng có những dự án phải diễn ra trong nhiều năm (ví dụ như xây dựng một đập
thủy lợi ngăn nước trong 10 năm).
1.1.2. Chủ đầu tư
Theo điều 4.9 của Luật đấu thầu năm 2005 quy định Chủ đầu tư là người sở
hữu vốn hoặc được giao trách nhiệm thay mặt chủ sở hữu, người vay vốn trực tiếp
quản lý và thực hiện dự án.
Đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước hoặc dự án có cổ phần chi
phối hay cổ phần đặc biệt của Nhà nước thì chủ đầu tư là các doanh nghiệp Nhà

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45



Chuyên đề tốt nghiệp

4

nước (Tổng công ty, công ty), cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội hoặc một ban quản lý dự án được người có thẩm quyền đầu tư giao trách
nhiệm trực tiếp quản lý sử dụng vốn đầu tư.
Đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi thì chủ đầu tư là các bên liên
doanh (đối với hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh), là hội đồng quản trị (đối
với xí nghiệp liên doanh), là tổ chức cá nhân, người nước ngoài bỏ toàn bộ vốn đầu
tư (đối với liên doanh 100% vốn nước ngoài và dự án BOT).
1.1.3. Bên mời thầu
Bên mời thầu là chủ đầu tư hoặc tổ chức chun mơn có đủ năng lực và kinh
nghiệm được chủ đầu tư sử dụng để tổ chức đấu thầu theo các quy định của pháp
luật về đấu thầu.
1.1.4. Gói thầu
Gói thầu là một phần dự án, trong một số trường hợp đặc biệt gói thầu là
tồn bộ dự án; gói thầu có thể mua sắm giống nhau thuộc nhiều dự án hoặc là khối
lượng mua sắm một lần với mua sắm thường xuyên.

1.2 Đấu thầu xây dựng
Trên thực tế hiện nay tồn tại nhiều quan niệm, cách hiểu về đấu thầu. Xuất
phát từ Từ điển Tiếng Việt, “Đấu thầu” được hiểu là việc tổ chức cuộc so đọ công
khai ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được chấp nhận. Theo đó, thì
“đấu thầu” là cuộc đọ sức công khai giữa các tổ chức kinh tế và tài chính.
Đấu thầu xây dựng được hiểu là quá trình lựa chọn nhà thầu - nhà xây dựng
có tư cách pháp nhân tham gia đấu thầu - đáp ứng đủ các yêu cầu của bên mời
thầu.Có rất nhiều quan niệm khác nhau về đấu thầu xây dựng.

 Theo quan điểm của nhà thầu
Đứng trên quan niệm của nhà thầu thì khái niệm đấu thầu được hiểu là một
phương thức kinh doanh mà thơng qua đó nhà thầu với các điều kiện và khả năng về
năng lực tài chính, kỹ thuật, tiến độ đáp ứng được cơ bản các yêu cầu của Bên mời
thầu, có cơ hội dành được hợp đồng thực hiện các cơng việc của gói thầu.

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

5

Đây là phương thức chủ yếu để có được dự án giúp cho doanh nghiệp tồn tại
và phát triển. Tính chất của đấu thầu đối với nhà thầu là quá trình cạnh tranh với các
nhà thầu khác về khả năng tiến hành công tác xây dựng bảo đảm các yêu cầu về
chất lượng, tiến độ, chi phí để dành được thực hiện dự án mà bên mời thầu đưa ra.
Có thể nói đây là q trình hết sức khó khăn, nhạy cảm và nhiều rủi ro có thể
xảy ra. Trong quan hệ giữa bên mời thầu và nhà thầu, có nhiều quan hệ được nảy sinh
cần được sự điều chỉnh của pháp luật để tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh đó là:
Quan hệ giữa bên mời thầu với các bên tham gia đấu thầu. Ở đây muốn nhấn mạnh
là, ở mỗi cuộc đấu thầu đều có vận “may”, “rủi”, mà có Nhà thầu trúng thầu, có Nhà
thầu không trúng thầu.
 Theo quan niệm của Bên mời thầu
Đấu thầu là hình thức (Quá trình) lựa chọn nhà thầu tốt nhất đáp ứng được
các yêu cầu về kinh tế, về kỹ thuật, chất lượng, tiến độ thi công và chi phí xây dựng
cơng trình. Quan niệm này cũng như theo Điều 4.2 của Luật đấu thầu năm 2005 quy
định “ đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu

để thực hiện gói thầu thuộc các dự án được quy định bắt buộc phải đấu thầu trên cơ
sở bảo đảm tính cạnh tranh, cơng bằng, minh bạch, và hiệu quả kinh tế”. Có thể hiểu
đấu thầu là q trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu.
Như vậy, đứng trên quan điểm của Nhà thầu và chủ thầu (Bên mời thầu)
thì“Đấu thầu” là cuộc thi tuyển trong hoạt động xây dựng giữa các nhà thầu thỏa
mãn các yêu cầu cuả chủ đầu tư, từ đó lựa chọn Nhà thầu thích hợp nhất.
 Theo quan niệm trong quản lý đầu tư và xây dựng
Tại Điều 43 Nghị định số 52/1999/NĐ - CP ngày 8-7-1999 ban hành Quy
chế quản lý đầu tư và xây dựng quy định “ Nhà nước khuyến khích đấu thầu đối với
tất cả các dự án đầu tư và xây dựng của các cơng trình sản xuất kinh doanh hoặc
văn hóa- xã hội, khơng phân biệt nguồn vốn”. Như vậy, đấu thầu chính là phương
thức quản lý của việc lập và thực hiện dự án đầu tư, thơng qua đó lựa chọn được
nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của dự án trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, minh bạch
trong quá trình đấu thầu. Xét theo quan điểm này, đấu thầu là sự tham dự của 3 chủ

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

6

thể có liên quan đến dự án (cơng trình xây dựng). Theo đó, Chính phủ sẽ phân công
cho các bộ, nghành ở TW và đã phân cấp cho chính quyền địa phương quản lý thực
hiện các dự án xây dựng cơ bản. Các cơ quan quản lý dự án đóng vai trị là bên mời
thầu và theo phương thức đấu thầu, tiến hành chọn nhà thầu có nhiều ưu điểm nhất
để giao thực hiện dự án.
 Quan niệm theo Quan hệ hợp đồng

Nếu đứng trên giác độ các quan hệ kinh tế, dân sự hiện nay chủ yếu được
thực hiện bằng hình thức hợp đồng, thì trong hoạt động đấu thầu, suy cho cùng đó
là quan hệ hợp đồng giữa bên mua (Bên mời thầu) và bên bán (Các nhà thầu). Tuy
nhiên, đây là quan hệ đặc biệt xảy ra trong đó chỉ có một người mua và nhiều người
bán. Trong quy trình về hoạt động đấu thầu, kể cả của các tổ chức tài chính quốc tế
như Ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu Á (ADB), của các nước
trên thế giới cũng như của Việt Nam, thì các cơng việc trong quy trình đấu thầu, xét
đến cùng đều dẫn tới việc thương thảo ký kết hợp đồng giữa các Bên là quan hệ hợp
đồng. Đây cũng là sự thể hiện bước hoàn thiện về mặt pháp lý các giao dịch kinh tế,
dân sự, thương mại… trong nền kinh tế thị trường.
Xét về bản chất đấu thầu là phương thức lựa chọn đối tác. Sau khi đấu thầu,
bên mời thầu xếp hạng được một danh sách ưu tiên giao kết hợp đồng. Người trúng
thầu là người đứng đầu danh sách được ưu tiên thương thảo, ký kết đầu tiên. Nếu
không thành, sẽ đến lượt người tiếp theo. Cịn pháp luật về hợp đồng khơng điều
chỉnh việc lựa chọn đối tác, mà đó là quyền tự do của các chủ thể giao kết hợp đồng.
Pháp luật về hợp đồng chỉ điều chỉnh khi đã xác định được các đối tác giao kết.
Hình thức của hợp đồng giao kết thông qua đấu thầu phải bằng văn bản. Hợp
đồng chỉ có hiệu lực khi được người có thẩm quyền phê duyệt. Các hình thức giao
kết đối với hợp đồng theo ngun lý thơng thường có thể bằng văn bản, lời nói,
hoặc hành vi cụ thể.
Q trình thương thảo trong đấu thầu, nhà thầu trúng thầu bị ràng buộc về
nội dung chào hàng của mình. Hai bên có quyền thương thảo, nhưng không được
làm giá cao hơn giá trúng thầu đã được phê duyệt. Phần lớn những nội dung của

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp


7

chào hàng đã được bên mời thầu dự tính chấp nhận. Đối với hợp đồng giao kết theo
ngun lý thơng thường các bên hồn tồn tự do trong việc xác định về nội dung.
Bên đưa ra đề nghị cũng bị ràng buộc về nội dung đề nghị đối với bên được đề nghị.
Một điểm khác biệt có thể thấy rõ giữa hai hình thức hợp đồng này đó là các
điều khoản quy định về bảo lãnh thực hiện hợp đồng, trong đấu thầu là bắt buộc, nhưng
không quá 10% giá trị hợp đồng; trong khi đó quy định này là không bắt buộc, do các
bên tự thỏa thuận trong hợp đồng giao kết theo nguyên lý thông thường.
Tóm lại, các quan điểm trên được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, có
thể rút ra khái niệm về đấu thầu, đó là q trình lựa chọn Nhà thầu đáp ứng cơ bản
các yêu cầu của bên mời thầu nhằm bảo đảm tính cạnh tranh, cơng bằng, minh bạch
và hiệu quả kinh tế của gói thầu. Có thể nói đây là biện pháp hiệu quả nhất để khắc
phục tiêu cực trong các hoạt động kinh tế như mua bán, xây dựng vv…
1.2.1. Phân loại các hình thức đấu thầu
Dựa vào các tiêu chí khác nhau mà đấu thầu được phân chia thành nhiều
loại:
- Dựa vào hình thức lựa chọn nhà thầu người ta phân thành đấu thầu rộng
rãi và đấu thầu hạn chế
 Đấu thầu rộng rãi
Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu khơng hạn chế số lượng nhà thầu
tham dự. Việc lựa chọn nhà thầu để thực hiện các dự án sau đây phải áp dụng hình
thức đấu thầu rộng rãi bao gồm:
- Dự án sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát triển,
bao gồm:
+ Dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng các dự án đầu tư xây dựng;
+ Dự án đầu tư để mua sắm tài sản kể cả thiết bị, máy móc không cần lắp đặt;
+ Dự án quy hoạch phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành, qui hoạch
xây dựng đô thị, nông thôn;

+ Dự án nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật;
+ Các dự án khác cho mục tiêu đầu tư phát triển;

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

8

- Dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản nhằm duy trì hoạt động
thường xuyên của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội –
nghề nghiệp, tổ chức xã hội- nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân;
- Dự án sử dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản nhằm phục vụ việc cải
tạo, sửa chữa lớn các thiết bị, dây chuyền sản xuất, cơng trình, nhà xưởng đã đầu tư
của doanh nghiệp nhà nước.1
Trước khi phát hành hồ sơ mời thầu bên mời thầu phải công bố công khai các
thông tin mời ứng thẩu trên tờ báo về đấu thầu trên 3 kỳ liên tiếp và trên trang thông
tin điện tử về đấu thầu, đối với đấu thầu quốc tế thì cịn phải đăng tải đồng thời trên
một tờ báo Tiếng Anh được phát hành rộng rãi trong nước. Sau khi đăng tải theo
quy định trên, có thể đăng tải trên các phương tiện thơng tin đại chúng khác. Sau
thời hạn 10 ngày kể từ ngày đăng tải lần đầu tiên thông mời nộp hồ sơ quan tâm,
bên mời thầu sẽ phát hành miễn phí cho các nhà thầu có nhu cầu tham dự thầu.
Trong hồ sơ mời thầu không được nêu bất cứ điều kiện nào nhằm hạn chế sự tham
gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho các nhà thầu cho một hoặc một số nhà
thầu gây ra sự cạnh tranh khơng bình đẳng.
Q trình xét thầu được thực hiện cơng khai và bình đẳng. Nhà thầu nào có
giá thầu hợp lý thuộc phạm vi giá của Chủ đầu tư dự kiến (giá trần) và thỏa mãn các

điều kiện mà chủ đầu tư đề ra thì nhà thầu đó sẽ trúng thầu. Đây là hình thức chủ
yếu được áp dụng trong đấu thầu nói chung và đấu thầu trong xây lắp nói riêng.
Do số lượng người dự thầu là khá đơng, vì vậy bên mời thầu có cơ hội để lựa
chọn nhà thầu có đủ tư cách, năng lực tham gia dự án. Nhưng cũng chính vì vậy,
nên chi phí đánh giá hồ sơ đấu thầu cũng rất tốn kém, trong khi đó chi phí của
người đi vay là phải sử dụng vốn vay sao cho có hiệu quả nhất. Hơn nữa, đối với
những dự án địi hỏi có u cầu kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, đặc biệt mà chỉ có
một số nhà thầu mới đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi chủ đầu tư phải tiến hành sơ
tuyển để lựa chọn nhà thầu có đủ tư cách, năng lực tham gia dự thầu.

1

Xem Điều 1, Điều 18 của Luật đấu thầu ngày 29-11-2005.

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

9

 Đấu thầu hạn chế
Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, trước khi phát hành hồ sơ mời
thầu, chủ đầu tư sẽ phê duyệt danh sách nhà thầu được coi là có đủ năng lực và kinh
nghiệm để mời tham gia đấu thầu.Trên cơ sở đó Bên mời thầu sẽ gửi thư mời thầu
tới các nhà thầu trong danh sách đó, tuy nhiên phải mời tối thiểu 5 nhà thầu, trường
hợp thực tế có ít hơn 5 nhà thầu, chủ đầu tư phải trình người có thẩm quyền xem
xét, quyết định cho phép tiếp tục tổ chức đấu thầu hạn chế hoặc áp dụng hình thức

lựa chọn khác.
Theo quy định tại Điều 19 của Luật đấu thầu (ban hành ngày 29-11-2005)
đấu thầu hạn chế được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
+ Theo yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn vốn sử dụng cho
gói thầu;
+ Gói thầu có yêu cầu cao về kỹ thuật hoặc kỹ thuật có tính đặc thù; gói thầu
có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm mà chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng
yêu cầu của gói thầu.
Việc xét thầu và cơng nhận trúng thầu giống như hình thức đấu thầu rộng rãi.
- Dựa vào quốc tịch của Nhà thầu có đấu thầu trong nước và đấu thầu quốc tế.
Đấu thầu trong nước là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của
bên mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu trong nước.
Đấu thầu quốc tế là cuộc đấu thầu mà có sự tham gia của các nhà thầu nước
ngoài và nhà thầu trong nước. Việc tổ chức đấu thầu quốc tế được thực hiện trong các
trường hợp: gói thầu thuộc dự án ODA mà nhà tài trợ quy định phải đấu thầu quốc tế
hoặc nhà thầu trong nước chưa đủ khả năng đáp ứng các yêu cầu của hồ sơ mời thầu,
hoặc đã tổ chức đấu thầu trong nước nhưng không chọn được nhà thầu trúng thầu.
- Dựa vào phương thức áp dụng đấu thầu được phân chia thành nhiều loại
khác nhau
 Phương thức đấu thầu một túi hồ sơ
Theo phương thức này, nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về kỹ thuật
và đề xuất về tài chính vào chung một túi hồ sơ theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu.

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp


10

Việc mở thầu được tiến hành một lần. Hình thức này được áp dụng cho những dự án
khơng lớn (gói thầu mua sắm hàng hóa và xây lắp).
 Phương thức đấu thầu hai túi hồ sơ
Đấu thầu hai túi hồ sơ được áp dụng đối với đấu thầu rộng rãi và đấu thầu
hạn chế trong đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn. Nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật
và đề xuất về tài chính riêng biệt theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu.Việc mở thầu
được tiến hành hai lần; trong đó, đề xuất về kỹ thuật được mở để đánh giá trước, đề
xuất về tài chính của tất cả nhà thầu có đề xuất kỹ thuật được đánh giá là đáp ứng
yêu cầu được mở sau để đánh giá tổng hợp. Trường hợp gói thầu có u cầu kỹ
thuật cao thì đề xuất về tài chính của nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật cao nhất sẽ được
mở để xem xét, thương thảo.
 Phương thức đấu thầu hai giai đoạn
Phương thức này được áp dụng đối với hình thức đấu thầu rộng rãi và đấu
thầu hạn chế cho gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC có kỹ thuật
cơng nghệ mới, phức tạp, đa dạng và được thực hiện theo trình tự sau đây:
Trong giai đoạn một, theo hồ sơ mời thầu giai đoạn một, các nhà thầu nộp đề
xuất về kỹ thuật, phương án tài chính nhưng chưa có có giá dự thầu; trên cơ sở trao đổi
với từng nhà thầu tham gia giai đoạn này sẽ xác định hồ sơ mời thầu giai đoạn hai;
Trong giai đoạn hai, theo hồ sơ mời thầu giai đoạn hai, các nhà thầu đã tham
gia giai đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu giai đoạn hai bao gồm: đề xuất về kỹ
thuật, đề xuất tài chính, trong đó có giá dự thầu; biện pháp bảo đảm dự thầu.
 Phương thức chỉ định thầu- chào hàng cạnh tranh - tự thực hiện
+ Chỉ định thầu
Đây là hình thức khơng tổ chức đấu thầu mà chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng
yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng.
Hình thức này chỉ áp dụng trong các trường hợp đặc biệt sau:
++ Trường hợp bất khả kháng do thiên tai, địch họa, sự cố cần khắc phục
ngay (ví dụ như xảy ra hiện tượng sụp đổ một cây cầu nào đó mà cần khắc phục

ngay để phục vụ cho việc đi lại).

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

11

+ +Gói thầu do yêu cầu của nhà tài trợ nước ngồi;
+ +Gói thầu thuộc dự án bí mật quốc gia; dự án cấp bách vì lợi ích quốc gia, an
ninh an toàn năng lượng do Thủ tướng chính phủ quyết định khi thấy cần thiết;
+ +Gói thầu dịch vụ tư vấn có giá trị dưới 500 triệu đồng, gói thầu mua sắm
hàng hóa, xây lắp có giá gói thầu giá trị dưới 1 tỷ đồng thuộc dự án đầu tư phát
triển; gói thầu mua sắm hàng hóa có giá gói thầu dưới một trăm triệu đồng thuộc dự
án hoặc dự tốn mua sắm thường xun.
+ +Gói thầu mua sắm các loại vật tư, thiết bị phục hồi, duy tu, mở rộng công
suất của thiết bị, dây chuyền cơng nghệ sản xuất mà trước đó đã được mua từ một
nhà thầu cung cấp và không thể mua từ các nhà thầu cung cấp khác do phải bảo
đảm tính tương thích của thiết bị cơng nghệ.2
+Chào hàng cạnh tranh
Hình thức này được áp dụng cho những gói thầu có giá trị dưới hai tỷ đồng.
Đối với mỗi gói thầu phải có tối thiểu 3 báo giá từ 3 nhà thầu khác nhau. Khi thực
hiện chào hàng cạnh tranh, phải gửi yêu cầu chào hàng cho các nhà thầu. Nhà thầu
gửi báo giá đến bên mời thầu một cách trực tiếp, bằng fax hoặc qua đường bưu
điện. Nội dung mua sắm là những hàng hóa thơng dụng, sẵn có trên thị trường với
đặc tính kỹ thuật được tiêu chuẩn hóa và tương đương nhau về chất lượng.
+Tự thực hiện

Hình thức này chỉ áp dụng trong trường hợp chủ đầu tư là nhà thầu có đủ năng
lực và kinh nghiệm để thực hiện gói thầu thuộc dự án do mình quản lý và sử dụng.
+Mua sắm trực tiếp
Mua sắm trực tiếp được áp dụng khi hợp đồng đối với gói thầu có nội dung
tương tự được đăng ký trước đó khơng q 6 tháng. Khi áp dụng hình thức được
mời nhà thầu trước đó đã lựa chọn thơng qua đấu thầu để thực hiện gói thầu có nội
dung tương tự.
- Dựa vào tính chất nội dung của cơng việc gói thầu phân thành đấu thầu tuyển
chọn tư vấn thiết kế kiến trúc cơng trình xây dựng, đấu thầu mua sắm hàng hóa, đấu
thầu trong xây lắp, và đấu thầu để lựa chọn tư vấn các đối tác để thực hiện các dự án
2

Xem Điều 20 Luật Đấu Thầu ngày 29 tháng 11 năm 2007.

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

12

 Đấu thầu tuyển chọn tư vấn thiết kế kiến trúc cơng trình xây dựng
Tư vấn đầu tư và xây dựng là hoạt động đáp ứng các yêu cầu về kiến thức,
kinh nghiệm chuyên môn cho Bên mời thầu trong việc xem xét quyết định kiểm
nghiệm chuyên môn cho Bên mời thầu trong việc xem xét quyết định kiểm tra quá
trình chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư.
Đấu thầu tư vấn là quá trình lựa chọn ra nhà tư vấn có đủ trình độ và kinh
nghiệm để giúp đỡ, tư vấn cho chủ đầu tư trong quá trình chuẩn bị đầu tư và thực

hiện đầu tư.
Việc lựa chọn nhà thầu tư vấn được thực hiện theo quy định củat Luật xây
dựng được Quốc hội thông qua ngày 29-11-2003. Tại Điều 55 của Luật này quy
định: “các cơng trình sau đây trước khi lập dự án đầu tư xây dựng phải thi tuyển
thiết kế kiến trúc:
+ Trụ sở cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở lên;
+ Các cơng trình văn hóa, thể thao, các cơng trình cơng cộng có quy mơ lớn;
+ Các cơng trình khác có kiến trúc đặc thù.”
 Đấu thầu mua sắm hàng hóa
Đấu thầu mua sắm hàng hóa là q trình lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng
hóa đáp ứng được yêu cầu của Bên mời thầu trên cơ sở sự cạnh tranh giữa các nhà
cung cấp. Hàng hóa ở đây có thể là máy móc, phương tiện vận chuyển, thiết bị, bản
quyền sở hữu công nghiệp, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng (thành
phẩm, bán thành phẩm).
Đấu thầu trong xây lắp là quá trình lựa chọn nhà thầu thực hiện những cơng
việc thuộc q trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các cơng trình, hạng mục cơng trình.
Những quy định pháp luật cụ thể về đấu thầu trong xây lắp sẽ được đề cập cụ thể ở
phần sau.
 Đấu thầu để lựa chọn đối tác thực hiện dự án
Đây là quá trình lựa chọn đối tác để thực hiện một phần hay tồn bộ cơng
việc, mục tiêu hoặc yêu cầu nào đó. Căn cứ vào danh mục đầu tư hàng năm do
Chính phủ cơng bố hoặc nhà đầu tư đề xuất, nếu dự án có từ hai đối tác trở lên quan

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp


13

tâm thực hiện thì phải tiến hành đấu thầu để người có thẩm quyền có cơ sở xem xét
lựa chọn đối tác để thực hiện dự án dưới dạng sau:
+ Dự án đang là ý tưởng;
+ Dự án đã có Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoặc khả thi được duyệt;
+ Yêu cầu về một số nội dung công việc.
1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu xây dựng
Trong bất cứ hoạt động nào thì chủ thể tham gia đều phải tuân theo một
nguyên tắc cơ bản nhất định và hoạt động đấu thầu cũng khơng nằm ngồi qui luật
đó. Cuốn “Tài liệu hướng dẫn đấu thầu quốc tế mua thiết bị vật tư và xây dựng
cơng trình theo thể thức hiệp hội các kỹ sư tư vấn (FIDIC), ngân hàng thế giới
(WB) và ngân hàng phát triển liên Mỹ (IDB)” đã trình bày khá rõ ràng và đầy đủ
các nguyên tắc tuân thủ chung trong thông lệ quốc tế. Ngày nay hoạt động đấu thầu
ở Việt Nam cũng tuân theo đúng những nguyên tắc này.
Theo đó, để đảm bảo tính đúng đắn, khách quan, công bằng và hiệu quả
trong đấu thầu, chủ thể quản lý phải đảm bảo các nguyên tắc sau:

Các nguyên tắc cơ bản
trong đấu thầu

Nguyên
tắc cạnh
tranh với
điểu kiện
ngang
nhau

Nguyên
tắc dữ liệu

đầy đủ

Nguyên
tắc bảo
mật hồ sơ,
tài liệu,
thông tin

Nguyên
tắc đánh
giá công
bằng

Nguyên
tắc trách
nhiệm
phân minh

Nguyên
tắc bảo
hành, bảo
lãnh và
bảo hiểm
thích đáng

Sơ đồ1.1: Các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45



Chuyên đề tốt nghiệp

14

 Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau
Đặc điểm của đấu thầu là cạnh tranh, vì chỉ như vậy mới giúp nhà đầu tư tìm
ra được nhà thầu đáp ứng được tối ưu nhất yêu cầu của mình. Tuy nhiên sự cạnh
tranh phải diễn ra trên cơ sở cơng bằng, thể hiện: Mỗi gói thầu phải có sự tham dự
của một số lượng nhà thầu nhất định có năng lực, đủ để đảm bảo sự cạnh tranh giữa
các nhà thầu. Những điều kiện mà Bên mời thầu đưa ra và những thông tin cung cấp
cho các nhà thầu phải ngang bằng nhau, nhằm tạo sự cơng bằng, bình đẳng về cơ
hội cho mỗi nhà thầu. Các nhà thầu tham gia đấu thầu phải độc lập về tổ chức,
không cùng phụ thuộc vào một cơ quan quản lý độc lập về tài chính với chủ đầu tư
của dự án và với nhà thầu tư vấn lập hồ sơ mời thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu.
 Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ
Các nhà thầu phải được cung cấp thông tin đầy đủ các dữ liệu, tài liệu liên
quan đến gói thầu với các thơng tin chi tiết, rõ ràng về quy mô, khối lượng, quy
cách, yêu cầu chất lượng, giá cả và điều kiện hợp đồng, kể cả những sửa đổi, bổ
sung (nếu có). Danh mục cụ thể các tài liệu cần có trong Hồ sơ dự thầu cũng cần nói
rõ để Bên dự thầu chuẩn bị.
 Nguyên tắc bảo mật hồ sơ, tài liệu, thông tin
Để bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh cũng như quyền lợi của chủ đầu tư và
các nhà thầu, tất cả các hồ sơ, tài liệu, thơng tin có liên quan đến gói thầu trong suốt
q trình đấu thầu được xem như là những bí mật thương mại phải được bảo mật
theo quy định của pháp luật.
 Nguyên tắc đánh giá khách quan, cơng bằng
Cơng bằng ln là tiêu chí mà bất cứ cuộc cạnh tranh nào đều muốn hướng
tới. Các hồ sơ dự thầu hợp lệ phải được xem xét, đánh giá khách quan, công bằng với

cùng một tiêu chuẩn như nhau và bởi một hội đồng xét thầu có đủ năng lực, kinh
nghiệm và tư cách. Các tiêu chí đánh giá Hồ sơ, tiêu chuẩn xét thầu phải được công
bố trước trong Hồ sơ mời thầu và trong q trình xét thầu. Bên mời thầu khơng được
tự ý thay đổi. Mọi lý do của việc Hồ sơ dự thầu được chọn hay bị loại đều phải được
giải thích rõ ràng bằng văn bản cho các nhà thầu biết khi có yêu cầu của nhà thầu.

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

15

 Nguyên tắc trách nhiệm phân minh
Hiện nay, hiện tượng một người làm một người chịu không cịn thích hợp
nữa. Quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên có liên quan được đề cập và cụ
thể hóa trong hợp đồng. Để được hưởng những quyền thì mỗi bên liên quan phải
thực hiện những nhiệm vụ nhất định và phải có trách nhiệm đối với việc mình đã
làm. Mỗi bên có liên quan đều biết rõ mình phải gánh chịu những hậu quả gì nếu có
sơ suất và do đó mỗi bên phải nỗ lực tối đa trong kiểm sốt bất trắc và phịng ngừa
rủi ro. Việc tuân thủ triệt để nguyên tắc này sẽ là cơ sở cho việc phân định rạch ròi
phạm vi trách nhiệm của mỗi bên để khơng một sai sót nào khơng có người chịu
trách nhiệm và cũng khơng để ai phải chịu trách nhiệm về những thứ mà không
thuộc trách nhiệm của mình.

 Nguyên tắc bảo hành, bảo lãnh và bảo hiểm thích đáng
Để thực hiện q trình đấu thầu một cách thành cơng địi hỏi phải có sự nỗ
lực của tất cả các bên. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đấu thầu nhiều khi do

các nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau mà các nhà thầu gây cản trở
đến q trình đấu thầu như: Địi rút lại Hồ sơ dự thầu hoặc cung cấp các số liệu
không chuẩn xác, cũng có khi trúng thầu nhưng khơng thực hiện hợp đồng…. Chính
vì vậy mà trong Luật đấu thầu có quy định cụ thể về vấn đề bảo lãnh, bảo đảm, bảo
hành trong đấu thầu. 3 Đây là một chế định giúp cho Bên mời thầu tránh được các
rủi ro do các nhà thầu gây ra.
Những nguyên tắc trên đây là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá
trình đấu thầu được áp dụng rộng rãi trên thế giới hiện nay. Việc thực hiện những
nguyên tắc này mục tiêu cuối cùng cũng là để đáp ứng tốt nhất các yêu cầu về tiến
độ, chất lượng, tài chính của dự án, bảo đảm lợi ích chính đáng cho cả chủ đầu tư
lẫn nhà thầu.

3

Xem điều 55, Điều 56 Luật đấu thầu ngày 29-11-2006.

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

16

1.3. Vai trò của đấu thầu xây dựng trong nền kinh tế quốc dân
1.3.1 . Quá trình hình thành và phát triển các quy định về đấu thấu xây dựng
Đấu thầu là một trong những phương thức mua sắm hàng hóa, dịch vụ trong
đời sống xã hội lồi người. Nó ra đời và cùng phát triển với phương thức sản xuất
phát triển dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Cùng với sự phát triển mạnh

mẽ của khoa học kỹ thuật, sự cạnh tranh gay gắt và các cuộc khủng hoảng đã dẫn
tới sự ra đời của Chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản Nhà nước vào
cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Độc quyền ra đời, từ tự do cạnh tranh, sau đó đối lập
với tự do cạnh tranh nhưng không thủ tiêu cạnh tranh mà làm cho cạnh tranh càng
ngày càng gay gắt hơn.
Nhà nước tư bản vừa là người đại diện, người bảo vệ cho giai cấp tư sản vừa
là người điều tiết quá trình sản xuất, vừa là người cung cấp vốn để nghiên cứu, ứng
dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật. Nhà nước điều tiết các chương trình, các mục
tiêu phát triển kinh tế thơng qua hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế khác.
Ngồi ra Nhà nước cịn bỏ vốn xây dựng cơ sở hạ tầng, các cơng trình cơng cộng
phát triển các ngành kinh tế cần thiết cho xã hội nhưng lại có hiệu quả kinh tế thấp,
lâu hồn vốn…những mua sắm chi tiêu của chính phủ đã trở thành mục tiêu cạnh
tranh gay gắt giữa các tổ chức kinh tế tài chính.
Do vậy, để điều chỉnh hoạt động nói trên, ở hầu hết các nước tư bản đều có
luật mua sắm cơng dưới nhiều hình thức khác nhau. Hoạt động đấu thầu đã xuất
hiện sớm, nhưng luật lệ liên quan đến đấu thầu ra đời muộn hơn và đã xuất hiện đầu
tiên ở Anh. Khi các hiệp hội kỹ sư tư vấn quốc tế (Fidic) thành lập thì quy chế đấu
thầu ngày càng được hoàn thiện dần. Ngày nay, chúng ta có thể tìm thấy các quy
định về đấu thầu ở các tổ chức quốc tế và các quốc gia trên khắp thế giới.
Ở Việt Nam, đấu thầu đã manh nha xuất hiện ở nước ta từ rất lâu. Hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu đã được đặt ra những tiền đề đầu tiên ngay
từ những buổi đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hịa trong sắc lệnh của
mình giai đoạn 1945-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý các cơ quan Chính Phủ

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp


17

khi mua sắm tài sản, đồ vật phải hết sức tiết kiệm và phải lựa chọn những vật phẩm
từ nguồn cung cấp thích hợp nhất để khơng lãng phí tài sản của dân.
Sau đó, trong suốt thời kỳ chiến tranh từ năm 1946 đến đầu những năm 1980
Việt Nam cũng đã từng có một số văn bản liên quan đến việc lựa chọn người bán
khi mua tài sản công. Tuy nhiên, do đặc thù của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
bao cấp với hệ thống chỉ tiêu mang tính pháp lệnh, Nhà nước can thiệp sâu vào hoạt
động kinh tế. Hàng hóa ít người mua nhiều người bán, khơng có sự cạnh tranh. Với
mỗi cơng trình xây dựng, Nhà nước sẽ chỉ định cho các đơn vị thực hiện xây lắp tùy
theo kế hoạch Nhà nước đề ra hoặc căn cứ vào mối quan hệ giữa các đơn vị đó với
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà không qua đấu thầu.
Theo cơ chế này, không tồn tại khái niệm cạnh tranh trong tất cả các ngành
kinh tế nói chung và trong hoạt động đầu tư xây dựng nói riêng, từ đó tạo ra nhiều
tiêu cực, sai lầm gây thất thoát lớn cho xã hội. Các văn bản về hoạt động xây dựng
cơ bản mang tính pháp lý thấp và chỉ nhằm xử lý một vài vụ cụ thể hơn là xác lập
cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu thầu.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, hoạt động của
ngành xây dựng cũng có sự thay đổi tương ứng. Dưới ánh sáng của nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI- 1986, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng một cơ chế
mới phù hợp với quy luật khách quan với trình độ phát triển của nền kinh tế đó là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo cơ chế đó, khái niệm cạnh tranh ngày càng trở nên thông dụng. Trong
hoạt động đầu tư xây dựng, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau đều bình đẳng trước pháp luật, đều có cơ hội tham gia xây dựng các cơng trình
ngang nhau nên giữa các doanh nghiệp luôn tồn tại sự cạnh tranh.
Nền kinh tế càng phát triển, thì mức độ cạnh tranh càng gay gắt. Đứng trước
thực tế đó hoạt động đấu thầu đã xuất hiện và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh,

các doanh nghiệp xây dựng có cơ hội được thể hiện mình một cách tốt nhất. Để tạo
mơi trường nhằm tăng cường hiệu quả của hình thức đấu thầu, cùng với việc tổ

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

18

chức thực hiện, các văn bản có tính quy chế được xây dựng và bổ sung và sửa đổi
ngày càng hoàn thiện hơn.
- Đầu năm 1990, Bộ xây dựng đã ban hành “ Quy chế đấu thầu trong xây
dựng” kèm theo quyết định số 24/BXD- VKT ngày 12/2/1990 nhưng chưa rõ ràng.
- Tiếp theo đó tháng 3/1994 Bộ xây dựng ban hành “ quy chế đấu thầu trong
xây dựng” (theo quyết định số 06/BXD- VKT thay cho quyết định số 24/BXDVKT trước đây). Đây là văn bản được coi là quy chế đầu tiên theo đó quy định tất
cả các cơng trình xây dựng thuộc sở hữu Nhà nước đều phải thực hiện đấu thầu.
- Đến ngày 16/4/1994, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 183 Ttg
theo quy chế này, các dự án dùng vốn Nhà nước (Bao gồm ngân sách cấp, vốn vay,
vốn viện trợ, vốn Nhà nước ở các doanh nghiệp đều phải qua đấu thầu. Kết quả đấu
thầu có vốn đầu tư trên 10 triệu USD phải thông qua Hội đồng xét thầu quốc gia
thẩm định để trình thủ tướng Chính Phủ xem xét và phê duyệt.
- Năm 1996, Chính Phủ ban hành quy chế đấu thầu kèm theo Nghị đinh số
43/ NĐ- CP ngày 5.5.2000. Từ năm 1999 đến năm 2003, công tác đấu thầu được
điều chỉnh chủ yếu bằng Nghị định số 88/1999/NĐ-CP (NĐ 88/CP) ngày 01/9/1999
và Nghị định số 14/2000/NĐ- CP (NĐ14/CP) ngày 05/05/2000, so với cơ chế cũ
nhiều vấn đề sáng tỏ hơn, phương pháp đánh giá để đấu thầu đã khoa học hơn
chuẩn mực hơn.

- Nền kinh tế ngày càng phát triển, yêu cầu đặt ra đối với đấu thầu ngày
càng cao. Để đáp ứng yêu cầu đó, năm 2003 Chính Phủ đã ban hành Nghị định số
66/NĐ- CP ngày 12/6/2003 sửa đổi bổ sung Quy chế đấu thầu kèm theo Nghị định
số 88/CP và Nghị định số 14/ CP. Với 45% số điều bổ sung NĐ 88/CP và 13% số
điều sửa đổi bổ sung NĐ14/CP. Để thực thi Qui chế đấu thầu đã có một số văn bản
hướng dẫn thực hiện. Bộ KH& ĐT đã có Thông tư 04/ TT-BKH (ban hành năm
2000) và thông tư 01/ TT- BKH (ban hành năm 2004); Bộ Tài chính có thơng tư
121/TT-BTC (ban hành năm 2000) và thơng tư 94/ TT-BTC (ban hành năm 2001);
Bộ LĐTB &XH có Quyết định số 1037/ QĐ- BLĐTBXH (ban hành năm 2000).

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

19

Các quy định về đấu thầu được ban hành đã tăng cường tính cạnh tranh, cơng
bằng, minh bạch trong đấu thầu, bảo đảm hiệu quả kinh tế của dự án, tăng cường một
bước công tác thanh tra quản lý hoạt động đấu thầu và thực hiện hợp đồng, nâng cao
công tác quản lý thông tin về đấu thầu và Nhà thầu. Nhờ thực hiện theo quy chế đấu
thầu, Việt Nam đã đạt được một số thành tích, qua đấu thầu đã lựa chọn được nhà
thầu có đủ kinh nghiệm, năng lực để thực hiện gói thầu, có giải pháp, biện pháp thực
hiện khả thi để đảm bảo nguyên tắc là giá trúng thầu không vượt quá giá gói thầu.
- Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa 11 đã thơng qua việc ban hành
Luật xây dựng và có hiệu lực từ ngày 1-7-2004 thay cho quy chế quản lý đầu tư xây
dựng được ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP, với chương 16 về lựa
chọn Nhà thầu và Hợp đồng xây dựng. Có thể nói đây là một sự kiện có tính bước

ngoặt trong quá trình thực hiện hệ thống pháp luật đầu tư xây dựng ở nước ta.
- Đấu thầu là một công việc mới nên bên cạnh những thành tích đã đạt được,
không tránh khỏi những vướng mắc, tồn tại trong thực hiện. Chính vì vậy, ngay từ
năm 1999, trong chương trình xây dựng Luật và Pháp lệnh, Quốc hội đã yêu cầu
xây dựng Pháp lệnh đấu thầu (PLĐT) thay cho quy chế đấu thầu ban hành kèm theo
Nghị định). Đến tháng 6/2005, Chính phủ thơng qua Dự thảo lần 10 PLĐT để trình
sang UBTVQH xem xét, phê duyệt. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của công tác đấu
thầu (trong quan hệ với nhiều Luật khác như Luật phòng, Chống tham nhũng, Luật
thực hành tiết kiệm chống lãng phí…) UBTVQH đã đề nghị nâng PLĐT lên thành
Luật Đấu thầu. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội Khóa XI của nước CHXHCN Việt Nam
đã thông qua Luật đấu thầu tại ngày họp cuối cùng (29/11/2005). Với quyết tâm
của Chính Phủ và Quốc hội Luật đấu thầu được hình thành và thơng qua trong thời
gian chưa đầy 5 tháng, tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho các hoạt động đấu thầu sử
dụng nguồn vốn Nhà nước Việt Nam.
Luật đấu thầu xây dựng được xây dựng trên cơ sở quán triệt các quan điểm,
chủ trương của Đảng và Chính sách của Nhà nước, làm cho Luật trở thành một
công cụ quản lý hữu hiệu trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Nó được kế thừa các nội dung phù hợp của QCĐT và Dự thảo Pháp lệnh

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

20

đấu thầu đã có, phù hợp với các thông lệ đấu thầu quốc tế. Luật đấu thầu trở thành
luật gốc về đấu thầu, đảm bảo tính thống nhất trong quy định về đấu thầu sử dụng

vốn nhà nước. Theo đó, các hoạt động đấu thầu sử dụng vốn Nhà nước trên đất nước
Việt Nam phải thực hiện theo Luật kể từ ngày 01/4/2006 khi Luật có hiệu lực thi
hành.
Nhằm giúp việc thực hiện Luật đấu thầu và Luật xây dựng thủ tướng chính
phủ đã ban hành Nghị định số 111/2006/NĐ- CP ngày 29/9/2006 hướng dẫn thi
hành Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng là khung
khổ pháp lý nguồn vốn ODA và công tác đấu thầu.
Đây thực sự là khung khổ pháp lý quan trọng trong công tác quản lý kinh tế
đầu tư xây dựng, tạo tiền đề thuận lợi cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước và
phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay.
1.3.2. Vai trò của đấu thầu xây dựng trong nền kinh tế quốc dân
Đấu thầu khơng phải là một thủ tục mang tính hình thức mà trên thực tế là
một quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến trong xây dựng cơ bản. Hiệu
quả của hình thức này khơng chỉ ở Việt Nam mà đã được khẳng định ở nhiều nước
trên Thế Giới. Đấu thầu khơng chỉ có ý nghĩa quan trọng với các chủ thể tham gia
đấu thầu mà còn mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế quốc dân.


Đối với chủ đầu tư

Thông qua đấu thầu, chủ đầu tư sẽ tìm được nhà thầu có khả năng đáp ứng
cao nhất các yêu cầu đề ra vì trong đấu thầu diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các
nhà thầu, chủ đầu tư chỉ lựa chọn nhà thầu nào đáp ứng được yêu cầu giá thành hợp
lý, đảm bảo tiến độ thi cơng, chất lượng cơng trình. Với hình thức đấu thầu, hiệu
quả quản lý vốn đầu tư được tăng cường, tình trạng thất thốt vốn đầu tư ở mỗi
khâu của quá trình thực hiện dự án sẽ dần được khắc phục và giảm thiểu. Đấu thầu
giúp chủ đầu tư giải quyết tình trạng phụ thuộc vào một nhà thầu. Tạo cho chủ đầu
tư quyền chủ động trong việc chuẩn bị tất cả các thủ tục pháp lý trước khi tiến hành
mời thầu và tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà thầu. Tuy nhiên, để đánh giá được
chúng, các hồ sơ dự thầu đảm bảo tính cơng bằng trong đấu thầu, đòi hỏi các cán bộ


SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chun đề tốt nghiệp

21

của chủ đầu tư phải có trình độ nhất định. Việc quản lý dự án đầu tư với yêu cầu
thực tế sẽ thúc đẩy nâng cao trình độ năng lực đội ngũ cán bộ kinh tế, kỹ thuật của
bên chủ đầu tư.


Đối với Nhà thầu

Trong đấu thầu, do giành được những hợp đồng lớn có khi lên tới cả nghìn tỷ
USD nên các nhà thầu cũng có lợi nhiều mặt. Thứ nhất, phương thức đấu thầu sẽ
phát huy được tính chủ động, linh hoạt, tích cực tìm kiếm các thông tin liên quan
đến dự án, các thông tin về các đối thủ cạnh tranh, gây dựng mối quan hệ với các tổ
chức quốc tế trong và ngoài nước, tìm cách tăng cường uy tín của mình để có thể
nắm bắt được các cơ hội dự thầu.
Mặt khác, thơng qua đấu thầu cịn giúp cho các nhà thầu có điều kiện thay
đổi thiết bị cơng nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh. Như chúng ta đã biết, bên mời
thầu trong bộ hồ sơ mời thầu đã đòi hỏi các nhà thầu trong tương lai phải cung cấp
hàng hóa thiết bị, đạt những chuẩn mực nhất định hoặc sử dụng các cơng nghệ hiện
đại, tiên tiến. Muốn có đủ điều kiện như trên các nhà thầu khơng cịn con đường nào
khác là phải khơng ngừng nâng cao về trình độ về mọi mặt: Tổ chức quản lý, đào
tạo đội ngũ cán bộ, đầu tư nâng cao năng lực thiết bị, mở rộng mạng lưới thông tin.

Như vậy, thông qua đấu thầu, nhà thầu sẽ tích lũy được nhiều kinh nghiệm cạnh
tranh, tiếp thu được những kiến thức về khoa học cơng nghệ tiên tiến hiện đại, có
điều kiện để khẳng định mình ở hiện tại và tương lai, có cơ hội để cạnh tranh trên
thị trường trong nước và quốc tế.
Nếu trúng thầu, uy tín của nhà thầu sẽ được nâng cao, giá cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán tăng (nếu doanh nghiệp đăng ký niêm yết trên thị trường chứng
khốn), những nhà lãnh đạo cơng ty, hãng trúng thầu có điều kiện tiến xa hơn trên
con đường danh vọng.
Hơn nữa, do tập trung cung cấp lớn một thời gian dài nên các nhà thầu đã
giải quyết được công ăn việc làm cho nhân cơng của mình giúp họ có điều kiện cải
thiện đời sống, nâng cao trình độ.

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp



22

Đối với Nhà nước

Thông qua đấu thầu, các cơ quan quản lý Nhà nước có đủ thơng tin thực tế
và cơ sở khoa học để đánh giá đúng năng lực thực sự của Nhà thầu. Hoạt động đấu
thầu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đấu thầu dựa trên cơ sở cạnh tranh giữa các
nhà thầu trên mọi mặt (hành chính, kỹ thuật, quản lý,…) sẽ thúc đẩy các đơn vị dự
thầu phải nâng cao trình độ hiệu quả mọi mặt. Nhờ đấu thầu, hiệu quả của các dự án

được nâng cao, tiết kiệm cho ngân sách nhà nước. Đấu thầu cịn góp phần nâng cao
hiệu quả công tác quản lý của Nhà nước về đầu tư và xây dựng, hạn chế và loại trừ
được các tình trạng thất thốt, lãng phí vốn đầu tư và các hiện tượng tích cực khác
trong xây dựng cơ bản. Trong cơ chế thị trường, phương thức đấu thầu ngày càng
thể hiện rõ tính ưu việt và vai trị quan trọng đối với các chủ đầu tư, nhà thầu và nhà
nước. Do đó việc áp dụng phương thức này vào họat động kinh doanh là hết sức cần
thiết. Đấu thầu còn là động lực, là điều kiện để cho các doanh nghiệp trong ngành
xây dựng cạnh tranh lành mạnh với nhau thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp xây
dựng, từ đó tạo tiền đề cho kinh tế phát triển.

1.4. Đấu thầu trong xây lắp và Pháp luật về đấu thầu trong xây lắp
1.4.1. Đấu thầu trong xây lắp
Hiện nay, đấu thầu được sử dụng như là một điều tất yếu trong nền kinh tế
thị trường. Đối với doanh nghiệp xây dựng thì hoạt động đấu thầu trong xây lắp là
vấn đề mà họ rất quan tâm để ký được hợp đồng, qua đó tạo cơng ăn việc làm cho
người lao động, tăng doanh thu… Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải có những nhận
thức cơ bản về hoạt động đấu thầu trong xây lắp- một hình thức cạnh tranh đặc thù
của các doanh nghiệp xây dựng.
Đấu thầu trong xây lắp là phương thức mà chủ đầu tư sử dụng để cạnh tranh
giữa các nhà thầu xây dựng nhằm lựa chọn một đơn vị có khả năng thực hiện tốt
nhất các yêu cầu của dự án đầu tư. Các yêu cầu đó thường là u cầu về mặt kinh tế
-tài chính, yêu cầu về mặt kỹ thuật, yêu cầu về mặt tỉến độ thi công.
Thực chất của đấu thầu trong xây lắp là việc ứng dụng phương pháp xét hiệu
quả kinh tế trong việc lựa chọn tổ chức thi công xây dựng. Phương pháp này đòi hỏi

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45



Chuyên đề tốt nghiệp

23

sự so sánh giữa tổ chức xây dựng trên cùng một phương diện (như kỹ thuật hay tài
chính) để chọn lấy một nhà thầu đủ khả năng, sau đó lại so sánh tiếp. Kết quả cuối
cùng sẽ tìm được một tổ chức xây dựng đáp ứng tốt nhất, các yêu cầu của chủ đầu tư.
Đấu thầu trong xây lắp là một hoạt động mua bán, nhưng nó khác những vụ
mua bán thơng thường ở chỗ nó bán công việc. Ở đây người mua là chủ đầu tư và
người bán là các nhà thầu. Chủ đầu tư sẽ chọn người bán nào có giá bán thấp nhất
với chất lượng công việc như nhau. Thực chất của đấu thầu trong xây lắp cũng còn
là việc tổ chức cạnh tranh trên hai phương diện : cạnh tranh giữa chủ đầu tư (bên A)
và nhà thầu (Bên B), cạnh tranh giữa các nhà thầu với nhau. Theo lý thuyết hành vi
người tiêu dùng thì trong một vụ mua bán, bao giờ người mua cũng cố gắng để mua
hàng với giá thấp nhất mà chất lượng vẫn đảm bảo, trong khi đó người bán lại cố
gắng để bán được cùng mặt hàng đó với giá cao nhất. Do đó nảy sinh sự cạnh tranh
giữa người mua và người bán. Giữa các nhà thầu thì họ cố gắng cạnh tranh với nhau
để bán được hàng- là công việc xây dựng mà họ sẽ làm cho chủ đầu tư. Kết quả
cạnh tranh này là có lợi cho chủ đầu tư.
Những đặc điểm giống và khác nhau giữa đấu thầu trong xây lắp và các
hình thức khác
- Điểm giống nhau:
Thơng qua hình thức đấu thầu để lựa chọn đơn vị sản xuất có đủ năng lực về
kinh tế, vật chất và lao động kỹ thuật để hồn thành một cơng trình, một dự án, một
loại sản phẩm đạt hiệu quả cao nhất.
Về mặt tài chính có thể là bên mời thầu ứng một phần tiền trước cho bên dự
thầu hoặc bên dự thầu tạm bỏ tiền ra thi cơng và sẽ được thanh tốn lại sau khi cơng
trình đã hồn thành.
- Điểm khác nhau:
Sản phẩm của xây lắp có đặc điểm mang tính đơn chiếc, cơng trình đặt tại

một vị trí cố định, phục vụ cho một mục đích cụ thể, một chủ trương quản lý sử
dụng, khơng phải là hàng hóa thơng thường được mua bán trên thị trường, khối
lượng vật chất, tiền vốn tiêu hao, số lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

24

lớn gấp nhiều lần các loại sản phẩm thuốc lĩnh vực khác, một cơng trình có nhiều
nghành nghề, tổ chức cùng tham gia.
Thời gian hồn thành cơng trình lại dài, khi đã thực hiện các bước như chuẩn
bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng thì khơng thể dễ dàng thay đổi, trì hỗn. Điều đó
chứng tỏ xây dựng cơ bản là một quá trình sản xuất phức tạp, đa dạng có tác dụng
cũng như hiệu quả lâu dài về sau. Qui mơ của cơng trình càng lớn thì mối quan hệ
với các nghành, các lĩnh vực càng phức tạp và có tác động đến mơi sinh, mơi trường
và cơ sở hạ tầng kỹ thuật khác. Vì thế việc áp dụng đấu thầu trong xây dựng cơ bản
không những phải đạt được tiêu chuẩn cơng trình với giá thành rẻ, chất lượng cao
mà còn phải đặt đấu thầu xây dựng trong một tổng thể phát triển của nền kinh tế- xã
hội. Và đây cũng là điểm khác biệt lớn nhất giữa đấu thầu trong lĩnh vực xây lắp với
các lĩnh vực khác.
1.4 .2. Pháp luật về đấu thầu trong xây lắp
Pháp luật về đấu thầu trong xây lắp là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể tham gia vào quá trình đầu tư
xây dựng cơ bản và các quan hệ phát sinh trong quá trình các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về đấu thầu trong xây lắp.

Là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật về đấu thầu, pháp luật về
đấu thầu trong xây lắp hình thành và hồn thiện cùng với q trình xây dựng và
phát triển của hệ thống pháp luật về đấu thầu. Xuất phát từ yêu cầu quản lý Nhà
nước đối với đầu tư xây dựng là nhằm mục tiêu tái thiết đất nước và đẩy mạnh công
cuộc dựng xây Chủ nghĩa xã hội. Từ những văn bản pháp quy đầu tiên về đấu thầu
mang ý nghĩa đặt nền móng cho sự hình thành hệ thống các qui phạm pháp luật về
đấu thầu, cho đến nay pháp luật về đấu thầu xây dựng nói chung và pháp luật về đấu
thầu trong xây lắp nói riêng đã có một q trình gần 15 năm khơng ngừng được hồn
thiện về cả hình thức và nội dung, cả về chất lượng lẫn số lượng theo tiến trình xây
dựng và phát triển kinh tế- xã hội, đáp ứng cơ bản các yêu cầu của quản lý của Nhà
nước đối với nền kinh tế nói chung và quản lý lĩnh vực đầu tư xây dựng nói riêng.

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


Chuyên đề tốt nghiệp

25

 Xét về cấu trúc hình thức:
Hệ thống pháp luật hiện hành về đấu thầu trong xây lắp bao gồm các nhóm
văn bản pháp luật như sau:
+ Các văn bản pháp luật quy định quản lý lĩnh vực đấu thầu xây dựng bao
gồm:
• Luật xây dựng được thơng qua tại kỳ họp thứ 4 Quốc Hội khố IX ngày
26-11-2003.
• Luật đấu thầu xây dựng được Quốc hội khóa XI thơng qua ngày 29-11- 2005.
• Nghị định số 16/2005/NĐ- CP ngày 07-02-2005 qui định quy chế quản lý

đầu tư xây dựng.
• Nghị định số 112/2006/NĐ- CP ngày 29-9-2006 về sửa đổi bổ sung một số
điều của Nghị định số 16/2005/ NĐ- CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng cơng trình.


Nghị định số 111/2006/NĐ- CP ngày 29-9-2006 hướng dẫn thi hành Luật

đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng .
+ Các văn bản quy định về quản lý các chủ thể hoạt động xây dựng, tư vấn
đầu tư xây dựng. Bao gồm :


Quyết định số 19/2003/QĐ- BXD ngày 3-7-2003 quy định điều kiện

năng lực họat động xây dựng của Bộ trưởng bộ xây dựng.


Thơng tư số 09/2005/ TT- BXD ngày 7-5-2005 hướng dẫn một số nội

dung về giấy phép xây dựng.


Quyết định số 15/ 2005/ QĐ- BXD ngày 25.4. 2005 của Bộ trưởng Bộ

xây dựng về việc ban hành quy chế cấp giấy phép xây dựng.
+ Các văn bản quy định về quản lý chất lượng cơng trình


Nghị định số 209/2004/NĐ- CP ngày 16-12-2004 của Chính Phủ quy


định về quản lý chất lượng cơng trình xây dựng.
+ Các văn bản quy định về bảo hiểm trong xây dựng


Thơng tư số 76/2003/ TT- BTC ngày 4-8-2003 của Bộ tài chính hướng

dẫn về bảo hiểm trong đầu tư và xây dựng.

SV. Đào Thị Mai

Lớp: Luật kinh doanh 45


×