Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

thực tiển áp dụng pháp luật về hợp đồng xây dựng tại công ty tư vấn đầu tư và dịch vụ tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.4 KB, 75 trang )

Báo cáo thực tập chuyên ngành
LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển liên tục của nền kinh tế nước ta, quy mô về chiều rộng
và chiều sâu hoạt động xây dựng nước ta ngày càng mở rộng, thị trường xây dựng
trở lên rất sôi động. Những năm gần đây ngành xây dựng nước ta phát triển rất
mạnh và trưởng thành nhanh chóng về trình độ, số lượng, chất lượng, mọi chuyên
ngành xây dựng. Hơn cả, ngành Công nghiệp Tàu thủy , được sự quan tâm của Nhà
nước ngành Công nghiệp Tàu thủy nước ta đang phát triển và ngày càng lớn mạnh.
Trong hơn hai mươi năm đổi mới đất nước, thực hiện đường lối của Đảng,
ngành xây dựng góp phần xứng đáng làm thay đổi bộ mặt đất nước. Bằng sự hợp
tác quốc tế và sự lỗ lực của mình, ngành xây dựng nước ta đã tiếp thu nhiều kinh
nghiệm áp dụng nhiều công nghệ mới, trình độ lập quy hoạch, thiết kế kiến trúc và
quản lý xây dựng nâng lên rõ rệt, từng bước phát triển bền vững trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế trong khu vực và ngoài thế giới.
Với mục đích, tạo ra một cơ sở hạ tầng hoàn thiện cho ngành Công nghiệp
Tàu Thủy, Nhà nước đã thực sự quan tâm đến hoạt động đầu tư cho ngành Tàu thủy
thông qua việc ban hành các chính sách phát triển ngành Tàu thủy và hàng loạt các
văn bản nhằm thống nhất hoạt động đầu tư xây dựng.
Trước đầy trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung Nhà nước can thiệp sâu
vào các hoạt động kinh tế. Hoạt động xây dựng cũng vậy nó bị bó buộc bởi các chỉ
tiêu pháp lệnh của Nhà nước. Chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp
được độc lập tự chủ hơn trong sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư xây dựng cũng
vì thế mà thông thoáng hơn.
Để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của xã hội, đáp ứng đòi hỏi tiến độ
thi công, nâng cao ý thức pháp luật, tinh thần trách nhiệm của các bên trong một
môi trường cạnh tranh lành mạnh bình đẳng phát huy tối đa vai trò tự chủ, tính năng
động trong sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp. Trong lĩnh vực xây dựng thì
họat động tư vấn là họat động cơ bản.
Ở nước ta, hoạt động xây dựng đã và đang phát triển rất mạnh tạo ra nhiều
công trình mới đẹp so với khu vực và thế giới. Tuy nhiên, cũng có nhiều công trình
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45


1
Báo cáo thực tập chuyên ngành
chưa đạt về tiêu chuẩn đòi hỏi sự quản lý của Nhà nước phải chặt trẽ hơn nữa, công
trình đó có đáp ứng được yêu kỹ thuật cầu đòi hỏi thì đòi hỏi các nhà tư vấn xây
dựng phải chuyên nghiệp những yêu cầu đó được ghi nhận trong nội dung của hợp
đồng trong hoạt động xây dựng.
Nhận thức rõ ý nghĩa vấn đề nêu trên, với mong muốn được tìm hiểu sâu
hơn về các lĩnh vực của hoạt động xây dựng đặc biệt là họat động tư vấn đầu tư xây
dựng và qua quá trình thực tập tại Công ty Tư vấn đầu tư và dịch vụ tài chính
(V.IBC). Trong báo cáo thực tập chuyên ngành này Em xin phép được nghiên cứu
đề tài “ Pháp luật về hợp đồng trong hoạt động xây dựng và thực tiễn áp dụng
tại Công ty Tư vấn đầu tư và dịch vụ tài chính (V.IBC)”.
Về mặt kết cấu thì đề tài gồm ba Chương:
Chương I: Khái quát chung về hợp đồng và hợp đồng xây dựng;
Chương II: Thực tiển áp dụng pháp luật về hợp đồng xây dựng tại Công ty Tư
vấn đầu tư và dịch vụ tài chính;
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về hợp đồng trong hoạt động xây dựng.
Ngoài ra nội dung nghiên cứu trên đề tài còn có phần lời nói đầu và tài liệu
tham khảo.


Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
2
Báo cáo thực tập chuyên ngành
CHƯƠNG 1- KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VÀ HỢP
ĐỒNG XÂY DỰNG
1.1. Những vấn đề pháp lý chung về hợp đồng
1.1.1. Lý luận chung về hợp đồng
1.1.1.1. Khái niệm về hợp đồng

Trong đời sống xã hội, con người luôn phải vận động tham gia nhiều mối
quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc thiết lập với nhau những quan hệ, để qua
đó chuyển giao cho nhau những lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt,
tiêu dùng, trao đổi tài sản hay những việc có tính chất kinh doanh, đóng vai trò quan
trọng, là một tất yếu đối với mọi đời sống xã hội. Tuy nhiên, việc chuyển giao các
lợi ích vật chất đó không phải tự nhiên được hình thành mà do con người trao đổi
với nhau để đạt những thỏa thuận nhất định, để cùng nhau tiến hành những công
việc chung.
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên để xác lập quyền và nghĩa
vụ của các bên tham gia một quan hệ nhất định.
Trên cơ sở định nghĩa này, ta thấy rằng trước hết hợp đồng là một hành vi
pháp lý, hơn thế nữa nó là một hành vi pháp lý đặc biệt: sự thỏa thuận giữa các bên.
 Hợp đồng là một hành vi pháp lý: Hành vi pháp lý là sự thể hiện ý chí làm
phát sinh các hệ quả pháp lý. Mục đích của hợp đồng chính là mục đích của
các bên. Mỗi bên đều theo đuổi những mục đích riêng của mình. Hợp đồng
chính là kết quả của sự dung hòa các lợi ích đối lập nhau.
Hành vi pháp lý là một hành vi có ý trí của con người làm phát sinh các hệ
quả pháp lý. Hợp đồng là một loại hành vi pháp lý cơ bản và thông dụng nhất và
được thực hiện trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. hành vi pháp lý đơn phương thể
hiện ý trí của một người làm phát sinh hệ quả pháp lý, chẳng hạn như hành vi từ
chối nhận thừa kế, hành vi lập di chúc, hành vi thừa nhận con ngoài giá thú… ở đây
cần phân biệt hành vi pháp lý đơn phương với hợp đồng đơn vụ. hợp đồng đơn vụ là
sự thống nhất ý trí giữa hai hay nhiều người nhưng chỉ làm phát sinh nghĩa vụ đối
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
3
Báo cáo thực tập chuyên ngành
với một người trong số họ. Mặc dù, trước đây còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng
ngày nay người ta đều thống nhất thừa nhận hành vi pháp lý đơn phương là một
nguồn làm phát sinh nghĩa vụ, chỉ có một lưu ý là hành vi pháp lý đơn phương
không làm phát sinh nghĩa vụ đối với người khác. Mặt khác, cho dù là đơn phương,

người đã đưa ra cam kết không thể rút lại được cam kết đó nữa.
 Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên: Thỏa thuận là sự thống nhất ý chí
phát sinh các hệ quả pháp lý; Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên làm
phát sinh một hệ quả pháp lý đặc biệt; hợp đồng làm phát sinh hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ trong các quan hệ nhất định.
Căn cứ xác lập hợp đồng: sự tự do ý chí, không có sự ép buộc lừa dối được xác
lập trên cơ sở tự nguyện. Các quy phạm pháp luật về hợp đồng là sự phản ánh các
quan điểm lý luận về vấn đề này.
Bên cạnh đó, nếu chỉ có một bên thể hiện ý trí của mình mà không được bên
kía chấp nhận cũng không thể hình thành nên một quan hệ. Do đó, chỉ khi nào có sự
thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên, thì quan hệ trao đổi vật chất mới được
hình thành quan hệ đó được gọi là quan hệ hợp đồng. Như vậy cơ sở đầu tiên hình
thành hợp đồng là sự tự nguyện về ý chí của các bên. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ có
hiệu lực pháp luật (được nhà nước bảo vệ ) khi ý chí của các bên phù hợp với ý chí
của nhà nước. Các bên được tự do thỏa thuận để thiết lập hợp đồng, nhưng sự “tự
do” ấy phải đặt trong giới hạn bởi lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội
và trật tự công cộng. Nếu để các bên tự do vô hạn, thì hợp đồng trở thành phương
tiện để kẻ giàu bắt lạt kẻ nghèo và sẽ là nguy cơ đối với lợi ích chung toàn xã hội.
Tóm lại; khi ý chí của các bên trong hợp đồng phù hợp với ý chí của nhà nước và
đảm bảo sự tự do thỏa thuận thì hợp đồng có hiệu lực như pháp luật đối với các bên
giao kết. Nghĩa là từ đó các bên đã tự nhận về mình nghĩa vụ pháp lý nhất định. Sự
can thiệp của nhà nước không chỉ là buộc các bên phải giao kết hợp đồng phù hợp
với lợi ích chung và đạo đức xã hội mà còn buộc các bên phải thực hiện hợp đồng
đúng với những cam kết mà họ đã thỏa thuận. Theo nội dung đã cam kết, dưới sự
hỗ trợ của pháp luật, các bên phải thực hiện với nhau các quyền và nghĩa vụ.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
4
Báo cáo thực tập chuyên ngành
1.1.1.2. Phân loại hợp đồng.
Trong Bộ Luật Dân sự Điều 406 có định nghĩa một số loại hợp đồng cơ bản.

Tuy nhiên, trong thực tiễn có rất nhiều loại hợp đồng mà chúng ta thường gặp, ta có
thể dựa vào các căn cứ khác nhau để phân loại hợp đồng như sau:
 Dựa vào hình thức của hợp đồng: thì hợp đồng được chia thành hợp đồng
miệng, hợp đồng văn bản, hợp đồng có công chứng chứng thực, hợp đồng mẫu…
 Dựa vào mối liên hệ quyền và nghĩa vụ giữa các bên: thì hợp đồng chia ra
làm hai loại hợp đồng đơn vụ và hợp đồng song vụ.
Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên chủ thể đều có nghĩa vụ. Hay nói
cách khác, mỗi một bên chủ thể của hợp đồng song vụ là người vừa có quyền lại
vừa có nghĩa vụ. Trong hợp đồng này quyền của bên này đối lập tương ứng với
nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Tại Điều 406 của BLDS đã định nghĩa: “hợp
đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau”.
Hợp đồng đơn vụ là những hợp đồng mà trong đó một bên chỉ có nghĩa vụ mà
không có quyền gì đối với bên kia và bên kia là người có quyền nhưng không phải
thực hiện một nghĩa vụ nào.
 Dựa vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực của hợp đồng: thì hợp đồng được
phân thành hai loại hợp đồng chính và hợp đồng phụ.
Tại khoản 3 Điều 406 BLDS quy định: “hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu
lực không phụ thuộc vào hợp đồng khác”. Như vậy, các hợp đồng khi đã tuân thủ
đầy đủ các điều kiện mà pháp luật đã quy định, thì đương nhiên phát sinh hiệu lực
và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên kể từ thời điểm giao kết.
Trái lại, “hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính”
(khoản 4 Điều 406 BLDS). Trước hết, các hợp đồng phụ muốn có hiệu lực phải
tuân thủ các điều kiện luật định về chủ thể, về nội dung, về hình thức…Mặt khác,
dù rằng đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện nói trên nhưng hợp đồng vẫn không có
hiệu lực nếu hợp đồng chính mà nó phụ thuộc không có hiệu lực.
 Dựa vào tính chất có đi có lại về lợi ích của các chủ thể: hợp đồng chia ra
thành hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
5
Báo cáo thực tập chuyên ngành

Hợp đồng có đền bù là loại hợp đồng mà trong đó mỗi bên chủ thể sau khi đã
thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng.
Hợp đồng không có đền bù là những hợp đồng mà trong đó một bên nhận được
từ bên kia một lợi ích nhưng không phải giao lại một lợi ích nào.Đây là hợp đồng
mà tính chất của nó đã vượt ra khỏi quy luật giá trị bởi sự chi phối của yếu tố tình
cảm.
 Hợp đồng có điều kiện là những hợp đồng mà khi giao kết, bên cạnh việc
thỏa thuận về nội dung của hợp đồng các bên còn thỏa thuận để xác định
một sự kiện để khi sự kiện đó xảy ra, thì hợp đồng mới được thực hiện hoặc
phải chấm dứt nếu:
Thứ nhất, các sự kiện đó phải mang tính khách quan. Yêu cầu này đòi hỏi việc các
sự kiện nói trên có xuất hiên hay không, hoàn toàn nằm ngoài ý chí của chủ thể,
đồng thời phải là một tình tiết trong tương lai (chỉ xuất hiện trong khi hợp đồng đã
giao kết).
Thứ hai, điều kiện đó là một công việc phải làm, thì phải là những việc có thề thực
hiện được.
Thứ ba, sự kiện mà các bên chủ thể thỏa thuận phải phù hợp với pháp luật và không
trái đạo đực xã hội.
Trên đây là sự phân loại hợp đồng dân sự mà trong khi nghiên cứu hợp đồng
xây dựng nó có liên quan đến tính chất của từng loại hợp đồng mà ta cần phải quan
tâm. Bên cạnh đó, thì tùy theo lĩnh vực hoạt động và sự thuận lợi trong việc giải
quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thì có các loại hợp đồng như: hợp đồng
dân sự và hợp đồng trong kinh doanh…
1.1.2. Chế độ pháp lý về hợp đồng.
1.1.2.1. Giao kết hợp đồng và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Giao kết hợp đồng là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc và
trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.
 Nguyên tắc giao kết hợp đồng. Được quy định tại Điều 390 BLDS.
- Tự do giao kết hơp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45

6
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể khi giao kết hợp đồng để thỏa mãn những
nhu cầu về đời sống vật chất cũng như tinh thần, BLDS cho phép mọi chủ thể có
quyền “tự do giao kết hợp đồng”. Theo nguyên tắc này, mọi tổ chức, mọi cá nhân
khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham gia giao kết bất kỳ một hợp đồng nào
nếu họ muốn, mà không ai có quyên ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ
thể có quyền giao kết những hợp đồng mà được pháp luật quy định cụ thể cũng như
những hợp đồng khác dù rằng pháp luật chưa quy định. Tuy nhiên, sự tự do đó phải
nằm trong một khuân khổ nhất định. Bên cạnh, việc chú ý đến quyền lợi của mình,
các chủ thể phải hướng đến việc bảo đảm quyền lợi của người khác cũng như lợi ích
của toàn xã hội. Vì vậy, sự tự do của mỗi chủ thể phải “ không trái pháp luật, đạo
đức xã hội”.
Trong xã xã hội chủ nghĩa, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không cho phép
các cá nhân được tự do ý chí tuyệt đối để biến các hợp đồng thành phương tiện bóc
lột.
- Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng.
Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quy luật giá trị khi thiết lập các quan hệ
trao đổi phải bình đẳng. không ai được lấy lý do là khác biệt về thành phần xã hội,
dân tộc, giới tính, tôn giáo, hoàn cảnh kinh tế… để làm mất đi cái bản chất của hợp
đồng là tự nguyện và bình đẳng giao kết. Vì thế muốn xem các chủ thể khi tham gia
giao kêt có thực hiện đúng nguyên tắc này hay không, cần phải dựa vào sự thống
nhất giữa hai phạm trù: Ý chí và sự bày tỏ ý chí. Ý chí là sự mong muốn chủ quan
bên trong của mỗi chủ thể nó phải được bày tỏ ra bên ngoài thông qua một hình
thức nhất định. Ý chí và sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, chúng luôn quan
hệ mật thiết và gắn bó với nhau.
Ý chí tự nguyện chính là sự thống nhất giữa ý muốn chủ quan bên trong và sự
bày tỏ ý chí đó ra bên ngoài và nó được thể hiện rõ trong nội dung của bản hợp
đồng mà người đó đã giao kết. chỉ khi nào hợp đồng là hình thức phản ánh khách
quan, trung thực những mong muốn bên trong của các bên giao kết, thì việc giao kết

đó mới được coi là tự nguyện.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
7
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Như vậy, tất cả các hợp đồng được giao kết do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối hoặc
đe dọa đều là những hợp đồng không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao
kết. Và vì thế hợp đồng được coi là vô hiệu.
 Trình tự giao kết hợp đồng.
Trình tự giao kết hợp đồng là quá trình mà trong đó các bên chủ thể bày tỏ ý chí
với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thỏa thuận trong việc cùng làm xác lập
với nhau những quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Thực chất đó là quá trình mà các
bên mặc cả về những điều khoản trong nội dung của hợp đồng. Quá trình này diễn
ra thông qua hai giai đoạn:
- Đề nghị giao kết hợp đồng.
Khi một người muốn thiết lập một quan hệ hợp đồng thì ý muốn đó phải được
thể hiện ra bên ngoài bằng những hành vi cụ thể, nhất định. Chỉ có như vậy đối tác
mới nhận biết được ý muốn của họ và từ đó mới có thể đi đến việc giao kết hợp
đồng. Đề nghị khi giao kết hợp đồng là việc một bên biểu lộ ý chí của mình trước
người khác bằng cách bày tỏ cho phía bên kia biết ý muốn tham gia giao kết với
người đó một hợp đồng.
Thấy được người mà mình muốn giao kết hợp đồng với họ có thể hình dung hợp
đồng đó như thế nào, người đề nghị phải đưa ra những điều khoản hợp đồng một
cách cụ thể và rõ ràng. Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều
cách khác nhau. Người đề nghị có thể trực tiếp trao đổi với người được đề nghị
hoặc trao đổi thông qua điện thoại… trong những trường hợp này thì thời hạn trả lời
do hai bên ấn định. Ngoài ra đề nghị còn có thể thực hiện bằng cách chuyển công
văn, thư báo bưu điện hay fax, email…
Để đảm bảo quyền lợi cho người được đề nghị. Điều 390 BLDS quy định:
“trong trường hợp đề nghị giao kết có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại
giao kết với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi

thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có
thiệt hại phát sinh”.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
8
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Như vậy, lời đề nghị mặc dù nó chưa phải là một hợp đồng nhưng ít nhiều nó có
tính chất ràng buộc đối với người đề nghị. Tuy nhiên bên đề nghị vẫn có thể thay
đổi hoặc rút lại đề nghị trong những trường hợp sau:
• Bên được đề nghị chưa nhận được đề nghị.
• Bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị và
điều kiện đó đã đến.
- Chấp nhận giao kết hợp đồng.
Là việc bên nhận được lời đề nghị và đồng ý tiến hành giao kết hợp đồng với
người đã đề nghị. Về nguyên tắc, bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận
giao kết hay không, trong những trường hợp cần thời gian để cân nhắc thì bên được
đề nghị phải trả lời trong thời gian đó. Nếu sau thời gian đó bên được đề nghị mới
trả lời thì khi đó lại xác định là có lời đề nghị mới của bên chậm trả lời.
Người đề nghị cũng có thể chấp nhận tất cả nội dung của người đề nghị hoặc
thay đổi khi đó lại hình thành một lời đề nghị mới và quá trình này diễn ra cho tới
khi nào các bên thỏa thuận xong và đi đến thống nhất giao kết hợp đồng hoặc hủy
bỏ lời đề nghị.
Điều kiện có hiệu lực hợp đồng là điều kiện về chủ thể phải có năng lực hành vi
và thỏa thỏa mãn các nguyên tắc khi giao kết hợp đồng.
1.1.2.2 Thực hiện hợp đồng.
Thực hiện hợp đồng là việc các bên tiến hành các hành vi mà mỗi bên tham gia
hợp đồng đều phải thực hiện nhằm đáp ứng những quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.
 Nguyên tắc thực hiện hợp đồng.
Theo quy định tại Điều 412 BLDS có ba nguyên tắc thực hiện hợp đồng:
- Thực hiện hợp đồng, đúng đối tượng, đúng chất lượng, số lượng, chủng loại,
thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác;

- Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các
bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau;
- Không xâm phạm tới lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
9
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Theo các nguyên tắc này các bên phải thực hiện đúng, đầy đủ các điều khoản
trong hợp đồng một cách thật thà ngay thẳng. Trung thực trong nghĩa vụ là việc các
bên không lừa dối nhau, thực trạng nghĩa vụ như thế nào thì các bên phải thực hiện
như vậy. các bên phải cộng tác với nhau nói rõ cho nhau hiểu cặn kẽ về đối tượng
thực hiện trong hợp đồng.
 Nội dung thực hiện hợp đồng.
Khi thực hiện hợp đồng, các bên tham gia thực hiện hợp đồng phải thực hiện
đúng, đầy đủ các điều khoản về đối tượng, địa điểm, thời hạn, phương thức và các
thỏa thuận khác mà nội dung hợp đồng đã xác định. Ngoài ra để điều chỉnh nguy cơ
không thực hiện đúng hợp đồng BLDS đã quy định về các biện pháp buộc thực hiện
hợp đồng như; quyền cầm dữ tài sản đối với bên có quyền, thực hiện hợp đồng có
thỏa thuận về phạt hợp đồng…
1.1.2.3. sửa đổi và chấm dứt hợp đồng.
 Sửa đổi hợp đồng.
Sửa đổi hợp đồng là việc các bên đã tham gia giao kết hợp đồng bằng ý chí
tự nguyện của mình thỏa thuận với nhau để phủ nhận (làm thay đổi) một số điều
khoản trong nội dung của hợp đồng đã giao kết.
Sau khi sửa đổi các bên thực hiện hợp đồng cũ những phần không sửa đổi;
đồng thời cùng nhau giải quyết hậu quả khác của việc sửa đổi hợp đồng.
Hình thức ghi nhận việc sửa đổi hợp đồng phải phù hợp với hình thức của
hợp đồng đã giao kết đối với những “hợp đồng được thành lập bằng văn bản, được
công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép, thì việc sửa đổi hợp đồng cũng
phải tuân theo hình thức đó”. Còn các hình thức hợp đồng khác do các bên thỏa

thuận khi sửa đổi.
 Chấm dứt hợp đồng.
- Khi hợp đồng đã hoàn thành.
Khi các bên tham gia hợp đồng đã thực hiện toàn bộ nội dung của hợp đồng
và do vậy, mỗi bên đều đáp ứng được quyền và nghĩa vụ của mình thì hợp đồng coi
như đã hoàn thành.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
10
Báo cáo thực tập chuyên ngành
- hợp đồng được chấm dứt theo thỏa thuận của các bên.
Trong những trường hợp có nội dung nào đó không có khả năng thực hiện
hợp đồng hoặc nếu hợp đồng được thực hiện sẽ gây tổn thất lớn về vật chất cho một
hoặc cả hai bên, thì các bên có thể thỏa thuận chấm rứt hợp đồng. hợp đồng đã giao
kết coi là chấm rứt khi các bên đạt được sự thỏa thuận nói trên.
- hợp đồng sẽ chấm dứt khi chủ thể giao kết hợp đồng không còn mà hợp
đồng phải do chính chủ thể đó thực hiện.
Phải thấy rằng không phải trong mọi trường hợp khi chủ thể của hợp đồng
không tồn tại thì hợp đồng đều được coi là chấm dứt. Theo căn cứ trên thì chỉ
những hợp đồng nào mà do tính chất của nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng các bên
thỏa thuận là người có nghĩa vụ phải trực tiếp thực hiện hoặc chỉ người có quyền
mới được hưởng lợi ích phát sinh từ hợp đồng thì khi chủ thể của hợp đồng không
tồn tại thì hợp đồng đó chấm dứt.
- Hợp đồng chấm dứt khi một bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng.
Hợp đồng có thể chấm dứt theo các căn cứ quy định tài Điều 426 BLDS.
Khi có một bên đơn phương vi phạm hợp đồng, thì bên kia có quyền đơn phương
đình chỉ hợp đồng. Khi đơn phương đình chỉ hợp đồng thì phần hợp đồng chưa thực
hiện sẽ chấm dứt. Bên có nghĩa vụ không phải thực hiện nghĩa vụ của mình nhưng
các bên phải thanh toán phần hợp đồng đã thực hiện với nhau.
- Hợp đồng chấm dứt khi một bên hủy bỏ hợp đồng.
Để nâng cao tính kỷ luật trong thực hiện hợp đồng, pháp luật cho phép các

bên trong hợp đồng được thỏa thuận về việc một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng nếu
bên kia vi phạm hợp đồng. Vì vậy, trong những trường hợp đó thì bên bị vi phạm
hợp đồng có quyền đơn phương hủy hợp đồng và yêu cầu bên vi phạm phải bồi
thường thiệt hại. Khi một bên hủy bỏ hợp đồng thì hợp đồng không có hiệu lực từ
thời điểm giao kết, các bên phải hoàn trả cho nhau những tài sản đã nhânh, nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật sẽ phải hoàn trả bằng tiền.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
11
Báo cáo thực tập chuyên ngành
- Hợp đồng không thể thực hiện do đối tượng của hợp đồng không còn và
các bên có thể thỏa thuận đối tượng hợp đồng khác hoặc bồi thường thiệt hại.
Trong trường hơp đối tượng của hợp đồng là một vật đặc định hoặc đơn
chiếc mà do bị mất hoặc tiêu hủy hay vì một lý do nào khác nên vật đó không còn
thì hợp đồng đó đương nhiên được chấm dứt vào thời điểm đối tượng của hợp đồng
không còn. Tuy nhiên, các bên có thể thỏa thuận vẫn duy trì hợp đồng đó bằng cách
thay đối tượng thực hiện hợp đồng không còn bằng một đối tượng khác.
1.1.2.4. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Chế định trách nhiệm do vi phạm hợp đồng nhằm mục đích ngăn ngừa và
hạn chế vi phạm hợp đồng đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của các chủ thể
trong thực hiện hợp đồng. Chế định trách nhiệm hợp đồng chủ trương áp dụng các
biện pháp chế tài đối với hành vi vi phạm hợp đồng dựa trên những căn cứ: có hành
vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra, có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế, có lỗi của bên vi phạm và có các
loại trách nhiệm pháp lý sau:
Buộc thực hiện đúng hợp đồng: là hình thức chế tài, theo đó bên vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng phải tiến tục thực hiện theo yêu cầu của bên bị vi phạm. Hình
thức này đặt ra khi có sự vi phạm về các điều khoản của nội dung của hợp đồng
được thực hiện không đúng như: số lượng, chất lượng hay các yêu cầu kỹ thuật nào
đó để thực hiện hợp đồng…
Phạt hợp đồng: là hình thức chế tài của hợp đồng, theo đó bên vi phạm hợp

đồng phải trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất định do pháp luật quy định
hoặc do các bên thỏa thuận trên cơ sở pháp luật. Chế tài phạt vi phạm hợp đồng có
hai căn cứ là: (i) có hành vi vi phạm hợp đồng và (ii) có lỗi của bên vi phạm hợp
đồng.
Bồi thường thiệt hại: bồi thường thiệt hại là biện pháp nhằm khôi phục, bù
đắp những lợi ích vật chất bị mất của bên bị vi phạm hợp đồng. Do đó, bồi thường
thiệt hại chỉ áp dụng khi có thiệt hại xảy ra dựa trên các căn cứ: có hành vi vi phạm
hợp đồng; có thiệt hại thực tế; hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi trực tiếp gây
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
12
Báo cáo thực tập chuyên ngành
thiệt hại; có lỗi của bên vi phạm (không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm do
pháp luật quy định). Khi áp dụng hình thức bồi thường thiệt hại cần lưu ý mối quan
hệ giữa phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Các bên có thể thỏa thuận về việc vi
phạm chỉ phải nội tiền phạt hợp đồng mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc cả
hai hình thức này.
1.1.2.5. Xử lý tranh chấp hợp đồng.
Trong phạm vi nghiên cứu của mình em chỉ xem xét những tranh chấp phát
sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại. Tức là giữa các tổ chức, các cá nhân
có đăng ký kinh doanh và có mục đích sinh lợi.
Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là những thuật ngữ quen
thuộc trong đời sống kinh tê xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này mới
được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong mấy năm gần đây cùng với sự
nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế.
Điều 29 Bộ Luật Tố Tụng Dân Sự 2004 cũng đã liệt kê các tranh chấp về
kinh doanh, thương mại thuộc thẩm giải quyết của tòa án gồm có:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức kinh doanh với nhau và đều có lợi nhuận, bao gồm: mua hàng hóa;
cung ứng dịch vụ;phân phối; đại diện; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; vận
chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt và đường bộ, đường thủy nội

địa; đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; đầu
tư tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác;
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyênt giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau đều có mục đích lợi nhuận;
- Tranh chấp giữa công ty và thành viên của công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến thành lập, hoạt động, giải thể, sát nhập, hợp
nhất, chia tách, chuyển đổi hình thức của công ty;
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Phương thức giải quyết các tranh chấp này trên thế giới cũng như ở Việt Nam, tồn
tại bốn phương thức giải quyết sau:
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
13
Báo cáo thực tập chuyên ngành
• Thương lượng;
• Hòa giải;
• Tổ chức trọng tài;
• Tòa án.
Thương lượng, hòa giải và trọng tài là các phương thức giải quyết tranh chấp
không mang ý chí quyền lực nhà nước (không nhân danh quyền lực nhà nước như
phán quyết của tòa án) mà chủ yếu được giải quyết trên nền tảng ý chí tự định đoạt
của các bên tranh chấp hoặc phán quyết của bên thứ ba độc lập (được các bên lựa
chọn) theo thủ tục mềm dẻo, linh hoạt.
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên
tranh chấp cùng bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ
tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bên thứ ba nào.
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba
làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải
pháp nhằm loại trừ các tranh chấp đã phát sinh.
Giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài thì các bên phải có sự thỏa thuận
về việc đưa tranh chấp ra xét xử bằng trọng tài. Thỏa thuận đó là một điều khoản

riêng biệt được lập ra khi có phát sinh tranh chấp. Các quyết định và phán quyết của
trọng tài có thể được tòa án công nhận và cho thi hành thông qua một thủ tục tư
pháp. Có bốn nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài:
Thứ nhất là, tranh chấp bằng trọng tài, nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp, các bên có thỏa thuận trọng tài. Đây là điều kiện tiên quyết của việc giải quyết
tranh chấp, là việc khác nhau cơ bản giữa việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài với
việc giải quyết tranh chấp tại tòa án.
Thứ hai là, nguyên tắc bảo đảm quyền lựa chọn bằng hình thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài. Các bên tranh chấp có quyền lựa chọn trung tâm trọng tài
hoặc hội đồng trọng tài do các bên thành lập để giải quyết tranh chấp.
Thứ ba, nguyên tắc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp. theo
quy định của pháp lệnh trọng tài thương mại, đối với các vụ tranh chấp giữa các bên
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
14
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Việt Nam thì pháp luật giải quyết tranh chấp là pháp luật Việt Nam. Đối với các vụ
tranh chấp có yếu tố nước ngoài thì pháp luật áp dụng do các bên lựa chọn với điều
kiện việc lựa chọn và áp dụng pháp luật nước ngoài cũng như các tập quán thương
mại quốc tế không được trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Trong
trường hợp mà điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia có quy định khác với pháp
luật quốc gia của Việt Nam thì áp dụng điều ước quốc tế đó.
Thứ tư, nguyên tắc giải quyết tranh chấp, trọng tài viên phải độc lập, khách
quan, vô tư phải căn cứ vào pháp luật và tôn trọng thỏa thuận của các bên.
Đối với những tranh chấp xử lý tại tòa án thì các bên có quyền lựa chọnt tòa
án theo khu vực hoặc theo nơi cư trú của nguyên đơn hoặc bị đơn hay nơi xảy ra
tranh chấp với những tranh chấp phát sinh ở trong nước. Ngoài ra, đối với những
tranh chấp có yếu tố nước ngoài thì các bên phải thỏa thuận về luật áp dụng tại một
quốc gia nào đó thì theo thủ tục tố tụng của quốc gia đó, thường thì tranh chấp có
yếu tố nước ngoài được áp dụng theo nguyên tắc pháp luật có liên quan gần nhất
hoặc ở nước thứ ba nơi xảy ra tranh chấp.

1.2. Hợp đồng xây dựng những vấn đề lý luận.
1.2.1. Khái niệm hợp đồng xây dựng.
Hợp đồng trong họat động xây dựng được xác lập cho các công việc lập quy
hoạch xây dựng, lập dự án đầu tư xây dựng công trình, khảo sát xây dựng, thiết kế
công trình, giám sát, thi công xây dựng công trình, quản lý dự án xây dựng công
trình và các công việc khác trong họat động xây dựng.
Hợp đồng xây dựng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa bên giao thầu và bên
nhận thầu để thực hiện một số công việc hay toàn bộ công việc trong hoạt động xây
dựng.
- Hợp đồng xây dựng là sự thỏa thuận bằng văn bản:
- Hợp đồng xây dựng là hành vi pháp lý ràng buộc về quyền và nghĩa vụ của
các bên tham gia hợp đồng:
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
15
Báo cáo thực tập chuyên ngành
1.2.2. Các loại hợp đồng xây dựng.
Tùy theo quy mô, tính chất của công trình, loại công việc, các mối quan hệ
của các bên, hợp đồng xây dựng có nhiều loại với nội dung khác nhau, cụ thể:
- Hợp đồng tư vấn:
- hợp đồng thi công xây dựng.
- Hợp đồng tổng thầu xây dựng.
Hợp đồng tư vấn:là hợp đồng được ký giữa các bên giao thầu và Bên nhận
thầu để thực hiện các công việc tư vấn như: lập quy hoạch xây dựng; lập dự án đầu
tư xây dựng công trình; quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình; khảo sát xây
dựng; thiết kế xây dựng công trình; lựa chọn nhà thầu; giám sát thi công xây dựng
công trình; thẩm tra thiết kế, tổng dự toán, dự toán và các hoạt động tư vấn khác có
liên quan đến xây dựng công trình.
Hợp đồng thi công xây dựng: được lý giữa Bên giao thầu và Bên nhận thầu
để thực hiện việc thi công xây dựng công trình, hạng mục công trình hoặc phần việc
xây dựng theo thiết kế, dự toán xây dựng công trình.

Hợp đồng tổng thầu xây dựng: được ký giữa chủ đầu tư với một nhà thầu
hoặc một liên doanh nhà thầu (gọi chung là tổng thầu) để thực hiện loại công việc,
một số loại công việc hoặc toàn bộ các công việc của dự án đầu tư xây dựng công
trình, như: thiết kê; thi công; thiết kế và thi công xây dựng công trình; thiết kế cung
ứng vật tư thiết bị, thi công xây dựng công trình (hợp đồng tổng thầu EPC); lập dự
án, thiết kế cung ứng vật tư thiết bị, thi công xây dựng công trình (hợp đồng chìa
kháo trao tay).
Hồ sơ hợp đồng bao gồm: hợp đồng và các tài liệu kèm theo của hợp đồng.
Các tài liệu kèm theo của hợp đồng xây dựng là bộ phận không thể tách rời của hợp
đồng. Tùy theo quy mô, tính chất của công việc và hình thức lựa chọn nhà thầu thực
hiện, tài liệu kèm theo hợp đồng có thể bao gồm toàn bộ hoặc một phần các nội
dung sau:
- Thông báo trúng thầu hoặc văn bản chỉ định thầu;
- Điều kiện riêng và điều kiện chung của hợp đồng;
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
16
Báo cáo thực tập chuyên ngành
- Đề xuất của nhà thầu;
- Các chỉ dẫn kỹ thuật;
- Các bản vẽ thiết kế;
- Các sửa đổi, bổ sung bằng văn bản, các bảng, biểu;
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đối với tiền tạm ứng và các bảo lãnh
khác nếu có;
- Các biên bản đàm phán hợp đồng;
- Các điều kiện khác có liên quan.
1.2.3. Nguyên tắc xây dựng hợp đồng.
- Hợp đồng phải phù hợp với những quy định của Luật xây dựng, Luật đấu
thầu và những quy định khác của pháp luật về hợp đồng.
- Trường hợp nhà thầu liên danh, hợp đồng ký với chủ đầu tư phải có chữ ký
của tất cả các thành viên tham gia liên danh.

- Giá trị hợp đồng không vượt giá trúng thầu, trừ trường hợp quy định tại
khoản 4 điều 46 của Luật đấu thầu.
- Trường hợp phát sinh thêm khối lượng công việc hoặc số lượng hàng hóa
nằm ngoài phạm vi hồ sơ mời thầu dẫn đến giá trị hợp đồng vượt giá trúng thầu thì
phải được người có thẩm quyền xem xét quyết định.
1.2.4. Các hình thức hợp đồng trong hoạt động xây dựng.
Có bốn hình thức hợp đồng trong hoạt động xây dựng: hình thức trọn gói;
hình thức theo đơn giá; hình thức theo thời gian và hình thức theo tỷ lệ phần trăm.
 Hình thức trọn gói
Hình thức trọn gói được áp dụng cho những phần công việc xác định rõ về
khối lượng và số lượng.
Giá hợp đồng không thay đổi trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng. Chủ
đầu tư thanh toán cho nhà thầu đúng giá ghi trong hợp đồng khi nhà thầu hoàn
thành nghĩa vụ theo hợp đồng.
 Hình thức theo đơn giá
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
17
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Hình thức theo đơn giá được áp dụng cho những phần công việc chưa đủ
điều kiện xác định chính xác về khối lượng và số lượng.
Chủ đầu tư thanh toán cho nhà thầu theo khối lượng, số lượng thực tế đã thực
hiện trên cơ sở đơn giá trong hợp đồng hoặc đơn giá đã được chấp nhận điều chỉnh
theo quy định sau:
- Trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách về thuế, tiền lương ảnh hưởng
trực tiếp đến giá trị hợp đồng thì được điều chỉnh theo các chính sách này kể từ thời
điểm chính sách đó có hiệu lực.
- Trường hợp có khối lượng, số lượng tăng hoặc giảm trong quá trình thực
hiện hợp đồng nhưng trong phạm vi cho phép của hồ sơ mời thầu và không do lỗi
của nhà thầu gây ra thì việc tính giá trị tăng hoặc giảm nói trên căn cứ vào đơn giá
của hợp đồng.

- Trường hợp đơn giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư, thiết bị đã nêu trong
hợp đồng mà Nhà nước kiểm soát có biến động lớn ảnh hưởng trực tiếp đến việc
thực hiện hợp đồng thì phải báo cáo cho người có thẩm quyền xem xét, quyết định.
- Việc điều chỉnh hợp đồng chỉ áp dụng trong thời gian thực hiện hợp đồng
theo hợp đồng đã ký và phải thực hiện được người có thẩm quyền xem xét, quyết
định. Giá trị điều chỉnh hợp đồng không vượt quá dự toán, tổng dự toán hoặc giá
gói thầu trong kế hoạch đấu thầu được duyệt; trường hợp vượt phải được người có
thẩm quyền xem xét, quyết định.
- Trường hợp có phát sinh hợp lý những công việc ngoài phạm vi hồ sơ mời
thầu thì chủ đầu tư thỏa thuận với nhà thầu đã ký hợp đồng để tính toán giá trị các
công việc bổ sung và báo cóa người có thâmt quyền xem xét, quyết định. Trường
hợp thỏa thuận không thành thì nội dung công việc phát sinh đó hình thành một gói
thầu mới và tiến hành lựa chọn lại nhà thầu theo quy định của pháp luật.
 Hình thức theo thời gian
Hình thức theo thời gian được áp dụng cho các phần công việc nghiên cứu
phức tạp, tư vấn thiết kế, giám sát xây dựng, đào tạo, huấn luyện.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
18
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Giá hợp đồng là không thay đổi trong thời gian thực hiện hợp đồng. Giá hợp
đồng được tính theo phần trăm giá trị của công trình hoặc có khối lượng của công
việc. Chủ đầu tư thanh toán cho Nhà thầu cho đến khi nhà thầu hoàn thành các
nghĩa vụ theo hợp đồng bằng đúng giá trị hợp đồng.
 Hình thức theo tỷ lệ phần trăm
Hình thức theo tỷ lệ phần trăm được áp dụng cho các công việc tư vấn thông
thường, đơn giản.
Giá trị hợp đồng là không thay đổi trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng.
Giá trị thực hiện hợp đồng được tính theo phần trăm giá trị của công trình hoặc khối
lượng công việc. Chủ đầu tư thanh toán cho nhà thầu cho đến khi nhà thầu hoàn
thành các nghĩa vụ theo đúng hợp đồng bằng đúng giá trị hợp đồng.

 Nhiều bộ phận hợp đồng trong một hợp đồng chung
Trường hợp một hợp đồng gồm một hoặc các hình thức hợp đồng bộ phận
thuộc các hình thức hợp đồng trọn gói; hình thức theo đơn giá; hình thức theo thời
gian; hình thức theo tỷ lệ phần trăm thì áp dụng nguyên tắc và cách thức thanh toán
được quy định tại các mục trên.
1.2.5. Nội dung của hợp đồng xây dựng.
Nội dung của hợp đồng xây dựng là các công việc phải thực hiện:
- chất lượng và yêu cầu kỹ thuật khác của công việc.
- Thời gian và tiến độ thực hiện.
- Điều kiện nghiệm thu, bàn giao.
- Giá cả, phương thức thanh toán.
- Thời hạn bảo hành.
- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
- Các thỏa thuận khác theo từng loại hợp đồng.
- Ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
19
Báo cáo thực tập chuyên ngành
1.2.5.1. Chất lượng, chủng loại, quy cách, tính đồng bộ của sản phẩm hoặc
yêu cầu kỹ thuật khác của công việc.
Những thỏa thuận về chất lượng sản phẩm, công việc trong hợp đồng xây
dựng phải phù hợp với quy định về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật của Nhà nước
(Tiêu chuẩn Việt Nam: TCVN, Tiêu chuẩn ngành: TCN) hoặc tiêu chuẩn chất lượng
của đơn vị đã đăng ký tại cơ quan tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng theo quy định
về đăng ký chất lượng và nhãn hiệu hàng hóa. Đối với sản phẩm mới đăng ký tiêu
chuẩn chất lượng hoặc công việc không thể hiện được bằng các tiêu chuẩn chất
lượng cụ thể thì nhất thiết phải ghi rõ trong hợp đồng kinh tế sự thỏa thuận về chất
lượng sản phẩm, hàng hóa hoặc yêu cầu kỹ thuật của công việc.
1.2.5.2. Giá cả và phương thức thanh toán.
Các bên có quyền:

- Thỏa thuận về giá và ghi cụ thể vào trong hợp đồng đó;
- Thỏa thuận về nguyên tắc, thủ tục để thực hiện việc thay đổi giá khi có sự
biến động giá cả thị trường trong quá trình thực hiện hợp đồng.
- Thay đổi giá trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Đối với sản phẩm, vật tư, thiết bị…do cơ quan nhà nước có thẩm quyền của
Nhà nước đã quy định giá hoặc khung giá thì giá thỏa thuận trong hợp đồng phải
phù hợp với sự quy định đó. Không một bên nào có quyền gò ép giá hoặc nâng giá
quá mức quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Phương thức thanh toán tiền trong hợp đồng do các bên thoả thuận nhưng
không được trái với các quy định hiện hành của pháp luật. Nếu trong hợp đồng
không ghi rõ phương thức thanh toán thì các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận
được thì đưa ra trọng tài kinh tế giải quyết.
1.2.5.3. Điều kiện nghiệm thu bàn giao
Các bên có quyền thỏa thuận lịch nghiệm thu, bàn giao và phương thức giao
nhận sản phẩm phù hợp với điều kiện thực tế, thuận tiện và có lợi cho các bên.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
20
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau thì địa điểm và
phương thức giao nhận phải theo các quy định của pháp luật đối với từng loại hợp
đồng xây dựng.
Nếu trong hợp đồng không thỏa thuận của các bên và không có quy định của
pháp luật đối với loại hợp đồng đó, thì địa điểm giao nhận là kho chính của bên giao
hàng, bán hàng và trên phương tiện vận chuyển của bên đặt hàng, mua hàng.
1.2.5.4. Thời hạn bảo hành
Những quy định hiện hành của Nhà nước về bảo hành sản phẩm, hàng hóa,
công việc phải tuân thủ theo quy định khi ký kết hợp đồng.
Đối với những sản phẩm, hàng hóa công việc chưa có quy định của nhà nước
về bảo hành, các bên được quyền thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng về phạm vi,
nội dung và phạm vi bảo hành.

Các bên có quyền thỏa thuận những quy định về sửa chữa hoặc sử lý các sai
sót khi có vi phạm chất lượng sản phẩm, hàng hóa, công việc trong thời gian bảo
hành.
Trong thời hạn bảo hành, nếu bên nhận sản phẩm, hàng hóa phát hiện có sai
sót về chất lượng thì thông báo ngay cho bên kia biết để cùng nhau xác minh. Việc
xác minh sai sót về chất lượng phải được tiến hành không chậm quá 15 ngày kể từ
ngày nhận được thông báo. Việc xác minh phải được lập thành biên bản.
Trong thời hạn mười năm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu bên
nhận thông báo không trả lời thì coi như đã chấp nhận có sai sót.
Bên bảo hành có nghĩa vụ phải bảo hành các sai sót về chất lượng. Các bên
có quyền thỏa thuận thay thế việc sửa chữa sai sót bằng cách giảm giá hoặc đổi lấy
sản phẩm mới, hàng hóa khác.
Nếu sai sót không được sửa chữa hoặc việc sửa chữa kéo dài dẫn đến việc
sản phẩm, hàng hóa không được sử dụng đúng theo mục đích của hợp đồng thì bên
bị vi phạm có quyền đòi phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại như trường
hợp không thực hiện hợp đồng.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
21
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Trong thời hạn bảo hành bắt buộc theo quy định của pháp luật nếu xảy ra
thiệt hại do chất lượng sản phẩm, hàng hóa không đúng theo như thỏa thuận trong
hợp đồng thì bên vi phạm phải bồi thường cho bên bị vi phạm.
1.2.5.5. Các thỏa thuận khác
Các bên có quyền đưa vào hợp đồng kinh tế những thỏa thuận không trái
pháp luật.
1.2.5.6. Các phụ lục kèm theo hợp đồng
Các bên có quyền ký các bản phụ lục hợp đồng để chi tiết hóa và cụ thể hóa
các điều khoản của hợp đồng. Nội dung của phụ lục hợp đồng không trái với nội
dung của hợp đồng đã ký.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng xây dựng, các bên có quyền ký biên bản

bổ sung những điều mới thỏa thuận vào hợp đồng đã ký. Biên bản bổ sung có giá trị
pháp lý như hợp đồng đã ký.
1.2.6. Đảm bảo và các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng xây dựng.
 Đảm bảo thực hiện hợp đồng xây dựng
Nhà thầu trúng thầu phải đảm bảo thực hiện hợp đồng trước khi hợp đồng có
hiệu lực trừ lĩnh vực đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn và hình thức tự thực hiện:
Giá trị đảm bảo thực hiện hợp đồng được quy định trong hồ sơ mời thầu và
tối đa bằng 10% giá trị của hợp đồng; trường hợp để đề phòng rủi ro cao thì giá trị
để đảm bảo thực hiện hợp đồng phải cao hơn nhưng không được quá 30% giá trị
hợp đồng và phải được người có thẩm quyền cho phép;
Thời gian có hiệu lực của đảm bảo thực hiện hợp đồng phải kéo dài cho đến
khi thực hiện nghĩa vụ bảo hành (nếu có);
Nhà thầu không được nhận lại đảm bảo thực hiên hợp đồng trong trường hợp
từ chối thực hiện hợp đồng sau khi hợp đồng có hiệu lực.
 Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng xây dựng
- Thế chấp tài sản là dùng số động sản, bất động sản hoặc giá trị tài sản khác
thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng đã ký kết.
Việc thế chấp tài sản phải được làm thành văn bản riêng có sự xác nhận của cơ quan
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
22
Báo cáo thực tập chuyên ngành
công chứng hoặc cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh (trường hợp không có
cơ quan công chứng ). Người thế chấp tài sản có nghĩa vụ đảm bảo nguyên giá trị
tài sản thế chấp; không được chuyển dịch quyền sở hữu hoặc tự động chuyển giao
tài sản đó cho người khác trong thời gian văn bản thế chấp còn có hiệu lực.;
- Cầm cố là trao bất động sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người cùng
quan hệ hợp đồng giữ để làm tin và đảm bảo tài sản trong trường hợp vi phạm hợp
đồng đã ký kết. việc cầm cố phải làm thành văn bản riêng có xác nhận của cơ quan
công chứng. Người cầm cố có nghĩa vụ phải giữ nguyên giá trị tài sản vật cầm cố;
không được chuyển dịch sở hữu vật cầm cố cho người khác trong thời gian văn bản

cầm cố còn có hiệu lực;
- bảo lãnh tài sản là sự đảm bảo tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận
bảo lãnh để chịu trách nhiệm tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi
phạm hợp đồng đã ký. Người nhận bảo lãnh phải có tài sản khôn ít hơn số tài sản
mà người đó nhận bảo lãnh.
Việc bảo lãnh tài sản được làm thành văn bản có sự xác nhận về tài sản của
ngân hàng nơi người bảo lãnh giao dịch và cơ quan công chứng.
 Bảo hành
Hợp đồng có nội dung mua sắm hàng hóa, xây lắp thì phải quy định về bảo
hành. Thời hạn bảo hành, mức tiền bảo hành và nội dung khác về bảo hành được
quy định trong hợp đồng phải căn cứ theo quy định của pháp luật.
Chính phủ quy định cụ thể về bảo hành đối với từng nội dung về mua sắm
hàng hóa, xây lắp trong hợp đồng.
1.2.7. Điều chỉnh hợp đồng trong hoạt động xây dựng
 Nguyên tắc điều chỉnh hợp đồng
Hợp đồng trong hoạt động xây dựng chỉ được điều chỉnh khi người quyết
định đầu tư cho phép trong các trường hợp sau đây:
- Khi có sự thay đổi của dự án đầu tư xây dựng công trình;
- Khi nhà nước thay đổi chính sách có liên quan;
- Các trường hợp bất khả kháng.
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
23
Báo cáo thực tập chuyên ngành
Khi điều chỉnh hợp đồng xây dựng các bên phải sửa đổi bổ sung hợp đồng
sau khi được người quyết định đầu tư cho phép.
Người cho phép điều chỉnh hợp đồng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
về quyết đinh của mình và bồi thường thiệt hại do hậu quả của quyết định gây ra.
 Nội dung cụ thể việc điều chỉnh hợp đồng
Việc điều chỉnh hợp đồng chỉ áp dụng đối với hình thức hợp đồng theo đơn
giá, hình thức hợp đồng theo thời gian và được thực hiện theo quy định sau:

- Trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách về thuế, tiền lương ảnh hưởng
trực tiếp đến giá trị hợp đồng thì được điều chỉnh theo các chính sách này kể từ thời
điểm chính sách đó có hiệu lực.
- Trường hợp có khối lượng, số lượng tăng hoặc giảm trong quá trình thực
hiện hợp đồng nhưng trong phạm vi cho phép của hồ sơ mời thầu và không do lỗi
của nhà thầu gây ra thì việc tính giá trị tăng hoặc giảm nói trên căn cứ vào đơn giá
của hợp đồng.
- Trường hợp đơn giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật tư, thiết bị đã nêu trong
hợp đồng mà Nhà nước kiểm soát có biến động lớn ảnh hưởng trực tiếp đến việc
thực hiện hợp đồng thì phải báo cáo cho người có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Việc điều chỉnh hợp đồng chỉ áp dụng trong thời gian thực hiện hợp đồng đã
ký và được người có thẩm quyền xem xét, quyết định. Giá trị của hợp đồng không
vượt quá giá dự toán, tổng dự toán hoặc giá gói thầu trong kế hoặch đấu thầu được
duyệt.
1.2.8. Thực hiện, đình chỉ, thay đổi, thanh lý hợp đồng trong hoạt động xây
dựng.
1.2.8.1. Thực hiện hợp đồng xây dựng.
Các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ cam kết trong hợp đồng trên
tinh thần hợp tác, tôn trọng lợi ích của nhau.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu một bên gặp khó khăn có thể dẫn
đến vi phạm hợp đồng thì phải báo ngay cho bên kia biết, đồng thời phải tìm mọi
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
24
Báo cáo thực tập chuyên ngành
biện pháp khắc phục. Bên nhận thông báo, tùy theo khả năng của mình góp phần
khắc phục khó khăn đó và tìm mọi biện pháp hạn chế những thiệt hại có thể xảy ra.
1.2.8.2. Thay đổi hợp đồng xây dựng
Khi một bên ký kết hợp đồng phải chuyển giao toàn bộ hay từng phần nhiệm
vụ, mà không làm đẩy thủ tục chuyển giao hợp đồng theo quy định của pháp luật về
hợp đồng, dẫn tới hợp đồng đó không thực hiện được hoặc thực hiện không đầy đủ

thì:
- Nếu đơn vị đó không giải thể thì họ phải chịu toàn bộ trách nhiệm tài sản
giống như họ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ.
- Nếu chủ thể đó không tồn tại, thì cơ quan ra quyết định giải thể phải giải quyết
hậu quả của việc hợp đồng đó không được thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ.
Khi một bên ký hợp đồng giải thể mà không báo cho bên kia biết thì:
- Cơ quan ra quyết định giải thể phải giải quyết hậu quả của việc không
thanh lý hợp đồng đã bị đình chỉ của chủ thể giải thể.
- Đại diện của tổ chức đã ký hoặc ủy quyền cho người khác đã ký hợp đồng
phải chịu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật.
1.2.8.3. Đình Chỉ hợp đồng trong hoạt động xây dựng
Khi một bên thừa nhận hoặc đã có kết luận của trọng tài kinh tế là có vi
phạm hợp đồng thì bên bị vi phạm có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng đó, nếu
việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không có lợi cho mình. Thông báo đơn phương
đình chỉ thực hiện hợp đồng phải bằng văn bản và gửi cho bên vi phạm hợp đồng
trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày bên vi phạm thừa nhận hoặc có kết luận của
trọng tài kinh tế. Nếu hợp đồng có làm chứng thư hoặc đăng ký thì bên bị vi phạm
phải gửi thông báo đơn phương dình chỉ thực hiện hợp đồng đến cơ quan làm chứng
thư hoặc đăng ký hợp đồng cùng ngày gửi cho bên vi phạm.
1.2.8.4. Thanh lý hợp đồng trong hoạt động xây dựng
Việc thanh lý hợp đồng phải được thực hiện xong trong thời hạn bốn mươi
năm ngày kể từ khi chủ đầu tư và nhà thầu hoàn thành các nghĩa vụ theo hợp đồng;
Ngụy Đình Hùng Luật KD – K45
25

×