Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

thực trạng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đá tự nhiên (đá xây dựng) của công ty tnhh nhật huy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 90 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
o0o
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU ĐÁ TỰ NHIÊN
(ĐÁ XÂY DỰNG) CỦA CÔNG TY TNHH NHẬT HUY
Họ và tên sinh viên
:
HOÀNG THUỲ CHINH
Chuyên ngành
:
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Lớp
:
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Khoá
:
47
Hệ
:
CHÍNH QUY
Giảng viên hướng dẫn
:
Th.S DƯƠNG THỊ NGÂN
HÀ NỘI - 2009
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, với xu thế toàn cầu hoá và quốc tế hoá nền kinh tế, hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng, một quốc
gia mà ngày càng được mở rộng thông qua hoạt động xuất nhập khẩu trên thị trường


thế giới. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế so sánh
của mình trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất
nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và đặc biệt là tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Việt Nam là một nước đang phát triển, có xuất phát điểm thấp nên hoạt
động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và phát
triển kinh tế. Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO và dự định đến năm 2020 cơ
bản trở thành một nước công nghiệp, điều này mang đến nhiều cơ hội cũng như
thách thức cho các doanh nghiệp của Việt Nam, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt
Nam phải năng động, sáng tạo trong hoạt động kinh doanh để khẳng định mình,
đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Hoạt động sản xuất và chế biến đá xây dựng đã có từ rất lâu đời trên đất nước
Việt Nam. Hoạt động sản xuất và chế biến đá xây dựng đi liền và phản ánh từng quá
trình phát triển lịch sử của Việt Nam. Hiện nay, sản xuất và chế biến đá xây dựng
không chỉ phục vụ nhu cầu xây dựng trong nước mà còn phục vụ xuất khẩu. Với
những thị trường xuất khẩu rộng lớn, đá xây dựng xuất khẩu đã mang lại nguồn thu
đáng kể cho quốc gia và tạo công ăn việc làm cho một bộ phận không nhỏ người
dân lao động. Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đá
xây dựng, cũng như là những cơ hội và thách thức khi Việt Nam là thành viên chính
thức của WTO đối với hoạt động xuất khẩu đá xây dựng. Qua quá trình học tập ở
trường và thực tập tại Công ty TNHH Nhật Huy mà lĩnh vực chính của công ty là
kinh doanh xuất khẩu, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và
biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đá tự nhiên (đá xây dựng) của công ty TNHH
Nhật Huy” để làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
2
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
Đề tài gồm có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp ở nước
ta trong cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu mặt hàng đá xây dựng của công ty TNHH Nhật Huy.

Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đá xây dựng của công ty
TNHH Nhật Huy.
Hà Nội, tháng 5 năm 2009.
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
3
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu hàng hóa của
các doanh nghiệp ở nước ta
1.1. Nội dung của xuất khẩu hàng hoá ở doanh nghiệp thương mại
1.1.1. Điều tra, nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Điều tra, nghiên cứu thị trường là khâu không thể thiếu được đối với bất kỳ
doanh nghiệp nào muốn kinh doanh trên thị trường thế giới. Điều tra, nghiên cứu thị
trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích thông
tin số liệu đó để rút ra kết luận về thực trạng, xu hướng vận động của thị trường.
Nội dung chính của điều tra, nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập,
duy trì, mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước:
Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp những thông tin về quy mô, cơ
cấu, sự vận động của thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường như môi
trường kinh tế, môi trường chính trị – luật pháp, khoa học công nghệ, môi trường
văn hoá xã hội, môi trường sinh thái.
Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những thông tin về tập quán mua bán,
thói quen tiêu dùng, các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người mua.
Nghiên cứu thị trường gồm hai phương pháp chủ yếu: nghiên cứu tại bàn và
nghiên cứu tại hiện trường. Nghiên cứu thị trường bao gồm:
1.1.1.1. Lựa chọn thị trường xuất khẩu
Các nước khác nhau có nhu cầu, yêu cầu rất nhau về mỗi loại hàng hoá, việc
lựa chọn thị trường xuất khẩu tốn nhiều thời gian, công sức mới đưa ra được quyết
định đúng đắn, khả thi. Khi nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp cần chú ý:
- Quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường và các nhân tố làm thay đổi dung
lượng của thị trường.

- Biến động giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới cũng như giá nguồn hàng
cung cấp trong nước.
- Thị trường luôn biến động, thay đổi vì vậy công việc nghiên cứu thị trường phải
diễn ra thường xuyên, liên tục.
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
4
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
1.1.1.2. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu
Mục đích của lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là xác định mặt hàng phù hợp với
năng lực, khả năng của công ty, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của thị trường,
mang hiệu quả kinh doanh cho công ty. Đồng thời, đánh giá đúng thực lực của
Công ty, dự báo chính xác những thuận lợi, khó khăn khi tung hàng hóa vào.
Để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu, phải dựa vào nhu cầu và thị hiếu của khách
hàng về chủng loại, số lượng, chất lượng, giá cả hàng hoá trên thị trường xuất khẩu.
Mặt khác, đánh giá khả năng đáp ứng của thị trường trong nước về mặt hàng đó. Để
lựa chọn mặt hàng xuất khẩu cần phải phân tích kỹ tình hình cung sản phẩm trên thị
trường, là toàn bộ khối lượng hàng hoá đã và đang có khả năng bán ra trên thị
trường, cần xem xét đến giá cả trung bình, sự phân bố hàng hoá và tình hình sản
phẩm của công ty đang ở giai đoạn nào trên thị trường. Chú ý đến đối thủ cạnh
tranh: thị phần, khả năng cung ứng, sức mạnh tài chính, kế hoạch sản xuất kinh
doanh và các biện pháp cạnh tranh mà họ sử dụng.
1.1.1.3. Lựa chọn đối tác kinh doanh trong nghiên cứu thị trường
Việc lựa chọn đúng đối tác là điều rất quan trọng để có thể thực hiện thắng
lợi hợp đồng xuất khẩu. Để lựa chọn đối tác kinh doanh người ta thường dựa vào:
- Tình hình sản xuất, kinh doanh của đối tác để thấy được khả năng cung cấp lâu
dài sản phẩm. Các lĩnh vực kinh doanh của đối tác.
- Những quan điểm kinh doanh của đối tác trên thị trường trong nước cũng như
trên thị trường quốc tế. Các mối quan hệ của đối tác trong kinh doanh.
- Khả năng tài chính và cơ sở hạ tầng, khả năng thanh toán của đối tác trong ngắn
hạn đảm bảo hợp đồng được thanh toán đúng thời hạn, sức mạnh về vốn, công nghệ

của đối tác phản ánh sức mạnh trong thoả thuận về giá cả, điều kiện thanh toán.
1.1.2. Xây dựng kế hoạch và phương án xuất khẩu hàng hoá
1.1.2.1. Xây dựng kế hoạch xuất khẩu hàng hoá
Công ty cần đặt ra những mục tiêu, kế hoạch cho từng thời kỳ nhất định,
thống nhất với mục tiêu chiến lược của Công ty. Mục tiêu kế hoạch phải rõ ràng, cụ
thể đối với toàn công ty và đối với từng bộ phận.
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
5
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
Có thể vạch ra các mục tiêu định tính và định lượng. Các mục tiêu định
lượng được coi là chỉ tiêu kế hoạch xuất khẩu, bao gồm: Chỉ tiêu doanh số, chỉ tiêu
doanh thu, chỉ tiêu chi phí, chỉ tiêu lợi nhuận…Công ty cần xây dựng kế hoạch các
công việc cụ thể, rõ ràng để hoàn thành các chỉ tiêu này.
Xây dựng kế hoạch xuất khẩu giúp công ty nắm bắt những cơ hội và giảm
thiểu rủi ro. Việc dự báo chính xác nhu cầu thị trường, từ đó xây dựng lên các kế
hoạch thu mua, bảo quản, dự trữ…sẽ đảm bảo cho xuất khẩu thành công.
1.1.2.2. Xây dựng phương án xuất khẩu hàng hoá
Trên cơ sở kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu thị trường, doanh
nghiệp lập phương án kinh doanh cho mình. Xây dựng phương án kinh doanh gồm:
- Đánh giá tình hình thị trường và các doanh nghiệp, phác hoạ bức tranh tổng quát
về hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức.
- Lựa chọn mặt hàng, điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa chọn này phải
mang tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình thực tế.
- Đề ra mục tiêu cụ thể: bán được bao nhiêu hàng, giá bán lẻ bao nhiêu, thâm nhập
vào thị trường nào…Đề ra biện pháp, công cụ, từng bước thực hiện nhằm đạt được
mục tiêu.
- Đánh giá sơ bộ hiệu quả kinh tế hoạt động kinh doanh qua các chỉ tiêu cơ bản:
Tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu.,,tỷ suất doanh lợi xuất khẩu, điểm hoà vốn xuất
khẩu.
1.1.3. Tổ chức giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá

Giao dịch là sự tiếp xúc giữa các cá nhân để trao đổi thông tin hoặc thoả mãn
một nhu cầu nào đó. Giao dịch kinh doanh là sự tiếp xúc giữa các chủ thể kinh
doanh nhằm trao đổi thông tin về thị trường, hàng hoá, giá cả…
Đàm phán kinh doanh là bàn bạc, thoả thuận giữa hai hay nhiều bên, cùng
nhau nhất trí hoặc thoả hiệp giải quyết vấn đề kinh doanh liên quan đến các bên.
Giao dịch đàm phán trong hoạt động xuất khẩu là một quá trình, diễn ra sự
trao đổi, bàn bạc giữa doanh nghiệp ngoại thương và khách hàng quốc tế về các
điều kiện mua bán hàng hoá nhằm đi đến thoả thuận, nhất trí giữa hai bên.
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
6
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
Trong kinh doanh nói chung và trong kinh doanh quốc tế nói riêng, có thể sử
dụng các phương thức giao dịch, đàm phán sau:
- Giao dịch, đàm phán qua thư tín: Phương thức này thường là sự khởi đầu giúp
cho việc duy trì những giao dịch lâu dài. So với phương thức gặp gỡ trực tiếp, giao
dịch qua thư tín tiết kiệm được chi phí, các quyết định đưa ra thường được cân nhắc
kỹ càng và tranh thủ được nhiều ý kiến của tập thể.
- Giao dịch, đàm phán qua điện thoại: Trao đổi qua điện thoại đảm bảo tính kịp
thời, đúng thời điểm cần thiết trong kinh doanh. Do không có gì làm bằng chứng,
phương thức này chỉ được sử dụng trong những trường hợp cần thiết như sợ bị lỡ cơ
hội kinh doanh hoặc chỉ chờ xác nhận một vài chi tiết của hợp đồng.
- Giao dịch, đàm phán trực tiếp: là giao dịch mà người mua và người bán cùng
thoả thuận, bàn bạc trực tiếp về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương thức
thanh toán…Phương thức đàm phán này đẩy nhanh tốc độ giải quyết những bất
đồng và là lối thoát mở ra cho những cuộc đàm phán qua thư tín, điện thoại đã kéo
dài quá lâu không có kết quả. Phương thức này phù hợp đàm phán ký kết những
hợp đồng lớn.
Việc giao dịch đàm phán tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Hỏi giá: Người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả và các
điều kiện để mua hàng.

Bước 2: Chào hàng: lời đề nghị ký kết hợp đồng với khách hàng. Có hai loại chào
hàng là chào hàng cố định và chào hàng tự do.
Bước 3: Đặt hàng: lời đề nghị ký kết hợp đồng từ phía người mua đưa ra dưới hình
thức đặt hàng.
Bước 4: Hoàn giá: khi nhận được đơn chào hàng, người nhận không chấp nhận
hoàn toàn đơn chào hàng thì họ sẽ đưa ra đề nghị mới thì lời đề nghị này gọi là hoàn
giá.
Bước 5: Chấp nhận: là kết quả của quá trình hoàn giá. Khi đã chấp nhận thì có
nghĩa là hợp đồng đã được xác lập.
Bước 6: Xác nhận: Hai bên sau khi thống nhất với nhau về các điều kiện giao dịch
(nếu cần) có thể ghi lại mọi điều đã thoả thuận gửi bên kia. Đó là văn kiện xác nhận
có cả chữ ký của cả hai bên và mang tính pháp lý.
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
7
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
Sau khi hai bên mua bán tiến hành giao dịch và đàm phán có kết quả, tiến
hành ký kết hợp đồng. Về mặt pháp lý, hợp đồng xuất khẩu là căn cứ pháp luật ràng
buộc trách nhiệm và quyền lợi của các bên. Vì vậy, trước khi ký kết hợp đồng xuất
khẩu, doanh nghiệp phải xem xét kỹ các điều khoản thoả thuận.
1.1.4. Triển khai thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá
Sau khi hợp đồng xuất khẩu được ký kết, doanh nghiệp cần tiến hành triển
khai công việc để thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá đúng những điều khoản
đã quy định trong hợp đồng.
Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu thanh toán bằng L/C (một hình thức
thanh toán phổ biến), doanh nghiệp xuất khẩu phải tiến hành các khâu công việc:
Sơ đồ 1.1: Các khâu công việc để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu
 Kiểm tra thư tín dụng (thanh toán bằng L/C): Sau khi ký hợp đồng, nhà nhập
khẩu nước ngoài sẽ mở L/C tại một ngân hàng có ngân hàng thông báo tại Việt
Nam. Bản chất của thư tín dụng L/C là sự thoả thuận cam kết của ngân hàng với
nhà xuất khẩu. L/C độc lập với hợp đồng xuất khẩu nhưng dựa trên các điều khoản

của hợp đồng xuất khẩu. Ngân hàng chỉ dựa vào L/C mà thanh toán tiền hàng và
việc thực hiện các quy định trong L/C để trả tiền cho nhà xuất khẩu. Vì vậy, nhà
xuất khẩu cần kiểm tra kỹ L/C căn cứ vào hợp đồng. Nếu chưa hợp lý chỗ nào cần
báo lại cho phía đối tác để hai bên thống nhất sửa lại.
 Xin giấy phép xuất khẩu: Giấy phép xuất khẩu là một trong những công cụ
quan trọng để Nhà nước quản lý xuất khẩu. Vì thế, sau khi ký hợp đồng xuất khẩu
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
8
Ký kết hợp
đồng xuất
khẩu
Kiểm tra thư
tín dụng L/C
Xin giấy phép
xuất khẩu
Chuẩn bị
hàng hoá
Uỷ thác để
thuê tàu
Kiểm nghiệm
hàng hoá
Làm thủ tục
hải quan
Giao hàng
lên tàu
Mua bảo hiểm
(nếu có)
Làm thủ tục
thanh toán
Giải quyết

khiếu nại(nếu
có) cocó)
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
doanh nghiệp phải xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá để thực hiện hợp đồng xuất
khẩu.
Theo nghị định 57/CP ngày 31/07/1998: Doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế thành lập theo đúng quy định của pháp luật được xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá theo ngành nghề đã ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sau khi đã
đăng ký mã số tại cục Hải quan tỉnh, thành phố thì không phải xin giấy phép kinh
doanh xuất nhập khẩu.
 Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu: Căn cứ hợp đồng đã ký với khách hàng hoặc
L/C, công việc chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu gồm ba khâu chủ yếu:
- Thu, gom hàng hoá, tập trung thành lô hàng xuất khẩu: Doanh nghiệp xuất khẩu
tổ chức thu gom hàng hoá dưới nhiều hình thức như mua nguyên liệu về gia công,
sản xuất thành hàng xuất khẩu, mua đứt bán đoạn với đơn vị sản xuất, đại lý thu
mua, doanh nghiệp thương mại. Đây là một khâu quan trọng đảm bảo cho doanh
nghiệp thực hiện tốt hợp đồng xuất khẩu theo đúng điều khoản đã quy định trong
hợp đồng.
- Đóng gói bao bì hàng hoá xuất khẩu: Bao bì được đóng gói theo yêu cầu của hợp
đồng phải bảo đảm được phẩm chất của hàng hoá, thuận tiện cho quá trình vận
chuyển bốc xếp hàng hoá, tạo điều kiện cho việc nhận biết hàng hoá.
- Kẻ, vẽ ký mã hiệu hàng hoá xuất khẩu: Ký hiệu bằng số hoặc chữ, hình vẽ được
ghi ở mặt ngoài bao bì thông báo thông tin cần thiết cho việc nhận biết, giao nhận,
bốc dỡ và bảo quản hàng hoá chính xác. Ký mã hiệu phải đảm bảo những nội dung
trên, thông báo cho người nhận hàng đồng thời phải rõ ràng, sáng sủa .
 Thuê tàu (nếu trong điều kiện hợp đồng, doanh nghiệp là người đi thuê tàu):
Việc thuê tàu chở hàng được tiến hành dưạ vào ba căn cứ: Những điều khoản của
hợp đồng mua bán quy định, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải.
 Kiểm nghiệm hàng hoá: Trước khi giao hàng, người xuất khẩu có nghĩa vụ
kiểm tra hàng hóa về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì… Đây là công việc

cần thiết vì quyền lợi của khách hàng được bảo đảm và nâng cao uy tín của doanh
nghiệp. Việc kiểm nghiệm, kiểm định được tiến hành ở hai cấp: Kiểm tra ở cơ sở
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
9
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
do phòng KCS, kiểm tra ở cửa khẩu hải quan kiểm tra lại kết quả kiểm tra lần trước
đó.
 Làm thủ tục hải quan: Hàng hoá qua biên giới quốc gia để xuất khẩu, nhập
khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Làm thủ tục hải quan gồm 3 bước chủ yếu sau:
- Khai báo hải quan: chủ hàng khai báo các chi tiết về hàng hoá lên tờ khai hải
quan. Tờ khai hải quan phải được xuất trình kèm theo với một số chứng từ khác
theo quy định, chủ yếu là giấy phép xuất nhập khẩu, hoá đơn thương mại, phiếu
đóng gói, bảng kê chi tiết, chứng nhận xuất xứ hàng hoá.
- Xuất trình hàng hoá: Hàng hoá xuất nhập khẩu phải được sắp xếp đúng theo thoả
thuận, thuận lợi cho bốc xếp, thuận tiện cho việc kiểm soát. Chủ hàng chịu chi phí
và nhân công về việc mở, đóng và sắp xếp các kiện hàng.
- Thực hiện các quyết định của cục hải quan.
 Giao hàng lên tàu chở hàng: Tuỳ theo thoả thuận về điều kiện cơ sở giao hàng
(theo Incoterms), giao hàng lên phương tiện vận chuyển sẽ thuộc trách nhiệm bên
nào. Nếu hàng hoá được giao bằng đường biển, chủ hàng phải tiến hành các công
việc:
- Lập bản đăng ký hàng chuyên chở căn cứ vào các chi tiết hàng hóa xuất khẩu.
- Xuất trình bản đăng ký hàng hoá chuyên chở cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp
hàng.
- Bố trí phương tiện đưa hàng ra cảng, xếp hàng lên tàu.
- Lấy biên lai thuyền phó và đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển B/L.
Vận đơn đường biển phải là vận đơn hoàn hảo, đã bốc hàng và chuyển nhượng
được. Vận đơn cần phải chuyển về bộ phận kế toán để lập bộ chứng từ thanh toán.
 Mua bảo hiểm: Hàng hoá chuyên chở bằng đường biển thường gặp nhiều rủi
ro, tổn thất. Vì thế, bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm cần thiết, phổ

biến.Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm, bên nào mua bảo hiểm dựa trên: Điều khoản
trong hợp đồng, tính chất hàng hoá, đặc điểm bao bì và phương thức xếp hàng…
 Làm thủ tục thanh toán: thanh toán là khâu trọng tâm, là bước cuối cùng của tất
cả các giao dịch kinh doanh xuất khẩu. Trong thanh toán, doanh nghiệp phải chú ý
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
đến các vấn đề: Đồng tiền thanh toán, tỷ giá thanh toán, thời hạn thanh toán,
phương thức và hình thức thanh toán, điều kiện đảm bảo hối đoái.
Hiện nay, có nhiều phương thức thanh toán nhưng người ta thường sử dụng rộng rãi
hai phương thức thanh toán là thanh toán bằng thư tín dụng L/C và thanh toán bằng
phương thức nhờ thu.
 Giải quyết khiếu nại (nếu có): Trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh doanh
xuất khẩu có thể phát sinh những vấn đề ảnh hưởng đến kết quả thực hiện hợp
đồng. Trong trường hợp đó, hai bên cần trao đổi, thảo luận để tự giải quyết. Nếu
không thành, tiến hành các thủ tục kiện đối tác lên trọng tài kinh tế. Việc khiếu nại
phải tiến hành kịp thời dựa trên căn cứ của các chứng từ và hợp đồng kinh tế.
1.2. Thị trường đá xây dựng và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu đá xây dựng
1.2.1. Thị trường đá xây dựng xuất khẩu
Đá xây dựng ở Việt Nam đã được ra đời trên nghìn năm, bằng bàn tay trí óc
của các nghệ nhân đã khai thác, đục, đẽo, chế tác ra nhiều sản phẩm đá Granite,
cẩm thạch góp phần xây dựng nên nhiều công trình kiến trúc cổ đại. Trong những
năm gần đây đá xây dựng đã dần dần phát triển thành ngành công nghiệp. Từ sản
lượng nhỏ bé 0,2 triệu m
2
vào năm 1990, lên 0,5 triệu m
2
vào năm 1995 và 1,52
triệu m

2
năm 2000, đến nay đã tăng lên 6,5 triệu m
2
tăng gấp 32 lần so với năm
1990.
Tổng quan về thực trạng thị trường đá xây dựng Việt Nam được thể hiện trên
một số bình diện sau:
Thứ nhất, về nguồn hàng xuất khẩu: Nhiều trung tâm khai thác chế biến đá
xây dựng đã hình thành ở các địa phương, nổi bật nhất là tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An,
Bình Định, Khánh Hoà, Phú Yên, miền Đông Nam bộ… Mặt khác, tiềm năng
khoáng sản để sản xuất đá xây dựng của nước ta rất đa dạng phong phú về chủng
loại đá Granite, đá cẩm thạch, đá gabro, đá bazan, đá mabro, thạch anh màu sắc các
loại: màu đỏ, vàng, trắng, hồng, xanh, lục, đen… với trữ lượng rất lớn, theo tài liệu
tìm kiếm thăm dò của 6 vùng: Tây Bắc, Đông Bắc Bắc Bộ, vùng Bắc Trung Bộ,
Nam Trung Bộ và duyên hải miền Trung, miền Đông Nam bộ và Tây Nam Bộ, có
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
11
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
325 mỏ, với trữ lượng tìm kiếm là 37 tỉ m
3
, đến nay chưa có khảo sát đầy đủ, chỉ
khảo sát một số lượng mỏ rất nhỏ do các chủ xí nghiệp khảo sát để khai thác. Dự
kiến trữ lượng có thể khai thác được trên 4 tỉ m
3
. Đây là một trữ lượng đá rất lớn có
thể khai thác, chế biến hàng trăm tỷ m
2
đá xây dựng phục vụ xây dựng đất nước và
xuất khẩu lâu dài.
Thứ hai, về thị trường xuất khẩu: Đá xây dựng của Việt Nam không chỉ lưu

thông trên thị trường nội địa mà còn xuất khẩu ra nước ngoài được thị trường thế
giới ưa chuộng có mặt trên thị trường của 85 nước và vùng lãnh thổ. Trong số 85
nước và vùng lãnh thổ nhập khẩu đá xây dựng của Việt Nam, chỉ có 15 nước có kim
ngạch nhập khẩu trên 1 triệu USD, 22 nước có kim ngạch nhập khẩu trên 100.000
USD, còn hơn 48 thị trường có kim ngạch dưới 100.000 USD. Tổ chức xuất khẩu
của Việt Nam do nhiều đơn vị cùng làm với kim ngạch nhỏ bé, phân tán không có
sức mạnh tổng hợp, sức cạnh tranh còn yếu, chưa đủ sức vào các thị trường lớn.
Các khách hang nhập khẩu đá từ Việt Nam chia làm ba đoạn thị trường. Thị trường
khó tính như Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản…đòi hỏi đá có chất lượng cao, mẫu mã
phong phú và có cách giao dịch chuyên nghiệp. Thị trường tương đối dễ tính như
các nước Trung Đông (Ả Rập, Iran, Irắc, Pakistan…) không đòi hỏi cao về chất
lượng và giá giao dịch cũng thấp hơn. Thị trường trung tính là những thị trường
không đòi hỏi cao như thị trường khó tính nhưng yêu cầu về chủng loại hàng hoá và
cách giao dịch phải đáp ứng tương đối tốt. Về thị trường tiêu thụ đá xây dựng ngày
càng mở rộng theo khuynh hướng “kiến trúc thân thiện với môi trường” dùng các
loại sản phẩm của đá xây dựng trong nhà, sân vườn, hàng nội thất tạo môi trường
mát mẻ đưa cuộc sống gắn liền với thiên nhiên. Cộng với những yếu tố khác lượng
đá xây dựng tiêu thụ nội địa ở nước ta tăng hàng năm từ 25 – 30%, trong tương lai
là thị trường tiêu thụ lớn. Đồng thời, thị trường tiêu thụ đá toàn cầu cũng tăng
trưởng nhanh chóng. Kim ngạch xuất nhập khẩu đá xây dựng toàn cầu tăng nhanh
năm 2007 kim ngạch xuất nhập khẩu toàn cầu khoảng 26 tỉ USD tăng 2 lần so với
năm 2001.
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
12
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
Như phân tích ở trên, Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đá xây
dựng rất phong phú, đa dạng, thị trường tiêu thụ nội địa và nước ngoài rất rộng lớn,
lại có nguồn lao động dồi dào có năng khiếu tiếp thu nhanh chóng kỹ thuật. Đây là
những tiềm năng to lớn để phát triển. Hơn nữa trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập
WTO tham gia vào thị trường toàn cầu không chỉ có xuất khẩu mà còn tạo điều kiện

cho các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu các nguyên liệu đá khối có chất lượng
tốt, màu sắc đẹp mà nước ta không có để về gia công chế biến cung cấp cho thị
trường trong nước, đồng thời xuất khẩu ra nước ngoài, tăng năng lực cạnh tranh của
đá xây dựng Việt Nam trên thị trường Quốc tế.
Thứ ba, về kim ngạch xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt
99.317.547 USD so với năm 2001 tăng gấp 7,2 lần; với tốc độ tăng trưởng bình
quân 38,5% năm. Xuất khẩu lớn nhất là công ty Vicostone.
Kim ngạch xuất khẩu đá xây dựng của Việt Nam trong những năm qua tuy
có tăng trưởng nhanh, nhưng chỉ chiếm tỉ trọng rất nhỏ bé so với kim ngạch xuất
khẩu toàn cầu từ 0,23% lên 0,793%, đá xây dựng Việt Nam đã cắm chân ở một số
thị trường quan trọng để làm bàn đạp cho xuất khẩu. Đây là thị trường rộng mở cho
ngành đá xây dựng Việt Nam thâm nhập trong bối cảnh hội nhập Quốc tế (năm
2006 Trung Quốc xuất khẩu 1,482 triệu tấn đá ốp lát với kim ngạch xuất khẩu 2,869
tỉ USD chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu đá toàn cầu).
Thứ tư, về các doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực xuất khẩu đá, năm
2008 có 510 doanh nghiệp xuất khẩu đá với tổng kim ngạch xuất khẩu 90 triệu
USD, trong đó chỉ có 15 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 triệu USD,
96 doanh nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu trên 100.000 USD còn lại 399 doanh
nghiệp có kim ngạch xuất khẩu dưới 100.000 USD. Hình thành một cách đa dạng
thị trường xuất khẩu đá xây dựng Việt Nam ở một số nước ở Châu Âu, Châu Á,
Châu Mỹ, Châu Úc để hỗ trợ cho nhau bảo đảm tổng kim ngạch xuất khẩu ổn định.
Trong đó, công ty Vicostone sản xuất và xuất khẩu đá xây dựng đạt doanh thu trực
tiếp 16 triệu USD năm 2007 và 22 triệu USD năm 2008, là công ty đi đầu trong lĩnh
vực xuất khẩu đá xây dựng. Các doanh nghiệp lớn này đa phần có các xưởng sản
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
13
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
xuất ở một số địa phương có nguồn cung cấp dồi dào như Thanh Hoá, Nghệ An,
Bình Định, Khánh Hoà, Phú Yên, Đồng Nai, Yên Bái…
1.2.2. Các loại đá xây dựng xuất khẩu

Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều sản phẩm đá xây dựng. Đá xây dựng
được chia ra làm nhiều loại: Đá dạng khối, đá dạng tảng và đá viên, đá cấp phối, đá
mi bột… Tất cả các loại đá xây dựng đều được phép xuất khẩu, nhưng tuỳ từng loại
và từng sản phẩm mà thuế suất xuất khẩu khác nhau theo quy định hiện hành của
Nhà Nước Việt Nam. Nhưng các sản phẩm đá xuất khẩu chủ yếu là đá dạng khối,
đá phiến (đá tảng), và đá viên (xuất khẩu nhiều nhất là đá dạng viên). Có thể phân
loại thông qua màu sắc, bản chất của từng loại đá và kích thước của các loại đá.
Đơn cử như đá granite có thể phân ra đá granite đỏ, hồng phấn, vàng nhạt, xám…
Ngày nay, thực trạng đá xây dựng ở nước ta rất đa dạng và phong phú về màu sắc
đỏ, đen, hồng, xanh, xám, trắng, lục…Kích thước lớn nhỏ khác nhau 10 X 10 X 10
cm, 10 X 20 X 4 cm, 30 X 50 X 10 từ 30 X 30 cm, 40 X40 cm, 50 X 50 cm, 60 X
60 cm và lớn hơn theo yêu cầu kiến trúc, chất lượng đá khác nhau từ đá Granite, đá
Marble, đá cẩm thạch đến đá bazan, đá Gabro…đáp ứng nhu cầu xây dựng cho mọi
công trình, thay thế hàng nhập khẩu loại đá cao cấp cho các công trình kiến trúc
hiện đại. Và một phần đá xây dựng của Việt Nam xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Đá xây dựng Việt Nam được sử dụng rộng rãi trong nhà, ngoài nhà, tường rào, lát
vỉa hè đường phố.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu đá xây dựng
1.2.3.1. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp
a. Chính sách ngoại thương của nước xuất khẩu
Đây là yếu tố mà doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc phải nắm rõ,
tuân thủ một cách vô điều kiện bởi chính sách đó thể hiện ý chí của Nhà nước xuất
khẩu nhằm bảo vệ lợi ích chung của quốc gia, đồng thời làm ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp. Cụ thể, trong hoạt động xuất khẩu doanh
nghiệp cần phải nắm rõ chính sách khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước để thúc đẩy
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
14
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
xuất khẩu như chế độ cấp giấy phép, chế độ hạn ngạch, chính sách thuế và thuế xuất
nhập khẩu để đề ra chiến lược xuất khẩu thích hợp và hiệu quả nhất.

Căn cứ vào tình hình thực tế của nước Việt Nam, Luật khoáng sản có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/09/1996 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật khoáng
sản thông qua vào khóa XI, kỳ họp thứ bảy (Luật này có hiệu lực thi hành vào ngày
01/10/2005) quy định: “Khoáng sản là tài nguyên hầu hết không tái tạo được, là tài
sản quan trọng của quốc gia, phải được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý,
tiết kiệm và có hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, phát triển bền vững kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài, bảo đảm quốc
phòng, an ninh;
Để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, bảo vệ, sử dụng có hiệu quả mọi
tài nguyên khoáng sản của đất nước; khuyến khích phát triển công nghiệp khai thác
và chế biến khoáng sản; bảo vệ môi trường, môi sinh và an toàn lao động trong hoạt
động khoáng sản;” Riêng đối với mặt hàng đá xây dựng xuất khẩu, trong Luật
khoáng sản quy định rõ hạn chế khai thác và xuất khẩu khoáng sản thô. Mặt khác,
Luật quy định phải có giấy phép khai thác và nộp thuế tài nguyên khoáng sản, cũng
như đánh thuế xuất khẩu đối với mặt hàng này. Đây là những thách thức mà các
doanh nghiệp khai thác và chế biến cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu đá xây
dựng gặp phải.
Tuy vậy, Nhà nước Việt Nam có chính sách tạo điều kiện đối với chế biến khoáng
sản từ khoáng sản trong nước để phục vụ sản xuất và xuất khẩu theo điều 48 Luật
khoáng sản 01/09/1996 (L2QH) quy định. Điều này, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
xuất khẩu sản phẩm được chế biến từ những khoáng sản thô.
Ngoài ra, còn cần nắm rõ thủ tục hải quan mà nước xuất khẩu quy định
nhằm thực hiện thủ tục hải quan nhanh, hiệu quả. Thủ tục hải quan của Việt Nam
ngày càng được cải thiện bằng phương pháp khai báo hải quan điện tử, giúp doanh
nghiệp làm thủ tục nhanh gọn và tiết kiệm chi phí xuất khẩu, là một điều kiện thuận
lợi hơn để tăng cường xuất khẩu.
b. Quan hệ giữa cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
15
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ

Cung cầu là nhân tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến lượng cung hoặc
khối lượng hàng hoá có thể xuất khẩu trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường,
quan hệ cung cầu điều khiển, kiểm soát thị trường, quyết định đến quá trình xuất
khẩu hàng hoá. Vì vậy, quyết định của doanh nghiệp phải linh hoạt phù hợp với
quan hệ cung cầu trong từng thời điểm, từng vùng khác nhau trên thị trường.
Nhìn chung, nhu cầu về đá xây dựng của thế giới tăng mạnh của thế giới tăng
mạnh từ năm 2002, ổn định hơn sau năm 2005. Năm 2007, nhu cầu nhập khẩu đá
xây dựng của thế giới khoảng 34,75 triệu tấn . Nhìn tổng thế, nhu cầu về xuất khẩu
đá xây dựng sẽ tiếp tục tăng trong các năm tiếp theo, đặc biệt là ở các nước đang
phát triểns. Bên cạnh đó, cung chưa đáp ứng đủ cầu, do sản xuất đá xây dựng trong
nước của các nước phát triển không đáp ứng đủ nhu cầu đang tăng mạnh và nhu cầu
khác nhau ở mỗi thị trường, mỗi khu vực mà bản than thị trường ấy, khu vực ấy
không thể đáp ứng hết được… đơn cử như khối thị trường chung Châu Âu nhập
khẩu 13,9 triệu tấn năm 2007. Ở các đoạn thị trường khác nhau, nhu cầu về các sản
phẩm đá xây dựng cũng rất khác nhau, do vậy để kinh doanh tốt được trên thị
trường quốc tế, các doanh nghiệp phân đoạn thị trường cũng như đánh giá cung cầu
trên thị trường đó trong từng thời điểm, từng đoạn thị trường khác nhau. Điều đó
mang lại kết quả kinh doanh cho doanh nghiệp hiệu quả hay không hiệu quả, tùy
vào những quyết định của doanh nghiệp.
c. Tỷ giá hối đoái của đồng tiền và tỷ xuất ngoại tệ xuất khẩu hàng hoá
Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là sự so sánh giữa đồng tiền bản địa (nội tệ) với
đồng tiền nước ngoài (ngoại tệ). TGHĐ ảnh hưởng đến kinh doanh xuất nhập khẩu
trên nhiều phương diện. Khi TGHĐ tăng, đồng tiền nội tệ mất giá, giá cả sản phẩm
nhập khẩu tính bằng đồng nội tệ sẽ đắt hơn một cách tương đối, sản phẩm xuất khẩu
tính bằng đồng ngoại tệ sẽ rẻ hơn một cách tương đối, khi đó TGHĐ sẽ khuyến
khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Khi TGHĐ giảm, đồng nội tệ sẽ có giá hơn,
TGHĐ sẽ khuyến khích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu. Sự thay đổi TGHĐ ảnh
hưởng trực tiếp đến tình hình xuất nhập khẩu và lợi nhuận của các nhà kinh doanh
xuất nhập khẩu. Vì vậy, với các nhà kinh doanh, TGHĐ tăng hay giảm là yếu tố
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47

16
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
khách quan nhưng việc theo dõi sát tình hình TGHĐ thay đổi, để kịp thời đề ra
những biện pháp điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình vô cùng cần thiết.
Các doanh nghiệp thường sử dụng đồng USD để thanh toán trong các giao
dịch quốc tế. Đồng USD là một đồng tiền mạnh và tỷ giá giữa VND/USD là tỷ giá
thả nổi nhưng có sự quản lý của Nhà nước. Gần đây, những biến động về tỷ giá của
USD nảy sinh nhiều rủi ro. Do vậy, các doanh nghiệp có xu hướng sử dụng những
đồng tiền mạnh khác trong thanh toán để giữ cho tỷ giá ít rủi ro hơn như đồng
EURO, yên Nhật , sử dụng thêm những biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng như bảo
đảm giá trị thanh toán bằng rổ tiền tệ,…
Nhân tố này quyết định bạn hàng, phương án kinh doanh, quan hệ kinh
doanh của doanh nghiệp xuất khẩu. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ gây biến đổi lớn
trong các quyết định kinh doanh của Công ty.
d. Sự biến động thị trường trong và ngoài nước
Hoạt động xuất khẩu như một chiếc cầu nối giữa thị trường trong nước và thị
trường ngoài nước, tạo ra sự gắn bó, phản ánh tác động qua lại giữa hai thị trường.
Nếu có sự biến động nhu cầu về một mặt hàng ở thị trường ngoài nước thay đổi sẽ
làm thay đổi ngay lập tức lượng hàng hoá qua chiếc cầu xuất khẩu và ngược lại thị
trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn các nhu cầu thị trường trong nước…
Điều này thể hiện rất rõ đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu đá xây dựng.
Chẳng hạn, gần đây thị trường ngoài nước tăng nhu cầu nhập khẩu đá Granite, thì
nhu cầu nhập khẩu các loại đá xây dựng khác như đá Marble, đá ceramic sẽ giảm
xuống. Đi đôi với điều đó, xuất khẩu đá Granite tăng lên và xuất khẩu các loại đá
khác sẽ giảm xuống. Sự tác động qua lại này ảnh hưởng rất lớn tới các doanh
nghiệp xuất khẩu đá xây dựng, để có thể lựa chọn phương án kinh doanh và các
quyết sách kinh doanh linh hoạt và phù hợp.
e. Sự phát triển của nền sản xuất và của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu trong và ngoài nước
Sự phát triển của nền sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với

sản phẩm của các đối thủ nước ngoài tại nước sở tại do vậy sẽ thúc đẩy xuất khẩu.
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
17
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
Ngược lại, sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài làm tăng khả năng cạnh tranh
của sản phẩm xuất khẩu do vậy làm giảm hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, không
phải lúc nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt động xuất khẩu được mở rộng
và khi sản xuất nước ngoài phát triển, hoạt động xuất khẩu bị thu hẹp, thực ra còn
phụ thuộc vào chính sách Nhà nước lúc đó cần bảo vệ và khuyến khích sản xuất
trong nước hay cần giảm ảnh hưởng độc quyền…Ở Việt Nam hiện nay, nền sản
xuất và chế biến đá xây dựng công nghệ chưa cao, dây chuyền sản xuất nhỏ, lẻ và
lạc hậu do vậy năng suất thấp. Tuy rằng, công nghệ và kỹ thuật đang được cải thiện
từng ngày nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng khoáng sản của Việt Nam.
Điều này ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu của Việt Nam.
Sản phẩm từ ngành chế biến đá xây dựng chất lượng chưa cao, chỉ đáp ứng được
nhu cầu của các thị trường không khó tính Châu phi, Trung Đông… Một số ít sản
phẩm từ đá xây dựng đáp ứng được các thị trường khó tính như EU, Nhật Bản Do
vậy, nền sản xuất ảnh hưởng đến thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt
Nam, cũng như hiệu quả mà các doanh nghiệp thu được. Với một nền sản xuất chưa
phát triển cao như hiện nay, hiệu quả xuất khẩu sẽ thấp hơn các doanh nghiệp ở các
nước có nền sản xuất phát triển cao.
f. Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội của nước xuất khẩu
Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu không thể tách rời công việc vận chuyển,
xếp dỡ và thông tin liên lạc. Một hệ thống thông tin liên lạc tốt, một hệ thống đường
giao thông thuận lợi, hiện đại, và các trang thiết bị bốc dỡ, vận chuyển hiện đại sẽ
giúp cho doanh nghiệp giảm rất nhiều chi phí, tiết kiệm nguồn lực cho doanh
nghiệp và cho cả quốc gia. Thực tế, sự phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng đơn
giản hóa công việc của hoạt động xuất khẩu, giảm đi hàng loạt các chi phí, nâng cao
tính kịp thời nhanh gọn, an toàn và hiệu quả cho hoạt động kinh doanh.
Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội của Việt Nam ngày càng được cải thiện rõ rệt,

từ đó đơn giản hóa công việc của hoạt động xuất, khẩu giảm chi phí xuất khẩu. Có
thể thấy rõ, hệ thống giao thông của Việt Nam ngày càng được mở rộng từ đường
bộ, hàng không, đường thủy… Với sự xuất hiện của nhiều phương tiện chuyên chở
hiện đại, các container, các ô tô tải cỡ lớn, các thuyền chở hàng cỡ lớn cùng với các
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
18
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
trang thiết bị bốc dỡ đời mới như cần cẩu, các dụng cụ chuyên dụng đã làm tăng
năng suất lao động, giảm các chi phí và tăng hiệu quả xuất khẩu của các Doanh
nghiệp. Nhưng sự phát triển này mới ở giai đoạn bước đầu, và đang có xu hướng
tăng trong các năm tiếp theo, theo đà tăng trưởng, phát triển của Việt Nam. Sự phát
triển hệ thống thông tin ở Việt Nam đang ở giai đoạn bùng nổ, rất nhiều phương
tiện thông tin liên lạc ra đời và được sử dụng. Sự phát triển nhanh chóng của hệ
thống thông tin như điện thoại di động, điện thoại bàn, mạng Internet, máy Fax là
phương tiện giúp các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường quốc tế cũng như
điều hành và điều khiển hoạt động của doanh nghiệp hiệu quả .
g. Hệ thống tài chính ngân hàng
Hoạt động xuất khẩu sẽ khó có thể thực hiện được nếu như không có sự phát
triển của hệ thống tài chính ngân hàng. Thông qua các quan hệ, uy tín của mình,
nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng rất thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia
hoạt động xuất khẩu sẽ được đảm bảo về mặt lợi ích. Và trong nhiều trường hợp do
có lòng tin với ngân hàng mà kinh doanh xuất nhập khẩu có thể được ngân hàng
đứng ra bảo lãnh hay cho vay với khối lượng vốn lớn, kịp thời tạo điều kiện cho
doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội xuất khẩu có lợi. Với sự gia nhập WTO, tạo điều
kiện cho các ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam dễ dàng hơn. Cùng với sự hội
nhập kinh tế sâu rộng, lĩnh vực tài chính ngân hàng cũng không ngừng phát triển do
nhu cầu xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các nước khác trên thế giới không ngừng
tăng mạnh, cũng như nhu cầu trong nước tăng do hoạt động kinh doanh trong nước
phát triển. Hệ thống tài chính ngân hàng phát triển hơn lại tác động trở lại hoạt động
kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng, điều tiết vốn của các doanh

nghiệp cũng như thực hiện các thanh toán xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu
đá xây dựng nói riêng. Hiện nay, hệ thống ngân hàng có rất nhiều hình thức hỗ trợ
doanh nghiệp kinh doanh nói chung và xuất khẩu nói riêng. Điều đó thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hệ thống tài chính ngân hàng của
Việt Nam chưa phát triển nên thực hiện các thủ tục thanh toán, cho vay vốn còn
nhiều điều chưa tốt, gây phiền hà và tốn nhiều chi phí cho các doanh nghiệp kinh
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
19
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
doanh xuất khẩu. Các ngân hàng Việt Nam chưa có mối liên kết với nhiều ngân
hàng quốc tế dẫn đến tăng chi phí cho các doanh nghiệp trong các giao dịch.
h. Các nhân tố thuộc môi trường vi mô của doanh nghiệp
Sự biến động môi trường chính trị – văn hoá - xã hội và công nghệ làm ảnh
hưởng rất nhiều đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp: tình hình chính trị của
quốc gia các đối tác, phong tục tập quán, sự phát triển công nghệ trên thế giới. Tình
hình của một quốc gia bất ổn dẫn tới sự sụt giảm về nhu cầu nhập khẩu và ngược lại
tình hình chính trị ổn định tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, từ đó tăng nhu cầu
các loại hàng hóa đặc biệt là về xây dựng- ngành đi đầu trong phát triển kinh tế.
Văn hóa của một quốc gia ảnh hưởng đến sự tiêu dùng sản phẩm, ưa chuộng mặt
hàng nào, tiêu thụ mặt hàng nào tùy thuộc vào tôn giáo, tín ngưỡng của từng vùng,
từng khu vực trên thế giới. Môi trường công nghệ của thế giới, cụ thể là của mỗi
nước khác nhau là khác nhau. Nếu một nước có nền công nghệ cao có nhu cầu về
những sản phẩm chất lượng cao nhiều hơn và ngược lại các nước có công nghệ kém
hơn có nhu cầu nhiều hơn về sản phẩm có chất lượng vừa phải…
Các nhân tố vừa trình bày ở trên đều có tác động qua lại lẫn nhau tạo thành
đặc trương của từng thị trường, từng khu vực thị trường có đăc trưng riêng. Đối với
các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, nắm rõ được đặc điểm từng đoạn thị trường,
từ đó có phương án kinh doanh phù hợp sẽ mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp.
1.2.3.2. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp
a. Cơ cấu, chủng loại, chất lượng của mặt hàng xuất khẩu và uy tín của doanh

nghiệp xuất khẩu
Đây là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp có cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu phù hợp theo hướng
đa dạng hoá và đáp ứng nhu cầu thực của thị trường, hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp ngày càng được củng cố, phát triển. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của doanh
nghiệp xuất khẩu không thích hợp với sự biến đổi của nhu cầu thị trường, hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ ngày càng bị thu hẹp lại. Do vậy, các công ty kinh
doanh xuất nhập khẩu cần thay đổi cơ cấu mặt hàng theo hướng đa dạng hoá mặt
hàng trên cơ sở đa dạng hóa thị trường. Ngày nay, các doanh nghiệp Việt Nam với
thị trường xuất khẩu rộng lớn, cơ cấu và chủng loại đá xây dựng ngày càng mở
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
20
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
rộng, đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất khẩu. Nhưng sự phong phú về cơ cấu và
chủng loại của các sản phẩm về đá của Việt Nam chưa tương xứng với tiềm năng
khoáng sản này. Do nguồn nguyên liệu đá xây dựng không những nhiều mà còn
phong phú, có nhiều loại đáp ứng được những sản phẩm đá xây dựng khác, nhưng
Việt Nam chưa có đủ máy móc và công nghệ để có thể sản xuất được sản phẩm đó.
Chất lượng hàng hoá là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, uy tín là tài sản vô hình của doanh nghiệp. Do đó, doanh
nghiệp cần tính toán, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, sức cạnh tranh tốt nhất,
hay có giá cả so sánh. Trong khi, chỉ sản phẩm chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu
người tiêu dùng mới có thể xuất khẩu với số lượng lớn, giá cao hơn mà không gây
phản ứng của người tiêu dùng và đối tác. Tuy nhiên, điều này gây khó khăn cho các
doanh nghiệp Việt Nam bởi trình độ phát triển khoa học – kỹ thuật công nghệ lạc
hậu dẫn đến chất lượng hàng hoá không cao, đặc biệt trong ngành chế biến đá xây
dựng. Những máy móc của ngành này đa phần là cũ và lạc hậu một phần do chi phí
đầu tư máy móc mới lớn. Do vậy, chất lượng sản phẩm chưa cao, hạn chế xuất
khẩu, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của Việt Nam, đòi hỏi trong thời
gian tới các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý tới việc nâng cao chất lượng hàng

hoá bằng để đẩy mạnh xuất khẩu.
b. Phương thức xuất khẩu hàng hóa
Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường mọi doanh nghiệp đều được phép
tham gia xuất khẩu và việc tự do lựa chọn phương thức xuất khẩu ảnh hưởng tới
hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải nghiên cứu tình hình cụ
thể của thị trường, của doanh nghiệp mới có thể lựa chọn phương thức xuất khẩu
phù hợp, đem lại hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp xuất khẩu hiện nay thực hiện rất nhiều hình thức xuất khẩu. Xuất khẩu trực
tiếp, xuất khẩu gián tiếp (qua trung gian), xuất khẩu ủy thác, xuất khẩu theo hình
thức tạm nhập tái xuất… là những hình thức thường được sử dụng trong xuất khẩu
đá xây dựng của Việt Nam. Tùy từng điều kiện, hoàn cảnh của thị trường cũng như
doanh nghiệp mà lựa chọn phương thức xuất khẩu phù hợp nhất để mang lại cho
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
21
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
doanh nghiệp hiệu quả tối đa. Hình thức gia công quốc tế hầu như không xuất hiện
trong xuất khẩu đá xây dựng, vì không phù hợp với sự phát triển của ngành này.
c. Khả năng nắm bắt thông tin về thị trường xuất khẩu
Trong xã hội ngày nay, thông tin đã trở thành một nhân tố quan trọng quyết
định đến sự thành công hay thất bại của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn
hiểu biết về khách hàng, thị trường, sản phẩm… phải thông qua thông tin. Nhu cầu
về thông tin ngày càng trở nên cấp bách, cần thiết do thị trường không ngừng thay
đổi về quy mô và phạm vi, nhu cầu, sự lựa chọn của khách hàng thay đổi, sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt của các doanh nghiệp với những hình thức cạnh tranh ngày
càng đa dạng. Vì vậy, thu thập và xử lý thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng
đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có khả năng nắm bắt thông tin, hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp đó chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao.
d. Đặc điểm của đá xây dựng được xuất khẩu
Đá xây dựng có đặc điểm là trọng lượng nặng, thể tích lớn, khó đóng gói bảo
quản, vận chuyển trong khi giá trị sản phẩm lại không cao. Vì vậy, việc sản xuất

kinh doanh các sản phẩm đá xây dựng gặp nhiều khó khăn vì chi phí vận chuyển
thường chiếm một tỷ lệ khá cao trong giá thành sản phẩm. Theo số liệu thống kê
của Viện nghiên cứu vật liệu xây dựng – Bộ xây dựng, các yếu tố chính là tỷ trọng
giá thành của các sản phẩm đá xây dựng Việt Nam như sau:
Bảng 1.1. Cơ cấu chi phí xuất khẩu hàng đá xây dựng
STT Chi phí
Sản xuất các sản phẩm
đá xây dựng (%)
1. Chi phí nguyên, nhiên liệu và xử lý nguyên liệu. 30
2. Chi phí cố định của sản phẩm 15
3. Chi phí nhân công và bảo quản sản phẩm 14
4. Chi phí vận chuyển sản phẩm 15
5. Chi phí quản lý 5
6. Chi phí khác 6
7. Lãi dự tính 15
Tổng 100
Nguồn: Viện nghiên cứu vật liệu xây dựng - Bộ xây dựng năm 2008
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
22
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
Như vậy, chi phí vận chuyển đã chiếm 15% giá thành sản phẩm. Từ đó, đặt
ra yêu cầu đối với doanh nghiệp là phải hạ thấp chi phí vận chuyển sản phẩm, để từ
đó giảm được giá bán sản phẩm cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của đá xây
dựng trên thị trường thế giới.
e. Giá bán sản phẩm xuất khẩu
Về cơ bản giá bán sản phẩm của doanh nghiệp hình thành trên cơ sở các chi
phí lưu thông. Mặt khác, chi phí lưu thông một đơn vị sản phẩm lại chịu ảnh hưởng
tác động của giá bán, thông qua khối lượng hàng hoá tiêu thụ được. Cơ sở hạ tầng,
hệ thống giao thông Việt Nam kém phát triển nên chi phí lưu thông cao làm tăng
giá, ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Để giảm giá thành sản phẩm là doanh

nghiệp nên cố gắng tối thiểu hoá các chi phí lưu thông và cố gắng kiểm soát chúng.
Đánh giá chung về giá bán sản phẩm đá của Việt Nam là giá so sánh, có lợi
thế cạnh tranh so với sản phẩm của các nước khác. Điều này tạo điều kiện cho
doanh nghiệp tiếp tục kinh doanh và mở rộng kinh doanh trên lĩnh vực này.
f. Các nhân tố khác
Bên cạnh đó, nhân tố về khả năng thanh toán, các quan hệ của doanh nghiệp,
các hoạt động Marketing của doanh nghiệp, trình độ nghiệp vụ của cán bộ, yếu tố
tâm lý và thị hiếu của khách hàng… cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp Ở Việt Nam, đa phần các doanh nghiệp xuất khẩu đá
xây dựng đều rất năng động tìm kiếm thị trường, thực hiện các hoạt động Marketing
khá tốt thông qua các Website và các phương tiện khác như đại sứ quán, các hội
chợ…Từ đó nắm được nhu cầu khách hàng kịp thời và phục vụ khách hàng tốt nhất
có thể, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Trình độ chuyên
môn của các cán bộ trong doanh nghiệp ngày càng nâng cao, đáp ứng được yêu cầu
của công việc. Những nhân viên nghiệp vụ kém sẽ bị thải loại để thay vào đó là các
nhân viên làm được việc. Như vậy, xu hướng trình độ chuyên môn của cán bộ nhân
viên sẽ không ngừng cải thiện để phục vụ tốt hơn cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Trên đây là một số nhân tố chính ảnh hưởng có tính chất quyết định đến hoạt động
xuất khẩu của bất kỳ công ty nào. Còn rất nhiều nhân tố khác ảnh hưởng đến hoạt
động xuất khẩu, nhưng hình thành trên sự tác động qua lại giữa các nhân tố này.
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
23
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
1.3. Cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp xuất khẩu đá xây dựng của
Việt Nam trong việc xuất khẩu đá xây dựng ra thị trường thế giới.
1.3.1. Cơ hội của các doanh nghiệp xuất khẩu đá xây dựng của Việt Nam
Từ những phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu đá xây dựng của
các doanh nghiệp của Việt Nam, từ đó có những cơ hội sau:
 Thứ nhất, việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào tháng 11/20007

của Việt Nam cùng với xu hướng toàn cầu hóa và quốc tế hóa mở ra nhiều cơ hội
cho sự phát triển của ngành xuất khẩu đá xây dựng nói chung cũng như các công ty
xuất khẩu đá xây dựng nói riêng. Thể hiện cụ thể là gia tăng các luồng chuyển giao
vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy giao lưu văn hóa, trí tuệ, củng cố và
tăng cường các thể chế quốc tế, phát triển văn minh vật chất và tinh thần tạo ra môi
trường thuận lợi cho phát triển thị trường quốc tế. Toàn cầu hóa và quốc tế hóa đã
góp phần thúc đẩy các cơ hội phát triển ngành sản xuất đá xây dựng, việc chuyển
giao công nghệ theo chu kỳ nhanh hơn phù hợp với yêu cầu khắt khe của thị trường.
Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO và tổ chức mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA) tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung cũng như các công
ty xuất khẩu đá xây dựng nói riêng trong việc thúc đẩy lưu thông hàng hóa được
thông suốt, ít cản trở, hàng rào phi thuế quan và thuế quan dần được giảm xuống và
gỡ bỏ, tạo điều kiện cho các sản phẩm đá xây dựng thâm nhập và mở rộng thị
trường.
 Thứ hai, hiện nay nhu cầu xây dựng trên thế giới lớn và không ngừng tăng qua
các năm. Điều đó dẫn tới nhu cầu về đá xây dựng cũng tăng lên. Cầu đá xây dựng
tăng lên, tất yếu cung sẽ tăng, là một cơ hội lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
đá xây dựng của Việt Nam, thúc đẩy xuất khẩu đá xây dựng do Việt Nam có trữ
lượng nguyên liệu đá lớn và phong phú, chưa khai thác hết tiềm năng.
 Thứ ba, các doanh nghiệp xuất khẩu đá xây dựng Việt Nam đang là bạn hàng
rất uy tín được các bạn hàng khác trên thế giới biết đến đặc biệt là thị trường Trung
Đông và ASEAN do hàng hóa có chất lượng tương đối tốt và giá cả cạnh tranh.
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
24
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp Khoa Th¬ng m¹i vµ Kinh tÕ Quèc tÕ
 Thứ tư, có một số sản phẩm đá xây dựng ở thị trường ngoài nước sản xuất được
không nhiều do vị trí địa lý, địa tầng của mỗi quốc gia khác nhau. Ở Việt Nam có
thể sản xuất được, đáp ứng được nhu cầu ngoài nước. Đó là cơ hội để những sản
phẩm đá xây dựng của Việt Nam chiếm lĩnh thị trường.
 Thứ năm, một cơ hội khác với các doanh nghiệp xuất khẩu đá xây dựng là sự

phát triển của hệ thống thông tin ở giai đoạn bùng nổ và sự mở cửa dịch vụ bưu
chính viễn thông ở Việt Nam sẽ có tác động rất tích cực cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, cho phép các doanh nghiệp đó cạnh tranh toàn cầu nhờ Internet và thương
mại trực tuyến, là công cụ hữu hiệu để kinh doanh trên thị trường ngoài nước, giới
thiệu trực tiếp sản phẩm tới người tiêu dùng.
 Thứ sáu, hệ thống tài chính ngân hàng cạnh tranh trong điều kiện mở cửa thị
trường sẽ tạo cơ hội tiếp cận tài chính tốt và có tính cạnh tranh hơn cho các doanh
nghiêp vừa và nhỏ với các dịch vụ tài chính mới trong các lĩnh vực cho thuê tài
chính, tư vấn tài chính và thanh toán, dịch vụ thông tin tài chính….
Tóm lại, tháng 11/2007 việc chính thức trở thành thành viên của WTO đã tạo
điều kiện, cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu đá trong việc đẩy mạnh
khả năng xuất khẩu ra thị trường thế giới. Có thể nói chính những cơ hội trên đã tạo
ra nhiều điều kiện hơn cho các doanh nghiệp xuất khẩu đá xây dựng của Việt Nam
trong tiếp xúc, thăm dò và mở rộng thị trường.
1.3.2. Thách thức của các doanh nghiệp xuất khẩu đá xây dựng của Việt Nam
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu đá xây dựng Việt Nam cũng đối mặt
với rất nhiều thách thức. Cụ thể là:
 Thứ nhất: Do đá xây dựng là khoáng sản là tài nguyên hầu hết không tái tạo
được. Cho nên, Nhà nước Việt Nam quy định rất chặt chẽ về việc quản lý, khai thác
loại khoáng sản này. Đồng thời đánh thuế tài nguyên khoáng sản và thuế xuất khẩu
đối với loại khoáng sản này. Đây là một thách thức đối với các doanh nghiệp trong
việc khai thác khoáng sản cũng như cạnh tranh với các doanh nghiệp của các nước
khác trên thị trường.
SV: Hoµng Thuú Chinh Líp Th¬ng m¹i Quèc tÕ 47
25

×