Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG (TỪ NĂM 1930 ĐẾN NAY)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.76 KB, 10 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
……..***……..

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG

VAI TRÒ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG SỰ
NGHIỆP CÁCH MẠNG (TỪ NĂM 1930 ĐẾN NAY)

Nhóm thực hiện: Nhóm 4
Lớp tín chỉ: TRI117 (GD1-HK2-2122).11
Khố: 59
Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thu Hải

Hà Nội, ngày 4 tháng 4 năm 2022
1


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

4

NỘI DUNG

5

Phần I. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối
cứu nước và giai cấp lãnh đạo

5



Phần II. Vai trò của Đảng đối với Cách mạng Việt Nam

6

1. Đảng lãnh đạo, tiến hành vận động cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính
quyền về tay nhân dân

6

2. Đảng tổ chức và lãnh đạo chống ngoại xâm giành thắng lợi, bảo vệ vững chắc chính
quyền và nền độc lập của nước ta

6

3. Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội,
hội nhập quốc tế toàn diện trên tinh thần độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế trong
sáng

7

KẾT LUẬN

10

TÀI LIỆU THAM KHẢO

11

3



LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa
Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là kết quả tất
yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trị lãnh đạo của
giai cấp cơng nhân Việt Nam và hệ tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lê nin đối với cách mạng Việt
Nam. Với sự kiện lịch sử trọng đại này, sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một bước
ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con
đường phát triển của dân tộc ta. Giá trị lịch sử được thể hiện ở chỗ, sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về vai trò lãnh đạo và đường lối
cứu nước, mở ra thời kỳ mới trong sự nghiệp đấu tranh của giai cấp công nhân và cả dân tộc
Việt Nam, gắn liền với mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo ra những tiền đề và
điều kiện để đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong suốt nhiều
năm sau.
Kể từ khi thành lập cho đến nay, Đảng luôn thể hiện rõ là một đảng cách mạng chân
chính, hội tụ sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, là đội tiên phong của giai cấp công nhân và
của dân tộc Việt Nam. Những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam suốt hơn 90 năm qua
đã minh chứng cho tầm vóc bản lĩnh, trí tuệ của Đảng trên con đường lãnh đạo xây dựng đất
nước Việt Nam hùng cường, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Do đó, việc nghiên cứu vấn
đề: “Vai trò của Đảng cộng sản Việt trong sự nghiệp cách mạng (từ năm 1930 đến nay)” có ý
nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn hết sức sâu sắc.

4


NỘI DUNG
Phần I. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, chấm dứt thời kì khủng hoảng về đường lối
cứu nước và giai cấp lãnh đạo
Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước, bất

khuất kiên cường chống ngoại xâm, các phong trào chống thực dân Pháp theo ngọn cờ phong
kiến, ngọn cờ dân chủ tư sản của nhân dân Việt Nam
đã diễn ra quyết liệt, liên tục và rộng khắp. Dù với nhiều cách thức tiến hành khác nhau,
song đều hướng tới mục tiêu đánh đổ chế độ thuộc địa, giành độc lập cho dân tộc. Tuy nhiên,
các phong trào cứu nước từ lập trường Cần Vương đến lập trường tư sản, tiểu tư sản qua khảo
nghiệm lịch sử đều lần lượt thất bại”. Phong trào yêu nước Việt Nam lâm vào khủng hoảng,
bế tắc về đường lối cứu nước.
Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ yêu nước đương thời là cần phải có một tổ
chức cách mạng tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc. Trước
yêu cầu lịch sử đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện. Với lòng yêu nước, thương dân sâu
sắc, với thiên tài trí tuệ, sự nhạy bén về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã tìm được con đường
giải phóng dân tộc triệt để nhất - con đường cách mạng vô sản, theo Cách mạng Tháng Mười
Nga. Từ đó, Người đã nỗ lực xúc tiến vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Với việc
hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở ba Kỳ: Đông Dương Cộng sản Đảng; An Nam Cộng sản Đảng
và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn thành Đảng Cộng sản Việt Nam (1930) là bước ngoặt vĩ
đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam: Chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu
nước của các phong trào yêu nước Việt Nam từ khi thực dân Pháp xâm lược đến những năm
20 của thế kỷ XX. “Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử
cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh
đạo cách mạng”...
Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực sự trở thành người lãnh đạo, đưa
cách mạng Việt Nam vượt qua mn vàn khó khăn, thử thách, từng bước đi lên, làm nên
những kỳ tích, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đáp ứng khát vọng
của nhân dân Việt Nam và phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.

5


Phần II. Vai trò của Đảng đối với Cách mạng Việt Nam
1. Đảng lãnh đạo, tiến hành vận động cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền

về tay nhân dân
Đảng ta thời đó là một đảng hoạt động bí mật, bất hợp pháp dưới chính quyền thực dân
Pháp tại một nước thuộc địa. Trong 15 năm (1930 - 1945), chúng ta bị khủng bố, đánh phá, hệ
thống tổ chức Đảng đã hai lần phải xây dựng lại với 4 Tổng bí thư của Đảng hy sinh. Nhưng
với việc xác định đường lối chiến lược cách mạng qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên (sau đó
bổ sung thành Luận cương tháng 10 - 1930) mà phương hướng chiến lược chính là cách mạng
tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế đồng thời phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản và
đấu tranh thẳng lên con đường chủ nghĩa xã hội, đã đáp ứng khát vọng giải phóng dân tộc của
nhân dân Việt Nam, do vậy, chỉ 15 năm sau khi đi theo đường lối cách mạng của Đảng, dân
tộc Việt Nam đã làm nên kỳ tích vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám 1945, xóa bỏ tận gốc chế
độ thuộc địa nửa phong kiến, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà: “Chẳng những giai
cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị
áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của
các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành
cơng, đã nắm chính quyền tồn quốc”. Thắng lợi ấy đã mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, giành độc lập cho đất nước, làm thay đổi cả vận mệnh dân tộc, thay đổi cả
thân phận của người dân Việt Nam.
2. Đảng tổ chức và lãnh đạo chống ngoại xâm giành thắng lợi, bảo vệ vững chắc chính
quyền và nền độc lập của nước ta
Ngày 2-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng chỉ sau 3 tuần độc lập, với mưu đồ trở lại thơn tính Việt
Nam, thực dân Pháp đã nổ súng xâm lược Nam Bộ. Trước bối cảnh chính quyền cịn non trẻ,
Đảng vừa ra hoạt động cơng khai, nắm chính quyền cách mạng thì phải đối phó với vơ vàn
khó khăn. Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, tình thế cách mạng Việt Nam như “ngàn cân
treo sợi tóc”. Nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn
biến” đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, giữ vững
chủ quyền của đất nước, vững vàng bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc, với đường lối toàn
dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh là chính.
6



Sau 9 năm kháng chiến trường kỳ, thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954) đã bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám
1945, chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc, đưa cách mạng Việt
Nam bước sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục
tiến hành cách mạng giải phóng ở miền Nam. “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa
nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân
dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của các lực lượng hồ bình, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội trên thế giới”…
Sau khi Hiệp định Giơnevơ ký kết, với mưu đồ nhằm biến miền Nam Việt Nam thành
“con đê” ngăn chặn “làn sóng đỏ” - CNXH sang Đơng Nam Á, đế quốc Mỹ từng bước can
thiệp và tiến hành xâm lược miền Nam, chia cắt đất nước, phá hoại cách mạng XHCN miền
Bắc bằng không quân và hải quân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân cả nước đã đồng
tâm hiệp lực, hướng về mục tiêu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất
nước. Đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng là một điểm sáng tạo độc đáo của đường
lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này.
Trải qua 21 năm chiến đấu, với đường lối chiến tranh nhân dân, kết hợp sức mạnh dân
tộc và sức mạnh của thời đại, cả nước đồng tâm, nhất trí đi theo một hướng của Đảng. Nhân
dân Việt Nam đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược kiểu mới của đế quốc Mỹ, giải phóng
miền Nam, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc, thu giang
sơn về một mối. Thắng lợi của cách mạng miền Nam, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo
dài hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân trên đất nước, hoàn thành về cơ bản cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước. Chiến công ấy là “một biểu tượng sáng ngời của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến
công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại
sâu sắc”. Từ đây, dân tộc Việt Nam tiến vào một kỉ nguyên mới - kỷ ngun cả nước hịa
bình, thống nhất, cùng q độ lên chủ nghĩa xã hội.
3. Đảng khởi xướng công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, hội
nhập quốc tế toàn diện trên tinh thần độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế trong sáng
Sau hơn 30 năm chiến tranh gian khổ, cả nước ta bước vào công cuộc xây dựng CNXH

từ những buổi đầu mới mẻ, đối diện với những thách thức, khó khăn gay gắt cả trong nước,
trong khu vực và trên trường quốc tế. Trong hồn cảnh khó khăn ấy, với bản lĩnh kiên cường
7


của một chính Đảng cách mạng dám đối diện với sự thật để cùng cả dân tộc khởi xướng sự
nghiệp đổi mới đất nước vì đất nước giàu mạnh sau này. Trong đó, Đại hội lần thứ VI của
Đảng (1986) đã xác định 4 nội dung cần đổi mới: “Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới
tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong
cách lãnh đạo và công tác”. Sau ngày thống nhất, cả nước bước vào công cuộc xây dựng
CNXH, phải đối diện với những thách thức, khó khăn gay gắt cả trong nước, khu vực và trên
trường quốc tế. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ nặng nề của Đảng. Trong
q trình lãnh đạo, tuy đã có được những thành tựu quan trọng, song cũng bộc lộ những hạn
chế, yếu kém, thậm chí sai lầm, khuyết điểm. Thực tế đó địi hỏi Đảng phải chú trọng nắm bắt
đặc điểm, thực tiễn của đất nước, đổi mới tư duy lý luận, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan,
duy ý chí, nóng vội để nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, những đặc
trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội VI
(12-1986) đã được hoạch định trên cơ sở đó.
Đặc biệt trong những năm 1990, trước tình hình quốc tế vơ cùng phức tạp, đất nước cịn
nhiều khó khăn, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chống phá, Đảng vẫn vững tin vào mục tiêu,
vẫn kiên định chèo lái lãnh đạo con thuyền cách mạng đi qua sóng gió, vẫn vững bước tiến
lên và đạt được những thành tựu to lớn. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta
khởi xướng trong bối cảnh quốc tế có diễn biến phức tạp, nhiều biến động, đất nước cịn
nhiều khó khăn. Càng trong khó khăn, ta càng hiểu rõ vai trò to lớn mang ý nghĩ lịch sử của
Đảng, khẳng định sức sống bền vững của CNXH. Từ đó, ta thấy được tầm nhìn chiến lược
của Đảng.
Công cuộc đổi mới đất nước đã làm biến đổi và phát triển đất nước cả về chính trị, kinh
tế, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nâng cao và
khẳng định vị thế của đất nước trong đời sống chính trị, kinh tế của thế giới. Đất nước ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng tương đối nhanh và ổn định, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời sống của nhân dân khơng ngừng được cải thiện. Văn hóa - xã

hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân được cải thiện một
bước. Chú trọng xây dựng văn hóa và phát triển con người Việt Nam phát triển tồn diện.
Thắng lợi của cơng cuộc đổi mới, tiến hành cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập quốc
tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới
đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.

8


Nhìn lại những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam 90 năm qua, một thức tế đã được
minh chứng: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử”.
Những thắng lợi vĩ đại đó đều gắn liền với việc xác định cương lĩnh chính trị, đường lối
chiến lược đúng đắn và quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, hiện thực hoá đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2-1930) đến Luận cương
chính trị (10-1930), Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam (2-1951), Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6-1991) và Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Những cương
lĩnh chính trị đó mang tính cách mạng, khoa học, được bổ sung, phát triển và sáng tạo theo
tiến trình lịch sử, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp
với thực tiễn Việt Nam và sự phát triển của lịch sử.
Từ thành tựu của công cuộc đổi mới mà nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục tiêu và mơ hình
của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng. Những vấn đề về kinh tế, chính trị, xã
hội, văn hóa, con người và chặng đường bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng
được thực tiễn làm rõ để nhận thức đúng đắn hơn.
Từ q trình hoạt động lãnh đạo vơ cùng phong phú, sôi động, hào hùng của Đảng Cộng
sản Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay, đã ghi những dấu ấn lịch sử quan trọng và để lại
những bài học sâu sắc về lý luận của Đảng cầm quyền, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

và những giá trị thực tiễn phong phú, sinh động, tạo tiền đề, nền tảng căn bản để đất nước ta
tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong hiện tại và tương lai. Kể từ Đại hội VI năm
1986, đến nay đã qua 7 kỳ Đại hội, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể
hóa tồn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong từng giai đoạn.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề
quan trọng; lãnh đạo để Quốc hội thể chế hóa trong Hiến pháp và trong các luật, tạo cơ sở
pháp lý ngày càng đồng bộ và phù hợp cho quá trình đổi mới; lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa
thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển đất nước.

9


KẾT LUẬN
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã giành được thắng lợi, giải phóng
đất nước, giải phóng con người, giải phóng dân tộc Việt Nam, mở ra một thời kì độc lập cho
đất nước ta. Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam trải qua quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã
được tôi luyện, trưởng thành và đã xây dựng nên những truyền thống quý báu. Đó là kết quả
của q trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ
đảng viên của Đảng. Những truyền thống đó có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc, thể hiện
tinh thần cách mạng triệt để, trình độ trí tuệ ngày càng được nâng cao của Đảng ta.
Khái quát lịch sử Đảng có thể khẳng định rằng: ngay từ khi vừa mới ra đời, Đảng ta,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn
phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn
đề dân tộc trên lập trường của giai cấp cơng nhân. Vì vậy, trên con đường phát triển của cách
mạng Việt Nam, nhất là trong những bước ngoặt lịch sử phải đương đầu với mọi thử thách, dù
hiểm nghèo, tưởng không thể vượt qua, Đảng đã kịp thời có những quyết sách sáng suốt,
đúng đắn, đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tiễn, đưa con thuyền cách mạng vượt lên.
92 năm qua đúng như những lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng ta
là đạo đức, là văn minh”. Đó chính là bản chất của cách mạng, khoa học và nhân văn của
Đảng và cũng là nguồn gốc tạo nên sức mạnh của Đảng cộng sản Việt Nam. Thực tiễn lịch sử

cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh: Đảng Cộng sản
Việt Nam là đảng cách mạng chân chính nhất, là đảng cầm quyền, là đảng duy nhất lãnh đạo
đất nước. Vai trò, vị trí đó được củng cố và phát triển trong thực tiễn lãnh đạo đấu tranh cách
mạng của Đảng suốt từ năm 1930 đến nay. Trong công cuộc đổi mới tồn diện đất nước, hội
nhập quốc tế, đẩy mạnh cơngn nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, cơng tác xây dựng
Đảng càng trở nên cấp thiết, vai trò lãnh đạo của Đảng càng trở lên quan trọng.

10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1998.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2006.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2011.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2016.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2021.
7. Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn học, Hà Nội, 1977.
8. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
9. Hồ Chí Minh,Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
10. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
11. TS. Trịnh Văn Toàn, Đại học Điện lực, Khái quát lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam.

11




×