Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Quan điểm của v i lênin về đảng viên và các nguyên tắc tổ chức của đảng; sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.75 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau cách mạng Tháng Mười (1917) vấn đề Đảng cầm quyền luôn được
V.I.Lênin quan tâm và đã được Ông đề cập trong nhiều bài viết và tác phẩm lý
luận của mình. Đặc biệt là Ông đã đề cập đến những vấn đề quan trọng như
vấn đề đảng viên, tổ chức cơ sở Đảng và các nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Mặc dù trong những năm đầu còn gặp nhiều khó khăn, nhưng những quan
điểm của Lênin là một thứ vũ khí sắc bén để chống lại phái Mensêvích lúc bấy
giờ.
Phát triển quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về Đảng của giai cấp công
nhân; V.I.Lênin đã xây dựng chính Đảng kiểu mới và chính Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân Nga đã thực hiện vai trò lãnh đạo giai cấp công nhân
Nga hoàn thành nhiệm vụ lịch sử thế giới của mình. Thắng lợi vĩ đại của Cách
mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười - Nga đã mở ra một kỷ nguyên mới cho
toàn nhân loại, đưa lịch sử xã hội loài người quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Trong công cuộc đổi mới đất nước; kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng,
Đảng có vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức mới có khả năng tạo lập,
giữ vững và không ngừng nâng cao được vai trò đó. Đảng ta khẳng định: phải
tự đổi mới và tự chỉnh đốn, chỉnh đốn Đảng là tiền đề để đổi mới xã hội. Là một
Đảng chiến đấu, một Đảng hành động, Đảng ta coi công tác đảng viên là một
trong những vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu. Chất lượng của tổ chức cơ sở
đảng và đảng viên phản ánh trực tiếp và cụ thể chất lượng của Đảng. Nâng cao
chất lượng đảng viên sẽ góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng, từ đó nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
toàn Đảng. Hiện nay vấn đề này càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao
giờ hết.
Trước yêu cầu khách quan và thực tế công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng
hiện nay; học viên chọn đề tài “Quan điểm của V.I.Lênin về đảng viên và các
nguyên tắc tổ chức của Đảng; sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam


1


trong giai on hin nay lm ti tiu lun cho hc phn: Quan im ca
V.I Lờnin v Xõy dng ng v Chớnh quyn Nh nc.
2. Mc tiờu v nhim v nghiờn cu
Mc tiờu nghiờn cu l lm rừ nhng nhn nh, ỏnh giỏ ca V.I Lờnin
v ng viờn, cỏc nguyờn tc t chc ca ng v s vn dng nhng t tng
lý lun ú i vi cỏch mng Vit Nam trong giai on hin nay. t c
nhng mc tiờu ú tiu lun cn phi thc hiờn cỏc nhim v sau:
Th nht: Phõn tớch lm rừ nhng quan im ca V.I.Lờnin v ng viờn
Th hai: Phõn tớch, lm rừ nhng quan im ca V.I.Lờnin v cỏc
nguyờn tc t chc ca ng.
Th ba: S vn dng ca ng Cng sn Vit Nam trong giai on cỏch
mng hin nay.
3. Phng phỏp nghiờn cu ti tiu lun
Phng phỏp lun: hc viờn s dng phng phỏp lun duy vt lch s v
duy vt bin chng ca ch ngha Mỏc - Lờnin.
Ngoi ra hc viờn s dng hng phỏp phõn tớch tng hp, logic-lch s;
trờn c s phng phỏp lc thut ti liu, trao i tho lun nhúm, c nhanh.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận v danh mc ti liu tham kho. Tiu lun
đợc chia ra làm Ba chơng, 6 tit:
Chơng 1: Quan im ca V.I Lờnin v ng viờn;
Chơng 2: Quan im ca V.I Lờnin v cỏc nguyờn tc t chc ca ng;
Chơng 3: S vn dng quan im ca V.I.Lờnin ca ng ta trong giai
on hin nay.

2



NỘI DUNG
Chương 1: QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ ĐẢNG VIÊN
1.1. Về đảng viên
Tháng 3/1898. Đại hội lần thứ nhất của Đảng công nhân dân chủ xã hội
Nga họp đã tuyên bố thành lập Đảng. Kết quả của đại hội đã bầu được Ban
chấp hành trung ương, nhưng không thông qua Cương lĩnh, Điều lệ Đảng. Sau
đại hội một thời gian dài, Đảng giường như bị tê liệt cả về tư tưởng, cũng như
về tổ chức. Đảng không có cơ quan lãnh đạo tập trung thống nhất. Trước tình
hình đó V.I.Lênin viết tác phẩm “Làm gì” trang bị về mặt tư tưởng cho việc
thành lập Đảng và viết tác phẩm “Hai sách lược của Đảng công nhân dân chủ
- xã hội Nga” trong cách mạng dân chủ mang tính chất xây dựng cương lĩnh
chính trị của Đảng.
Với tinh thần và nỗ lực không mệt mỏi của Lênin và những người bạn
cùng chiến đấu của Người. Đại hội II của Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga
đã thông qua cương lĩnh, thông qua Điều lệ, bầu Ban Chấp hành Trung ương,
bầu ban biên tập báo “Tia lửa”. Đại hội là bước ngoặt trong phong trào công
nhân thế giới. Bầu được Ban chấp hành Trung ương, lãnh đạo các cơ quan của
Đảng. Ban biên tập báo "Tia lửa" tập trung thành một Đảng thống nhất từ
những tổ chức Mác-xít rời rạc.
Trong quá trình đại hội, Lênin và Máctốp đã mâu thuẫn về khoản 1. Điều
I. Điều lệ Đảng (Điều kiện để trở thành đảng viên) dẫn đến việc Đảng chia
làm 2 phái: Phái Bônsêvích- do Lênin đứng đầu. Phái Mensêvích- do Máctốp
đứng đầu. Trong dự thảo của Máctốp ghi rất rõ: “Tất cả những người nào thừa
nhận cương lĩnh của Đảng, hoạt động tích cực để thực hiện các nhiệm vụ của
đảng dưới sự kiểm soát và chỉ đạo của các cơ quan của Đảng thì đều được coi
là đảng viên công nhân dân chủ xã hội Nga”
V.I.Lênin trong dự thảo cũng ghi rất rõ: “Tất cả những người nào thừa
nhận cương lĩnh của Đảng và ủng hộ Đảng bằng những phương tiện vật chất
cũng như bằng cách tự mình tham gia một trong những tổ chức của Đảng thì

được coi là đảng viên của Đảng”
3


Như vậy, một câu hỏi đặt ra. “Đảng viên phải là người như thế nào” và
“như thế nào gọi là người đảng viên” v.v…
Qua hai định nghĩa của Lênin và Máctốp, chúng ta thấy sự khác nhau căn
bản về Điều 1 trong Điều lệ Đảng giữa công thức của Lênin và công thức của
Máctốp.
Qua đó chúng ta cũng thấy trong công thức của Lênin cũng đã nêu cao vị
trí, trách nhiệm của người đảng viên cộng sản. Đảng viên là những người ưu tú
nhất trong giai cấp công nhân, đảng viên mang tính tiền phong trong lý luận và
trong hành động thực tiễn, gương mẫu trước quần chúng nhân dân, bản thân có
ý thức phấn đấu vươn lên.
Như vậy về mặt thực tiễn: Những người cộng sản là bộ phận kiên quyết
nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận cổ vũ tất cả những
bộ phận khác. Về mặt lý luận họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ
là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vô sản.
Và trong công thức của Lênin cũng nhấn mạnh: Bảo đảm sự trong sạch
của đội ngũ đảng viên, trong hàng ngũ của đảng chỉ bao gồm những đại biểu
ưu tú của giai cấp vô sản, có giác ngộ nhất, có tính tổ chức và kỷ luật cao nhất,
những người thực hiện sự phấn đấu quên mình cho lý tưởng, mục đích của
Đảng của giai cấp vô sản.
Một nội dung quan trọng nữa cũng được Lênin đề cập trong công thức
của ông. Đó là: Phân biệt ranh giới rõ ràng giữa những người thực sự hoạt
động cho Đảng và những kẻ nói suông, phân biệt dứt khoát giữa người cách
mạng chân chính với kẻ cơ hội. V.I.Lênin cũng nhấn mạnh: Phải đảm bảo cho
Đảng thật sự là một khối đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
đảm bảo thật sự cho đảng có sức mạnh. Thật sự có uy tín sâu rộng đối với giai
cấp công nhân, đối với quảng đại quần chúng nhân dân lao động và đối với

dân tộc.
Quan điểm của Lênin về tiêu chuẩn đảng viên c ộng sản mà ông đưa vào
trong dự thảo Điều lệ công nhân dân chủ xã hội Nga và trình bày trước đại hội
II của Đảng là một nội dung cực kỳ quan trọng, một nội dung đấu trannh quyết
liệt sau khi đã thông qua được cương lĩnh và cuối cùng ông đã xác định kẻ cơ
4


hội, ba hoa mà đứng đầu là Máctốp với công thức mơ hồ, không rõ ràng về
Điểm 1 của dự thảo Điều lệ Đảng lúc bấy giờ.
Mỗi người tham gia bãi công, tham gia biểu tình là đảng viên. Công thức
của Máctốp hướng tới một tổ chức đảng lỏng lẻo. Đảng không có hình thức tổ
chức chặt chẽ, công thức của Máctốp không bắt buộc mỗi đảng viên phải tham
gia vào một tổ chức nào của Đảng, xem đảng như một câu lạc bộ, mọi người
có thể tự nhận mình là đảng viên. Qua công thức của Máctốp chúng ta cũng
thấy ông đề cập đến sự vô hiệu hóa chế độ tập trung trong đảng, các bộ phận,
các tổ chức trong Đảng không cần phục tùng toàn bộ, không phục tùng Ban
chấp hành Trung ương, bộ phận có quyền tự trị khi quyết đinh những quan hệ
của nó với toàn bộ. Trong đảng có thể tồn tại nhiều nhóm tự do. Phái Máctốp
cho rằng: Thiểu số phải phục tùng đa số, đảng viên phải phục tùng nghị quyết
của Đảng là chủ nghĩa hình thức, không nên bắt buộc mọi đảng viên từ lãnh tụ
đến đảng viên thường đều phải tuân thủ kỷ luật của Đảng, và với cách làm như
vậy là thiết lập “chế độ chuyên chế” chế độ nông nô trong Đảng. Còn V.I.Lênin
chỉ rõ: Trên thực tế, công thức đó phục vụ cho những lợi ích của những người tri
thức tư sản sợ kỷ luật và tổ chức của những người vô sản.
1.2. Về tư cách người đảng viên Cộng sản.
Sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười, khi đã trở thành Đảng cầm
quyền, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ tổ quốc, xây
dựng Chủ nghĩa xã hội, quản lý đất nước. Đây là nhiệm vụ mới mẽ và đầy khó
khăn, vì phải tổ chức theo phương thức mới, những cơ sở kinh tế của đời sống

hàng chục, hàng trăm triệu con người. V.I.Lênin đã phát triển những quan
điểm của mình về vai trò, hình mẫu, tiêu chuẩn người đảng viên Cộng sản đáp
ứng nhiệm vụ của giai đoạn mới. Theo Ông tiêu chuẩn của người đảng viên
Cộng sản trong điều kiện Đảng cầm quyền gồm những nội dung chủ yếu sau:
1.2.1. Đảng viên Cộng sản là người giác ngộ lý tưởng Cộng sản chủ
nghĩa.
Ở nội dung thứ nhất này thể hiện sự tự nguyện nhiệt tình đi theo Chủ
nghĩa cộng sản, trung thành tuyệt đối với hệ tư tưởng của giai cấp công nhân,
với sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sự giác
5


ngộ, lòng trung thành ấy phải được thể hiện bằng sự nhất trí, tin tưởng, gương
mẫu chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước, không đòi hỏi lợi lộc, sẵn sàng gánh vác một công tác
gian khổ hơn và nguy hiểm hơn. Trong bài “Báo cáo về vai trò và nhiệm vụ
của công đoàn tại phiên họp của Đảng đoàn Đảng cộng sản trong Đại hội
ngày 23 tháng giêng” V.I.Lênin viết: Trong Đảng, chúng ta cũng đã đấu tranh
hơn 20 năm, chúng ta đã chứng minh bằng việc làm, chứ không phải bằng lời
nói suông cho công nhân thấy rằng Đảng là một tổ chức đặc biệt, đảng cần có
những con người giác ngộ, sẵn sàng hy sinh tính mạng, đảng phạm sai lầm thì
đảng sửa chữa, đảng lãnh đạo và lựa chọn những người biết rõ con đường mà
chúng ta sẽ đi, biết rõ khó khăn mà chúng ta sẽ gặp.
1.2.2. Đảng viên Cộng sản phải có trình độ văn hoá, lý luận, chuyên
môn nghiệp vụ và năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội, người đảng viên Cộng sản
được bố trí vào hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội của đất nước, vì vậy họ phải thấu hiểu công việc mà mình
được giao, nghĩa là phải có tri thức nhất định, phải thông thạo chuyên môn.
Cái thiếu của người đảng viên Cộng sản chính là ở “trình độ văn hoá”, làm cho

họ gặp nhiều khó khăn trong việc hoàn thành nhiệm vụ được giao và giữ vững
vai trò lãnh đạo, làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong trước quần chúng trong
thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin dạy rằng: “Người ta chỉ có thể
trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết
tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”. V.I.Lênin đã dặn đi,
dặn lại những người cộng sản rằng: nếu chỉ có nhiệt tình và lòng dũng cảm
không thôi thì không thể chiến thắng được chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, mặc dù nhiệt tình cách mạng và lòng dũng cảm là yếu
tố cực kỳ quan trọng. Để chiến thắng được chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, những người cộng sản còn phải có kiến thức, có trình
dộ văn hóa cao, có trí thông minh và năng lực làm việc. Muốn thế phải không
ngừng học tập, học tập một cách kiên trì và nghiêm túc; đừng bằng lòng với
những kinh nghiệm của mình; kiêu ngạo cộng sản là báo hiệu sự tụt hậu.
6


V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, những người cộng sản, dù đó là những người cộng
sản đã từng làm nên cuộc cách mạng vĩ đại chưa từng thấy trên thế giới, vẫn
cần phải học tập, học tập ngay một người bán hàng tầm thường. Người sẵn
sàng đổi một tá những người cộng sản kém hiểu biết để lấy một chuyên gia
thành thạo công việc, dù đó là chuyên gia tư sản. Vì vậy, V.I.Lênin còn yêu
cầu những người cộng sản “phải biết quý trọng khoa học, gạt bỏ thái độ
huênh hoang “cộng sản” của những nhà tài tử và của những anh chàng quan
liêu, phải học tập làm việc một cách có hệ thống, sử dụng chính ngay kinh
nghiệm của mình và thực tiễn của mình!”
1.2.3. Người đảng viên cộng sản phải có ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Người phê phán kịch liệt những thói quen dẫn đến vi phạm kỷ luật đảng
như: tính tự do tiểu tư sản, tính tản mạn, vô tổ chức kỷ luật, chia rẽ, bè phái…
Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở những nước mà giai
cấp vô sản chiếm thiểu số trong dân cư thì “chính đảng của giai cấp vô sản

phải thực hiện được, trong nội bộ của mình, một chế độ tập trung chặt chẽ và
một kỷ luật nghiêm ngặt”.
1.2.4. Người đảng viên cộng sản phải gắn bó mật thiết với quần chúng,
giáo dục, tổ chức quần chhúng thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách
của Đảng, là tấm gương mẫu mực cho quần chúng noi theo.
V.I.Lênin viết: “Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải là việc riêng
của Đảng cộng sản… mà là việc của tất cả quần chúng lao động”. Sức mạnh
của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân. Vì thế, “chỉ trông vào
bàn tay của những người cộng sản để xây dựng xã hội cộng sản, đó là một tư
tưởng hết sức ngây thơ. Những người cộng sản chỉ là một giọt nước trong đại
dương, một giọt nước trong đại dương nhân dân”. Song, họ có thể lãnh đạo
nhân dân đi theo con đường của mình nhờ họ vạch ra được và gương mẫu thực
hiện đường lối, chính sách đúng đắn, gắn bó mật thiết với quần chúng, tuyên
truyền, giáo dục cho quần chúng hiểu và tổ chức quần chúng thực hiện thắng
lợi đường lối, chính sách ấy. Trong quá trình đó, đảng viên phải nêu tấm
gương mẫu mực về lòng trunh thành với chủ nghĩa cộng sản, về ý thức tổ chức
kỷ luật, phẩm chất đạo đức và lối sống, nhất là học tập và công tác. Trong
7


quan hệ với quần chúng, đảng viên phải tìm hiểu, nắm bắt được tâm tư,
nguyện vọng và các sáng kiến của họ, phải giải quyết các nhu cầu chính đáng
của nhân dân, nhưng không được hạ thấp trình độ của mình xuống ngang với
quần chúng, không được mị dân, theo đuôi quần chúng.

8


Chương 2: QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ
CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG

2.1. Quan điểm của V.I.Lênin về Tổ chức của Đảng
Quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài trong những điều kiện khác nhau;
mỗi tổ chức muốn tồn tại và phát triển thì không chỉ có sự thống nhất cả ý chí
và hành động mà còn phải có cả những nguyên tắc để liên kết các thành viên,
thống nhất và điều khiển hành vi của các thành viên, vì vậy Lênin coi nguyên
tắc giữ vai trò như những “Đinh chốt” của một “dây xích”. Thiếu các nguyên
tắc về tổ chức thì sẽ không thành tổ chức và do đó không có sự thống nhất, với
tư cách là “Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga” thì càng phải có những
nguyên tắc cơ bản để cố kết các thành viên.
V.I.Lênin nói: “Sự thống nhất trong các vấn đề cương lĩnh và sách lược
là điều kiện tất yếu nhưng chưa đủ để đảm bảo sự thống nhất của Đảng và tập
trung hóa công tác của Đảng, muốn đạt được sự thống nhất trên đây thì phải
đạt được sự thống nhất về tổ chức nữa” (8, tr 454 - 455).
Theo V.I.Lênin chỉ có tỉnh tổ chức cao, mới đem lại cho Đảng sức mạnh
gấp nhiều lần số lượng của Đảng. “Tổ chức nhân sức mạnh lên hàng chục lần”
vì vậy: “tôi muốn trình bày một cách tuyệt đối, rõ ràng và chính xác rằng tôi
muốn và tôi đòi hỏi đảng đội tiên phong của giai cấp phải hết sức có tổ chức.
Người cho rằng “Tính tự giác của đội tiên phong ngoài những biểu hiện khác
còn biểu hiện ở chỗ nó biết tổ chức lại. Và khi tự tổ chức nó có sự thống nhất
ý chí và ý chí thống hất của hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu người tiên tiến
đã trở thành ý chí của cả giai cấp” (8, tr 286).
Công lao to lớn của Lênin là ở chỗ Người đã đề ra một cách hoàn chỉnh
cơ sở tổ chức đảng, nâng công tác tổ chức đảng lên khoa học.
Theo Lênin vấn đề xây dựng Đảng về tổ chức phải tuân thủ nguyên tắc
tập trung dân chủ; Người chỉ rõ: Mác đã nói rõ hệ thống tổ chức của liên đoàn,
từ đảng viên đến chi bộ, khu bộ, tổng khu bộ, Ban chấp hành Trung ương và
9


Đại hội liên đoàn đều phải phục tùng, tuân theo những quy định mà nội dung

của nó phù hợp với nội dung của nguyên tắc “Tập trung dân chủ”.
Về cơ quan lãnh đạo các cấp đều thực hiện chế độ dân chủ bầu cử ra;
mỗi chi bộ đều bầu chủ tịch và phó chủ tịch, Ban chấp hành bầu ra người lãnh
đạo, các khu bộ phải phục tùng tổng khu bộ, việc chỉ định tổng khu bộ do đại
hội tiến hành theo nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương.
Tổng khu bộ là cơ quan chấp hành quyền lực đối vơi các khu bộ; các
tổng khu bộ phải báo cáo với cơ quan quyền lực tối cao là đại hội, còn giữa các
kỳ đại hội thì báo cáo Ban chấp hành Trung ương, Ban chấp hành Trung ương
là cơ quan chấp hành quyền lợi của toàn liên đoàn và với tư cách đó, phải báo
cáo công tác với đại hội.
Đại hội có quyền lực lập pháp đối với toàn liên đoàn, tất cả những đề
nghị về sửa đổi Điều lệ Đảng được chuyển lên Ban chấp hành Trung ương và
cuối cùng được đưa ra đại hội, đại hội ra quyết định với tư cách là cơ quan cao
nhất.
Đó chính là biểu hiện trình độ chính trị và bản lãnh cách mạng của
những người Cộng sản chúng ta trong tình hình hiện nay.
2.2. Các nguyên tắc tổ chức của Đảng
Từ thực tiễn và tầm quan trọng trên. Trong tác phẩm “Một bước tiến, hai
bước lùi” Lênin đã đưa ra những nguyên tắc cơ bản về xây dựng Đảng vô sản
kiểu mới, như sau:
2.2.1. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đã được Mác - Ăngghen
nêu ra trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản năm 1848. Lúc này vì để chống lại
quan điểm của phái Mensêvích chủ trương xóa nhòa ranh giới giữa đảng và
giai cấp, coi đảng và giai cấp là một, Lênin phải khẳng định lại: Đảng là “Đội
tiên phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp”. Người chỉ rõ rằng,
những người nào nghĩ rằng dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, gần hết toàn bộ giai
cấp hay toàn bộ giai cấp một ngày kia sẽ đủ sức vươn mình lên đến chỗ đạt tới
trình độ giác ngộ và tích cực của đội tiên phong của mình, của đảng Dân chủ
10



xã hội của mình thì người ấy sẽ mắc cái bệnh của Manilốp và “chủ nghĩa theo
đuôi”. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, ngay cả tổ chức công đoàn cũng không
đủ sức bao hàm gần hết hay toàn bộ giai cấp công nhân
Là đội tiên phong, Đảng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp của giai cấp
công nhân, có lý luận tiên phong và có tổ chức chặn chẽ.
2.2.2. Đảng là bộ phận có tổ chức của giai cấp công nhân
Trong tác phẩm “Làm gì”, để chống lại phái Mensêvích với chủ trương là
mọi người bãi công, mọi giáo sư và học sinh đều có thể tự tuyên bố vào Đảng.
Lênin khẳng định lại: Đảng là một đội tiên phong của giai cấp thì phải có tổ
chức. Đảng chỉ nên thu nhận những phần tử ít nhất cũng phải chấp nhận một
tính tổ chức tối thiểu.
V.I.Lênin cho rằng: Đảng là bộ phận có tổ chức, điều đó có nghĩa, Đảng
là một chính thể có cố kết vững chắc, có kỷ luật nghiêm minh chặt chẽ, quy
định rõ những mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức, giữa bộ phận này với bộ
phận khác, giữa bộ phận với toàn bộ v.v…
Lênin còn nhấn mạnh rằng, trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản,
giai cấp vô sản không có vũ khí nào tốt hơn là sự tổ chức; Rằng tổ chức quả là
một vũ khí nhờ đó mà giai cấp vô sản sẽ tự giải phóng; rằng, đối với giai cấp
vô sản thì tổ chức là vũ khí đấu tranh giai cấp.
2.2.3. Đảng là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân
Theo Lênin, Đảng chẳng là những đội tiên phong, đội tiên phong có tổ
chức mà còn là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân. Lênin nói; chúng ta là
Đảng của giai cấp, bởi vậy hầu như toàn bộ giai cấp (và trong thời kỳ chiến
tranh, trong thời kỳ nội chiến thì toàn bộ giai cấp không trừ một người nào
cả) cần phải hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, phải triệt để xiết thật
chặt hàng ngũ chung quanh Đảng.
Sở dĩ Đảng có trách nhiệm và khả năng lãnh đạo tất cả các tổ chức của
giai cấp công nhân, hướng mọi hoạt động của tất cả các tổ chức của giai cấp

công nhân vào một mục đích chung là thủ tiêu chế độ bóc lột, xây dựng chế độ
xã hội chủ nghĩa. Vì Đảng bao gồm những phần tử tiên tiến giác ngộ nhất,
được vũ trang bằng lý luận khoa học và có tổ chức chặt chẽ.
11


2.2.4. Đảng được tổ chức theo chế độ tập trung
Để xứng đáng là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai
cấp thì Đảng phải được tổ chức theo chế độ tập trung.
Chế độ tập trung đòi hỏi Đảng phải có một điều lệ thống nhất, một kỷ luật
thống nhất, một cơ quan lãnh đạo thống nhất, số ít phục tùng số nhiều, cấp
dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Đại hội Đảng toàn quốc và Ban
Chấp hành Trung ương. Chỉ có như vậy mới bảo đảm cho Đảng thật sự thống
nhất và do đó mới thật sự có sức mạnh.
Lênin cũng khẳng định: Bênh vực chế độ tự trị, chống lại chế độ tập
trung, là một đặc điểm có tính nguyên tắc của chủ nghĩa cơ hội trong các vấn
đề tổ chức. Người chỉ ra biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của những phần tử trí
thức tham gia phong trào xã hội dân chủ là: “Cái tâm lý của người trí thức tư
sản của mình là ở trong số “những người được lựa chọn” đứng trên tổ chức
quần chúng và kỷ luật quần chúng”. Lênin cũng nhấn mạnh tập trung không
có nghĩa là xem nhẹ dân chủ, tập trung phải đi đôi với dân chủ, tập trung và
dân chủ là hai mặt không thể tách rời trong chế độ tổ chức của Đảng Mác-xít.
2.2.5. Đảng là hiện thân của sự liên lạc giữa đội tiên phong của giai
cấp công nhân và đông đảo quần chúng nhân dân lao động
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân chứ không phải bao gồm
hết toàn bộ giai cấp. Vậy đội tiên phong đó muốn tồn tại, phát triển và có đủ
lực lượng, sức mạnh hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình thì phải liên
hệ chặn chẽ với quần chúng. Lênin viết; “Muốn trở thành một Đảng dân chủ
xã hội thì cần phải được sự ủng hộ của chính giai cấp…”
Trong mối liên hệ với quần chúng, Đảng phải khắc phục khuynh hương

lệch lạc, vượt quá xa trình độ của quần chúng, xa rời quần chúng, đồng thời
cũng đề phòng khuynh hướng theo đuôi, hạ thấp trình độ Đảng ngang trình độ
quần chúng. Lênin viết: “Chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình, nhắm mắt trước
những nhiệm vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại, nếu
chúng ta quên mất sự khác nhau giữa đội tiền phong và tất cả số quần chúng
hướng theo đội tiện phong đó: nếu chúng ta quên mất rằng đội tiền phong có
12


nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đông đảo đó lên trình
độ tiên tiến ấy”.
2.2.6. Phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển của Đảng
Theo Lênin. Đảng phải luôn luôn tự phê bình và phê bình, tự vạch ra sai
lầm khuyết điểm, phân tích rõ nguyên nhân và tìm cách sửa chữa. Lênin coi
đây là một trong những căn cứ quan trọng để xem xét một Đảng có thật sự là
Đảng Mác-xít chân chính hay không. Lênin đã vạch mặt phái Mênsêvích lợi
dụng phê bình và phê bình vô nguyên tắc “Ngồi lê đôi mách ở bên ngoài đại
hội”, Người cho đó là hành vi vu khống, là hành động thiếu nhân cách.
Đảng ra đời, tồn tại, phát triển là để lãnh đạo cách mạng. Để thực hiện tốt
nhiệm vụ vẽ vang đó, Đảng phải được xây dựng ngày càng vững mạnh. Song
thực tiễn cách mạng luôn luôn vận động, nhiệm vụ cách mạng ngày càng nặng
nề, phức tạp hơn, hoạt động lãnh đạo của Đảng tuy đã được chủ nghĩa Mác Lênin soi sáng, dẫn dắt cũng không thể có những chỉ dẫn cặn kẽ trong hoạt
động xây dựng nội bộ cũng như trong lãnh đạo cách mạng, Đảng khó tránh
khỏi sai lầm, khuyết điểm. Theo V.I.Lênin, trong quá trình lãnh đạo Đảng
“Không thể tránh khỏi những khuyết điểm, sai lầm, thiếu sót được. Ai sợ khó
khăn trong việc kiến thiết xã hội chủ nghĩa, ai để cho khó khăn đó làm cho
mình khiếp đảm, ai tỏ ra tuyệt vọng hay hoang mang hèn nhát, người đó
không phải là một người xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy, Đảng phải vừa làm, vừa
tổng kết, rút kinh nghiệm, tức Đảng phải coi trọng tự phê bình và phê bình,
trước hết là tự phê bình.

V.I.Lênin cho rằng: “Thái độ của một chính đảng trước những sai lầm
của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để
xem xét đảng ấy có nghiêm túc không và có thật sự làm tròn nghĩa vụ của
mình đối với giai cấp mình và đối với quần chúng lao động không. Công khai
thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm, phân tích hoàn cảnh đã đẻ ra
sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sửa chữa sai lầm ấy, - đó là
dấu hiệu chứng tỏ một đảng nghiêm túc, đó là đảng làm tròn những nghĩa vụ
của mình, đó là giáo dục và huấn luyện giai cấp, rồi đấn quần chúng”, và
“Chúng ta không nên che giấu những sai lầm của chúng ta trước kẻ thù. Ai sợ
13


điều đó, người ấy không phải người cách mạng. trái lại, nếu chúng ta tuyên bố
công khai với công nhân: “Phải, chúng tôi đã phạm sai lầm”, như thế có
nghĩa là từ nay về sau chúng ta không tái phạm những sai lầm đó nữa và
chúng ta sẽ biết lực chọn thời cơ một cách tốt hơn”, “Nếu cứ giữ mãi sai lầm,
đi sâu thêm để bào chữa cho nó, “đưa nó đến chổ tột cùng” thì từ một sai lầm
chỏ, người ta luôn luôn có thể làm cho nó thành một sai lầm ghê gớm”. Hơn
nữa, “…Những sai lầm thường khi lại bổ ích, nếu người ta học tập được
những sai lầm đó, nếu những sai lầm đó tôi luyện con người” (10, Tr 51-52).
Lênin cho rằng; nếu không xây dựng Đảng theo những nguyên tắc tổ
chức trên đây thì giai cấp vô sản không tể nào giành được tháng lợi trong cuộc
đấu tranh để thiết lập chuyên chính vô sản… Lênin nêu ra những tiêu chuẩn về
sinh hoạt Đảng như các chế độ sinh hoạt trong nội bộ đảng, cơ cấu tổ chức, các
hình thức và phương pháp công tác của Đảng, Những tiêu chuẩn về sinh hoạt
đảng nói trên đã cụ thể hóa thành những nguyên tắc tổ chức trên đây.
Theo Lênin; để hoàn thành sứ mệnh của giai cấp công nhân thì Đảng vô
sản phải là một tổ chức chặt chẽ bao gồm những phần tử tiên tiến nất trong
phong trào công nhân và được trang bị bằn lý luận của Chủ nghĩa xã hội khoa
học. Ông khẳng định Đảng Cộng sản phải là một tổ chức chặt chẽ bởi sự kết

hợp Chủ nghĩa Mác với phong trào Công nhân.
Đảng đó phải tổ chức tập trung thống nhất theo nguyên tắc tự giác và
dân chủ, có kỳ luật sắt tức là một thứ kỷ luật dựa trên lòng tự giác, cố kết với
nhau, tư nguyện đấu trành vì sự nghiệp chung của giai cấp vô sản. Có liên hệ
chặt chẽ với đông đảo quần chúng lao động, tức là một đảng có tính quần
chúng, đủ khả năng lãnh đạo tập hợp giáo dục, dẫn dắt quần chúng lao động
đấu tranh cho sự toàn thắng của Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản.

14


Chương 3: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN
CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Sự vận dụng quan điểm về xây dựng đội ngũ đảng viên
Quan điểm của V.I.Lênin về tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản và
những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng có ý
nghĩa hết sức to lớn trong công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay.
Việc nghiên cứu, học tập một cách nghiêm túc tư tưởng đó sẽ giúp cho Đảng
ta có cơ sở khoa học trong việc xây dựng hình mẫu, tiêu chuẩn người đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở đó làm tốt hơn công tác xây dựng
đội ngũ đảng viên của đảng đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Trung thành với học thuyết về xây dựng chính Đảng cách mạng của giai
cấp công nhân, từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên, đặc
biệt là tư cách người đảng viên cộng sản giữ một vị trí quan trọng trong công
tác xây dựng đảng nói riêng và trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động nói chung. Đảng viên là lực lượng nòng cốt trong
bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo
của đảng cao hay thấp, việc tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước đạt hiệu quả nhiều hay ít phụ thuộc rất lớn ở chất

lượng đội ngũ đảng viên của Đảng.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra hình mẫu, tiêu chuẩn người đảng viên cộng sản rất phong phú
và sâu sắc, có thể khái quát một số nội dung chủ yếu sau đây.
Người đảng viên cộng sản phải là người:
- Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênnin; kiên trì phấn đấu vì sự nghiệp
cách mạng của dân tộc và của nhân loại; kết hợp tinh thần yêu nước, độc lập
dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng.
- Vừa có tài, vừa có đức, đức là gốc; tích cực rèn luyện, nâng cao đạo đức
cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
15


- Gắn bó mật thiết với nhân dân; luôn lấy dân làm gốc; vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân; thống nhất lời nói với
vịêc làm; thực hiện “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết, trước hết.
- Luôn giữ gìn đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.
- Kiên quyết đấu tranh chống các tư tưởng và hành động sai trái, phản
động, trước hết là chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, bệnh giáo điều.
- Chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước.
Vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của Người, Đảng ta đã đề ra
chuẩn mực về tư cách người đảng viên cộng sản phù hợp với yêu cầu của giai
đoạn cách mạng hiện nay. Điều I, Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta ghi rõ: “Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là
chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của
Đảng, đặt lợi ích của tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động

lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với
nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất
trong Đảng” (2,Tr 7).
3.2. Sự vận dụng nguyên tắc tổ chức của Đảng
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Để làm tròn sứ mệnh lịch
sử của đội tiên phong chiến đấu đó, đảng phải được tổ chức một cách chặn
chẽ, tập trung, thống nhất ý trí và hành động, muốn thực hiện được điều đó thì
đảng phải có những nguyên tắc để các thành viên trong tổ chức Đảng thực hiện
một cách tự giác. Qua nghiên cứu các nguyên tắc tổ chức trong Đảng của
Lênin cho chúng ta thấy, các nguyên tắc đó vẫn còn nguyên giá trị. Nó đã bảo
vệ tính chất tiên phong của Đảng, nâng cao danh hiệu đảng viên, phòng ngừa
phần tử cơ hội vào Đảng, từ đó mà bảo vệ vai trò tiên phong của Đảng về tổ
chức. Nó quy định rõ được những mối quan hệ giữa cá nhân và tổ chức, giữa
16


bộ phận này với bộ phận khác, giữa bộ phận với toàn bộ. Nhằm làm cho Đảng
thực sự trở thành tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, ở các nguyên tắc
chúng ta cũng thấy đòi hỏi Đảng phải có một điều lệ thống nhất, một kỷ luật
thống nhất, một cơ quan lãnh đạo thống nhất, số ít phục tùng số nhiều, cấp
dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng đại hội Đảng toàn quốc và Ban
Chấp hành Trung ương, chỉ có như vậy mới bảo đảm cho Đảng thật sự thống
nhất và do đó mới thật sự có sức mạnh. Bên cạnh đó các nguyên tắc của Lênin
còn có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó vạch trần khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa về
mặt tổ chức của phái Mensêvích, Lênin cho rằng: Lẽ tự nhiêm là chủ nghĩa cơ
hội về mặt cương lĩnh thì gắn liền với chủ nghĩa cơ hội về mặt sách lược, và
gắn liền với chủ nghĩa cơ hội trong các vấn đề tổ chức.
Qua hơn 25 năm đổi mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam,

đất nước có những bước phát triển đáng kể. Công cuộc đổi mới ở nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực:
kinh tế tăng trưởng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu và nhiều loại hình thị trường; đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt, những vấn đề về phát triển nền văn hóa, xã hội, con
người có nhiều tiến bộ; chế độ chính trị - xã hội ổn định; hệ thống chính trị và
khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường, quan hệ đối ngoại
có bước phát triển mới và ngày càng mở rộng trong khu vực và trên thế giới, vị
thế của Việt Nam trên trường Quốc tế ngày được nâng cao. Nhận thức về lý
luận và tổng kết thực tiễn được đẩy mạnh; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức Đảng được nâng cao, không ngừng đổi mới vai trò hoạt động
hệ thống chính trị, Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh v.v. ..
Đạt được những thành tựu trên là do Đảng ta luôn giữ vững và thực hiện
tốt vai trò lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là Đảng ta đã thường xuyên thực hiện
tốt các nguyên tắc trong xây dựng Đảng. Đó là nguyên tắc Tập trung dân chủ;
Tự phê bình và phê bình; Đoàn kết thống nhất trong Đảng; Mối liên hệ giữa
Đảng và nhân dân; Hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
Ngày nay, các thế lực phản động vẫn đang tấn công điên cuồng vào chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với Nước ta để xây dựng thành
17


công Chủ nghĩa xã hội và tiến lên Chủ nghĩa cộng sản thì phải kiên quyết
chống lại sự chống phá của các thế lực thù địch nhằm phủ nhận vai trò lãnh
đạo của Đảng cộng sản, phủ nhận thành quả của đường lối đổi mới của Đảng
ta và con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đứng trước sự chống
phá của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi hơn, bọn cơ hội chính trị ở trong
nước đưa ra các luận điệu xuyên tạc và phát tán các tài liệu có quan điểm
chống đối tuyên truyền nói xấu chế độ và Đảng ta, xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc
đường lối, chính sách, ngoài ra còn cường điệu một số khuyết điểm, sai lầm cụ

thể của chúng ta, lợi dụng những sơ hở của chúng ta để khuyết sâu, nâng cao
quan điểm....để minh chứng cho các luận điệu nguỵ biện thâm hiểm của chúng.
Đặc biệt đáng chú ý là chúng thường dùng các chiêu bài “Dân chủ”, “nhân
quyền”, “Tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo”, “Ly khai dân tộc”… để kích động,
gây rối, chia rẽ nội bộ của Đảng ta.
Trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ chủ yếu của cuộc đấu tranh chống
chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng của Đảng là tăng cường
giáo dục một cách sâu rộng trong Đảng và trong toàn xã hội về chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nước. Thực sự coi giáo dục lý luận chính trị cho đảng viên, cán bộ chủ chốt
các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị xã hội.. . Và các lực lượng khác trong
xã hội đảm bảo cho họ luôn kiên định, giữ vững mục tiêu, lý tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định sự lãnh đạo của Đảng, nhất trí cao
và có trách nhiệm vận dụng thực hiện thành công nghị quyết đại hội X; mặc
khác phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận để tiếp tục phát triển chủ nghĩa
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm cung cấp vũ khí lý luận sắc bén, nâng
cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng
viên và nhân dân để bác bỏ có hiệu quả các luận điệu sai trái của kẻ thù. Để
chiến thắng triệt để trong cuộc đấu tranh này, điều quan trọng là toàn Đảng, toàn
dân phải là một khối thống nhất nhằm thực hiện thành công tinh thần nghị quyết
Đại hội X của Đảng đề ra: nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Và mỗi thắng lợi trong sự
18


nghiệp này sẽ tăng thêm hiệu quả của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng góp
phần xây dựng đảng trong sạch vững mạnh trên các lĩnh vực đủ sức chèo lái con
thuyền cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng

19



KẾT LUẬN
Nghiên cứu các quan điển của V.I.Lênin về Đảng và xây dựng Đảng giúp
chúng ta nhận thức đầy đủ và đúng đắn vai trò lịch sử và sự cống hiến vĩ đại
của Ông đối với phong trào cộng sản và công nhân trên toàn thế giới; qua đó
chúng ta khẳng định không có học thuyết nào có thể thay thế được chủ nghĩa
Mác- Lênin. Nhất là những tư tưởng về đảng viên, tổ chức cơ sở đảng và các
nguyên tắc tổ chức của Đảng, được V.I.Lênin đề cập trong các tác phẩm viết
sau cách mạng tháng Mười, cho đến nay những quan điểm đó vẫn còn giá trị,
cả về lý luận và thực tiễn, đối với công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
trong điều kiện Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội hiện nay. Qua các
quan điểm của V.I.Lênin đã chỉ cho Đảng ta thấy được rằng; trong công tác
đảng viên, công tác tổ chức, công tác cán bộ phải giữ vững nguyên tắc, không
thoả hiệp, phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là
đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp - đặc biệt là cấp cơ sở. Để xây dựng các tổ
chức đảng luôn trong sạch, vững mạnh; điều cốt lõi là phải thường xuyên đẩy
mạnh công tác giáo dục chính trị; nâng cao tinh thần giác ngộ cách mạng, giữ
vững bản chất giai cấp công nhân; đồng thời, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ kế cận cho Đảng, đảm bảo về số lượng và chất lượng, có lý tưởng
cách mạng và tự nguyện phấn đấu hy sinh vì lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa;.
Phải thường xuyên đấu tranh tự phê bình và phê bình, phê bình, trên quan
điểm "kịp thời, đúng lúc, đúng chổ, có lý luận sắc bén và tình đồng chí, đồng
đội thân thiết.
Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất
nước; với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, tự phê bình
và phê bình nghiêm túc, thẳng thắn, Đảng đã chỉ ra được những ưu điểm,
khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân, đề ra giải phát thiết thực để phát huy tích
cực, hạn chế tiêu cực; nhờ đó mà sức mạnh của Đảng, của khối đại đoàn kết
toàn dân được phát huy, công tác xây dựng Đảng đạt được kết quả tích cực.


20


Đảng ta đang tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng trong toàn Đảng và toàn xã hội; xác định đây là nhiệm vụ quan trọng,
thường xuyên và xuyên suốt trong công tác lãnh đạo của Đảng. Đây là một
trong những biện pháp cơ bản để giáo dục Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; đảm bảo thực hiện thắng lợi Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của
Đảng; là một trong những động lực chính trị quan trọng góp phần tăng cường
sức mạnh của Đảng, của dân tộc trước đà phát triển mới của đất nước. Thắng
lợi của cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng trước hết tuỳ thuộc vào nhận
thức, tinh thần trách nhiệm, quyết tâm hành động và sự chỉ đạo chặt chẽ,
thường xuyên của các cấp uỷ đảng; sự phấn đấu tự giác của từng cán bộ, đảng
viên và sự ủng hộ của toàn dân.
Với niềm tự hào và niềm tin sâu sắc vào Đảng quang vinh, toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta một lòng đi theo Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy mạnh mẽ truyền thống vẻ vang của dân tộc,
của Đảng Cộng sản Việt Nam, vững bước tiến lên trong trên con đường đổi
mới, đoàn kết, hội nhập và phát triển bền vững, xây dựng một Nước Việt Nam
"Hòa bình, ổn định và phát triển" hướng tới mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh".

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác, Ăng-ghen: Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995.
2. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam [2011], Nxb CTQG, Hà Nội;
3. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội, 2002.
4. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002.
5.

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1996.

6.

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ VI (lần 2) BCHTW,
Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1999.

7. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2011.
8. V.I.Lênin Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978.
9. V.I.Lênin Toàn tập, tập 34, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978.
10. V.I.Lênin Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978.
11. V.I.Lênin Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978.

22


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU ……………...…………………………………………………
1
NỘI DUNG ……………..
……………………………………………….3

Chương 1: QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ ĐẢNG VIÊN…...
….3
1.1. Về đảng viên ……………………………………………….…….
….3
1.2. Về tư cách người đảng viên Cộng sản ……….…………...…….…
5
1.2.1. Đảng viên Cộng sản là người giác ngộ lý tưởng Cộng sản chủ
nghĩa ………….
…………………………………………………………………5
1.2.2. Đảng viên Cộng sản phải có trình độ văn hoá, lý luận, chuyên
môn nghiệp vụ và năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao……………..
…..6
1.2.3. Người đảng viên cộng sản phải có ý thức tổ chức kỷ luật
cao…...7
1.2.4. Người đảng viên cộng sản phải gắn bó mật thiết với quần
chúng, giáo dục, tổ chức quần chhúng thực hiện thắng lợi đường lối, chính
sách của Đảng, là tấm gương mẫu mực cho quần chúng noi
theo……………………...7
Chương 2: QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN VỀ CÁC NGUYÊN TẮC
TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG ………………….………….…………………….
……….9
23


2.1. Quan điểm của V.I.Lênin về Tổ chức của Đảng ……….…………9
2.2. Các nguyên tắc tổ chức của Đảng …………………….………….10
2.2.1. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân ……………….…
10

2.2.2. Đảng là bộ phận có tổ chức của giai cấp công nhân…..………11

2.2.3. Đảng là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân….11
2.2.4. Đảng được tổ chức theo chế độ tập trung ……………….
……..12
2.2.5. Đảng là hiện thân của sự liên lạc giữa đội tiên phong của giai
cấp công nhân và đông đảo quần chúng nhân dân lao động ………………..12
2.2.6. Phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển của Đảng.…..….13
Chương 3: SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA V.I.LÊNIN CỦA
ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .................................................15
3.1. Sự vận dụng quan điểm về đảng viên ……………………..……..15
3.2. Sự vận dụng nguyên tắc tổ chức trong Đảng …….……………...16
KẾT LUẬN ………………………………………..……….
…………..20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………….…….22

24



×