Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

TIỂU LUẬN KINH TẾ HỌC NÂNG CAO PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TỪ NĂM 2016 ĐẾN HẾT 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2021

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.68 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐH KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH
KHOA KINH TẾ

BÀI TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ HỌC NÂNG CAO
TÊN CHỦ ĐỀ: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM
TỪ NĂM 2016 ĐẾN HẾT 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2021

Họ và tên:
Ngày sinh:
Lớp:


PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................2
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LẠM PHÁT..............................................2
1.1. Khái niệm về lạm phát............................................................................2
1.2. Đo lường lạm phát..................................................................................3
1.3. Phân loại lạm phát..................................................................................5
1.3.1. Phân loại theo mức độ của tỷ lệ lạm phát hay dựa theo định lượng5
1.3.2. Căn cứ vào định tính.......................................................................6
1.3.3. Căn cứ theo mức độ của tỷ lệ lạm phát...........................................7
1.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát.................................................................8
1.4.1. Lạm phát do cầu kéo.......................................................................8
1.4.2. Lạm phát do chi phí đẩy..................................................................9
1.4.3. Lạm phát kéo dài...........................................................................10
1.4.4. Các nguyên nhân khác...................................................................10
1.5. Tác động của lạm phát..........................................................................11
PHẦN 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 2016
– 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2021........................................................................12
1. Thực trạng lạm phát năm 2016................................................................12


2. Thực trạng lạm phát năm 2017................................................................13
3. Thực trạng lạm phát năm 2018................................................................13
4. Thực trạng lạm phát năm 2019................................................................14
5. Thực trạng lạm phát năm 2020................................................................15
6. Thực trạng lạm phát 6 tháng đầu năm 2021............................................16
PHẦN 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT............................17
KẾT LUẬN........................................................................................................19
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................20

1


PHẦN MỞ ĐẦU
Lạm phát vốn dĩ là vấn đề nhạy cảm của một quốc gia, là một trong số các
chỉ tiêu để đánh giá trình độ kinh tế phát triển của một quốc gia, song lạm phát
cũng chính là cơng cụ gây trở ngại trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất
nước. Chính sách tiền tệ và chính sách tài chính của nhà nước chính là nguyên
nhân sâu xa dẫn đến tình trạng lạm phát và làm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh
tế quốc dân, đến đời sống xã hội. Cùng với các nước khác trên thế giới, Việt
Nam cũng đang tìm kiếm giải pháp phù hợp với nền kinh tế đất nước để kìm
hãm sự lạm phát giúp phát triển toàn diện nước nhà.
Trong sự phát triển đa dạng và phong phú của nền kinh tế hiện nay,
nguyên nhân và ảnh hưởng của lạm phát cũng ngày càng phức tạp, việc tìm
hiểu, nghiên cứu về lạm phát, đánh giá, phân tích và đưa ra những giải pháp để
chống và giảm tỉ lệ lạm phát có vai trị to lớn góp phần vào sự phát triển của nền
kinh tế nói riêng và đất nước nói chung.
Vì vậy, trong phạm vi môn học, em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích tình
hình lạm phát của Việt Nam từ năm 2016 đến hết 6 tháng đầu năm 2021” để tìm
hiểu và nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chắc chắn cịn nhiều thiết
sót, nên em kính mong nhận được sự góp ý chân thành của cơ giáo để bài tiểu

luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


PHẦN NỘI DUNG
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LẠM PHÁT
1.1. Khái niệm về lạm phát
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện
khi các yêu cầu của các quy luật kinh tế hàng hóa khơng được tn thủ một cách
đúng đắn, đặc biệt trong số đó là quy luật lưu thơng tiền tệ. Ở đâu cịn sản xuất
hàng hóa, cịn tồn tại những quan hệ hàng hóa - tiền tệ thì ở đó cịn tiềm ẩn nguy
cơ xảy ra lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thơng tiền
tệ bị vi phạm.
Ban đầu chưa có một định nghĩa thống nhất về lạm phát, vì vậy đã có
nhiều quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế học:
+ Trong bộ “Tư bản” nổi tiếng của mình, C.Mác có viết: “Việc phát hành
tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thơng nhờ các
đại diện tiền giấy của mình”. Điều này có nghĩa là nếu như khối lượng tiền giấy
do nhà nước phát hành để đưa vào lưu thông vượt quá số lượng vàng thực chất
mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy sẽ giảm xuống và kéo theo đó là tình
trạng lạm phát xuất hiện. Từ đây, ơng cũng ngụý rằng lạm phát là “bạn đường”
của chủ nghĩa tư bản. Khơng những chủ nghĩa tư bản bóc lột người lao động
bằng giá trị thặng dư mà còn gây ra lạm phát khiến cho tiền lương thực tế mà
người lao động thực sự nhận được bị giảm sút.
+ Còn Milton Friedman lại đưa ra quan niệm khác: “Lạm phát là việc giá
cả tăng nhanh và kéo dài”. Ông đã chỉ ra mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa
cung tiền và lạm phát khi cho rằng lạm phát là một hiện tượng tiền tệ và khi
cung tiền tăng nhanh hơn sản lượng thì đó chính là khởi đầu của lạm phát. Một

số nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái Keynes đều tán thành ý kiến đó của
Friedman. Họ cho rằng khi thị trường tiền tệ phát triển, ảnh hưởng đến nền kinh
tế quốc dân của mỗi nước thì lạm phát có thể xảy ra bất kì thời điểm nào. Nó
chính là một hiện tượng tất yếu của tài chính – tiền tệ.
Một vài quan điểm khác như:
+ Theo Karl-Marx: “Lạm phát là sự phát hành tiền mặt quá mức cần thiết”
+ V.LLenine: “Lạm phát là sự thừa ứ tiền giấy trong lưu thông”
3


+ R.Dornbusch và Fisher: “Lạm phát là tình trạng mức giá chung của nền
kinh tế tăng lên”
Các khái niệm trên đều dựa trên các đặc trưng:
+ Lượng tiền lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất
giá.
+ Mức giá cả chung tăng lên
Vì vậy, nhìn chung lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục
của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào
đó. Khi mức giá chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và
dịch vụ hơn so với trước đây, do đó lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên
một đơn vị tiền tệ. Khi so sánh với các nước khác thì lạm phát là sự giảm giá trị
tiền tệ của một quốc gia này so với các loại tiền tệ của quốc gia khác. Theo
nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu lạm phát của một loại tiền tệ tác động đến phạm
vi nền kinh tế một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu lạm phát
của một loại tiền tệ tác động đến phạm vi nền kinh tế sử dụng loại tiền tệ đó.
Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một vấn đề gây tranh cãi giữa
các nhà kinh tế học vĩ mô.
1.2. Đo lường lạm phát
Việc tính tốn được lạm phát của nền kinh tế trong từng giai đoạn nhất
định (thường là 1 năm) là rất quan trọng với mỗi quốc gia để đưa ra các chính

sách kinh tế vĩ mơ phù hợp. Để phục vụ cho việc đó, các nhà kinh tế sử dụng chỉ
tiêu tỉ lệ lạm phát được tính bằng phần trăm thay đổi trong mức giá chung. Hiện
nay tồn tại 3 chỉ tiêu để biểu thị chỉ số giá, bao gồm:
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là chỉ tiêu phản ánh mức chi phí nói chung mà
một người tiêu dùng điển hình bỏ ra để mua hàng hóa và dịch vụ. Đây cũng
được xem là chỉ tiêu phổ biến nhất, được hầu hết các quốc gia sử dụng để tính tỉ
lệ lạm phát vì nó gắn liền với đời sống hàng ngày của người dân.

Trong đó:
4


+ CPIt: chỉ số giá tiêu dùng ở năm t
+ Pit và Pi0 là mức giá của sản phẩm i trong năm t và năm 0
+ Qi0 là sản lượng sản phẩm i trong năm 0
+ Năm 0 là năm gốc
Chỉ số giá sản xuất hay chỉ số giá bán buôn (PPI) thường được các doanh
nghiệp hay các hãng kinh doanh quan tâm. Chỉ tiêu này cho biết chi phí mà
doanh nghiệp phải bỏ ra để mua một giỏ hàng hóa và dịch vụ
Chỉ số giảm phát hay chỉ số điều chỉnh GDP (Id) thường được dùng để
điều chỉnh GDP danh nghĩa về GDP thực tế và chỉ số này cũng giúp các quốc
gia có thể đánh giá khái quát được tình trạng giá cả của nước mình. Chỉ số này
tính theo giá thị trường hay giá hiện hành được sử dụng trong tính GDP nhằm
phản ánh những biến động trong giá cả của tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ
tồn tại trong nền kinh tế quốc gia.

Trong đó:
+ GDPdn: GDO danh nghĩa năm t
+ GDPt: GDP thực năm t
+ Qit: Khối lượng sản phẩm i được sản xuất ở năm t

+ Pit: Đơn giá sản phẩm i ở năm t
+ Pi0: Đơn giá sản phẩm i ở năm gốc
Các chỉ số giá khác được sử dụng rộng rãi cho việc tính tốn lạm phát giá
cả bao gồm:
Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo lường sự thay đổi trung bình trong giá nhà
sản xuất trong nước nhận được cho đầu ra của họ. Điều này khác với chỉ số CPI
trong đó trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể làm cho số tiền nhận của nhà sản
xuất khác với những gì người tiêu dùng trả. Ngồi ra cịn thường có một sự
chậm trễ giữa sự gia tăng chỉ số PPI và bất kỳ sự gia tăng cuối cùng nào trong
5


chỉ số CPI. Chỉ số giá sản xuất đo áp lực được đưa vào sản xuất do chi phí
nguyên liệu của họ. Điều này có thể được "truyền" cho người tiêu dùng, hoặc nó
có thể được hấp thụ bởi lợi nhuận, hoặc được bù đắp bởi năng suất ngày càng
tăng. Ở Ấn Độ và Hoa Kỳ, một phiên bản cũ của PPI được gọi là Chỉ số giá bán
buôn.
Chỉ số giá hàng hóa, đo lường giá của một lựa chọn các mặt hàng. Hiện
nay chỉ số giá hàng hóa được gia quyển bằng tầm quan trọng tương đối của các
thành phần đối với chi phí "tất cả trong" một nhân cơng.
Chỉ số giá cơ bản: vì giá thực phẩm và dầu có thể thay đổi nhanh chóng
do sự thay đổi trong điều kiện cung và cầu trong thị trường thực phẩm và dầu,
nó có thể khó phát hiện các xu hướng dài hạn trong mức giá khi những giá này
được bao gồm. Vì vậy hầu hết cơ quan thống kê cũng báo cáo một đo lường 'lạm
phát cơ bản', trong đó loại bỏ các thành phần dễ bay hơi nhất (như thực phẩm và
dầu) khỏi một chỉ số giá rộng như chỉ số CPI. Vì lạm phát cơ bản là ít bị ảnh
hưởng bởi nguồn cung ngắn hạn và điều kiện nhu cầu tại các thị trường cụ thể,
các ngân hàng trung ương dựa vào nó để đo lường tốt hơn các tác động lạm phát
của chính sách tiền tệ hiện tại.
1.3. Phân loại lạm phát

1.3.1. Phân loại theo mức độ của tỷ lệ lạm phát hay dựa theo định
lượng
Dựa theo mức độ nghiêm trọng của tỷ lệ lạm phát tính theo từng năm, các
nhà kinh tế học chia lạm phát thành 3 loại, bao gồm: Lạm phát vừa phải, lạm
phát phi mã và siêu lạm phát.
- Lạm phát vừa phải được đặc trưng bởi mức giá tăng chậm và nhìn chung
là có thểdự báo trước được vì tỷ lệ lạm phát qua từng năm tương đối ổn định,
khoảng dưới 10%/năm. Đây là mức lạm phát khá lý tưởng đối với nền kinh tế
bởi những tác động tiêu cực của lạm phát là khơng đáng kể mà thậm chí nó cịn
có thể giúp nền kinh tế có động lực để phát triển. Khi nền kinh tế trải qua lạm
phát vừa phải, dân chúng và các doanh nghiệp vẫn sẵn sàng nắm giữ tiền mặt để
phục vụ mục đích giao dịch và kí kết các hợp đồng kinh tế có thời hạn dài vì
mọi người dự đốn rằng đồng tiền sẽ không bị mất giá quá nhiều trong tương lai.

6


- Lạm phát phi mã là lạm phát ở mức hai hoặc ba con số trong một năm,
từ 10 đến dưới 100%/năm. Đối với một số nền kinh tế phát triển, lạm phát phi
mã ở mức thấp vẫn có thể được chấp nhận. Tuy nhiên, nếu tỷ lệ lạm phát này
được duy trì trong một thời gian dài sẽ gây ra những tác động tiêu cực đối với
nền kinh tế. Đồng tiền quốc gia sẽ bị mất giá nhanh chóng khiến cho người dân
mất niềm tin vào tiền tệ nước mình và sẽ có xu hướng tích trữ vàng, ngoại tệ
mạnh hay đầu tư vào bất động sản.
- Siêu lạm phát là tỷ lệ lạm phát đặc biệt rất cao, mức lạm phát hàng tháng
từ 50% trở lên. Như vậy, tỷ lệ lạm phát một năm có thể lên tới hơn 13.000%.
Nhìn chung, các cuộc siêu lạm phát đã từng xảy ra đều bắt nguồn từ việc cung
tiền tăng lên quá mức và điều này thường xuất phát từ việc phải bù đắp thâm hụt
ngân sách kéo dài của Chính phủ các quốc gia. Một ví dụ điển hình đó là siêu
lạm phát ở Đức giai đoạn 1921-1923 do nhu cầu bồi thường cho chiến tranh và

tái thiết nền kinh tế sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Do vậy mà chi tiêu của
Chính phủ Đức đã tăng mạnh và cung tiền trong nền kinh tế cũng theo đó mà
tăng cao đột biến, kết quả là Đức đã phải trải qua mức lạm phát hơn 1 triệu phần
trăm vào năm 1923. Cuộc siêu lạm phát ở Đức đã gây ra những tác động vô
cùng khủng khiếp đối với nền kinh tế của quốc gia này. Việt Nam của chúng ta
cũng đã từng trải qua thời kì siêu lạm phát vào năm 1986-1988 khi Nhà nước
vừa thực hiện công cuộc đổi mới đất nước với mức tăng giá phổ biến hàng tháng
rất cao từ 15-20%.
1.3.2. Căn cứ vào định tính
a. Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
Lạm phát cân bằng được hiểu là tỷ lệ lạm phát tăng lên tương ứng với
mức tăng lên của thu nhập. Bởi vậy, lạm phát dù có xảy ra cũng khơng có ảnh
hưởng quá lớn tới đời sống của người lao động.
Lạm phát không cân bằng được hiểu là tỷ lệ lạm phát tăng lên nhưng
không tương ứng với mức tăng lên của thu nhập. Điều đó sẽ khiến cho thu nhập
thực tế của người lao động bị giảm sút; hay nói cách khác, sức mua của thu nhập
bằng tiền sẽ giảm và điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người lao
động. Thông thường, loại lạm phát này thực tế sẽ xảy ra thường xuyên hơn so
với lạm phát cân bằng.
7


b. Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường
Lạm phát dự đoán trước là loại lạm phát xảy ra trong một khoảng thời
gian tương đối dài, có xu hướng ổn định và đều đặn qua các năm. Vì vậy, tỷ lệ
lạm phát có thể được tính tốn trước một cách khá chính xác cho năm tiếp theo.
Với loại lạm phát này, người dân có thể dễ dàng thích nghi và chấp nhận nó như
là một thực tế của cuộc sống nên các tác động tiêu cực của lạm phát đối với nền
kinh tế là không quá đáng kể.
Lạm phát bất thường là loại lạm phát xảy ra mang tính chất đột biến mà

chưa từng có tiền lệ trước đó. Chính bởi tính bất thường này mà các chủ thể
trong nền kinh tế chưa thể thích nghi hay thay đổi thói quen sẵn có của mình khi
lạm phát xảy ra quá đột ngột; và điều đó sẽ khiến đời sống của họ bị thay đổi,
tiền lương cũng chưa thể điều chỉnh ngay lập tức để phù hợp với tỷ lệ lạm phát
mới. Do đó, người dân có xu hướng mất niềm tin vào các chính sách nhằm ổn
định lạm phát của Chính phủ và điều đó đến lượt nó sẽ gây ra những tác động
tiêu cực đối với nền kinh tế của quốc gia.
c. Lạm phát thông thường và lạm phát lõi
Lạm phát thông thường là lạm phát không loại bỏ đi các biến động mang
tính tạm thời hay các cú sốc giá. Chính vì vậy, lạm phát thơng thường có thể
khơng cho thấy được chính xác tình trạng sức khỏe của nền kinh tế quốc gia.
Tuy vậy, nó lại có ý nghĩa đối với người dân bởi nó phản ánh những biến động
trong giá cả sinh hoạt thực tế mà họ phải chi trả hàng ngày trong cuộc sống của
mình.
Lạm phát lõi hay cịn gọi là lạm phát cơ bản là lạm phát đã loại bỏ đi
những biến động mang tính chất tạm thời trong chỉ số giá tiêu dùng CPI. Hay
nói cách khác, lạm phát lõi phản ánh những tác động mang tính dài hạn và ổn
định của cầu tới sự biến động trong mức giá cả. Lạm phát lõi loại bỏ những biến
động hay cú sốc về giá tạm thời của một số mặt hàng trong nền kinh tế như giá
thực phẩm hoặc giá năng lượng. Bởi nếu chỉ có một cú sốc diễn ra thì mức giá
chỉ có thể đột ngột tăng lên trong một thời gian ngắn rồi sẽ lại trở về như cũ, mà
điều đó thì khơng dẫn tới hiện tượng lạm phát. Lạm phát lõi được xem là chỉ tiêu
quan trọng được NHTW các nước xem xét khi đề ra các chính sách tiền tệ cho
quốc gia mình. Hiện nay, loại lạm phát này đang được nhiều quốc gia trên thế
giới sử dụng như Mỹ, Canada, Nhật Bản…
8


1.3.3. Căn cứ theo mức độ của tỷ lệ lạm phát
Lạm phát thấp là mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 0.3% đến

dưới 10%/năm.
Lạm phát cao là mức lạm phát tương ứng với mức độ tăng giá từ hai tới
ba chữ số một năm và loại lạm phát này cịn có thể được gọi là lạm phát phi mã,
nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Thực tế, Việt Nam và đa số các nước thực
hiện đổi mới cơ chế quản lý, từ kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền kinh tế thị trường đều đã từng phải trải qua thời kì lạm phát phi mã trong
những năm đầu thực thi công cuộc cải cách.
1.4. Nguyên nhân gây ra lạm phát
Khi một quốc gia có nền kinh tế sản xuất yếu kém, hàng hóa khan hiếm,
điều tất yếu xảy ra chính là giá cả tăng. Đến một giai đoạn nào đó, nhà nước
phải in những đồng tiền có mệnh lớn để hỗ trợ lưu thông, tránh bất tiện cho
người dân khi mua hàng, lúc này lạm phát bắt đầu xảy ra. Có nhiều nguyên nhân
gây ra lạm phát nhưng do cầu kéo và chi phí đẩy là hai nguyên nhân chính.
1.4.1. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát xảy ra khi nhu cầu của một hàng hóa tăng mạnh, khiến giá của
hàng hóa đó tăng theo. Điều này khiến giá cả của những hàng hóa khác trên thị
trường tăng theo như “phản ứng dây chuyền”. Lạm phát do tăng lên về nhu cầu
của thị trường được gọi là lạm phát do cầu kéo.

9


Diễn ra do tổng cầu AD tăng nhanh hơn tiềm năng sản xuất của một quốc
gia, sẽ gây ra sự tăng giá cả và lạm phát xảy ra.
Khi sản lượng tăng tới Y1, giá tăng từ P0 đến P1 (là đoạn lạm phát), lạm
phát được coi là do sự tồn tại của mức cầu quá cao.
AD tăng có thể do:
- Khu vực tư nhân lạc quan về nền kinh tế, nên tiêu dùng tự định và đầu tư
tự định tưng lên.
- Chính phủ tăng chi tiêu.

- Ngân hàng trung ương tăng lượng cung tiền.
1.4.2. Lạm phát do chi phí đẩy
Các loại chi phí trong q trình sản xuất như: tiền lương, chi phí ngun
vật liệu, máy móc, thuế,... Một khi giá cả của một haowcj một vài yếu tố này
tăng lên thì sẽ tác động làm tăng giá của hàng hóa và dịch vụ nhằm bảo tồn lợi
nhuận cho cơng ty. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế tăng lên do những
chi phí yếu tố đầu vào tác động được gọi là lạm phát do chi phí đẩy.

Xuất phát từ sự sụt giảm trong tổng cung, mà nguyên nhân là do chi phí
sản xuất của nền kinh tế tăng lên. Đường tổng cung dịch chuyển sang trái từ AS 0
sang AS1. Kết quả sản lượng sụt giảm từ Y 0 xuống Y1, mức giá sẽ tăng từ P0 lên
P1, nền kinh tế vừa suy thoái vừa lạm phát.
Các nhân tố làm tăng chi phí:
10


- Chi phí tiền lương: tăng do áp lực từ cơng đồn, từ chính sách điều
chỉnh lương của chính phủ làm tiền lương tăng lên vượt mức tăng năng suất lao
động.
- Lợi nhuận: Nếu doanh nghiệp có quyền lực thị trường có thể đẩy giá
tăng lên để kiếm lợi nhuận cao hơn.
1.4.3. Lạm phát kéo dài
Trong giai đoạn xảy ra lạm phát kéo dài (hay còn gọi là lạm phát ỳ), mức
giá cả chung tăng theo một tỷ lệ khá ổn định và tương đối thấp. Đây là loại lạm
phát có thể dự tính được và được quy định rõ ràng trong hợp đồng lao động, cho
thuê, cho vay,.... Lạm phát kéo dài là sự kết hợp của lạm phát cầu kéo và lạm
phát chi phí đẩy. Nền kinh tế ổn định, và các thành phần trong nền kinh tế dự
đốn rằng sẽ có lạm phát ở mức độ tương tự nên sẽ điều chỉnh lãi suất danh
nghĩa, tiền lương, giá cả,... theo tỷ lệ lạm phát của các năm trước, làm cho giá cả
thực sự tăng lên theo dự đốn.


1.4.4. Các ngun nhân khác
Ngồi ra cịn có các dạng lạm phát khác tác động đến nền kinh tế sau đây:
Lạm phát do cơ cấu: Theo xu hướng của thị trường, các doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh yếu kém buộc phải tăng lương cho nhân viên, điều này khiến
giá thành sản phẩm tăng dẫn đến giá sản phẩm tăng dẫn đến phát sinh lạm phát.
Lạm phát do xuất khẩu: Khi xuất khẩu tăng, sản phẩm được thu gom để
xuất khẩu, dẫn đến lượng cung trong nước giảm. Điều này khiến mất cân bằng
cung cầu trong nước, dẫn đến phát sinh lạm phát.

11


Lạm phát do nhập khẩu: Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng dẫn đến mức
giá bán hàng hóa đó trong nước bị đội lên, khiến mức giá chung của hàng hóa
trong nước tăng theo hình thành lạm phát.
Lạm phát tiền tệ: Lượng cung tiền trong lưu thông tăng do chi tiêu của
Chính phủ tăng được bù đắp bằng cách in tiền, ngân hàng trung ương thu mua
ngoại tệ,...dẫn đến phát sinh lạm phát.
1.5. Tác động của lạm phát
Lạm phát không phải chỉ tác động theo hướng tiêu cực, nó cịn có những
mặt tác động tích cực đến nền kinh tế
Tác động tích cực:
Nếu giữ mức độ lạm phát ở mức vừa phải là từ 2 - 5% đối với các nước
phát triển và dưới 10% đối với các nước đang phát triển thì sẽ mang lại những
điều tích cực đối với nền kinh tế đó:
Kích thích chi tiêu trong nước, kích thích các doanh nghiệp vay nợ để đầu
tư sản xuất kinh doanh giúp giảm bớt thất nghiệp trong cả nước.
Cho phép chính phủ có thêm nhiều cơng cụ kích thích đầu tư vào các lĩnh
vực yếu kém thơng qua các gói mở rộng tín dụng, kích thích tiêu dùng, phân

phối lại thu nhập và các nguồn lực theo mục tiêu đã đưa ra. Nhưng đây là một
việc khá mạo hiểm địi hỏi phải có sự chủ động và chuẩn bị kỹ lưỡng vì nó có
ảnh hưởng đến cả nền kinh tế vĩ mô của đất nước.
Tác động tiêu cực:
Tác động đến lãi suất: Lãi suất chính là yếu tố chịu ảnh hưởng đầu tiên
của lạm phát. khi lạm phát tăng, để giữa cho lãi suất trong nước được ổn định thì
lãi suất danh nghĩa phải tăng theo mức tăng của lạm phát. Điều này kéo theo hệ
quả làm suy thoái nền kinh tế, các hoạt động vay nợ và đầu tư giảm dẫn đến một
lượng lớn lao động không có cơng ăn việc làm.
Tác động đến thu nhập thực tế của người lao động: Thu nhập thực tế và
thu nhập danh nghĩa của người lao động và lạm phát có mối quan hệ với nhau.
Nếu lạm phát tăng nhưng mức thu nhập danh nghĩa khơng tăng có nghĩa là thu
nhập thực tế của người lao động bị giảm. Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị

12


thực tế của những tải sản không phát sinh lãi mà còn làm giảm thu nhập từ
những khoản lãi của những tài sản phát sinh lãi.
Tác động đến nợ quốc gia: Lạm phát khiến cho các khoản nợ quốc gia trở
nên trầm trọng hơn do đồng tiền trong nước mất giá nhanh hơn những đồng tiền
khác tạo nên gánh nặng trả nợ rất lớn.
Tác động đến phân phối thu nhập: Lạm phát tăng lên, giá trị đồng tiền
giảm. Những người giàu có dùng tiền của mình để vơ vét hàng hóa để đầu cơ,
dẫn đến mất cân bằng cung cầu trên thị trường dẫn đến giá cả ngày càng leo
thang. Cuối cùng những người dân nghèo khổ càng nghèo khổ hơn, họ cịn
khơng thể mua những sản phẩm thiết yếu phục vụ cho đời sống của mình. Cịn
những người giàu có nhờ cơ hội này lại càng ngày càng giàu có hơn dẫn đến mất
cân bằng thu nhập trong xã hội.
PHẦN 2: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ

2016 – 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2021
1. Thực trạng lạm phát năm 2016
Năm 2016 được coi là thành công trong việc kiểm soát lạm phát trong
điều kiện giá một số mặt hàng thiết yếu tăng trở lại nhưng nhờ lạm phát thấp nên
Nhà nước vẫn có dư địa điều chỉnh giá một số mặt hàng do Nhà nước quản lý
tiệm cận dần theo giá thị trường.

Lạm phát cơ bản tháng 12/2016 tăng 1,87% so với cùng kỳ năm trước
(lạm phát sau khi loại trừ giá lương thực-thực phẩm, giá năng lượng và giá các
mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục), tăng
nhẹ so với mức 1,69% của năm 2015.

13


Một thước đo khác là lạm phát GDP cũng chỉ ở mức 1,1% (cao hơn so với
mức -0,2% trong năm 2015), bởi năm 2016 trong khi GDP thực tăng 6,2%, thì
GDP danh nghĩa cũng chỉ tăng 7,3% (từ 4192 nghìn tỷ đồng lên 4502 nghìn tỷ
đồng).
Như vậy, có thể thấy rằng, nếu loại trừ các yếu tố làm tăng giá mang tính
ngắn hạn, lạm phát của Việt Nam chỉ vào khoảng 1-2% và là mức tương đối
thấp. Hơn nữa, mức lạm phát thấp này đã được duy trì tương đối ổn định kể từ
giữa năm 2016, khi lạm phát cơ bản chỉ dao động xoay quanh mức 0,1%/tháng.
Về nguyên nhân, xu hướng lạm phát thấp chủ yếu là do tình hình tăng
trưởng kinh tế chưa có nhiều dấu hiệu khởi sắc. Tốc độ tăng trưởng GDP 6,21%
trong năm 2016 thấp hơn tương đối nhiều so với mục tiêu 6,7%, thậm chí thấp
hơn cả so với mức dự báo gần đây là 6,3-6,5%. Mặc dù có những ngun nhân
mang tính khách quan như thời tiết không thuận lợi dẫn đến ngành Nông nghiệp
tăng trưởng chậm với mức 1,36% và ngành Khai khoáng bị sụt giảm 4% do giá
nguyên liệu trên thế giới ở mức thấp, song tựu trung vẫn là do tổng cầu thấp.

2. Thực trạng lạm phát năm 2017
Theo đó, CPI bình quân năm 2017 tăng 3,53% so với năm 2016 và tăng
2,6% so với tháng 12/2016. Như vậy, mục tiêu kiểm sốt lạm phát, giữ mức CPI
bình qn năm 2017 dưới 4% đã đạt được trong bối cảnh điều chỉnh được gần
hết giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý đặt ra trong năm 2017.
Bình quân năm 2017 so với năm 2016, lạm phát chung có mức tăng cao
hơn lạm phát cơ bản, điều này phản ánh biến động giá do yếu tố thị trường có
mức tăng cao, đó là giá lương thực thực phẩm, giá xăng dầu và yếu tố điều hành
giá cả qua việc điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế và giáo dục. Bình quân năm
2017 lạm phát cơ bản là 1,41% thấp hơn mức kế hoạch từ 1,6-1,8%, cho thấy
chính sách tiền tệ vẫn đang được điều hành ổn định.
CPI bình quân năm 2017 tăng 3,53% so với bình quân năm 2016, dưới
mục tiêu Quốc hội đề ra. CPI tháng 12/2017 tăng 2,6% so với tháng 12/2016,
bình quân mỗi tháng tăng 0,21%. CPI bình quân năm 2017 tăng chủ yếu là do
các địa phương điều chỉnh giá dịch vụ y tế, dịch vụ khám chữa bệnh. Có một số
yếu tố góp phần kiềm chế tốc độ tăng CPI năm nay như chỉ số giá nhóm thực
phẩm bình qn năm giảm 2,6% so với năm 2016 (chủ yếu giảm ở nhóm thịt
14


tươi sống). Ngân hàng Nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ kiên định mục
tiêu giữ ổn định vĩ mơ và kiểm sốt lạm phát.
3. Thực trạng lạm phát năm 2018
CPI bình quân năm 2018 tăng 3,54% so với năm 2017 và tăng 2,98% so
với tháng 12 năm 2017. Như vâ ¥y, mục tiêu kiểm sốt lạm phát, giữ CPI bình
quân năm 2018 dưới 4% đã đạt được trong bối cảnh điều chỉnh được gần hết giá
các mặt hàng do nhà nước quản lý đăt¥ ra trong năm 2018.
Tổng cục Thống kê cho biết, lạm phát cơ bản (CPI sau khi loại trừ lương
thực, thực phẩm tươi sống; năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao
gồm dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục) tháng 12 năm 2018 tăng 0,09% so với

tháng trước, tăng 1,7% so với cùng kỳ; năm 2018 so năm 2017 tăng 1,48%.
Năm 2018, lạm phát chung có mức tăng cao hơn lạm phát cơ bản, điều
này phản ánh biến động giá chủ yếu từ việc tăng giá lương thực, thực phẩm, giá
xăng dầu và yếu tố điều hành giá cả qua việc điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế và
giáo dục. Mức tăng lạm phát cơ bản trong năm 2018 so với cùng kỳ có biên độ
dao động trong khoảng từ 1,18% đến 1,72%, lạm phát cơ bản bình quân năm
tăng 1,48% thấp hơn mức kế hoạch 1,6%, cho thấy chính sách tiền tệ vẫn đang
được điều hành ổn định.
4. Thực trạng lạm phát năm 2019
CPI bình quân năm 2019 tăng 2,79% so với năm 2018 và tăng 5,23% so
với tháng 12 năm 2018. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2019 tăng 2,01% so
với bình quân năm 2018.
Mặt bằng giá thị trường trong năm 2019 biến động theo hướng tăng cao
trong tháng diễn ra Tết Nguyên đán, giảm nhẹ trong tháng 3, tăng dần trở lại
trong hai tháng tiếp theo, sau đó giảm trở lại vào tháng 6 và tiếp tục tăng vào các
tháng cuối năm. Cùng với diễn biến tăng/giảm giá cả thị trường, CPI các tháng
cũng tăng/ giảm theo xu hướng của thị trường. CPI tăng cao nhất vào tháng 2
tăng 0,8%, tháng 11 tăng 0,96%, tháng 12 tăng 1,4%.
Năm 2019, tiếp tục với mục tiêu đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP
ngày 1/1/2019 của Chính phủ, hàng quý hoặc đột xuất, Ban Chỉ đạo điều hành
giá do Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ làm Trưởng ban đều họp đánh giá kết
quả công tác điều hành giá, kiểm soát lạm phát và đưa ra các kịch bản lạm phát
15


các tháng còn lại để chủ động điều hành giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý
vào các thời điểm phù hợp nhằm hạn chế lạm phát kỳ vọng. Cụ thể: Các Bộ,
ngành đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan đầu mối là Bộ Kế hoạch
và Đầu tư (Tổng cục Thống kê), Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam
trong cơng tác tính tốn dự báo, xây dựng kịch bản chi tiết, cụ thể cho từng thời

điểm, từng giai đoạn đối với từng mặt hàng thiết yếu nhằm đảm bảo kiểm soát
lạm phát theo mục tiêu đề ra. Bộ Kế hoạch và Đầu tư tính tốn, cân đối chính
sách kinh tế vĩ mơ, gắn điều hành tăng trưởng với kiểm soát lạm phát để kịp thời
đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp thực hiện hiệu quả.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong việc triển
khai đồng bộ các biện pháp điều hành giá theo các kịch bản đã được phê duyệt;
Đẩy mạnh công tác kiểm tra thực hiện pháp luật về giá, kiểm soát chặt chẽ việc
kê khai giá.
5. Thực trạng lạm phát năm 2020
Chỉ số giá tiêu dùng năm 2020 tăng 3,23% so với năm 2019 và tăng
0,19% so với tháng 12 năm 2019. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2020 tăng
2,31% so với bình quân năm 2019, mục tiêu kiểm sốt lạm phát, giữ CPI bình
qn năm 2019 dưới 4% của Quốc hội đề ra đã đạt được trong bối cảnh một năm
với nhiều biến động khó lường.
Mặt bằng giá cả thị trường trong năm 2020 chịu ảnh hưởng chủ yếu từ các
yếu tố cung cầu thay đổi liên tục và phức tạp trước diễn biến của dịch bệnh
Covid-19. Mặt bằng giá có xu hướng giảm hoặc ổn định ở mức thấp trong các
thời điểm cung cầu chịu tác động tiêu cực của dịch bệnh và hồi phục khi dịch
bệnh được kiểm soát. CPI tăng cao nhất vào tháng 1, tăng 1,23% và giảm mạnh
nhất vào tháng 4, giảm 1,54%.
Năm 2020, tiếp tục với mục tiêu đã đề ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP
ngày 1/1/2020 của Chính phủ, hàng quý hoặc đột xuất, Ban Chỉ đạo điều hành
giá do Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc làm Trưởng ban đều họp đánh giá kết quả
cơng tác điều hành giá, kiểm sốt lạm phát và đưa ra các kịch bản lạm phát các
tháng còn lại để chủ động điều hành giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý vào
các thời điểm phù hợp nhằm hạn chế lạm phát kỳ vọng. Cụ thể: Các Bộ, ngành
đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan đầu mối là Bộ Kế hoạch và Đầu
tư (Tổng cục Thống kê), Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong
16



cơng tác tính tốn dự báo, xây dựng kịch bản chi tiết, cụ thể cho từng thời điểm,
từng giai đoạn đối với từng mặt hàng thiết yếu nhằm đảm bảo kiểm soát lạm
phát theo mục tiêu đề ra. Bộ Kế hoạch và Đầu tư tính tốn, cân đối chính sách
kinh tế vĩ mô, gắn điều hành tăng trưởng với vấn đề kiểm soát lạm phát để kịp
thời đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp thực hiện hiệu
quả. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương trong việc
triển khai đồng bộ các biện pháp điều hành giá theo các kịch bản đã được phê
duyệt; Đẩy mạnh công tác kiểm tra thực hiện pháp luật về giá, kiểm soát chặt
chẽ việc kê khai giá.
6. Thực trạng lạm phát 6 tháng đầu năm 2021
Mặt bằng giá cả thị trường trong 6 tháng đầu năm 2021 có diễn biến tăng
giảm đan xen, chịu ảnh hưởng chủ yếu từ các yếu tố cung cầu thay đổi trước
diễn biến ngày càng phức tạp của dịch bệnh Covid – 19. CPI tháng 6/2021 tăng
do tác động từ giá các loại nguyên liệu đầu vào như xăng dầu, vật liệu xây dựng
do chịu áp lực lớn từ thị trường thế giới. Tuy nhiên ở chiều ngược lại, nhu cầu
đối với các hoạt động văn hóa, giải trí, du lịch bị ảnh hưởng lớn bởi diễn biến
phức tạp của dịch Covid-19 khiến chỉ số giá nhóm này giảm mạnh, từ đó góp
phần giữ cho CPI tháng 6/2021 chỉ tăng nhẹ.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng
6/2021 tăng 0,19% so với tháng trước, tăng 1,62% so với tháng 12/2020 và tăng
2,41% so với tháng 6/2020. Bình quân 6 tháng đầu năm 2021, CPI tăng 1,47%
so với cùng kỳ năm trước, mức tăng thấp nhất kể từ năm 2016 (Tốc độ tăng CPI
bình quân 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2021 lần
lượt là: tăng 1,72%; tăng 4,15%; tăng 3,29%; tăng 2,64%; tăng 4,19%; tăng
1,47%).
Xét theo cơ cấu nhóm hàng: So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa
và dịch vụ tiêu dùng chính trong tháng 6/2021 có 8 nhóm tăng giá gồm: Giao
thơng tăng 1,07%; Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,63%; Đồ uống và thuốc lá
tăng 0,11%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,10%; Hàng hóa và dịch vụ khác

tăng 0,06%; Giáo dục tăng 0,03%; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%. 02 nhóm
giảm giá gồm: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,13% và Văn hóa, giải trí và
du lịch giảm 0,08%. 01 nhóm ổn định: Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép. Chỉ
17


số giá vàng tháng 6/2021 tăng 1,12% và chỉ số giá đô la Mỹ giảm 0,3% so với
tháng 5/2021.
Lạm phát cơ bản (CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống;
năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và dịch vụ
giáo dục) tháng 6 năm 2021 tăng 0,07% so với tháng trước và tăng 1,14% so với
cùng kỳ năm 2020.
Bình quân 6 tháng đầu năm 2021 lạm phát cơ bản tăng 0,87% so với cùng
kỳ năm 2020, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 1,47%), điều này phản
ánh biến động giá tiêu dùng chủ yếu do giá lương thực, giá xăng, dầu và giá gas
tăng. Mức lạm phát cơ bản tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2021 so với cùng kỳ
năm trước đều là mức thấp nhất kể từ năm 2011.
Nguyên nhân chính khiến CPI tháng 6 tăng giá so với tháng trước là do
ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá xăng, dầu vào ngày 12/5/2021; 11/6/2021
và 26/6/2021. Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,63% so với tháng trước
(làm CPI chung tăng 0,12 điểm phần trăm), chủ yếu do các đợt nắng nóng trong
tháng làm chỉ số giá điện, nước sinh hoạt lần lượt tăng 1% và tăng 0,26%, bên
cạnh đó giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 1,26% theo giá nguyên, nhiên, vật
liệu đầu vào; giá gas tăng 3,85% do giá gas trong nước điều chỉnh tăng. Nhóm
đồ uống và thuốc lá tăng 0,11% so với tháng trước chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng
đồ uống giải khát trong mùa hè tăng cao. Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng
0,1% do giá các sản phẩm sử dụng nhiều vào dịp hè như tủ lạnh, máy điều hòa
nhiệt độ, quạt điện tăng. Nhóm giáo dục tăng 0,03%, trong đó giá văn phịng
phẩm tăng 0,2%. Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02% do giá thuốc các loại
tăng 0,05%. Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,06%, tập trung ở nhóm đồ

trang sức tăng 1,27%.
Bên cạnh đó cũng có một số nguyên nhân góp phần làm giảm áp lực lên
CPI trong tháng 6/2021 cụ thể là: Do chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, người
dân hạn chế đi lại, du lịch của ngừoi dân giảm làm chỉ số giá nhóm du lịch trọn
gói giảm 0,05%. giá cây, hoa cảnh giảm 2,91%. Giá các mặt hàng thực phẩm
giảm 0,39% so với cùng kỳ năm trước làm CPI chung giảm 0,08 điểm phần
trăm; Chính phủ triển khai các gói hỗ trợ cho người dân và người sản xuất gặp
khó khăn do dịch Covid-19 như gói hỗ trợ của Tập đồn Điện lực Việt Nam nên
giá điện sinh hoạt bình quân 6 tháng đầu năm 2021 giảm 3,06% so với cùng kỳ
18


năm 2020 làm CPI chung giảm 0,1 điểm phần trăm; nhu cầu đi lại, du lịch của
người dân giảm do ảnh hưởng của dịch Covid-19 làm giá của nhóm du lịch trọn
gói giảm 2,85% so với cùng kỳ năm trước…
Theo ước tính của Cục Quản lý giá, nếu giả định CPI các tháng còn lại
tăng đều một tỷ lệ như nhau so với tháng trước thì trong 6 tháng cịn lại, CPI
mỗi tháng cịn có dư địa tăng 1,32% để đảm bảo mục tiêu kiểm sốt dưới 4%.
Do vậy, có thể thấy việc kiểm sốt CPI bình qn cả năm 2021 ở mức khoảng
4% là vẫn trong tầm kiểm soát của Chính phủ nếu khơng có những yếu tố q
đột biến xảy ra.
PHẦN 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
Trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị tại một số khu vực cũng như tình
hình cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn nhất là trong lĩnh vực thương mại
dự báo vẫn diễn biến phức tạp và có các tác động tới kinh tế trong nước và
nhiệm vụ kiểm sốt lạm phát của Chính phủ. Rủi ro lạm phát trên thế giới vẫn
tăng cao sẽ có tác động gián tiếp tới nước ta khi giá nhiều loại nguyên, nhiên,
vật liệu tiếp tục ở mức cao như xăng dầu, gas, thép khiến giá hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam tăng, gia tăng tỉ lệ “nhập khẩu lạm phát”. Đây là những yếu
tố sẽ tác động chung đến lạm phát trong nước.

Áp lực từ việc thực hiện lộ trình giá thị trường một số dịch vụ công trong
giai đoạn tới, trong đó phải tính đến việc triển khai Nghị định số 60/2021/NĐCP về cơ chế tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập và đặt mục tiêu cơ bản
hồn thành lộ trình tính giá dịch vụ trong năm 2021. Để thực hiện kiểm soát lạm
phát theo chỉ tiêu Quốc hội giao ta cần:
- Công tác quản lý, điều hành giá, kiểm soát lạm phát cần tiếp tục thực
hiện một cách thận trọng, linh hoạt và chủ động. Trên cơ sở đánh giá tình hình
dịch bệnh trong nước và diễn biến giá cả các mặt hàng trên thế giới và trong
nước, Bộ Tài chính đề xuất triển khai một số biện pháp như: Theo dõi sát diễn
biến cung cầu, giá cả thị trường các mặt hàng quan trọng, thiết yếu để có biện
pháp điều hành phù hợp. Chủ động tháo gỡ khó khăn và có phương án điều tiết
nguồn hàng để tăng lượng cung ứng cho các địa phương có dịch bệnh cần cách
ly hoặc giãn cách xã hội, bảo đảm cung cấp đủ hàng hóa thiết yếu cho người
dân. Tăng cường cơng tác kiểm tra, kiểm sốt thị trường giá cả, quản lý kê khai
giá, niêm yết giá theo quy định pháp luật.
19


- Tiếp tục đánh giá, cập nhật kịch bản điều hành giá cho nửa cuối năm để
báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng-Trưởng ban Chỉ đạo
điều hành giá, nhất là việc tính tốn, điều chỉnh giá các mặt hàng do nhà nước
quản lý, các dịch vụ cơng đang triển khai lộ trình thị trường đảm bảo mục tiêu
kiểm sốt lạm phát và phù hợp với tình hình dịch bệnh đang diễn biến phức tạp
như hiện nay.
- Bên cạnh đó, tiếp tục đẩy mạnh cơng tác thơng tin, tuyên truyền, đảm
bảo kịp thời, minh bạch thông tin về giá và cơng tác điều hành giá của Chính
phủ, Ban chỉ đạo điều hành giá, nhất là diễn biến giá cả các vật tư quan trọng,
các mặt hàng thiết yếu liên quan đến sản xuất và đời sống người dân để ổn định
tâm lý người tiêu dùng, kiểm soát lạm phát kỳ vọng.

20



KẾT LUẬN
Một nền kinh tế khỏe mạnh là nền kinh tế có mức lạm phát vừa phải, tốc
độ tăng lạm phát nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, để kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội,
thực hiện tốt mục tiêu cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa của nước ta trong thời
gian tới, Đảng và Nhà nước cần hồn thiện các chính sách, thể chế, kỹ năng ứng
phó với lạm phát do tác động từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế khỏe mạnh
từ bên trong. Lạm phát cũng khơng phải hồn tồn xấu mà nó cũng có những ưu
điểm nhất định. Có nghĩa là khi nền kinh tế phát triển cóhiệu quả, tiến bộ khoa
học kỹ thuật được áp dụng tích cực, cơ cấu kinh tế được đổi mới nhanh chóng
và đúng hướng thì lạm phát cũng có thể được xem là một cơng cụ góp phần vào
việc tăng trưởng kinh tế, chống suy thối. Vì vậy chúng ta cần phải kiểm sốt và
duy trì lạm phát ở mức có thể chấp nhận được hay lạm phát cân bằng và có dự
tính tạo điều kiện trở thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển của đất nước.

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lạm phát từ Wikipedia ( />2. Tình hình kinh tế - xã hội các năm theo Tổng cục thống kê
( />3. Thực trạng lạm phát ở Việt Nam ( )
4. Các lài liệu khác.

22




×