ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
BÀI THẢO LUẬN THỨ HAI
MÔN: HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÀ TRÁCH NHIỆM BỒI
ĐỀ TÀI: VẤN
ĐỀ CHUNG
CỦA
HỢP ĐỒNG
THƯỜNG
NGOÀI HỢP
ĐỒNG
Mục Lục
VẤN ĐỀ 1: CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG.................1
1.1. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn
đề trên...........................................................................................................1
VẤN ĐỀ 2: SỰ ƯNG THUẬN TRONG Q TRÌNH GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG...............................................................................................................2
- Tóm tắt Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao:.................................................................................2
2.1. Điểm mới của BLDS 2005 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng
trong giao kết hợp đồng?............................................................................3
2.2. Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng
chuyển nhượng trong tình huống trên có thuyết phục khơng? Vì sao?. 3
VẤN ĐỀ 3: ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ THỰC
HIỆN ĐƯỢC....................................................................................................4
3.1. Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa
BLDS 2015 và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu;.................4
3.2. Thời hiệu yêu cầu Tịa án tun bố vơ hiệu hợp đồng do đối tượng
không thể thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?.............6
3.3. Tồ án tun bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu do đối tượng
không thể thực hiện được có thuyết phục khơng? Vì sao?......................7
VẤN ĐỀ 4 : XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ TẨU TÁN TÀI
SẢN...................................................................................................................8
4.1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?........................................8
4.2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao
kết hợp đồng? Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?....9
4.3. Hướng giải quyết của Tịa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng
bị che giấu....................................................................................................9
4.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả
tạo và hợp đồng bị che giấu......................................................................10
4.5. Vì sao Tòa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ
chồng ông Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà
Thu?............................................................................................................11
4.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo
để trốn tránh nghĩa vụ)?...........................................................................11
4.7. Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao
dịch nhằm trốn tránh nghĩa vụ................................................................12
1
VẤN ĐỀ 1: CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
1.1. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án đối với 3 vấn đề trên.
+ Vấn đề 1:
- Tòa án đã xét rằng: Bên đề nghị chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng. Theo chúng tơi, hướng giải quyết này của Tịa án là hợp lý, bởi vì D (bên
được đề nghị) khơng chứng minh được đã gửi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
cho C (bên đề nghị). Và C (bên đề nghị) không thừa nhận đã nhận được chấp nhận
đề nghị giao kết của D (bên được đề nghị). Tuy nhiên, Tòa án căn cứ vào Điều 400
BLDS 2015 để đưa ra hướng giải quyết trên là không hợp lý. Theo khoản 1 Điều
400 thì hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận
giao kết, các quy định còn lại của Điều 400 (từ khoản 2 đến khoản 4) quy định về
thời điểm giao kết hợp đồng xác định theo hình thức của hợp đồng. Như vậy Điều
400 không cho chúng ta thấy trường hợp như thế nào thì được xem là bên đề nghị
chưa nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Hay nói cách khác, dựa vào
Điều 400 thì chúng ta khơng có căn cứ để xác định bên đề nghị có nhận được chấp
nhận đề nghị hay chưa. Vì vậy, Tòa án xét rằng bên đề nghị chưa nhận được chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo quy định của Điều 400 BLDS 2015 là chưa
thật sự chính xác
+ Vấn đề 2:
- Tòa án đã giải quyết như sau: chấp nhận chưa được thực hiện trong thời hạn hợp
lý, theo quy định của Điều 394 BLDS 2015. Theo chúng tơi hướng giải quyết này
của Tịa án là hợp lý. Tháng 01/2017, A, B và C gửi cho D một đề nghị giao kết hợp
đồng, nhưng mãi đến tháng 1 và tháng 2 năm 2019, D mới gửi chấp nhận đề nghị
cho A và B. Từ đó ta thấy thời hạn trả lời là hơn 2 năm đó là một thời hạn khá dài và
chưa hợp lý. Bởi vì trong 2 năm quyền lợi của bên đề nghị có thể bị thiệt hại nếu
không nhận được chấp nhận trả lời. Ví dụ: A đề nghị bán nhà cho B. Thời hạn trả lời
là một tháng. Nhưng sau 6 tháng B mới chấp nhận đề nghị. Như vậy trong khoảng
thời gian 6 tháng này giá nhà có thể tăng lên, A có thể bán nhà cho người khác với
giá cao hơn so với giá bán cho B tại thời điểm 6 tháng trước. Việc trả lời chậm của
B đã làm thiệt hại đến A. Ở vấn đề thứ 2 này bên đề nghị không xác định thời hạn
nên căn cứ khoản 1 Điều 394 BLDS thì “khi bên đề nghị khơng nêu rõ số thời hạn
2
trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong 1 thời hạn
hợp lý ” . Vì vậy hướng giải quyết của Tịa án trong vấn đề 2 là hợp lý
+ Vấn đề 3:
- Tòa án giải quyết như sau: chấp nhận trên của D là đề nghị giao kết mới. Theo
chúng tôi, hướng giải quyết này của Tòa án là hợp lý. Tịa án đã rất khéo léo, linh
hoạt khi xử lí vấn đề thứ 3. Khoản 1 Điều 394 BLDS 2015 chỉ quy định hướng giải
quyết trường hợp trả lời chấp nhận khi đã hết thời hiệu khi bên đề nghị có ấn định.
Cịn đối với trường hợp bên đề nghị khơng có ấn định thì khơng có quy định. Xét
thấy quy định trên nhằm làm cho người được đề nghị trả lời chấp nhận đề nghị
trong thời hạn nhất định, tránh trường hợp họ kéo dài thời gian để có lợi cho mình,
thậm chí có thể gây thiệt hại cho bên đề nghị . Luật quy định việc trả lời chấp nhận
đề nghị chỉ có hiệu lực trong thời hạn mà bên đề nghị ấn định nhằm tạo sự tự do
trong giao kết hợp đồng, không làm cho quy định về việc trả lời chấp nhận đề nghị
bị cứng nhắc. Như vậy chúng ta có thể áp dụng trường hợp bên đề nghị nhận được
trả lời khi đã hết thời hạn thì chấp nhận được coi là đề nghị mới của bên chậm trả
lời khi bên đề nghị không ấn định thời hạn tương tự như khi bên đề nghị có ấn định.
Chính vì vậy, hướng giải quyết trên của Tòa án về vấn đề thứ 3 là rất phù hợp và
thỏa đáng.
VẤN ĐỀ 2: SỰ ƯNG THUẬN TRONG QUÁ TRÌNH GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG
- Tóm tắt Án lệ số 04/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao:
- nguyên đơn là bà Kiều Thị Tý
- Bị đơn là ông Lê Văn Ngự
- Việc chuyển nhượng nhà, đất diễn ra từ năm 1996, sau khi mua nhà, đất, ông Tiến,
bà Tý đã trả đủ tiền, nhận nhà đất, tôn nền đất, sửa lại nhà và cho các cháu đến ở.
Trong khi đó gia đình ơng Ngự, bà Phấn vẫn ở trên diện tích đất cịn lại, liền kề với
nhà ông Tiến, bà Tý. Theo lời khai của các người con ơng Ngự, bà Phấn thì sau khi
3
bán nhà, đất cho vợ chồng bà Tý, ông Ngự, bà Phấn đã phân chia vàng cho các
người con. Mặt khác, sau khi chuyển nhượng và giao nhà đất cho ơng Tiến, bà Tý
thì ngày 26-4-1996, ơng Ngự cịn viết “giấy cam kết” có nội dung mượn lại phần
nhà đất đã sang nhượng để ở khi xây dựng lại nhà trên phần đất còn lại và trong
thực tế vợ chồng bà Phấn, ông Ngự đã sử dụng phần nhà đất của bà Tý, ông Tiến
khi xây dựng nhà. Như vậy, có cơ sở xác định bà Phấn biết có việc chuyển nhượng
nhà, đất giữa ông Ngự với vợ chồng ông Tiến và bà Tý, bà Phấn đã đồng ý, cùng
thực hiện nên việc bà Phấn khiếu nại cho rằng ông Ngự chuyển nhượng nhà đất cho
vợ chồng bà Tý bà khơng biết là khơng có căn cứ.
2.1. Điểm mới của BLDS 2005 so với BLDS 2005 về vai trò của im lặng trong
giao kết hợp đồng?
- Theo khoản 2, điều 404 của BLDS 2005: “2. Hợp đồng dân sự cũng được xem
như giao kết khi hết thời gian trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có
thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.”
- Như vậy, BLDS 2005 xem im lặng trong giao kết là một sự trả lời chấp nhận giao
kết nếu trong hợp đồng các bên có thỏa thuận.
Theo khoản 2, Điều 393 của BLDS 2015: “2. Sự im lặng của bên được đề nghị
không được coi là chấp nhận giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc
theo thói quen đã được xác lập giữa các bên.”
- Như vậy, ở BLDS 2015, im lặng không được coi là chấp nhận giao kết hợp đồng.
Im lặng được suy đoán là chấp nhận giao kết hợp đồng chỉ là một ngoại lệ của
nguyên tắc trên, được áp dụng với điều kiện là hoàn cảnh này phải được các bên
tiên liệu bằng thỏa thuận, hoặc do thói quen đã được xác lập trước đó. BLDS 2015
quy định cụ thể về vấn đề này nhằm hạn chế những trường hợp phát sinh tranh chấp
từ việc im lặng. Hơn nữa, việc điều chỉnh này giúp mở rộng phạm vi, đối tượng
điều chỉnh, phù hợp với thói quen, tập quán giao kết hợp đồng, mua bán hàng hóa.
2.2. Việc Tịa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để công nhận hợp đồng chuyển
nhượng trong tình huống trên có thuyết phục khơng? Vì sao?
4
- Việc Tòa án áp dụng Án lệ số 04/2016/AL để cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng
trong tình huống của bà Chu và ông Bùi với ông Văn là thuyết phục.
- Mặc dù Án lệ 04/2016/AL liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, cịn tình
huống trên liên quan đến việc định đoạt tài sản là tài sản sở hữu chung của các
thành viên của gia đình, nhưng Tịa án vẫn áp dụng vì:
- Thứ nhất, tài sản của cả hai vụ việc đều thuộc sở hữu chung hợp nhất được quy
định tại Điều 210 BLDS 2015.
- Thứ hai, cả hai vụ việc đều có tình tiết là: các chủ sở hữu chung còn lại đều biết
việc chuyển nhượng nhà đất nhưng khơng ai có ý kiến. Nhưng sau này vì một lí do
nào đó, các sở hữu chung này lại yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu.
- Ở đây Tòa án theo hướng giải quyết: Trường hợp nhà đất tài sản chung mà có
người đứng tên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất đó cho người khác, những
người cịn lại khơng ký tên trong hợp đồng nhưng có đủ căn cứ xác định bên chuyển
nhượng đã nhận đủ số tiền thỏa thuận, người không ký tên trong hợp đồng biết và
cùng sử dụng tiền chuyển nhượng nhà đất; bên nhận chuyển nhượng nhà đất; bên
nhận chuyển nhượng nhà đất đã nhận và quản lý, sử dụng nhà đất đó cơng khai;
người khơng ký tên trong hợp đồng biết mà khơng có ý kiến phản đổi gì thì phải xác
định là người đó đồng ý với việc chuyển nhượng nhà đất
VẤN ĐỀ 3: ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG KHÔNG THỂ THỰC
HIỆN ĐƯỢC
3.1. Những thay đổi và suy nghĩ của anh/chị về những thay đổi giữa BLDS
2015 và BLDS 2005 về chủ đề đang được nghiên cứu;
- Sự thay đổi của BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005:
+ Tại khoản 1 Điều 411 BLDS năm 2005 về hợp đồng dân sự vơ hiệu do có đối
tượng khơng thể thực hiện được: “Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng
có đối tượng khơng thể thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô
hiệu”.
5
+ Tại khoản 1 Điều 408 BLDS năm 2015 về hợp đồng dân sự vơ hiệu do có đối
tượng khơng thể thực hiện được: “Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có
đối tượng khơn được thì hợp đồng này vô hiệu”.
- Thứ nhất:
+ BLDS năm 2005 đã nêu ra hợp đồng vơ hiệu khi có đối tượng khơng thể thực
hiện được từ thời điểm “kí kết” tức là dưới hình thức “kí kết” BLDS năm 2015 đã
giới hạn chỉ có thể là hợp đồng bằng hình thức là văn bản
+ BLDS năm 2015 đã thay đổi thành “giao kết”. Tức là BLDS năm 2015 đã mở
rộng ra không những hợp đồng bằng văn bản mà có thể là hợp đồng miệng,…
- Thứ hai:
+ BLDS năm 2005 đã nêu đối tượng khơng thể thực hiện được “vì lí do khách
quan” thì mới bị vơ hiệu hợp đồng
+ BLDS năm 2015 chỉ quy định đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng
này bị vơ hiệu (có thể là bị ảnh hưởng bởi nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan)
+ Tại Khoản 3 Điều 411 BLDS năm 2005: “Quy định tại khoản 2 Điều này cũng
được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một phần hoặc nhiều đối tượng
khơng thể thực hiện được, nhưng phần cịn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp
lý”.ng thể thực hiện được thì hợp đồng này vơ hiệu”.
+ Khoản 3 Điều 408 BLDS năm 2015: “Quy định tại Khoản 1 và khoản 2 Điều này
cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng
khơng thể thực hiện được nhưng phần cịn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực”.
+ Theo đó, BLDS năm 2005 quy định chỉ trường hợp tại khoản 2 Điều 411 “một
bên biết hoặc phải biết về hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng
không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi
thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về hợp
đồng có đối tượng khơng thể thực hiện được” thì hợp đồng đó vẫn bị vơ hiệu mặc
cho trong hợp đồng có một phần hoặc nhiều đối tượng khơng thực hiện được,
6
nhưng phần cịn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý. Vì vậy nếu trường hợp Hợp
đồng có một phần hoặc nhiều đối tượng không thể thực hiện được, nhưng phần cịn
lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý nếu loại hợp đồng đó vi phạm ngay từ khoản
1 điều này thì hợp đồng này vẫn có hiệu lực đối với phần đối tượng cịn lại thực
hiện được.
+ Nhưng đến BLDS năm 2015 đã mở rộng hơn về quy định này, cụ thể là bổ sung
thêm một trường hợp nữa (Khoản 1, Điều 408) tức là đối với các hợp đồng mà ngay
từ khi giao kết đã có một hoặc nhiều phần đối tượng khơng thể thực hiện được
nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có hiệu lực thì hợp đồng đó vẫn bị vơ hiệu
- Suy nghĩ về sự thay đổi trên:
+ Sự thay đổi trên giữa BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005 đối với chế định
hợp đồng vơ hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được là phù hợp với thực
tiễn xét xử ở Việt Nam. Khi áp dụng quy định tại Điều 411 BLDS năm 2005 thì
phát sinh một số nhược điểm:
+ Tại Khoản 1 Điều 411 BLDS năm 2005 quy định trường hợp hợp đồng vô hiệu do
không thể thực hiện được nhưng chỉ khoanh vùng ở trường hợp “vì lí do khách
quan” nhưng trong thực tiễn vận dụng điều luật này cho trường hợp không thể thực
hiện được “vì lí do chủ quan”. Thực ra, việc khoanh vùng như hiện nay khơng
thuyết phục vì nếu áp dụng đúng luật thì việc khơng thể thực hiện vì lí do chủ quan
khơng làm cho hợp đồng vơ hiệu nhưng nếu hợp đồng khơng vơ hiệu thì hợp đồng
cũng không thể thực hiện được và trong trường hợp này phải làm gì? Câu hỏi khơng
có câu trả lời thuyết phục.
+ Cũng tại Khoản 1 Điều 411 BLDS năm 2005 nói về “kí kết” hợp đồng và thuật
ngữ này khơng có tính bao qt vì kí kết chỉ đúng cho hợp đồng bằng văn bản có
chữ kí trong khi đó hợp đồng có thể được hình thành mà khơng có chữ kí ( như hợp
đồng miệng….). Do vậy, tại khoản 1 Điều 408 BLDS năm 2015 thay từ “kí kết”
bằng từ “giao kết” là phù hợp và có tính bao quát hơn.
3.2. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp đồng do đối tượng không
thể thực hiện được được xác định như thế nào? Vì sao?
7
- Theo điều 408 BLDS năm 2015 thì hợp đồng vơ hiệu do có đối tượng khơng thể
thực hiện được:
"1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng khơng thể thực
hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc
hợp đồng có đối tượng khơng thể thực hiện được nhưng khơng thông báo
cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt
hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng
có đối tượng khơng thể thực hiện được”.
- Theo đó khoản 1 Điều 407 BLDS năm 2015 có quy định: “Quy định về giao dịch
dân sự vơ hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối
với hợp đồng vô hiệu”.
- Nhưng tại Điều 132 có quy định thời hiệu yêu cầu Tồ án tun bố giao dịch DS
vơ hiệu là 2 năm đối với những trường hợp quy định tại Điều 125, 126, 127, 128,
129 của Bộ luật này và thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch DS vô hiệu
không bị hạn chế nếu là vi phạm tại Điều 123 và Điều 124. Nhưng lại không quy
định trường hợp nếu vô hiệu do đối tượng không thể thực hiện được (Điều 408
BLDS 2015) thì thời hạn 2 năm hay không giới hạn lại không quy định một cách cụ
thể trong luật. Nhưng trong thực tế xét xử đa số Toà án sẽ quyết định thời hiệu yêu
cầu Tồ án tun bố GDDS vơ hiệu do vi phạm Điều 408 thì sẽ khơng bị giới hạn.
Như trong Quyết định số 1357/2017/QĐ-PQTT của Tòa án nhân dân TP Hồ Chí
Minh. Theo Tịa án: “Trong trường hợp hợp đồng vơ hiệu theo Điều 411 của Bộ
luật dân sự 2005 thì sẽ không áp dụng thời hiệu”, bởi lẽ “các trường hợp áp dụng
thời hiệu 2 năm để yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu tại Điều 136 của Bộ luật dân
sự năm 2005 không bao gồm Điều 411 của Bộ luật dân sự năm 2005”. Việc cần đến
Tòa án tuyên giao dịch/ hợp đồng vô hiệu là do đảm bảo quyền lợi của các bên,
cũng như bảo vệ được quyền lợi của phía yếu thế trong trường hợp giao dịch/ hợp
đồng đó có dấu hiệu khơng thiện chí từ một phía, và cần Tịa là phía thứ ba đứng ra
bảo vệ quyền lợi.
3.3. Toà án tuyên bố hợp đồng thế chấp trên vô hiệu do đối tượng không thể
thực hiện được có thuyết phục khơng? Vì sao?
- Trong trường hợp trên, Toà án tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu do đối tượng
không thực hiện được là thuyết phục.
- Vì:
8
+ Theo điều 408 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hợp đồng vơ hiệu do có đối tượng
khơng thể thực hiện được:
“1. Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng khơng thể thực
hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2. Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc
hợp đồng có đối tượng khơng thể thực hiện được nhưng không thông báo
cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt
hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng
có đối tượng khơng thể thực hiện được.
3. Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với
trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng khơng thể thực hiện
được nhưng phần cịn lại của hợp đồng vẫn còn hiệu lực”.
+ Thứ nhất: Đối tượng được xác định trong hợp đồng giữa A và Ngân hàng đó chính
là quyền sử dụng đất. Nhưng tại thời điểm giao kết bên A đã không nêu rõ một cách
cụ thể là quyền sử dụng đất của mình trong phạm vi như thế nào hay trên mảnh đất
đó có những bất cập gì thì A lại khơng nêu rõ. Cịn phía bên Ngân hàng lại cho rằng
quyền sử dụng đất mà A đã thế chấp là toàn bộ tất cả những gì trên mảnh đất đó.
Cho nên tại thời điểm giao kết, đối tượng của hợp đồng không được xác định rõ
ràng (nguyên nhân chủ quan). Khoản 2 Điều 276 BLDS năm 2015 quy định: “Đối
tượng của nghĩa vụ phải được xác định rõ ràng”. Vì thế Tồ án sẽ áp dụng quy định
tại Khoản 1 Điều 408 BLDS năm 2015 để tuyên bố hợp đồng vô hiệu “Trường hợp
ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng khơng thể thực hiện được thì hợp đồng
này bị vơ hiệu”.
+ Trường hợp trên cũng từng giống với bản án số 04/2007/KSTM-ST, TAND Thành
phố Pleiku nhận định: “Thấy rằng, các bên khơng chứng minh được là đã có thoả
thuận rõ ràng, chi tiết với nhau về đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao,
giữa các bên lại khơng có thói quen đã được thiết lập. Chính vì vậy, Hội đồng xét
xử xác định, đây là một hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, theo quy
định tại Điều 411 của Bộ luật dân sự thì hợp đồng này vô hiệu”.
9
VẤN ĐỀ 4 : XÁC LẬP HỢP ĐỒNG CÓ GIẢ TẠO VÀ TẨU TÁN TÀI
SẢN
4.1. Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?
- Điều 124 BLDS 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo:
“Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một
giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vơ hiệu, cịn giao dịch
dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vơ hiệu
theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan, tại khoản 1 và
Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vơ hiệu, tại khoản 2”.
- Bộ luật dân sự sử dụng nhiều lần thuật ngữ “giả tạo” nhưng không nêu rõ thuật
ngữ này cần được hiểu như thế nào.
- Theo một số nhà bình luận Bộ luật dân sư, “giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch
mà trong đó việc thể hiện ý chí ra bên ngồi khác với ý nội tâm và kết quả thực hiện
của các bên tham gia giao dịch”.
- Các quyết định được bình luận và Bộ luật dân sự cũng như kinh nghiệm cho thấy
giả tạo trong giao dịch dân sự là trường hợp có một giao dịch thể hiện ra bên ngoài
nhưng giao dịch này khơng có thật”.
4.2. Đoạn nào của Quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp
đồng? Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?
“… Đối chiếu quy định trên với trường hợp giữa nguyên đơn với bà
Trang thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập
ngày 23/11/2013 giữa nguyên đơn và bà Trang là vô hiệu do giả
tạo…”.
- Các bên giả tạo với mục đích là nhằm mục đích che giấu cho giao dịch vay tài sản.
10
4.3. Hướng giải quyết của Tòa án đối với hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che
giấu.
- Đối với hợp đồng giả tạo Tòa án giải quyết theo hướng: “Do hợp đồng chuyển
nhượng quyển sử dụng đất được ký giữa nguyên đơn và bà Trang bị vô hiệu nên xử
lý hậu quả hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 131 Bộ luật dân sự”.
- Đối với hợp đồng bị che giấu Tòa án giải quyết theo hướng công nhận hợp đồng
này: “Do vậy, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại số tiền 95.000.000đ là có căn cứ”.
4.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý của Tòa án về hợp đồng giả tạo và
hợp đồng bị che giấu.
- Theo tơi hướng xử lý trên của Tịa án về hợp đồng giả tạo và hợp đồng bị che giấu
là thuyết phục,
+ Về lý, ở đây chúng ta cần phải quay về bản chất của hợp đồng, tại Điều 385
BLDS 2015 quy định hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Như vậy ở đây về bản chất hợp đồng là
sự thỏa thuận, vì vậy khi bàn về hợp đồng bị che giấu, đây là sự thỏa thuận của các
bên và pháp luật của chúng ta theo hướng tơn trọng tự do ý chí của các bên nên tại
Điều 124 mới có quy định “khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo
nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vơ hiệu, cịn
giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực”. Như vậy với giao dịch là giao dịch bị
che giấu thì khơng vơ hiệu. Ngược lại với giao dịch là giả tạo thì Tịa án theo hướng
vơ hiệu ngay vì vi phạm Điều 124 BLDS 2015.
+ Về tình, có thể thấy Tịa án xác định như vậy là hồn toàn thuyết phục bởi ở đây
bản chất hai bên chỉ muốn vay tiền chứ không phải là chuyển nhượng quyền sử
dụng đất cho nên nếu như vô hiệu cả hai hợp đồng thì khơng đảm bảo quyền lợi cho
cả hai mà công nhận cả hai hợp đồng cũng không khách quan. Việc vay tiền là xuất
phát từ bản thân ý chí của cả hai, khơng bị ép buộc hay lừa dối gì cả, cả hai đều biết
mình và đối phương cần ở nhau những gì, vì vậy cả hai mới lập hợp đồng vay tiền.
Cho nên cần phải tôn trọng ý chí của các bên, hơn thế nữa trong Quyết định này,
chúng ta thấy bên vay tiền vì khơng có khả năng trả tiền nên mới cho rằng cần phải
11
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để trốn trách đi trách nhiệm
trả nợ. Trong khi đó hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ là hình thức
nhằm che giấu việc vay tiền, ở đây chúng ta khơng biết việc che giấu nhằm mục
đích gì nhưng có thể thấy nếu lập hợp đồng giả tạo như vậy thì sẽ gây ảnh hưởng
đến quyền lợi của hai bên.
- Thực tế việc lập hợp đồng giả tạo này là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các
bên nên chỉ khi nào có tranh chấp thì Tịa án mới từ đó xác định được hợp đồng giả
tạo, cịn đối với bên thứ ba bình thường thì sẽ gây khó khăn trong việc xác lập hợp
đồng giả tạo và có thể ảnh hưởng đến quyền lợi của bên thứ ba..
4.5. Vì sao Tịa án xác định giao dịch giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông
Vượng là giả tạo nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với bà Thu?
- Vì trong quá trình giải quyết vụ án thị vợ chồng bà Anh thừa nhận còn nợ của bà
Thu 3,1 tỷ đồng, đồng thời vợ chồng bà Anh cam kết chuyển nhượng nhà đất (đang
có tranh chấp) để trả nợ cho bà Thu, nhưng vợ chồng bà Anh không thực hiện cam
kết với bà Thu mà làm thủ tục chuyển nhượng nhà đất trên cho anh là vợ chồng ông
Vượng. Thỏa thuận chuyển nhượng giữa vợ chồng bà Anh với vợ chồng ông Vượng
không phù hợp với thực tế vì giá thực tế nhà đất là gần 5,6 tỷ đồng, nhưng hai bên
thỏa thuận chuyển nhượng chỉ với giá 680 triệu đồng và thực tế các bên cũng chưa
hoàn tất thủ tục chuyển nhượng.
- Trường hợp này phải xác định giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa vợ chồng bà
Anh với vợ chồng ông Vượng là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh việc thực hiện
nghĩa vụ của vợ chồng bà Anh đối với bà Thu,…
4.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Tòa án (giả tạo để trốn
tránh nghĩa vụ)?
- Theo tôi hướng giải quyết trên của Tòa án xác định hợp đồng giữa vợ chồng bà
Anh và ơng Vượng là thuyết phục. Bởi vì:
- Theo Điều 124 BLDS 2015 tại khoản 2 thì “Trường hợp xác lập giao dịch dân sự
giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vơ
hiệu.” Chúng ta cùng quay về khái niệm giả tạo, theo đó số nhà bình luận Bộ luật
12
dân sư, “giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch mà trong đó việc thể hiện ý chí ra bên
ngoài khác với ý nội tâm và kết quả thực hiện của các bên tham gia giao dịch”. Các
quyết định được bình luận và Bộ luật dân sự cũng như kinh nghiệm cho thấy giả tạo
trong giao dịch dân sự là trường hợp có một giao dịch thể hiện ra bên ngồi nhưng
giao dịch này khơng có thật. Ở đây chúng ta có thể thấy rõ có hai hợp đồng, hợp
đồng thứ nhất là hợp đồng vay tiền giữa bà Thu và bà Anh và hợp đồng chuyển
quyền sử dụng đất. Ở đây hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác
định là giả tạo vì ở đây bà Anh ban đầu đối với hợp đồng vay tiền có nghĩa vụ trả
tiền vay và lãi, tuy nhiên không biết lý do do gì bà đã khơng trả đủ tiền hay khái
quát hơn là không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình là trả tiền. Vì khơng muốn
trả tiền mà cũng không muốn mất đất nên vợ chồng bà Anh mới lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Vượng, ở đây hợp đồng này giả tạo vì
giá đất thực tế với giá chuyển nhượng chênh lệch nhau rất lớn và ý chí thật của các
bên khơng được phản ánh đúng sự thật là vi phạm nguyên tắc thiện chí trong giao
kết hợp đồng. Việc làm của bà Anh với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
là xuất phát từ động cơ vụ lợi, vì lợi ích cá nhân chứ không phải là tự nguyện thỏa
thuận và phản ánh đúng tinh thần giao kết hợp đồng ở đây.
4.7. Cho biết hệ quả của việc Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch nhằm
trốn tránh nghĩa vụ.
- Cơ sở pháp lý: khoản 2 Điều 124 và Điều 131 BLDS 2015
- Khi Tòa án xác định hợp đồng trên là giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ
thì theo khoản 2 Điều 124, hợp đồng giả tạo sẽ vô hiệu.
- Căn cứ vào Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 về hệ quả pháp lý khi hợp đồng vơ hiệu,
thì:
- Đầu tiên, các bên sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ từ hợp đồng kể từ thời
điểm xác lập hợp đồng. Như vậy, ở đây đáng lẽ theo nghĩa vụ của bản hợp đồng
chuyển nhượng quyền sự dụng đất, sở hữu nhà ở giữa bà Đặng Thị Kim Anh với
ơng Đặng Q Vượng thì việc sang tên giữa các bên phải được thực hiện. Nay hợp
đồng vơ hiệu, thì việc sang tên đang thực hiện này sẽ dừng lại, bà Anh sẽ khơng có
nghĩa vụ phải sang tên cho ông Vượng.
13
- Theo khoản 2 Điều 131 Bộ luật dân sự 2015 thì khi hợp đồng vơ hiệu, các bên sẽ
khơi phục lại tình trạng ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận. Ở đây bà Anh
đã nhận của ông Vượng 4 ti, ông Vượng cũng đã nhận những tài sản theo thỏa thuận
của hợp đồng. Nay hợp đồng được tun bố vơ hiệu thì các bên sẽ trả lại cho nhau
nhưng gì đã nhận, cụ thể ơng Vượng trả cho bà Anh những tài sản đã nhận, còn bà
Anh sẽ trả cho ông Vượng tiền là 4 tỉ.