ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
BÀI THẢO LUẬN THỨ TƯ
MÔN: HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG NGOÀI HỢP ĐỒNG
ĐỀ TÀI: BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ
MỤC LỤC
3
VẤN ĐỀ 1: ĐỐI TƯỢNG DÙNG ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ TÍNH CHẤT PHỤ
CỦA BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM
* Tóm tắt bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP.
HCM.
Nguyên đơn: Phạm Bá Minh
Bị đơn:Bùi Thị Khen và Nguyễn Khắc Thảo
Ông Phạm Bá Minh là chủ doanh nghiệp cầm đồ Bá Minh. Vào ngày
14/09/2007, bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo thế chấp cho ông Minh
một giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000đ, thời hạn vay là
6 tháng, lãi suất 3%/1 tháng. Khi hết thời hạn hợp đồng, ông Thảo bà Khen khơng
thanh tốn được nên đã kéo dài số nợ trên. Cho đến nay thì mới thanh tốn được
tiền lãi của 22 tháng là 29.600.000đ, còn nợ 10.000.000đ tiền lãi nên ông Minh yêu
cầu trả vốn lẫn lãi là 70.000.000đ trong vịng 1 tháng. Về phần mình, ơng Thảo và
bà Khen đề nghị trả số tiền trên trong thời hạn 12 tháng.
* Tóm tắt quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân
dân Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.
Nguyên đơn là ơng Võ Văn Ơn và bà Lê Thị Xanh
Bị đơn là ơng Nguyễn Văn Rành.
Năm 1995 ơng Ơn và bà Xanh cầm cố 3000m2 đất cho ông Rành với giá 30
chỉ vàng 24K và có thỏa thuận nếu q 3 năm vợ chồng ơng Ơn khơng chuộc lại đất
bằng số vàng trên thì ơng Rảnh có quyền canh tác số ruộng đất trên vĩnh viễn. Hai
bên có lập “Giấy thục đất làm ruộng”. Trong hạn 3 năm ông Ơn có về chuộc lại đất
nhưng ơng Rành nói cịn khó khăn nên khơng cho chuộc lại. Hiện nay, ơng Ôn yêu
cầu trả lại 3000m2 và đồng ý trả lại 30 chỉ vàng cho ơng Rành. Phía ơng Rành
khơng đồng ý, bắt buộc trả theo giá trị trường.
4
* Tóm tắt quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Tồ án nhân dân
cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh.
Ngun đơn: Ngân hàng Liên doanh V.
Bị đơn: Công ty PT. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ơng Trần T, bà
Trần Thị H, bà Trần Thị T, bà Nguyễn Thị X, ông Trương Minh H, bà Dương Thúy
G, ông Nguyễn Huỳnh Nguyên V, Công ty K.
Vào năm 2014, giữa Ngân hàng Liên doanh V và Công ty PT đã ký kết các
hợp đồng tín dụng. Để đảm bảo cho khoản vay 1.500.000.000 đồng của Công ty PT
theo Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 thì giữa ơng Trần T, bà
Trần Thị H và Ngân hàng có ký kết hợp đồng thế chấp số 63/2014/HĐTC ngày
05/6/2014. Theo đó, ơng T và bà H đồng ý thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất.
Sau khi Ngân hàng giải ngân các khoản vay cho Cơng ty PT thì tháng 4/2015 Cơng
ty PT đã vi phạm thời hạn thanh tốn lãi và gốc cho Ngân hàng. Khi Công ty PT
không thanh tốn nợ gốc và lãi cho Ngân hàng thì Ngân hàng mời những người bảo
lãnh lên để làm việc và bà G, ông Nguyễn V, bà T, bà X đã thanh toán cho Ngân
hàng. Ngày 17/6/2014 và ngày 23/9/2014, giữa Ngân hàng V và Công ty PT ký phụ
lục hợp đồng lần lượt số 60/2014/PL01 và 60/2014/PL02 để nâng hạn mức tín dụng
từ 1.500.000.000 đồng lên thành 5.000.000.000 đồng và 10.000.000.000 đồng; Đến
ngày 23/4/2015, giữa Ngân hàng và Công ty PT tiếp tục ký hợp đồng số
091/2015/HDTD với hạn mức tín dụng tối đa 10.000.000.000 đồng, việc ký nâng
hạn mức vay tín dụng từ 1.500.000.000 đồng lên 10.000.000.000 đồng nhưng khơng
hề có ý kiến của người thế chấp là ơng Trần T và bà Trần Thị H. Quá trình giải
quyết vụ án, Ngân hàng Việt Nga thừa nhận Công ty PT đã tất tốn các khoản vay
từ Hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 lần lượt vào các ngày
15/10/2014; ngày 25/10/2014 và ngày 12/11/2014. Vì vậy, việc thế chấp tài sản của
ông T, bà H đã chấm dứt theo quy định tại khoản 1 Điều 357 BLDS năm 2005 và
khoản 1 Điều 327 BLDS năm 2015. Do đó, việc Ngân hàng yêu cầu được xử lý tài
sản thế chấp của ông T, bà H để thu hồi nợ là khơng có cơ sở.
1.1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản
có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
5
BLDS 2015 đã có sự thay đổi về chế định liên quan đến tài sản có thể dùng để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự so với BLDS 2005. BLDS 2015 (Điều 295) chỉ
có 1 điều luật cịn BLDS 2005 có tới 3 điều luật quy định về tài sản đảm bảo (Điều
320, 321, 322). Việc quy định của BLDS 2005 theo hướng liệt kê, do vậy BLDS
2005 “dường như cũng chỉ là sự lặp lại các loại tài sản theo quy định tại Điều 163
của Bộ luật”1 và sự liệt kê trên sẽ dẫn đến tình trạng quy định không đầy đủ. Do
vậy, BLDS 2015 đã khắc phục được những nhược điểm này.
Tại Khoản 1, Điều 320, BLDS 2005 về Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự: “1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên
bảo đảm và được phép giao dịch”. Và Khoản 1, Điều 295, BLDS 2015 về Tài sản
đảm bảo: “1. Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ
trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu”. Quy định tại BLDS 2015 đã bỏ
đi quy định “được phép giao dịch” và chỉ quy định “trừ trường hợp cầm giữ, bảo
lưu quyền tài sản”. Bởi lẽ, việc bỏ quy định này không phải là cho phép sử dụng tài
sản không được phép giao dịch để đảm bảo mà là ở các quy định chung đã có
hướng giải quyết. Trong Báo cáo tổng hợp của Bộ Tư pháp về ý kiến nhân dân với
Dự thảo đã nêu “về nguyên tắc, tài sản được đem vào giao dịch phải phù hợp với
quy định của pháp luật. nguyên tắc này áp dụng chung chung cho các loại giao dịch,
trong đó có giao dịch đảm bảo”.
Tại Khoản 2, Điều 320, BLDS 2005 về Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự: “2. Vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được
hình thành trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động
sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao
dịch bảo đảm được giao kết”. Và Khoản 3, Điều 295, BLDS 2015 về Tài sản đảm
bảo: “3. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong
tương lai”. Theo đó, BLDS 2005 có liệt kê những vật hình thành trong tương lai là
động sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa cụ được
xác lập hoặc giao dịch đảm bảo được giao kết. BLDS 2015 đã bỏ phần quy định
này, tại Khoản 3, Điều 295 không làm rõ thế nào là tài sản hiện có hay tài sản hình
thành trong tương lai. Việc thay đổi như vậy là tránh được sự khó hiểu và rườm rà
vì đã có quy định trong phần Tài sản thuộc những vấn đề chung của BLDS (Như
Điều 108, BLDS 2015).
6
BLDS 2015 cũng bổ sung thêm quy định về giá trị của tài sản đảm bảo tại
Khoản 4, Điều 295: “Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn
giá trị nghĩa vụ được bảo đảm”. Quy định này tránh được thực tế là đôi khi có người
yêu cầu giá trị tài sản bảo đảm phải lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm.
1.2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
Theo bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tịa án nhân dân TP.Hồ
Chí Minh, tại trang 1 có đoạn ghi: “Ơng Phạm Bá Minh trình bày :
Ông là chủ doanh nghiệp cầm đồ Bá Minh. Vào ngày 14/9/2007bà Bùi Thị
Khen và ơng Nguyễn Khắc Thảo có thế chấp cho ông một giấy sử dụng sạp D2-9
tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000đ, thời hạn vay là 6 tháng , lãi suất thỏa
thuận là 3%/tháng”.
Kết hợp với lời khai của bị đơn: “Bị đơn bà Bùi Thị Khen và ơng Nguyễn
Khắc Thảo xác nhận: Có thế chấp một tờ giấy sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay
60.000.000đ cho ông Phạm Bá Minh là chủ dịch vụ cầm đồ Bá Minh. Lãi suất
3%/tháng.”
1.3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản khơng? Vì sao?
Xét giấy chứng nhận sạp khơng phải là tài sản. Vì giấy chứng nhận sạp chỉ ghi
nhận quyền được sử dụng sạp để bà Khen bn bán tại chợ Tân Hương, chứ cái sạp
đó không thuộc quyền sở hữu của bà Khen, bà chỉ được sử dụng chứ khơng có đặc
quyền nào khác đối với cái sạp, cái sạp đó khơng phải tài sản của bà, nên giấy
chứng nhận sử dung sạp cũng không có giá trị nên nó khơng phải là tài sản theo
điều 163 BLDS năm 2005 giấy chứng nhận sạp không phải là giấy tờ có giá, cũng
khơng phải là quyền tài sản, tiền,vật.
1.4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tịa
án chấp nhận không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Việc dùng giấy chứng nhận sạp để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự khơng
được tịa án chấp nhận.
7
Theo bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân TP.Hồ
Chí Minh, tại trang 2 có đoạn ghi: “Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố
, nhưng giấy chứng nhận sạp D2-9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng kí sử dụng sạp,
khơng phải quyền sở hữu , nên giấy chứng nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà
Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh”.
1.5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối
với việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.
Nếu theo quan điểm của tòa án đây là vụ tranh chấp hợp đồng dịch vụ vay tiền
và áp dụng các điều luật liên quan về hợp đồng vay tài sản để giải quyết vụ việc trên
là có căn cứ. Nhưng tịa án đã khơng đánh mạnh vào đối tượng đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ dân sự.
Theo quan điểm của nhóm em căn cứ vào điều 320 BLDS năm 2005 thì vật
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc sở hữu của bên đảm bảo nhưng như
đã giải thích là cái sạp đó khơng thuộc sở hữu của bà Khen, bà chỉ có quyền sử
dụng nó để buôn bán, nên cái sạp không được dùng làm vật đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ dân sự, theo nhóm em giao dịch dân sự trên vô hiệu do vi phạm điều cấm
của pháp luật (điều pháp luật không cho phép ) theo điều 128 BLDS là đã dùng vật
không thuộc quyền sở hữu của mình để làm vật đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Hơn nữa, nếu xét về khía cạnh Tịa án chấp nhận giao dịch dân sự trên là hợp
lý và đối tượng đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự trong giao dịch là giấy tờ sử
dụng sạp của bà Khen thì đối tượng ở đây chỉ được xem xét dựa vào điều 321
BLDS: Tiền,giấy tờ có giá dùng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự, điều 321
quy định: “ Tiền, trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu và giấy tờ có giá khác được dùng để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Vậy nếu ở trường hợp này tòa án chấp nhận
giấy tờ sử dụng sạp là một loại tài sản và là giấy tờ có giá thì liệu giữa khái niệm về
tài sản - “giấy tờ có giá” ở điều 163 BLDS và giấy tờ có giá ở điều 321 có được
hiểu là khác nhau không?
1.6. Đoạn nào của Quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố?
8
Trong Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/02/2014 có các đoạn như
sau cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất để cầm cố :
Trong phần “Nhận thấy” của Quyết định số 02 có đoạn: “...Vào ngày
30/08/1995 (âm lịch), ơng Ôn, bà Xanh và ông Rành đã xác lập giao dịch “thục đất
làm ruộng” (BL31). Theo thỏa thuận này thì ơng Ơn, bà Xanh là người có tài sản
là quyền sử dụng đất (QSDĐ) hợp pháp, ơng Rành có tài sản là 30 chỉ vàng. Thực
hiện giao dịch ơng Ơn, bà Xanh giao QSDĐ cho ông Rành canh tác, đổi lại ơng
Rành đưa cho ơng Ơn, bà Xanh 30 chỉ vàng 24k để sử dụng, hai bên thỏa thuận nếu
quá 03 năm ơng Ơn, bà Xanh khơng chuộc lại đất cũng bằng số vàng trên thì ơng
Rành có quyền canh tác số ruộng đất này vĩnh viễn...”
Trong phần “Xét thấy” của Quyết định số 02 có đoạn: “Ngày 30/8/1995 vợ
chồng ông Võ Văn Ôn và Lê Thị Xanh cùng ông Nguyễn Văn Rành thỏa thuận việc
thục đất. Hai bên có lập “Giấy thục đất làm ruộng” với nội dung giống như việc
cầm cố tài sản”
1.7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không?
Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?
Căn cứ theo khoản 2 điều 322 BLDS 2005 về Quyền tài sản dùng để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự:
“Quyền sử dụng đất được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo
quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”. Theo quy định trên thì BLDS
2005 đã cho phép sử dụng quyền sử dụng đât để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân
sự, do đó, quyền sử dụng đất có thể được cầm cố.
1.8. Trong Quyết định trên, Tịa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử
dụng đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trong Quyết định trên, Toà án chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng đất để
cầm cố.
Đoạn của Quyết định cho câu trả lời: “Xét việc giao dịch thực đất nên trên là
tương tự với giao dịch cầm cố tài sản, do đó phải áp dụng nguyên tắc tương tự để
giải quyết. Về nội dung, thì giao dịch thực đất nên trên phù hợp với quy định về
9
cầm cố tài sản của Bộ luật dân sự (tại Điều 326, 327), do đó cần áp dụng các quy
định về cầm cố tài sản của Bộ luật dân sự để giải quyết mới bảo đảm quyền lợi hợp
pháp của các bên giao dịch”.
1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết
định số 02.
Hướng giải quyết trên của Tòa án là phù hợp với quy định của pháp luật. Theo
quy định tại Điều 326 BLDS 2005: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là
bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là
bên nhận cầm cố) để bảo đảm thục hiện nghĩa vụ dân sự”.
Ở đây, theo BLDS cầm cố không nhất thiết phải là “động sản” nữa. Do đó, bất
động sản cũng có thể được sử dụng để cầm cố. Khoản 2 Điều 322 BLDS 2005 quy
định: “Quyền sử dụng đất được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo
quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”. Như vậy, chúng ta có thể hoàn
toàn sử dụng quyền sử dụng đất để cầm cố theo quy định của BLDS là hoàn toàn
phù hợp với thực tiễn, bởi:
Thứ nhất là về mặt pháp lí: Người dân có 2 loại bất động sản quan trọng nhất
là nhà ở và quyền sử dụng đất. Nếu như không cho phép cầm cố quyền sử dụng đất
thì việc BLDS cho phép cầm cố bất động sản khơng cịn ý nghĩa đối với họ vì các
quy định về nhà ở cũng không liệt kê khả năng cầm cố nhà ở. Khi khơng chấp nhận
cầm cố quyền sử dụng đất thì hiển nhiên không chấp nhận cầm cố nhà ở. Hơn nữa
luật đất đai không hạn chế quyền của người sử dụng đất. Tư duy nhà làm luật hiện
nay người dân được làm những gì pháp luật khơng cấm nên khơng có quy định nào
cấm cầm cố quyền sử dụng đất nên người dân được quyền cầm cố.
Thứ hai là về mặt xã hội: Ngày nay, việc cầm cố quyền sử dụng khơng gây
phương hại cho ai thì khơng nên hạn chế. Nếu hạn chế thì khơng thuyết phục vì
pháp luật chỉ hạn chế hay cấm một loại giao dịch dân sự khi giao dịch này xâm hại
hay có nguy cơ xâm hại đến chính mục đích của một bên tham gia giao dịch hay
đến lợi ích của người khác, lợi ích xã hội. Từ xa xưa ông cha ta đã cầm cố và pháp
luật đã cho phép cầm cố và đây là truyền thống cần duy trì và phát triển.
10
Thứ ba là về mặt kinh tế: Việc cho phép cầm cố quyền sử dụng đất tức là cho
phép loại tài sản này có thêm cơ hội lưu thơng trong nền kinh tế. Khi người có
quyền sử dụng đất khơng có nhu cầu sử dụng hay sử dụng khơng hiệu quả nhưng
cần vốn để đầu tư vào việc khác và có chủ thể khác có điều kiện khai thác quyề sử
dụng đất tốt hơn thì việc hạn chế cầm cố sẽ làm giảm hiệu quả khai thác, sử dụng
đất đai và hiệu quả sử dụng vốn. Như vậy, cầm cố quyền sử dụng đất là cầm cố tài
sản vì quyền sử dụng đất là một loại tài sản.
1.10. Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ
nào? Vì sao?
Do cơng ty PT ký kết hợp đồng với Ngân hàng liên doanh V Hợp đồng tín
dụng hạn mức số 091/2015/HĐTD ngày 23/4/2015 với hạn mức tín dụng tối đa
10.000.000.000 đồng mục đích vay vốn là bổ sung vốn lưu động phục vụ hoạt động
sản xuất và Ngân hàng đã giải ngân ngày 14/5/2015 với số tiền 1.700.000.000 đồng.
Hợp đồng thế chấp được sử dụng để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho Ngân
hàng.Phạm vi bảo đảm nghĩa vụ :” Bên thế chấp đồng ý dùng tồn bộ tài sản thế
chấp được mơ tả tại Điều 2 Hợp đồng này để bảo đảm thực hiện toàn bộ nghĩa vụ
đã, đang và sẽ phát sinh trong tương lai theo tồn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và
sẽ ký giữa Ngân hàng với Bên vay trong giới hạn số tiền tối đa bằng giá trị tài sản
thế chấp theo quy đinh tại Điều 3 Hợp đồng này, bao gồm nhưng không giới hạn
các nghĩa vụ sau: Nợ gốc; nợ lãi; lãi phạt quá hạn; phí; khoản phạt; khoản bồi
thường thiệt hại (nếu có) theo hợp đồng tín dụng, hợp đồng cấp bảo lãnh”.”
1.11. Đoạn nào trong Quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định hợp đồng thế
chấp đã chấm dứt?
Mục 2 quyết định của tòa án quy định: “Hủy Bản án kinh doanh thương mại
phúc thẩm số 20/2020/KDTM-PT ngày 26/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương và giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 11/2019/KDTMST ngày 12/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương
đối với vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn Ngân hàng Liên
doanh V với bị đơn Cơng ty PT.”
1.12. Vì sao Tồ án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt?
11
Tịa án xác định hợp đồng thế chấp của ơng T, bà H đã chấm dứt do căn cứ
thỏa thuận tại cơ sở kết lập hợp đồng và khoản 2 Điều 1 của Hợp đồng thế chấp bất
động sản số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 nên ông T và bà H chỉ chịu trách
nhiệm bảo đảm đối với các khoản nợ được giải ngân trên cơ sở chịu sự điều chỉnh
và cho phép bởi Hợp đồng tín dụng hạn mức số 60/2014/HĐTD, hợp đồng tín dụng
số 106/2014/HĐTDCT, số 65/2014/HĐTDCT và số 73/2014/HĐTDCT. Nhưng do
phía Ngân hàng đã xác nhận Cơng ty PT đã thanh toán các khoản nợ theo hợp các
hợp đồng tín dụng nêu trên và Ngân hàng cũng đã tất tốn các hợp đồng vào ngày
cuối cùng 25/11/2014. Tịa án căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 357 BLDS
2005 thì Hợp đồng thế chấp bất động sản số 63/2014/HĐTC đã chấm dứt, hết hiệu
lực từ ngày 25/11/2014.
1.13. Việc Toà án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết
phục khơng? Vì sao?
Việc Tịa án xác định hợp đồng thế chấp của ông T, bà H đã chấm dứt là phù
hợp, có thuyết phục. Bởi vì việc bên vay vốn là Cơng ty PT khơng trả được nợ vay
theo thỏa thuận và Ngân hàng V tiến hành xử lý tài sản bảo đảm của bên bảo đảm là
ông T, bà H để thu hồi nợ là chưa có căn cứ, ơng T, bà H chỉ phải chịu trách nhiệm
bảo đảm với các khoản nợ được giải ngân trên cơ sở chịu sự điều chỉnh của hợp
đồng tín dụng. Tịa án đưa ra phán quyết hợp đồng thế chấp nêu trên vô hiệu chủ
yếu là do đây là mối quan hệ ba bên cần phải được ký kết hợp đồng bảo lãnh chứ
không phải hợp đồng thế chấp tài sản như trên.
VẤN ĐỀ 2: ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
* Tóm tắt bản án số 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 của Toà án nhân dân
TP. Hà Nội.
Nguyên đơn: Ngân hàng N
Bị đơn: Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại V.
Tranh chấp về Hợp đồng tín dụng. Khơng thanh toán nợ gốc, chậm trả lãi phát
sinh. Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, buộc
Công ty V phải trả lại tổng nợ gốc và lãi của 2 hợp đồng tín dụng theo khoản 2 Điều
305 BLDS 2005; Điều 91, Điều 95 Luật Tổ chức tín dụng 2010. Nếu khơng trả
12
được số nợ nêu trên thì cơ quan thi hành án dân sự phát mại tài sản thế chấp để thực
hiện nghĩa vụ trả nợ, phạm vi tài sản.
2.1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo
đảm.
Theo Bộ luật dân sự 2015 thì sẽ khơng cịn tồn tại điều luật nào quy định về
đăng kí giao dịch đảm bảo quy định tại Điều 323 BLDS 2005 nữa mà thay vào đó
sẽ là quy định về đăng ký biện pháp đảm bảo tại Điều 298 BLDS 2015. Đây là thay
đổi rất lớn trong BLDS 2015 về giao dịch đảm bảo để khắc phục những sai sót cũng
như những bất cập mà BLDS 2005 mắc phải khi quy định về giao dịch bảo đảm.
Xét thấy cách tiếp cận của BLDS 2005 về giao dịch bảo đảm gây ra nhiều
vướng mắc trong việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm
giữa giao dịch bảo đảm bằng tài sản (ví dụ như cầm cố, thế chấp) với bảo lãnh. Do
bảo lãnh theo quy định của pháp luật hiện hành (BLDS 2005) lại không thuộc diện
đăng ký giao dịch bảo đảm, vì giao dịch bảo đảm với tư cách là đối tượng của hoạt
động đăng ký chỉ có thể các biện pháp bảo đảm bằng một tài sản cụ thể (mang tính
chất đối vật), khơng bao hàm bảo lãnh, tín chấp. Nghĩa là, trong trường hợp có nhu
cầu, các bên trong quan hệ bảo lãnh cũng không thể thực hiện việc đăng ký giao
dịch bảo đảm. Do đó, nếu lấy tiêu chí đăng ký để xác định thứ tự ưu tiên thanh tốn
sẽ khơng đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo lãnh. Tuy nhiên, nếu
lấy theo tiêu chí xác lập giao dịch, thì khơng phù hợp với tinh thần của Điều 325
BLDS 2005 quy định về nguyên tắc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các giao
dịch bảo đảm. Đến BLDS 2015 đã đổi thành đăng kí các biện pháp bảo đảm đã giải
quyết được vấn đề còn nan giải là xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài
sản đảm bảo giữa giao dịch đảm bảo bằng tài sản và bảo lãnh (khi được xem là một
biện pháp bảo đảm khơng thuộc diện đăng kí giao dịch đảm bảo).
Mặt khác, ở BLDS 2015 còn quy định: Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch
đảm bảo có hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có quy định. Việc sử dụng cụm từ
“trong trường hợp luật có quy định” thay thế cho “trong trường hợp pháp luật có
quy định” đã thể hiện sự thay đổi trong tư duy lập pháp, phù hợp với các quy định
của hiến pháp và các quy định khác có liên quan. Bởi lẽ chỉ khi luật có quy định
13
đăng kí là điều kiện có hiệu lực của biện pháp bảo đảm thì các bên mới phải tuân
thủ quy định đó và văn bản dưới luật khơng thể áp đặt những trường hợp phải đăng
kí biện pháp bảo đảm => thu hẹp phạm vi cũng như tránh tình trạng lạm quyền.
Và một thay đổi nữa giữa BLDS 2005 và BLDS 2015 đó là ở khoản 2 Điều
297 BLDS 2015 xuất hiện cụm từ “hiệu lực đối kháng với người thứ ba” thay thế
cho quy định về “giá trị pháp lý đối với người thứ ba” tại khoản 3 Điều 323 BLDS
2005. Vì căn cứ theo quy định tại Điều 308 BLDS 2015 thì khi biện pháp bảo đảm
phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi
tài sản và được quyền ưu tiên thanh tốn. Vì vậy, chế định đăng kí biện pháp bảo
đảm của BLDS 2015 đã ghi nhận hai quyền là quyền ưu tiên thanh tốn và quyền
truy địi bằng cách thay thế thuật ngữ khá mới là hiệu lực đối kháng với người thứ
ba. Còn ở chế định đăng ký giao dịch bảo đảm của BLDS 2005 bằng việc quy định
cụm từ có giá trị pháp lý với người thứ ba thì chỉ ghi nhận quyền ưu tiên thanh toán
khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối với người thứ ba => đảm bảo một
cách tốt nhất quyền lợi của người thứ ba.
2.2. Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường
hợp phải đăng ký khơng? Vì sao?
Hợp đồng thế chấp số 03.00148/HĐTC ngày 27/5/2003 trong quyết định trên
thuộc trường hợp phải đăng kí vì theo khoản 1 Điều 2 nghị định số 08/2000/NĐCP
ngày 10/03/2000 của chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định về những trường
hợp sau đây phải được đăng kí giao dịch bảo đảm trong đó có điểm a quy định về
trường hợp là “việc cầm cố thế chấp tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải
đăng kí quyền sở hữu”. Theo hợp đồng thế chấp số 03.00148/HĐTC ngày
27/5/2003 thì tài sản thế chấp bao gồm nhà xưởng, kho, văn phòng, nhà bảo vệ, nhà
vệ sinh, nhà nghỉ, nhà máy, hệ thống thoát nước, tường rào, đường nội bộ gắn liền
với 6.012m2 đất tại khu công nghiệp Đồng An, Bình Dương. Mà theo quy định tại
điểm a khoản 1 điều 130 luật đất đai thì khi thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản là
bất động sản gắn liền với đất phải đăng kí giao dich bảo đảm.
2.3. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định
không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định.
14
Đoạn của bản án cho câu trả lời là: “Đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba ngày 07/9/2009. Sau khi các bên ký
kết hợp đồng thì cơng chứng viên thực hiện việc cơng chứng theo trình tự: lập lời
chứng của công chứng viên ghi nhận rõ các bên tham gia ký kết hợp đồng thế chấp
gồm: Bên thế chấp, bên nhận thế chấp và bên vay ghi nhận rõ việc bên thế chấp và
bên vay ký tên và Hợp đồng trước mặt công chứng viên tại địa chỉ số 60V, phường
T, quận H, Hà Nội. Sau đó cơng chứng viên đóng dấu và trả hồ sơ cho phía Ngân
hàng. Cơng chứng viên, ơng Khúc Mạnh C khẳng định khi ký kết hợp đồng, ông Q
và bà V đã xuất trình đầy đủ chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu và Giấy chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất. Bên ngân hàng đã có Giấy đề nghị
Công chứng và Biên bản định giá tài sản, hợp đồng thế chấp đều ghi ngày
07/9/2009 được kývà đóng dấu bởi người có thẩm quyền của Ngân hàng. Ngồi ra
Biên bản định giá có đầy đủ chữ ký của bên thế chấp là vợ chồng ông Q và bà V;
bên khách hàng vay là Công ty V do ông Nguyễn Tử D làm đại diện ký tên và đóng
dấu Văn phịng cơng chức đã thực hiện đúng pháp luật công chứng, nội dung văn
bản công chứng không trái với quy định của pháp luật, không vi phạm Điều 122 Bộ
luật dân sự năm 2005 nên không thể tự vơ hiệu”.
2.4. Theo Tồ án, nếu khơng được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 có
vơ hiệu khơng? Vì sao?
Theo Tịa án, nếu khơng được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 khơng
vơ hiệu. Vì sau khi ký kết hợp đồng thì cơng chứng viên đã thực hiện việc cơng
chứng theo đúng trình tự, các bên có đủ các giấy tờ liên quan và nội dung của bản
công chứng không trái với quy định của pháp luật.
2.5. Hướng của Tồ án như trong câu hỏi trên có thuyết phục khơng? Vì sao?
Hướng giải quyết trong câu hỏi trên về việc cho rằng khi tài sản thế chấp
không được đăng ký sẽ không làm vô hiệu hợp đồng thế chấp là khơng thuyết phục.
Vì:
+ Thứ nhất, về mặt pháp lý: Tại khoản 2 Điều 323 BLDS năm 2005 có quy định
như sau: “Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong
trường hợp pháp luật có quy định”. Như vậy, có thể hiểu rằng, đối với các biện
15
pháp bảo đảm không được pháp luật quy định bắt buộc phải đăng ký, thì khi khơng
đăng ký bảo đảm sẽ không làm hợp đồng thế chấp bị vô hiệu.
+ Thứ hai, xét hợp đồng thế chấp trong trường hợp trên, tài sản thế chấp là quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Trong đó, có quyền sử dụng đất thuộc một trong
các biện pháp bảo đảm bắt buộc đăng ký. Mặc dù tài sản thế chấp trên đã được đăng
ký biện pháp bảo đảm, hợp đồng đã phát sinh hiệu lực, nhưng Tòa nhận định rằng
việc đăng ký chỉ làm phát sinh quyền ưu tiên xử lý tài sản thế chấp thôi là không
đúng với quy định của pháp luật.
VẤN ĐỀ 3: ĐẶT CỌC
* Tóm tắt Án lệ số 25/2018/AL
Nguyên đơn: Phan Thanh L
Bị đơn: Trương Hồng Ngọc H
Sau khi thỏa thuận, ông L đặt cọc cho bà H 2.000.000.000 đồng. Tại Điều 5
của hợp đồng đặt cọc, các bên thỏa thuận kể từ ngày ký hợp đồng, bà H phải hoàn
tất các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với căn nhà nêu trên,
sau đó sẽ ký hợp đồng mua bán có cơng chứng; nếu vi phạm thời hạn nêu trên, bà H
phải chịu phạt số tiền tương đương với tiền cọc là 2.000.000.000 đồng. Nhưng đến
hạn thì bà khơng thực hiện đúng cam kết, nên ông L khởi kiện yêu cầu bà H phải
hoàn trả tiền cọc và phạt cọc, tổng cộng 4.000.000.000 đồng.
* Tóm tắt quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018 của Tòa án
nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
Ngun đơn: Cơng ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hồng Qn
Bị đơn: Cơng ty TNHH Thương mại và xây dựng Sơn Long Thuận
Ngày 20/2/2008 , công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận kí kết biên bản thoả
thuận bán 39.192 cổ phiếu mệnh giá 100.000 đồng/ cổ phiếu thuộc sở hữa của công
ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước ( SCIC) tại công ty Ninh Thuận cho Cơng
ty cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hồng Qn. Ngày 22/2/2008, cơng ty Hồng Qn
chuyển 1 tỉ đồng tiền đặt cọc để mua cổ phiếu vào tài khoản của công ty Ninh
Thuận tại ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam.-Chi nhánh
16
tỉnh Ninh Thuận. Vì cơng ty Ninh Thuận có nợ Ngân hàng và đã kí kết biên bản”
khi tài khoản bên vay có số dư thì ngân hàng được quyền trích để thu nợ”. Vì vậy ,
ngân hàng đã tự trích số tiền đặt cọc 1 tỉ đồng của cơng ty Hồng Qn để thu nợ
của cơng ty Ninh Thuận. Nhưng việc mua bán cổ phiếu sau đó khơng thể thực hiện
được. Sau đó, cơng ty Ninh Thuận đã sáp nhập vào công ty TNHH Thương mại và
Xây dựng Sơn Long Thuận.
* Tóm tắt bản án số 26/2019/DS-PT ngày 11/6/2019 của Tồ án nhân dân tỉnh
Quảng Ninh.
Ngun đơn là ơng Vũ Đình P
Bị đơn là ơng Trần Xn I
Ơng P biết được ơng I có người thân ờ Mỹ mua được xe ô tô nhập khẩu từ Mỹ
về Việt Nam nên ông P đã đặt vấn đề nhờ ông I mua hộ. Ông P đã đưa số tiền đặt
cọc là 450.000.000 đồng cho ông I, thỏa thuận quy định rõ thời gian giao xe là trước
tết dương lịch 2017 (không có giá xe). Nhưng mãi đến ngày 8/1/2018 vẫn chưa
nhận được xe, nên ông I đã không thực hiện được và trả lại số tiền cọc là
450.000.000 đồng cho ông P. Sau đó ơng P làm đơn khởi kiện u cầu Tịa án giải
quyết buộc ơng I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000 đồng.
3.1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp
+ đặt cọc và cầm cố:
Phương thức
thực hiện
Tài sản bảo đảm
Bên giữ tài sản
Mục đích
Hình thức
Đặt cọc (Điều 358)
Một bên giao cho bên kia một
khoản tiền hoặc kim khí quý, đá
quý hoặc vật có giá trị khác
Một khoản tiền hoặc kim khí
q, đá q hoặc vật có giá trị
khác
Bên nhận đặt cọc giữ
Cầm cố tài sản (Điều 326)
Bên cầm cố giao tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình cho bên
nhận cầm cố
Vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản (Điều 163 BLDS 2005)
Bên nhận cầm cố giữ
Nếu là tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu thì thỏa thuận bên
cầm cố hoặc người thứ ba giữ.
Bảo đảm việc giao kết hoặc thực Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
hiện hợp đồng
sự
Lập thành văn bản
Lập thành văn bản (văn bản
riêng hoặc ghi trong hợp đồng
17
Việc trả lại tài sản
bảo đảm
Xử lý tài sản bảo
đảm
Thời điểm chấm
dứt
Tài sản đặt cọc được trả lại cho
bên đặt cọc hoặc được trừ để
thực hiện nghĩa vụ trả tiền.
Khoản 2 Điều 358
Khoản 2 Điều 358
Bên đặt cọc từ chối việc giao
kết, thực hiện hợp đồng thì tài
sản thuộc về bên nhận đặt cọc.
Bên nhận đặt cọc từ chối việc
giao kết, thực hiện hợp đồng thì
phải trả cho bên đặt cọc tài sản
đặt cọc và một khoản tiền tương
đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ
trường hợp có thoả thuận khác.
Điều 358
- Khi hợp đồng được giao kết,
thực hiện trong thời hạn của hai
bên thỏa thuận.
- Khi một bên từ chối việc giao
kết, thực hiện hợp đồng
chính)
Tài sản cầm cố được trả lại cho
bên cầm cố. Hoa lợi, lợi tức thu
được từ tài sản cầm cố cũng
được trả lại cho bên cầm cố.
Điều 336
Điều 336
Đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân
sự mà bên có nghĩa vụ khơng
thực hiện hoặc thực hiện nghĩa
vụ khơng đúng thỏa thuận thì tài
sản cầm cố được xử lý theo
phương thức do các bên thỏa
thuận hoặc được bán đấu giá
theo quy định của pháp luật để
thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Điều 339
- Nghĩa vụ bảo đảm bằng cấm cố
chấm dứt.
- Việc cầm cố tài sản được hủy
bỏ hoặc được thay thế bằng biện
pháp bảo đảm khác.
- Tài sản cầm cố đã được xử lý
- Theo thỏa thuận giữa các bên
+ Đặt cọc và thế chấp:
Phương thức
thực hiện
Tài sản bảo đảm
Bên giữ tài sản
Mục đích
Hình thức
Đặt cọc (Điều 358)
Thực hiện việc giao tài sản từ
người này sang người khác.
Một khoản tiền hoặc kim khí
quý, đá quý hoặc vật có giá trị
khác
Thế chấp tài sản (Điều 342)
Khơng thực hiện việc giao tài
sản cho người nhận bảo đảm
Vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản (Điều 163 BLDS 2005)
Tài sản được hình thành trong
tương lai
Bên nhận đặt cọc giữ
Bên thế chấp giữ hoặc có thể
thỏa thuận cho người thứ ba giữ
Bảo đảm việc giao kết hoặc thực Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
hiện hợp đồng
sự
Lập thành văn bản
Lập thành văn bản (văn bản
riêng hoặc ghi trong hợp đồng
chính)
Nếu pháp luật có quy định thì
văn bản phải cơng chứng, chứng
18
Thời hạn bảo
đảm
Xử lý tài sản bảo
đảm
Thời điểm chấm
dứt
Khoản 1 Điều 358: “Trong một
thời hạn”: Tức là các bên được
tự do trong việc xác định thời
hạn.
Khoản 2 Điều 358
Bên đặt cọc từ chối việc giao
kết, thực hiện hợp đồng thì tài
sản thuộc về bên nhận đặt cọc.
Bên nhận đặt cọc từ chối việc
giao kết, thực hiện hợp đồng thì
phải trả cho bên đặt cọc tài sản
đặt cọc và một khoản tiền tương
đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ
trường hợp có thoả thuận khác.
Điều 358
- Khi hợp đồng được giao kết,
thực hiện trong thời hạn của hai
bên thỏa thuận.
- Khi một bên từ chối việc giao
kết, thực hiện hợp đồng.
thực hoặc đăng ký.
Theo Điều 344 thì về nguyên tắc
là các bên thỏa thuận về thời
hạn thế chấp, nhưng nếu khơng
có thỏa thuận thì thời hạn được
xác định trong suốt thời gian
nghĩa vụ dân sự cho đến khi
nghĩa vụ dân sự chấm dứt.
Điều 355
Đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân
sự mà bên có nghĩa vụ khơng
thực hiện hoặc thực hiện khơng
đúng nghĩa vụ thì việc xử lý tài
sản thế chấp được thực hiện theo
quy định tại Điều 336 và Điều
338 BLDS 2005
Điều 357
- Nghĩa vụ được bảo đảm bằng
thế chấp chấm dứt.
- Việc thế chấp tài sản được hủy
bỏ hoặc được thay thế bằng biện
pháp bảo đảm khác.
- Tài sản thế chấp được xử lý.
- Theo thỏa thuận của các bên.
3.2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc.
BLDS 2005 (Điều 358)
1. Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia
một khoản tiền hoặc kim khí quí, đá quý
hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài
sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm
giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự.
Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản.
2. Trong trường hợp hợp đồng dân sự được
giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được
trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để
thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc
BLDS 2015 (Điều 328)
1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là
bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi
là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc
kim khí q, đá q hoặc vật có giá trị khác
(sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong
một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực
hiện hợp đồng.
2. Trường hợp hợp đồng được giao kết,
thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho
bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện
19
từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng
dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận
đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc
giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì
phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và
một khoản tiền tương đương giá trị tài sản
đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Đặt cọc để đảm bảo giao kết hoặc thực
hiện hợp đồng dân sự
Việc đặt cọc phải được thành lập văn bản.
nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối
việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản
đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên
nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực
hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc
tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương
đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.
Đặt cọc để đảm bảo giao kết, thực hiện hợp
đồng và cũng không nêu ra là việc đặt cọc
phải thành lập văn bản .
Căn bản là khi xét về nội dung thì chế định đặt cọc trong hai BLDS 2005 và
BLDS 2015 khơng có sự thay đổi nhiều, có chăng thay đổi là vấn đề việc lập thành
văn bản giữa bên đặt cọc và bên nhận cọc thì ở BLDS 2015 khơng bắt buộc việc đặt
cọc phải được lập thành văn bản như BLDS 2005 nữa bởi lẽ khi xét đến thực tiễn đã
có Tịa án theo hướng đây là điều kiện có hiệu lực của đặt cọc nên đã vô hiệu thỏa
thuận đặt cọc không dược lập thành văn bản nhưng chứng minh được bằng sự thỏa
thuận giữa các bên và bằng việc chuyển khoản thực tiễn như trên xảy ra bất cập
trước yêu cầu văn bản của BLDS 2005. Trước bất cập như vậy với xu hướng là
khơng đặt nặng hình thức của vấn đề giao dịch đã có sự thay đổi đáng chú ý như
vừa nêu trên (dựa theo bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015)
Mặt khác BLDS 2015 còn rút gọn đi thuật ngữ hợp đồng dân sự trong BLDS
2005 thay thế vào đó là thuật ngữ hợp đồng. Điều này chứng tỏ ràng các nhà lập
pháp mong muốn mở rộng phạm vi điều chỉnh của chế định đặt cọc đó là khơng chỉ
bó hẹp chỉ trong các loại hợp đồng dân sự mà còn mở rộng ra nhiều loại hợp đồng
khác không phải hợp đồng dân sự. Vì thuật ngữ hợp đồng bao hàm rất nhiều loại
hợp đồng như thương mại, hợp dồng lao động, v.v… Điều này cũng phù hợp hơn
với thực tiễn vì trong nhiều trường hợp hợp đồng đặt cọc giữ các bên không phải là
hợp đồng dân sự thì sẽ bị vơ hiệu làm mất quyền lợi cũng như lợi ích của các bên
tham gia ký kết hợp đồng.
3.3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?
Theo khoản 2 Điều 328 BLDS năm 2015: “Trường hợp hợp đồng được giao
kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực
hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì
20
tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao
kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản
tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
3.4. Nếu hợp đồng được đặt cọc không được giao kết, thực hiện vì lý do khách
quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc khơng?
Vì sao?
Theo điều 420 BLDS 2015 : “2. Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản,
bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền u cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong
một thời hạn hợp lý.
3. Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng
trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án:
a) Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác định;
b) Sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do
hồn cảnh thay đổi cơ bản.
Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc
chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện
hợp đồng nếu được sửa đổi.
4. Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết
vụ việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Nếu hợp đồng được đặt cọc khơng được giao kết, thực hiện vì lý do khách
quan, bên đặt cọc có quyền được địi lại tài sản đã đặt cọc và bên nhận cọc có nghĩa
vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc.
3.5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho
bên nhận cọc như thế nào?
21
Cơng ty Hồng Qn đã cọc trước 1 tỉ đồng. Ngày 22/2/2008, cơng ty Hồng
Qn đã chuyển số tiền đặt cọc vào tài khoản của công ty Ninh Thuận mở tại ngân
hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Ninh
Thuận.
3.6. Theo Toà giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc
còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc khơng? Vì sao?
Theo tịa giám đốc thẩm trong quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc cịn
thuộc sở hữu của bên đặt cọc vì số tiền được chuyển vào tài khoản của cơng ty Ninh
Thuận thì Ngân hàng đã căn cứ vào hợp đồng tín dụng có điều khoản thỏa thuận
cho phép ngân hàng được quyền trích tài khoản của công ty Ninh Thuận để cấn trừ
vào số nợ quá hạn và lãi suất của công ty là trái pháp luật.
Vì số tiền đặt cọc 1 tỉ đồng chưa thuộc sở hữu của công ty Ninh Thuận theo
Khoản 1 Điều 328 BLDS năm 2015: “Đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một
khoản tiền hoặc kim khí q, đá q hoặc vật có giá trị khác trong một thời hạn để
đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”.
3.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm liên
quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc.
Hướng giải quyết trên của tòa là hợp lý. Vì:
Việc ngân hàng trích số tiền đặt cọc để cấn trừ vào số nợ quá hạn và lãi suất
của công ty là trái pháp luật. Trong quá trình diễn ra mua bán nợ giữa cơng ty Sơn
Long Thuận với cơng ty Ninh Thuận khơng có văn bản nào bàn giao khoản nợ tiền
đặt cọc 1 tỉ đồng mua bán cổ phần từ cơng ty Hồng Qn.
Đến 31/5/2010, ngân hàng đã bán tồn bộ nợ vay của cơng ty Ninh Thuận cho
công ty Sơn Long Thuận, tại phụ lục kèm theo hợp đồng mua bán nợ cũng không
thể hiện khoản nợ này.
Mặt khác, công văn 29/CV-PC ngày 1/7/2009 của Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Việt Nam chỉ đạo xử lý số nợ của công ty Ninh Thuận “Chi nhánh xử lí khoản
tiền 1 tỉ đồng đã thu nợ từ nguồn đặt cọc mua cổ phần của công ty Hoàng Quân khi
22
có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tịa án”. Vì vậy việc ngân hàng trích
số tiền đặt cọc của cơng ty Hồng Qn để thu nợ vay của cơng ty Ninh Thuận là
khơng có căn cứ.
Theo quy định tại khoản 2 điều 153 Luật Doanh Nghiệp năm 2005 thì cơng ty
trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận là bên nhận sát
nhập phải chịu trách nhiệm hồn trả cho cơng ty Hồng Quân số tiền 1 tỉ đồng đặt
cọc.
3.8. Đoạn nào cho thấy Toà án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL?
“Căn cứ theo Án lệ số 25/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân
dân tối cao thơng qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết
định số 269/QĐ-CA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao: “Trường hợp bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do yếu tố
khách quan và bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt cọc”.
3.9. Việc Toà án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hồn cảnh trong vụ việc này
có thuyết phục khơng? Vì sao?
Việc Tồn án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc này là
hồn tồn thuyết phục.
Vì trên thực tế ơng I cũng đã từng nhờ em gái mua được ô tô nhập khẩu từ Mỹ
về Việt Nam để sử dụng, nên ông mới đồng ý mua hộ ơng P, nhưng hồn tồn phụ
thuộc vào chính sách quản lý của Nhà nước ở từng thời điểm và hoàn toàn phụ
thuộc vào người thân bên Mỹ và Đại lý nhập khẩu, Vì ơng I khơng có xe ơ tơ để bán
và cũng khơng có đủ điều kiện nhập khẩu xe để bán cho ông P. Ơng P biết rõ điều
này và khơng có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh rằng ơng I có khả năng bán xe ô
tô cho ông P, nhưng cố tình từ chối thực hiện. Do đó, việc ơng I không thực hiện
được thỏa thuận là do yếu tố khách quan.
3.10. Việc Tồ án “khơng chấp nhận u cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu
cầu ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ số
25/2018/AL khơng? Vì sao?
23
Việc Tồ án “khơng chấp nhận u cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu cầu
ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” là phù hợp với Án lệ số
25/2018/AL.
Vì theo Án lệ thì “xác định cơ quan thi hành án dân sự chậm trễ trong việc
chuyển tên quyền sở hữu cho bà H dẫn tới việc bà H không thể thực hiện đúng cam
kết với ông L thuộc về khách quan, và bà H không phải chịu phạt cọc”, cịn theo bản
án thì việc khơng giao được xe “hồn tồn phụ thuộc vào chính sách quản lý của
Nhà nước ở từng thời điểm và hoàn toàn phụ thuộc vào người thân bên Mỹ và Đại
lý nhập khẩu”. Án lệ và bản án đều không thể thực hiện đúng như hợp đồng là do
yếu tố khách quan.
VẤN ĐỀ 4 : BẢO LÃNH
* Tóm tắt Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011
Tháng 11/2005, bà Nhung cho bà Mát vay tiền, thỏa thuận trả lãi hàng tháng
còn tiền gốc sẽ trả vào tháng 10/2006, có sự bảo lãnh của bà Thắng và ông Ân. Bà
Mát trả được 8 tháng tiền lãi, sau đó khơng trả cả tiền gốc và lãi nên bà Nhung khởi
kiện yêu cầu bà Mát phải trả tiền cho bà.
Tòa sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của bà Nhung, cho rằng bà Mát và bà Thắng
cùng có nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm trả tiền cho bà Nhung.
Tòa phúc thẩm nhận định quan hệ vay tiền và quan hệ bảo lãnh là hai quan hệ
độc lập nên bà Nhung có quyền khởi kiện bà Mát trả tiền hoặc khởi kiện yêu cầu bà
Thắng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trả nợ thay cho bà Mát. Do đó, bà Nhung lại làm
đơn khởi kiện yêu cầu bà Thắng phải trả tiền thay cho bà Mát.
Tòa Giám đốc thẩm xét thấy: Trước hết cần xác định bà Mát phải là người
chịu trách nhiệm dân sự của mình đối với bà Nhung. Nếu bà Mát khơng có khả
năng thực hiện hoặc chỉ có thể thực hiện một phần thì phần không thực hiện được
bà Thắng và ông Ân mới phải có trách nhiệm thực hiện thay.
24
* Tóm tắt quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương - Chi nhánh Đồng Nai
Bị đơn là bà Đỗ Thị Tỉnh - Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân
Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương – chi nhánh Đồng Nai ký hợp đồng cho
Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc vay tiền. Tài sản được dùng để đảm bảo cho khoản
vay là quyền sử dụng mảnh đất của ông Miễn và bà Cà. Hợp đồng này thông qua bà
Trang để thực hiện và ông Miễn, bà Cà đều cho rằng mình không quen biết với bà
Tỉnh cũng như Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc. Nay Quỹ tín dụng khơng địi được
nợ từ bà Tỉnh cũng như Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc nên buộc người bảo lãnh
phải có trách nhiệm với khoản nợ đó. Cả ơng Miễn và bà Cà đều khơng đồng ý với
quyết định này. Toà án tuyên chỉ khi chủ Doanh nghiệp tư nhân không trả được nợ
hoặc không đủ thì ơng Miễn và bà Cà mới phải trả thay; nếu cả hay đều khơng trả
thì mới xử lý tài sản thấp chấp để thu hồi nợ.
4.1. Những đặc trưng của bảo lãnh
Căn cứ vào Điều 361 đến Điều 371 BLDS 2005 và Điều 335 đến Điều 343
BLDS 2015 chúng ta có nhận thể thấy bảo lãnh có các đặc trưng tiêu biểu sau đây:
Có ít nhất 3 chủ thể: bên bảo đảm (bên bảo lãnh), bên nhận bảo đảm (bên có
quyền-bên nhận bảo lãnh) và bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh)
− Là quan hệ có tính chất đối nhân, đối vật
− Đối tượng của biện pháp bảo lãnh có thể là cơng việc tùy theo nghĩa vụ được bảo
đảm là nghĩa vụ thanh toán tiền hay nghĩa vụ thực hiện một công việc nhất định
− Thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên hoặc
theo quy định của pháp luật
− Có tính chất dự phịng, chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm nghĩa vụ xảy ra
− Phạm vi của các biện pháp bảo đảm do các bên thỏa thuận, có thể là tồn bộ hay
một phần nghĩa vụ
− Sự bảo lãnh có tính chất phụ thuộc: chỉ có thể bảo lãnh khi nào có một nghĩa vụ
chính là đối tượng của nghĩa vụ bảo lãnh. Sự bảo lãnh khơng thể có một đối tượng
khác, hoặc rộng hơn đối tượng của nghĩa vụ chính, hoặc được cam kết với những
điều kiện tốn kém hơn nghĩa vụ chính.
− Sự bảo lãnh phải rõ ràng, pháp luật không chấp nhận sự bảo lãnh mặc nhiên. Việc
bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có cơng chứng chứng thực.
− Được coi là hợp đồng phụ với mục đích để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong một
hợp đồng được xác định
25
4.2. Những thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về bảo lãnh.
+ Về khái niệm bảo lãnh
Có sự thay đổi là bổ sung thêm cụm từ “thực hiện nghĩa vụ” vào sau từ “thời
hạn” để làm rõ nghĩa hơn. Sự thay đổi này không dẫn đến việc thay đổi về nội dung
mà chỉ mang tính kỹ thuật để điều luật trở nên rõ nghĩa hơn.
Ở đây, bộ BLDS 2015 vẫn theo hướng bảo lãnh là “cam kết” và thông thường
là thỏa thuận với người nhận bảo lãnh nhưng không nhất thiết cam kết bảo lãnh
luôn đồng nghĩa với thỏa thuận
Cũng như BLDS 2005, BLDS 2015 vẫn coi bảo lãnh là “việc của người thứ
ba”. Ở khái niệm trên, BLDS 2015 chưa rõ khi quy định về khả năng bảo lãnh của
pháp nhân nhưng quy định ở phần sau lại cho thấy BLDS 2015 theo hướng chấp
nhận bảo lãnh của pháp nhân. Đó là khoản 4 Điều 336 BLDS 2015. Hướng quy
định một cách rõ ràng như vậy trong BLDS 2015 là thuyết phục vì khi 1 tổ chức
đứng ra bảo lãnh không với tư cách là một hoạt động chuyên nghiệp thì đây chỉ là
một giao dịch dân sự thơng thường và khơng có lý do gì để khơng cho phép chủ thể
này xác lập giao dịch bảo lãnh.
+ Về phạm vi bảo lãnh
Điều 336 BLDS 2015 đã có sự bổ sung thêm một số nội dung mới:
Thứ nhất, Quy định thêm “lãi suất số tiền chậm trả” vào nghĩa vụ bảo lãnh với
nội dung “nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi
thường thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Việc bổ sung thêm “lãi suất số tiền chậm trả” vào phạm vi bảo lãnh là phù
hợp với thực tế và tương thích với các quy định khác có liên quan. Bởi lẽ, khi hết
thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ (vd: chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền) thì bên có nghĩa vụ (bên
chậm trả) phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả
(Điều 357 BLDS 2015). Do đó, nếu bên có nghĩa vụ khơng thực hiện được nghĩa vụ
trên thì bên bảo lãnh phải thực hiện thay và yêu cầu bên được bảo lãnh hồn lại cho
mình (Điều 340 BLDS 2015)