Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Mua bán nợ và xử lý nợ xấu - kinh nghiệm thực tiễn từ các nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.32 KB, 13 trang )

26

CHUYÊN MỤC

KINH TẾ HỌC - XÃ HỘI HỌC - GIÁO DỤC HỌC

MUA BÁN NỢ VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU KINH NGHIỆM THỰC TIỄN TỪ CÁC NƯỚC
NGUYỄN THỊ LOAN*

Phát triển thị trường mua bán nợ và xử lý nợ xấu là một trong những giải pháp
quan trọng góp phần cơ cấu lại danh mục tín dụng, nâng cao chất lượng tín
dụng, tạo thêm kênh thanh khoản và góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng và
các tổ chức tham gia kinh doanh dịch vụ mua bán nợ. Tuy nhiên, thực tế tại Việt
Nam chưa có thị trường mua bán nợ đúng nghĩa, chỉ mới dừng lại ở hoạt động
mua bán nợ xấu của ngân hàng nhưng vẫn cịn khơng ít bất cập. Bài viết tổng
hợp các nghiên cứu về kinh nghiệm xử lý nợ và thúc đẩy mua bán nợ của một
số quốc gia, từ đó rút ra hàm ý chính sách về hồn thiện mơi trường pháp lý và
tổ chức thị trường liên quan đến mua bán nợ và xử lý nợ xấu qua hệ thống ngân
hàng tại Việt Nam.
Từ khóa: mua bán nợ, xử lý nợ xấu, ngân hàng
Nhận bài ngày: 15/12/2021; đưa vào biên tập: 16/12/2021; phản biện: 18/12/2021;
duyệt đăng: 10/02/2022

1. DẪN NHẬP
Trên thực tế, mua bán nợ (MBN) trên
thế giới được xem là một thị trường
kinh doanh có khả năng sinh lời cao
và khơng đơn thuần chỉ liên quan đến
các khoản nợ có vấn đề mà cả những
khoản nợ tốt. Hoạt động MBN hiện
còn rất mới tại Việt Nam nhưng lại rất


phổ biến trên thế giới, nhất là tại các
nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ,
Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ
Chí Minh.
*

Ý, Đức. Một số quốc gia trong khu vực
Châu Á như Nhật, Hàn Quốc cũng đã
có hoạt động MBN từ năm 1997. Đến
nay, hoạt động MBN trên thế giới đã
trở thành một ngành kinh doanh sôi
động và chuyên nghiệp.
Tại Việt Nam, nợ xấu, nợ tồn đọng đã
xuất hiện từ lâu và là một trong những
ngun nhân dẫn đến tình hình tài
chính của doanh nghiệp rơi vào khó
khăn, nhiều doanh nghiệp mất khả
năng thanh tốn và đi đến chỗ phá
sản. Chính phủ Việt Nam đã có một số


NGUYỄN THỊ LOAN – MUA BÁN NỢ VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU…

biện pháp xử lý nhưng chưa đạt kết
quả như mong muốn. Hơn nữa, khái
niệm MBN còn mới trong lý luận cũng
như thực tiễn tại Việt Nam. Nghiên
cứu về thị trường MBN có rất nhiều
vấn đề như về hàng hóa, chủ thể
tham gia, phương thức mua bán và

các điều kiện vận hành (môi trường
pháp lý, định giá, minh bạch thông tin).
Để giải quyết một phần những vấn đề
trên, phạm vi của bài viết chủ yếu tập
trung nghiên cứu về kinh nghiệm của
một số quốc gia trong xử lý nợ xấu và
phát triển thị trường MBN trong hệ
thống ngân hàng, từ đó rút ra các hàm
ý chính sách đối với Việt Nam.
2. LÝ THUYẾT VỀ MBN VÀ THỊ
TRƯỜNG MBN
2.1. Khái niệm về nợ xấu và MBN
Nợ xấu (non-performing loans - NPL)
và mua bán nợ xấu là các khái niệm
quen thuộc trong lý thuyết và thực
nghiệm. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB),
các khoản vay được chia làm 5 nhóm
nợ bao gồm: (i) đạt tiêu chuẩn (nhóm
1); (ii) cần theo dõi (nhóm 2); (iii) dưới
tiêu chuẩn (nhóm 3); (iv) đáng ngờ
(nhóm 4); (v) mất vốn (nhóm 5). Trong
đó, nợ vay từ nhóm 3 đến nhóm 5 là
nợ vay có nợ quá hạn từ 90 ngày trở
lên và có khả năng thất thốt hoặc
khó thu hồi. Theo Thơng tư số
02/2013/TT-NHNN ban hành ngày
21/3/2013, nợ tại tổ chức tín dụng Việt
Nam cũng được phân loại thành 5
nhóm gồm: (i) nợ đủ tiêu chuẩn; (ii) nợ

cần chú ý; (iii) nợ dưới tiêu chuẩn; (iv)
nợ nghi ngờ; (v) nợ có khả năng mất

27

vốn. Thông tư này quy định nợ xấu là
nợ được phân loại từ nhóm 3 đến
nhóm 5. Điều này cho thấy về hình
thức, phân loại nợ qua hệ thống ngân
hàng của Việt Nam có dựa trên phân
loại nợ theo tiêu thức của quốc tế. Tuy
nhiên, khái niệm MBN vẫn còn khá
mới mẻ ở Việt Nam.
Những khái niệm đầu tiên liên quan
đến MBN được đề cập trong nghiên
cứu của nhóm tác giả E.W. Reed, R.V.
Cotter, E.K. Gill và R.K. Smith (1976),
theo đó, MBN là việc mua lại các
khoản nợ. Trong đó, các cơng ty mua
nợ mua các khoản nợ của khách hàng
trên cơ sở khơng truy địi và tiến hành
một số các dịch vụ khác ngoài việc
ứng trước các khoản nợ. Cơng ty mua
nợ đánh giá mức tín dụng trong hiện
tại và tương lai của khách hàng
(người bán) và xác lập các hạn mức
tín dụng ứng trước. Các khách hàng
được yêu cầu gửi trực tiếp cho công
ty mua nợ bản sao hóa đơn. S. Brown,
K. Taylor và S. Price (2005) nhìn nhận

MBN là một loại hình tài trợ dưới dạng
tín dụng chuyển nhượng nợ. Trong đó,
cơng ty chuyển tồn bộ hay một phần
khoản nợ cho một cơng ty tài chính
chun nghiệp (công ty mua nợ, thông
thường là một công ty trực thuộc ngân
hàng). Công ty này đảm nhận việc thu
các khoản nợ và theo dõi các khoản
phải thu để hưởng thủ tục phí và có
thể ứng trước các khoản nợ.
C.E. Anguelov và C. Tamborini (2009)
cho rằng, MBN là một sự dàn xếp tài
chính, qua đó một cơng ty tài chính
chun nghiệp (công ty mua nợ) mua


28

TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (282) 2022

lại các khoản nợ của một cơng ty với
số tiền ít hơn giá trị của khoản nợ đó.
Lợi nhuận phát sinh từ sự chênh lệch
giữa tiền thu được của số nợ đã mua
và giá mua thực tế của món nợ đó.
Lợi ích của công ty bán nợ là nhận
được tiền ngay, thay vì phải chờ đến
lúc người thiếu nợ trả nợ, hơn nữa lại
tránh được những phiền tối và các
chi phí phát sinh trong quá trình theo

dõi người thiếu nợ chậm trả.

trên các sở giao dịch tập trung hoặc
trên thị trường phi tập trung. Đặc
biệt, quan niệm về MBN trên thế giới
nhấn mạnh khơng chỉ là mua bán nợ
xấu mà cịn có thể mua bán các
khoản nợ tốt nhằm cơ cấu lại danh
mục nợ tạo nguồn vốn sử dụng sinh
lời cao hơn.
2.2. Đặc điểm cơ bản của hoạt động
MBN
Hoạt động MBN có những đặc điểm
riêng bao gồm hoạt động mua, bán
nợ cũng như quá trình thực hiện mua,
bán nợ và phương thức MBN (Brown
và cộng sự, 2005), cụ thể:

Theo Ủy ban Thương mại Liên bang
Mỹ (Federal Trade Commission, 2013),
khái niệm “mua nợ” là hoạt động,
trong đó người cho vay hoặc chủ nợ
bán khoản nợ cho người mua, người
mua sau đó sẽ thu xếp để thu lại
khoản nợ hoặc bán khoản nợ cho
người mua khác. Đối với Việt Nam,
Thông tư số 09/2015/TT-NHNN ban
hành ngày 17/7/2015 về hoạt động
MBN của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài quy định mua,

bán nợ là thỏa thuận bằng văn bản về
việc chuyển giao quyền đòi nợ đối với
khoản nợ phát sinh từ nghiệp vụ cho
vay, khoản trả thay trong nghiệp vụ
bảo lãnh, theo đó bên bán chuyển
giao quyền sở hữu khoản nợ cho bên
mua nợ và nhận tiền thanh toán từ
bên mua nợ.

- Hoạt động mua, bán nợ là thỏa
thuận bằng văn bản về việc chuyển
giao quyền đòi nợ đối với khoản nợ
phát sinh từ nghiệp vụ cho vay, khoản
trả thay trong nghiệp vụ bảo lãnh.
Theo đó bên bán nợ chuyển giao
quyền sở hữu khoản nợ cho bên mua
nợ và nhận tiền thanh toán từ bên
mua nợ. Khoản nợ được mua, bán là
khoản nợ phát sinh từ nghiệp vụ cho
vay và khoản trả thay trong nghiệp vụ
bảo lãnh theo hợp đồng cấp tín dụng
đã ký của Tổ chức tín dụng và bên nợ
có nghĩa vụ thanh tốn tiền cho Tổ
chức tín dụng.

Các khái niệm trên cho thấy thị trường
nợ là một bộ phận của thị trường tài
chính - nơi diễn ra việc mua bán các
chứng khoán nợ và các khoản vay.
Thị trường nợ bao gồm thị trường sơ

cấp, nơi các hàng hóa nợ được bán
lần đầu và thị trường thứ cấp, các
hàng hóa nợ có thể được giao dịch

- Bên mua nợ bao gồm những đối
tượng có thể là các tổ chức, cá nhân
như các Tổ chức tín dụng được chấp
thuận hoạt động mua nợ; tổ chức kinh
doanh dịch vụ mua, bán nợ, tổ chức
khác, cá nhân không kinh doanh dịch
vụ mua, bán nợ và cả tổ chức, cá
nhân là người không cư trú.


NGUYỄN THỊ LOAN – MUA BÁN NỢ VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU…

- Đối với thực hiện mua, bán nợ thì
hoạt động mua, bán nợ không trái với
nội dung quy định tại hợp đồng cấp tín
dụng, hợp đồng bảo đảm đã ký kết
giữa bên bán nợ, khách hàng và bên
bảo đảm. Hoạt động mua, bán nợ do
các bên tự thỏa thuận, tn thủ quy
định của pháp luật có liên quan. Ngồi
ra, bên bán nợ không mua lại các
khoản nợ đã bán.
- Về phương thức mua, bán nợ, Tổ
chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng
nước ngoài quyết định lựa chọn
một trong các phương thức mua, bán

nợ. Đó là sự thỏa thuận thông qua
đàm phán trực tiếp giữa bên bán
nợ và bên mua nợ hoặc gián tiếp
thông qua bên môi giới và đấu giá.
Bên bán nợ thuê tổ chức bán đấu giá
chuyên nghiệp theo quy định của
pháp luật về bán đấu giá tài sản hoặc
tự tổ chức bán đấu giá khoản nợ.
Xét về phương thức MBN trên thị
trường, có ba phương thức chủ yếu là
MBN riêng lẻ, đấu giá và chứng khốn
hóa các khoản nợ (IFC, 2012).
Phương thức mua bán riêng lẻ là
phương thức bán nợ dựa trên sự thỏa
thuận riêng giữa người mua và người
bán. Phương thức mua bán qua đấu
giá (giới hạn hoặc đại chúng) là
phương thức MBN dựa trên sự đấu
giá giữa những nhà đầu tư mua nợ
với người bán nợ. Phương thức
chứng khốn hóa các khoản nợ là
phương thức bán nợ dựa trên hoạt
động chứng khốn hóa các khoản nợ.
Đây là dạng đặc biệt của chứng khốn
hóa trên tài sản và cũng là một quy

29

trình chuyển đổi món vay hoặc khoản
phải thu thành cơng cụ có thể chuyển

nhượng. Mỗi phương thức có những
đặc điểm và lợi ích khác nhau để các
chủ thể tham gia lựa chọn phương
thức MBN thích hợp.
Nói cách khác, MBN là quan hệ hợp
đồng mua bán gồm hai chủ thể chính:
bên mua nợ và bên bán nợ. Đối
tượng của hợp đồng MBN là các hàng
hóa được chuyển quyền chủ nợ
từ bên bán nợ sang bên mua nợ. Bên
bán nợ nhận thanh toán từ bên mua
nợ. Việc bán nợ có thể theo ngun
tắc có truy địi hoặc khơng có truy địi.
Quyền địi nợ sau khi chuyển giao có
thể tiếp tục mua đi bán lại trên thị
trường hoặc chuyển thành tài sản góp
vốn khi thành lập doanh nghiệp hoặc
làm tài sản bảo đảm khi thực hiện
nghĩa vụ. Đối với nợ có tài sản bảo
đảm, việc chuyển nhượng quyền địi
nợ bao gồm cả chuyển nhượng các
quyền, lợi ích gắn với bảo đảm của
khoản nợ như quyền phát mại tài sản
thế chấp, cầm cố, quyền yêu cầu bên
bảo lãnh trả nợ thay.
2.3. Các yếu tố chủ yếu của thị
trường MBN
Báo cáo của Center for Responsible
Lending (2014) và nghiên cứu về đặc
điểm của hoạt động MBN, theo S.

Brown và cộng sự (2005) đề cập đến
các yếu tố chủ yếu cấu thành thị
trường MBN gồm hàng hóa trên thị
trường, chủ thể tham gia, phương
thức MBN đi kèm theo đó là các điều
kiện vận hành thị trường MBN.
- Hàng hóa của thị trường MBN


30

TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (282) 2022

So với thị trường cổ phiếu, thị trường
nợ là một trong những thị trường có
danh mục hàng hóa rất đa dạng. Sự
đa dạng của hàng hóa trên thị trường
này tạo nguồn cung hàng hóa, địi hỏi
các chủ thể liên quan đến thị trường
cần nghiên cứu phát triển để thích
ứng với nhu cầu phát triển của thị
trường, hàng hóa của thị trường nợ
không chỉ là công cụ ghi nhận mối
quan hệ vay nợ giữa các chủ thể
(Fabozzi, 2007).

chính. Tại các thị trường MBN phát
triển, hàng hóa tham gia mua bán có
thể được chứng khốn hóa. Theo S.I.
Greenbaum và A.V. Thakor (2007),

chứng khốn hóa bao gồm sự kết hợp
các khoản cho vay có tính chất tương
tự để tạo ra các quyền địi nợ tín dụng
cao hơn dựa vào các dịng tiền của
danh mục đầu tư này và bán các
quyền đòi nợ này cho các nhà đầu tư.
Theo Monetary Authority of Singapore
(2000), chứng khoán hóa là một tiến
trình, trong đó tài sản hay các nguồn
thu đi kèm với tài sản được bán và
được chuyển cho một trung gian đặc
biệt (Special Purpose Vehicle - SPV).
Tổ chức trung gian này sẽ huy động
vốn bằng cách phát hành chứng
khoán được đảm bảo chủ yếu bằng
các tài sản này.

Theo Center for Responsible Lending
(2014), hàng hóa trên thị trường MBN
ban đầu là nợ từ tín dụng ngân hàng
được đem ra mua bán. Theo Debt
Markets and Analysis của R. Stafford
Johnson, hàng hóa trên thị trường
MBN gồm trái phiếu, chứng khốn nợ
doanh nghiệp, các khoản nợ của ngân
hàng đối với doanh nghiệp và cá nhân,
các tài sản có tài sản đảm bảo, tài sản
khơng kèm theo tài sản đảm bảo,
chứng khốn hóa các khoản nợ và
các cơng cụ phái sinh tín dụng.

Như vậy, hàng hóa của thị trường
MBN ban đầu có thể là các tài sản
sinh lời như các khoản phải thu thể
hiện trong phần tài sản trên bảng cân
đối kế tốn của Tổ chức tín dụng như
cho vay, chiết khấu, bao thanh tốn,
cho th tài chính, bảo lãnh ngân
hàng và các nghiệp vụ tín dụng khác
(Luật các Tổ chức tín dụng 2010). Tài
sản sinh lời của ngân hàng còn bao
gồm các khoản đầu tư vào các công
cụ nợ như trái phiếu. Thương phiếu
cũng là công cụ nợ trong danh mục
hàng hóa sinh lời của các tổ chức tài

Các cơng cụ phái sinh tín dụng (Credit
Derivatives) cũng là một trong những
cơng cụ, hàng hóa tham gia trên thị
trường MBN. Theo Ngân hàng Thanh
tốn Quốc tế, cơng cụ phái sinh tín
dụng như là một hợp đồng bảo hiểm,
trong đó đối tượng được bảo hiểm là
các khoản vay chứa đựng rủi ro tín
dụng. Bên mua phải trả một khoản phí
(mua bảo hiểm) cho bên bán để cam
kết sẽ bồi hoàn giá trị tổn thất nếu rủi
ro tổn thất tín dụng xảy ra.
- Chủ thể tham gia trên thị trường MBN
Chủ thể tham gia trên thị trường này
bao gồm nhiều đối tượng như cơ

quan nhà nước, tổ chức, công ty,
ngân hàng và nhà đầu tư. Báo cáo
Financial Stability Review (2006) của
Ngân hàng Trung ương Châu Âu cho


NGUYỄN THỊ LOAN – MUA BÁN NỢ VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU…

rằng, để phát triển thị trường MBN các
chủ thể cần tham gia gồm cơ quan
quản lý và ngân hàng trung ương.
Các tổ chức tham gia với tư cách là
bên mua, bên bán nợ và nhà đầu tư.
Các tổ chức độc lập tham gia thị
trường MBN như tổ chức xếp hạng tín
nhiệm, định giá, cơng ty kiểm tốn,
cơng ty mơi giới, tư vấn góp phần
trong phát triển thị trường MBN.
3. KINH NGHIỆM VỀ XỬ LÝ NỢ XẤU
VÀ THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG MBN
CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
3.1. Kinh nghiệm về MBN của Italia
Theo nghiên cứu của N. Jassaud và K.
Kang (2015), hàng hóa giao dịch trên
thị trường MBN khơng chỉ là nợ xấu
tại ngân hàng mà còn nợ trong hạn,
các khoản cho vay có mức xếp hạng
tín nhiệm thấp, danh mục các bất
động sản bị xiết nợ bởi các định chế
tài chính, danh mục thẻ tín dụng.

Trong đó, nợ được mua bán, đặc biệt
là nợ xấu ngân hàng trở thành một
khoản đầu tư mang lại lợi nhuận lớn
của các chủ thể đầu tư tham gia.
Để tái cơ cấu hệ thống ngân hàng,
định hướng MBN ngân hàng trên thị
trường, kiểm soát và phân loại, đánh
giá chất lượng tín dụng, ngân hàng
trung ương và cơ quan quản lý quốc
gia của Italia đưa ra quy định khắt khe
trong việc trích lập dự phịng các
khoản nợ vay có vấn đề. Ngân hàng
trung ương đưa ra ba phương pháp
để các ngân hàng được chọn lựa gồm
(i) nợ xấu vẫn tiếp tục tồn tại trên
bảng cân đối kế toán, hoặc (ii) chuyển
ra khỏi bảng cân đối kế toán để theo

31

dõi ở ngoại bảng, hoặc (iii) bán nợ.
Các ngân hàng khơng đáp ứng được
u cầu về trích lập dự phòng hoặc bổ
sung vốn, phải chọn phương pháp
bán nợ. Điều này tạo nguồn cung cho
thị trường, ngân hàng có thể tự bán
nợ hoặc bán nợ cho các công ty quản
lý tài sản về nợ xấu (NPL’s AMC)
trong giai đoạn đầu, sau đó quốc gia
này thiết lập một thị trường MBN vận

hành theo nguyên tắc thị trường.
Tiếp đến, để hỗ trợ MBN và mua bán
nợ xấu thuận lợi, cơ quan giám sát
tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải
thể công ty thua lỗ có khả năng phá
sản, giám sát, phân tích thơng tin về
dịng tiền từ khoản cho vay của ngân
hàng đối với khách hàng vay có khả
năng trả nợ và khơng có khả năng trả
nợ; quy định về chi phí phát sinh trong
thanh lý tài sản để ngân hàng có thể
thu hồi khoản vay từ tài sản của người
vay. Luật Phá sản của Italia ban hành
năm 2014 quy định giảm bớt xử lý về
nợ tại tịa án, khuyến khích giải pháp
xử lý nợ ngồi tịa án, thúc đẩy thanh
lý tài sản thế chấp liên quan đến
khoản vay bằng cách giao quyền cho
chủ thể khác khơng phải là tịa án
thực hiện thủ tục phá sản, công chứng
viên hỗ trợ về tiêu chuẩn, công cụ để
định giá tài sản thanh lý được đấu giá,
góp phần tiết kiệm thời gian và chi phí.
Mặt khác, vấn đề minh bạch thơng tin
nợ và MBN cũng rất được quan tâm
thông qua quy định liên quan như
giám sát ngân hàng yếu kém phải có
mục tiêu, kế hoạch, cam kết thực hiện
cấu trúc lại ngân hàng, báo cáo



32

TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (282) 2022

thường xuyên hoạt động thu nợ. Các
ngân hàng còn lại đều phải báo cáo
thường xuyên cho cơ quan giám sát
và cổ đơng ngân hàng về khoản vay
có vấn đề, tài sản không sinh lời, cách
thức xử lý, cơ cấu nợ, tỷ lệ nợ thu hồi.

3.3. Kinh nghiệm về tái cấu trúc
doanh nghiệp góp phần xử lý nợ
xấu tại ngân hàng của Đức

3.2. Kinh nghiệm về hợp đồng tín
dụng, quyền chủ nợ và xử lý nợ
xấu ngân hàng của Mỹ
Để nâng cao quyền chủ nợ và cụ thể
các nguồn thu nợ, giảm bớt rủi ro tín
dụng, các ngân hàng tại Mỹ khi cho
khách hàng vay không chỉ xem xét
cho vay theo từng khoản vay mà còn
quan tâm đánh giá về nguồn trả nợ
của khách hàng là từ những nguồn
nào, từ đó quyết định thiết lập hợp
đồng tín dụng khi cho vay. Bên cạnh
đó, điều khoản về lãi suất, định kỳ trả
nợ và lãi, hợp đồng tín dụng có điều

khoản liệt kê cụ thể các khoản phải
thu là động sản và bất động sản, sau
đó ngân hàng thực hiện đăng ký giao
dịch đảm bảo các khoản phải thu này.
Khi nợ vay có vấn đề, nguồn thu nợ
của ngân hàng là tất cả các khoản
phải thu từ khách hàng đã được đăng
ký giao dịch đảm bảo theo thứ tự ưu
tiên về Đăng ký giao dịch đảm bảo và
tòa án cũng bảo vệ quyền lợi của chủ
nợ là ngân hàng căn cứ vào các
khoản phải thu trên hợp đồng tín dụng.
Nghiên cứu của M. Fratantoni và M.
Moore (2013) cho thấy, cơ quan quản
lý của Mỹ giới hạn thời gian ngân
hàng phải đưa nợ xấu ra khỏi bảng
cân đối kế tốn, nếu khơng sẽ bị tăng
phí phạt. Điều này thúc đẩy ngân
hàng tăng cường xử lý nợ xấu/bán nợ.

Theo R. Agarwal và J. Elston (2001),
với hành lang pháp lý từ Luật Chuyển
đổi (Transformation Law) và việc
thành lập các tổ chức tái cấu trúc
doanh nghiệp (Corporate Restructuring
Vehicles – CRVs), cơ quan quản lý
Đức đã quy định và yêu cầu người
vay có nợ xấu phải tham gia vào thỏa
thuận tái cơ cấu nợ và đối mặt trong
tình trạng pháp lý với các chủ nợ. Tổ

chức tái cấu trúc doanh nghiệp sẽ
giúp các doanh nghiệp có nợ xấu: (i)
giảm nợ xấu và phục hồi hoạt động
thông qua việc đồng hành cùng với
doanh nghiệp tách nợ xấu ra khỏi
bảng cân đối kế toán; (ii) đầu tư trực
tiếp vào doanh nghiệp, thơng qua đó
tái cấu trúc nợ doanh nghiệp, tham gia
hoạt động quản trị. Các CRVs còn
hợp tác với các nhà đầu tư trong
nước và quốc tế, từ đó góp phần đa
dạng hóa các nhà đầu tư và cũng mở
rộng khả năng về nguồn vốn tham gia
thị trường MBN.
3.4. Kinh nghiệm về MBN và xử lý
nợ xấu của Nhật Bản
Nhật Bản là một trong những quốc gia
có những quy định và nguyên tắc
cũng như cách thức tổ chức thực hiện
đối với hoạt động MBN một cách hồn
chỉnh. Việc hồn thiện mơi trường
pháp lý là cơ sở để giải quyết vấn đề
nan giải này xuất phát từ nguyên nhân
của nợ xấu cho đến thực thi các chính
sách xử lý nợ xấu cũng như vai trò
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản


NGUYỄN THỊ LOAN – MUA BÁN NỢ VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU…


trong tiến trình tổ chức thực hiện
nhằm tạo sự đồng bộ (Nguyễn Hùng
Tiến, 2015). Cụ thể Nhật Bản đã ban
hành Luật Thu hồi nợ (1998) liên quan
đến các biện pháp, đặc biệt là công
tác thu hồi và quản lý nợ; sửa đổi Luật
Phục hồi doanh nghiệp (2001); sửa
đổi Luật Phá sản (2004) theo hướng
cải cách hệ thống luật phá sản theo
hướng hợp lý hóa, đơn giản hóa thủ
tục nộp đơn yêu cầu, tăng cường
quyền hạn của ngân hàng thương mại,
quản lý tài sản trong các vụ phá sản
của người vay; cải cách hệ thống luật
phá sản và thi hành dân sự bằng cách
tăng cường các biện pháp hình sự
chống lại sự cản trở thi hành án, bãi
bỏ quy định giá khởi điểm tối thiểu khi
xử lý tài sản; sửa đổi Luật Bảo hiểm
tiền gửi theo hướng bảo vệ quyền lợi
của người gửi tiền.
Theo K. Ohashi và M. Singh, (2004)
để đẩy mạnh tốc độ xử lý nợ xấu giúp
thị trường MBN sớm hình thành, Ngân
hàng Trung ương Nhật Bản ln ưu
tiên thắt chặt giám sát về trích lập dự
phịng, tách nợ xấu ra khỏi bảng cân
đối và tiến hành tái cơ cấu nợ xấu. Cụ
thể như giai đoạn 2001-2005, ngân
hàng đã quy định thời gian để bắt

buộc các ngân hàng làm sạch bảng
cân đối kế tốn và áp dụng chuẩn
trích lập dự phòng mới chặt chẽ hơn.
Song song với ban hành, bổ sung và
chỉnh sửa môi trường pháp lý, về tổ
chức, Nhật Bản tăng cường vai trò
của Ngân hàng Trung ương trong xử
lý nợ xấu. Đó là cơ quan quản lý cấp
cao nhất về tiền tệ và hoạt động ngân

33

hàng, tập trung vào ổn định hệ thống
tài chính bằng cách ban hành chính
sách vĩ mơ và vi mơ thận trọng; củng
cố hệ thống chi trả và thanh tốn;
đóng vai trị là người cho vay cuối
cùng là chỉ tham gia hỗ trợ sau khi các
tổ chức tín dụng bị phá sản nhằm
tránh sự sụp đổ của hệ thống tài chính;
tiến hành tái cấu trúc hệ thống ngân
hàng thông qua quốc hữu hóa ngân
hàng; kiểm tra giám sát đặc biệt tập
trung vào các ngân hàng lớn, tách cơ
quan giám sát từ Bộ Tài chính thành
Tổng cục Giám sát Dịch vụ tài chính
trực thuộc chính phủ; tăng vốn cho
các ngân hàng lớn, tăng tỷ lệ sở hữu
vốn nhà nước của các ngân hàng,
ban hành các mơ hình phục hồi tài

chính như mơ hình hệ thống tài chính
mới, mơ hình phục hồi doanh nghiệp
mới và mơ hình quản trị tài chính mới.
Mục tiêu chính là khơi phục niềm tin
vào hệ thống tài chính và quản trị tài
chính của Nhật, giảm tỷ lệ nợ xấu của
các ngân hàng lớn xuống dưới 50%
quy mô tổng dư nợ xấu vào cuối năm.
Nhật Bản cũng đã cho phép thành lập
Công ty Quản lý Tài sản (AMC) thuộc
sở hữu nhà nước; và thực hiện chiến
lược xử lý nợ xấu thông qua sự thành
lập của Công ty Thu hồi và xử lý nợ
(RCC). RCC là một “doanh nghiệp
dịch vụ công” chính thức đi vào hoạt
động năm 1997, với chức năng thu
hồi nợ xấu. Bảo hiểm Tiền gửi (DICJ)
đóng vai trị đặc biệt quan trọng trong
hoạt động xử lý nợ của RCC, bởi đây
là cơ quan cung cấp 100% vốn hoạt
động cho RCC. Ngồi ra, DICJ cịn


34

TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (282) 2022

làm công tác điều tra tài sản của
khách hàng, trong trường hợp RCC
có nghi vấn về khách hàng.


việc cho phép những ngân hàng đầu
tư vào chính nó, đồng thời có thể giữ
lại một phần lợi nhuận được ấn định
từ việc tái cấu trúc này.

3.5. Kinh nghiệm hỗ trợ định giá
khoản nợ và thành lập các công ty
xử lý nợ xấu của Hàn Quốc
Theo A. Chopra, K. Kenneth, K. Meral,
L. Hong, M. Henry và R. Anthony
(2001), cơ quan quản lý tại Hàn Quốc
đã hỗ trợ định giá khoản nợ thông qua
ban hành hướng dẫn ngân hàng tiêu
chuẩn ước lượng cụ thể và mức độ
sử dụng địn bẩy tài chính để phát
hiện cơng ty khơng có khả năng tồn tại.
Kèm theo đó, Hàn Quốc cũng có
chính sách phát triển các cơng ty quản
lý tài sản mua bán nợ xấu (NPL asset
management companies - AMCs ) và
các CRVs).
NPL AMCs là những công ty tập hợp
vốn từ nhiều nhà đầu tư khác nhau và
đầu tư nguồn vốn này vào thị trường
mua bán nợ xấu với một danh mục
đầu tư đa dạng và chiến lược đầu tư
rõ ràng. Những cơng ty này đã góp
phần xử lý những khoản nợ có vấn đề
tại ngân hàng thơng qua việc sử dụng

những kỹ năng đặc biệt mà ngân hàng
không có như những kỹ năng trong
dịch vụ bất động sản hoặc những kỹ
năng trong hoạt động tái thiết doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, NPL AMCs cũng
hỗ trợ hoạt động xử lý nợ xấu thông
qua khả năng hợp nhất các khoản nợ
và cho phép chủ nợ có thể đàm phán
một kế hoạch cải tổ với người thiếu
nợ. Ngồi ra, các cơng ty quản lý tài
sản còn giúp thu hẹp khoảng cách về
việc định giá các khoản nợ xấu bằng

Tương tự như các công ty quản lý tài
sản mua bán nợ xấu, CRVs cũng là
một công cụ quan trọng trong việc tái
cấu trúc và khôi phục lại những công
ty đang trên bờ vực phá sản. CRVs
tham gia vào việc tái cấu trúc lại
những doanh nghiệp đang trong tình
trạng đi đến phá sản bằng việc đầu tư
trực tiếp vào các công ty này, tái cấu
trúc lại các khoản nợ và tổ chức lại
hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp và của công ty. CRVs tạo điều
kiện cho các cơng ty vừa và nhỏ đang
tìm kiếm các hoạt động sáp nhập, mở
rộng và muốn kinh doanh ở một lĩnh
vực mới. CRVs còn cho phép các
ngân hàng trở thành đối tác với các

nhà đầu tư bên ngoài, mở rộng khả
năng tài trợ và trở thành chuyên gia
trong hoạt động tái cấu trúc doanh
nghiệp. Để tạo môi trường thuận lợi
cho loại hình doanh nghiệp này, Hàn
Quốc có quy định riêng về hoạt động
của CRVs và ưu đãi về thuế đối với
hoạt động kinh doanh của tổ chức này,
và điều này cũng đúng ở các quốc gia
khác. Sự thành cơng của CRVs có thể
được nhìn nhận thấu đáo ở thị trường
MBN Hàn Quốc. Những CRVs được
chính phủ cấp phép hoạt động với
nhiều ưu đãi về thuế cũng như được
hỗ trợ đặc biệt về hành lang pháp lý.
4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GỢI
Ý CHÍNH SÁCH GĨP PHẦN XỬ LÝ
NỢ XẤU VÀ PHÁT TRIỂN THỊ


NGUYỄN THỊ LOAN – MUA BÁN NỢ VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU…

TRƯỜNG MBN QUA HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Loan và
các cộng sự (2017) đã đánh giá về
các kết quả đạt được, tạo điều kiện
góp phần xử lý nợ xấu và thúc đẩy sự
phát triển thị trường MBN qua hệ
thống ngân hàng ở Việt Nam, như xây

dựng bước đầu quy định pháp lý về
MBN; thực tế đã thực hiện mua bán
nợ xấu; đã hình thành các bên tham
gia MBN; hàng hóa là khoản nợ vay
cung ứng từ tổ chức tín dụng khá dồi
dào; và cơ quan quản lý đã thực hiện
quy định tại các hệ thống ngân hàng
và giám sát nợ để nâng cao chất
lượng hàng hóa. Tuy nhiên, nghiên
cứu này cũng rút ra những hạn chế
còn tồn tại trong xử lý nợ xấu và
những cản trở kìm hãm sự hình thành
thị trường MBN: mơi trường pháp lý
còn hạn chế về khung pháp lý liên
quan thị trường MBN tại Việt Nam
như chưa hoàn chỉnh và chưa thống
nhất; quy định pháp lý còn hạn chế về
đối tượng được MBN, hoạt động mua
nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt của
Công ty Quản lý Tài sản Việt Nam đối
với Tổ chức Tín dụng Việt Nam, q
trình xử lý tài sản bảo đảm đi kèm với
khoản nợ được bán; còn hạn chế
trong thực hiện quyền chủ nợ của bên
mua nợ; còn hạn chế trong hoạt động
ủy quyền và kiểm tra giám sát việc Tổ
chức Tín dụng thực hiện ủy quyền,
thủ tục tố tụng và thi hành án; và hạn
chế trong định giá khoản nợ được
MBN theo giá trị thị trường. Về tổ

chức và kỹ thuật hoạt động MBN còn

35

hạn chế về nhận thức và sự quan tâm
của các chủ thể tham gia vào hoạt
động MBN tại tổ chức tín dụng, hàng
hóa trên thị trường MBN; chủ thể
tham gia trên thị trường MBN; các yếu
tố liên quan đến kỹ thuật MBN; minh
bạch thông tin liên quan đến hoạt
động MBN và thiếu các công ty môi
giới, tư vấn chuyên nghiệp về MBN.
Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, đánh
giá về các kết quả, hạn chế liên quan
đến xử lý nợ xấu và MBN qua hệ thống
ngân hàng tại Việt Nam kết hợp tìm
hiểu kinh nghiệm về xử lý nợ xấu và
thúc đẩy hoạt động mua bán qua hệ
thống ngân hàng tại một số quốc gia
như Italia, Mỹ, Đức, Nhật, Hàn Quốc,
bài viết rút ra các bài học kinh nghiệm
và gợi ý chính sách đối với Việt Nam.
4.1. Bài học kinh nghiệm và gợi ý
chính sách đối với Việt Nam về xử
lý nợ xấu
- Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước
cần nghiên cứu bổ sung cơ chế, chính
sách để đánh giá đúng tình hình nợ
xấu, thực hiện u cầu cung cấp thơng

tin và giám sát chặt chẽ việc phân loại
nợ tại các tổ chức tín dụng để nợ vay
được phản ánh đúng thực chất, đúng
giá trị và nguồn trả nợ kèm theo.
- Tiếp tục thực hiện tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng thông qua các ngân
hàng tự xử lý hoặc sáp nhập, nhanh
chóng xử lý việc thiếu vốn của các tổ
chức tín dụng (tăng vốn kịp thời trong
quá trình xử lý nợ xấu bằng các
nguồn cơng, tư) để lành mạnh hóa hệ
thống ngân hàng. Đồng thời Chính
phủ cần nghiên cứu chính sách mở


36

TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (282) 2022

rộng thị trường MBN cho các doanh
nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước
ngoài tham thực hiện tái cơ cấu doanh
nghiệp, tham gia MBN.

lệ quốc tế về hàng hóa, định giá,
phương thức, minh bạch thông tin.

- Bổ sung xây dựng khung pháp lý
một cách đồng bộ nhằm giám sát chặt
chẽ hơn kỷ luật của ngành ngân hàng

nhằm kiểm soát nợ xấu và xem xét
phá sản, sáp nhập những tổ chức tín
dụng thực sự yếu kém. Tăng cường
quy chế quản lý, giám sát các hoạt
động kinh doanh của từng tổ chức tín
dụng, đồng thời củng cố sự phối hợp
giữa các cơ quan quản lý nhà nước
trong việc giám sát hoạt động của hệ
thống tài chính.
4.2. Bài học kinh nghiệm và gợi ý
chính sách góp phần phát triển thị
trường MBN qua hệ thống ngân
hàng tại Việt Nam
Một là, thay đổi quan điểm về thị trường
MBN chỉ mua bán nợ xấu và quan
điểm cho vay dựa trên bất động sản.
Cơ quan quản lý vĩ mô, ngân hàng và
tổ chức nghề nghiệp cần có các chính
sách tác động làm thay đổi quan điểm
về thị trường MBN không chỉ là mua
bán nợ xấu mà cịn là MBN bình
thường và nợ tốt. Thay đổi quan điểm
cho vay chủ yếu dựa trên tài sản đảm
bảo là bất động sản, đặc biệt là nhận
thức, quan điểm của các nhà quản lý
và chuyên viên chuyên trách có trách
nhiệm, đạo đức nghề nghiệp để thực
hiện đúng với chuyên môn, đặc điểm
kinh doanh phù hợp với thị trường này.
Hai là, nghiên cứu sửa đổi môi trường

pháp lý liên quan đến MBN theo thông

Đây là một trong những tiêu chí quan
trọng nhằm đảm bảo thực thi đầy đủ
các nguyên tắc, quy định và nội dung
liên quan. Việc thực hiện này là cơ sở
để đảm bảo trong tổ chức và điều
hành hoạt động theo những tiêu chí
được chuẩn hóa và phù hợp với thơng
lệ quốc tế.
- Thay đổi bổ sung các quy định liên
quan đến nợ tham gia mua bán, thơng
lệ quốc tế về hàng hóa “tín dụng”. Nợ
tham gia mua bán rất đa dạng, khơng
chỉ là các khoản cho vay mà còn là
các hợp đồng về bao thanh toán, các
hợp đồng về chiết khấu thương phiếu.
Dòng tiền thu được từ việc mua bán
khoản nợ ngân hàng là các khoản
phải thu (động sản) từ khách hàng vay
chứ không bị giới hạn nguồn thu nợ là
bất động sản.
- Thay đổi bổ sung các quy định liên
quan định giá nợ. Thông lệ quốc tế về
MBN cần đảm bảo trên cơ sở định giá
trị khoản nợ theo giá thị trường, có sự
chuyển giao thanh tốn thật sự theo
giá trị khoản nợ trên hợp đồng MBN.
- Thay đổi, bổ sung các quy định liên
quan đến hợp đồng tín dụng, đăng ký

giao dịch đảm bảo và quyền chủ nợ.
Hợp đồng tín dụng cần quy định cụ
thể các khoản phải thu là động sản
(thay vì chủ yếu là bất động sản) làm
cơ sở pháp lý về các nguồn thu nợ
của ngân hàng khi cho vay khách
hàng và đăng ký giao dịch đảm bảo.
Nghiên cứu thông lệ quốc tế để cho


NGUYỄN THỊ LOAN – MUA BÁN NỢ VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU…

phép giao quyền chủ động xử lý nợ
cho các bên liên quan đến hợp đồng
MBN trên cơ sở các điều khoản của
hợp đồng, tạo điều kiện tốt cho hoạt
động MBN.
- Thay đổi bổ sung các quy định về
minh bạch thông tin. Nghiên cứu
thông lệ quốc tế về thông tin nợ, MBN
được quy định công bố công khai,
minh bạch để các chủ thể tham gia thị
trường chọn lựa hàng hóa mua bán,
chủ thể giao dịch và môi giới.
Ba là, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung về
tổ chức thị trường MBN.
- Nguồn lực tổ chức thị trường là vấn
đề quan trọng để phát triển thị trường
MBN. Cơ quan quản lý cần xây dựng
cơ chế để các bên cùng tham gia

ngay cả các tổ chức, doanh nghiệp,
cơng ty tư nhân đều có thể tham gia
và phát triển thị trường này, và thậm
chí áp dụng mở rộng cho các tổ chức
nước ngoài để tạo thị trường linh hoạt
và đa dạng nguồn lực.
- Cơ quan giám sát và Ngân hàng Nhà
nước cần tăng cường giám sát phân
loại nợ ngân hàng, minh bạch thông
tin nợ và thông tin MBN ngân hàng.
- Tạo điều kiện phát triển về vốn và
chất lượng nguồn nhân lực cho Công
ty Quản lý Tài sản các tổ chức tín
dụng Việt Nam đảm bảo về năng lực
tài chính và thực hiện đầy đủ các
chức năng như các công ty quản lý tài
sản nước ngồi đã thực hiện tại các
quốc gia, từ đó tạo tiền đề phát triển
các công ty quản lý tài sản, các công
ty làm dịch vụ liên quan đến MBN,
phát triển các phương thức MBN.

37

- Các cơ quan quản lý nhà nước và
Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng
hệ thống thơng tin đánh giá về tình
hình tài chính của doanh nghiệp vay
nợ để hỗ trợ thông tin và tạo điều kiện
phát triển các công ty dịch vụ, cung

cấp thông tin, định giá MBN để hỗ trợ
thị trường MBN.
- Các ngân hàng thương mại cần
nâng cao chất lượng tín dụng, phát
triển hoạt động bao thanh tốn, chiết
khấu, hồn thiện hợp đồng tín dụng,
chú trọng cho vay dựa vào nguồn thu
nợ là động sản thay vì bất động sản
để giảm bớt rủi ro tín dụng ngân hàng
và tạo nguồn cung hàng hóa chất
lượng cho thị trường.
5. KẾT LUẬN
Kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy,
để phát triển thị trường MBN liên quan
đến hệ thống ngân hàng, cần thực
hiện đồng bộ các vấn đề về môi
trường pháp lý, giám sát thực hiện
môi trường pháp lý, chất lượng nợ,
định giá nợ, phương thức MBN, phát
triển các thành phần tham gia thị
trường, minh bạch thông tin thị trường.
Trước tiên, các ngân hàng Việt Nam
cần tăng cường các biện pháp xử lý
nợ xấu. Ngân hàng Nhà nước cần
giám sát ngăn ngừa phát sinh nợ xấu
mới, tái cấu trúc hệ thống ngân hàng
vững mạnh và tăng cường năng lực
của các Công ty Quản lý Tài sản Việt
Nam, Cơng ty Quản lý Tài sản tại Tổ
chức Tín dụng Việt Nam để thực hiện

thành công các giao dịch MBN giữa
ngân hàng thương mại và Công ty
Quản lý Tài sản Việt Nam.


38

TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 2 (282) 2022

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Agarwal, R. & Elston, J. A. 2001. “Bank-Firm Relationships, Financing and Firm
Performance in Germany”. Economics Letters, 72(2), pp. 225-232.
2. Anguelov, C.E. & Tamborini, C. 2009. “Retiring in Debt? Differences Between the
1995 and 2004 Near-Retiree Cohorts”. Social Security Bulletin, 69, pp. 13-34.
3. Brown, S., Taylor, K. & Price, S.W. 2005. “Debt and Distress: Evaluating the
Psychological Cost of Credi”. Journal of Economic Psychology, 26, pp. 642-63.
4. Center for Responsible Lending. 2014. “The State of Lending in America its Impact on
U.S Household”. Retrieved from />g/State-of-Lending-report-1.pdf, truy cập ngày 15/8/2015.
5. Chopra, A., Kenneth, K., Meral, K., Hong, L., Henry, M. & Anthony, R. 2001. From
Crisis to Recovery in Korea: Strategy, Achievements, and Lessons. IMF WP/01/154.
6. European Central Bank. 2006. Financial Stability Review, June 2006.
7. Fabozzi, F. J. 2007. Fixed Income Analysis. CFA Institute Investment Series.
8. Federal Trade Commission. 2013. “The Structure and Practices of the Debt Buying
Industry”. Retrieved from < truy cập
ngày 25/6/2011.
9. Fratantoni, M. & Moore, M. 2013. The U.S. Mortgage Crisis: Are There Lessons for
Policymaker, truy cập ngày 10/8/2014.
10. Greenbaum, S.I. & Thakor, A.V. 2007. Contemporary Financial Intermediation. 2nd
Edition, Elsvier, California, USA.
11. IFC. 2012. “Distressed Asset Transfer Handbook: General Guidelines for the

Purchase and Sale of Distressed Assets in the Financial Sector”. />wps/wcm/connect/832d3b10-9833-4a55-bcd2-e8859ad4fbad/DA_Transfer_Handbook_
2012.pdf?MOD=AJPERES&CVID=jKqAJB-, truy cập ngày 20/7/2013.
12. Jassaud, N. & Kang, K. 2015. A Strategy for Developing a Market for Nonperforming
Loans in Italy. International Monetary Fund.
13. Monetary Authority of Singapore. 2000. Securitization Rules in Singapore from MAS 628. Singapore.
14. Nguyễn Hùng Tiến. 2015. “Kinh nghiệm của Nhật Bản trong xử lý nợ xấu nâng cao
chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại”. Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ,
20(437).
15. Nguyễn Thị Loan và các cộng sự. 2017. Phát triển thị trường mua bán nợ tại Việt
Nam. Đề tài nghiên cứu cấp Ngành – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
16. Ohashi, K. & Singh, M. 2014. Japan’s Distressed-Debt Market. International
Monetary Fund.
17. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2010. Luật các Tổ chức tín
dụng 2010. Hà Nội.
18. Reed, E.W., Cotter, R.V., Gill, E.K. & Smith, R.K. 1976. Commercial Banking,
Prentice Hall.



×