Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại công ty tài chính dầu khí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.7 KB, 98 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh đất nước chuyển mình hoà nhập với thế giới, hệ thống
ngân hàng nước ta đã gớp phần quan trọng trong việc ổn định lưu thông tiền tệ,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh Ngân hàng thương mại là loại Ngân hàng
kinh doanh chủ yếu, trong nền kinh tế còn hình thành các Ngân hàng chuyên
doanh và các tổ chức tài chính mà các công ty Tài chính là một bộ phận rất quan
trọng. Công ty Tài chính là một tổ chức tài chính trung gian, thực hiện huy động
vốn bằng cách phát hành tín phiếu, trái phiếu, đồng thời sử dụng vốn chủ yếu
vào việc cho vay kinh doanh và tiêu dùng với điều kiện có đảm bảo bằng tài sản
hữu hình. Khái quát trên cho ta thấy hoạt động cơ bản nhất của công ty Tài
chính chính là hoạt động tín dụng. Đây là hoạt động mang lại nguồn thu nhập
lớn nhất song cũng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Đây là loại rủi ro không thể
tránh khỏi, mà hậu quả của nó là kết quả kinh doanh bị giảm sút, trong nhiều
trường hợp nếu rủi ro tín dụng quá lớn có thể đưa công ty đến tình trạng phá sản.
Người ta chẳng có cách gì để loại trừ hoàn toàn rủi ro tín dụng mà chỉ có thể sử
dụng những phương pháp nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng xuống mức có thể
chấp nhận được. Những giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng trở nên cực kỳ quan
trọng và là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý cũng như các nhà nghiên
cứu.
Xuất phát từ thực tế đó cùng với quá trình thực tập tại Công ty Tài chính
Dầu khí, em nhận thấy vấn đề rủi ro tín dụng là rất quan trọng và cấp thiết.
Chính vì vậy em đã lựa chọn đề tài: " Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại
Công ty Tài chính Dầu khí " làm đề tài cho chuyên đề của mình. Đề tài gòm 3
phần:
Ngô Đăng Dũng 1 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dung trong hoạt động kinh
doanh của các tổ chức tài chính.
Chương 2: Thực trạng vấn đề rủi ro tín dụng tại Công ty Tài chính Dầu
khí:


Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Công ty Tài chính Dầu
khí:
Do kiến thức còn hạn chế nên bài chuyên đề của em không tránh khỏi
những thiếu sót, kính mong các quý thầy cô góp ý, chỉ bảo giúp em nhận thức
sâu sắc hơn về vấn đề này.
Ngô Đăng Dũng 2 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
1) Tổng quan về Công ty Tài chính:
1.1) Khái quát về công ty tài chính
Công ty Tài chính là một tổ chức tài chính trung gian, thực hiện huy động
vốn bằng cách phát hành tín phiếu, trái phiếu, đồng thời sử dụng vốn chủ yếu
vào việc cho vay kinh doanh và tiêu dùng với điều kiện có đảm bảo bằng tài sản
hữu hình.
Công ty tài chính thường do các công ty kinh doanh lớn lập ra, người ta
gọi công ty này là công ty phụ thuộc. Còn một số công ty khác hoạt động độc
lập và được tổ chức dưới dạng công ty cổ phần.
Nguồn vốn mà công ty tài chính tạo lập chủ yếu là việc phát hành các tín
phiếu, trái phiếu trung và dài hạn. Trong các trường hợp cần thiết có thể vay từ
các tổ chức tín dụng hoặc vay công ty mẹ. Loại hình kinh doanh chủ yếu của
công ty tài chính là cung cấp tín dụng cho thuê tài chính, đầu tư chứng khoán và
các hợp đồng tín dụng tiêu dùng.
Vai trò của công ty tài chính:
Trong nền kinh tế thị trường, sự hình thành và phát triển của công ty tài
chính đã mang lại những tác động tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bổ
sung những khiếm khuyết cho Ngân hàng thương mại. Những vai trò đó là:
Thứ nhất: Về tập trung nguồn vốn: Tập trung được đầy đủ nhất, ở mức
cao nhất những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ bé của các cá nhân và gia đình trong xã
hội để có được nguồn vốn tín dụng dồi dào đầu tư cho phát triển sản xuất và tiêu

dùng.
Thứ hai: Về hiệu quả cho vay đối với nền kinh tế: hoạt động cho vay của
các công ty tài chính đi sâu vào từng ngành, từng lĩnh vực nhất định. Do đố
thông qua đầu tư tín dụng sẽ khai thac được hết tiềm năng, thế mạnh của các
ngành, các khu vực. Từ đó, tạo ra một cơ cấu đầu tư tín dụng và cơ cấu kinh tế
Ngô Đăng Dũng 3 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hợp lý, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng và toàn diện đối với nền kinh tế quốc
dân.
Thứ ba: mở rộng cơ hội đầu tư sinh lời: thông qua hoạt động của các công
ty tài chính, cơ hội đầu tư cho các tổ chức kinh tế và cá nhân sẽ được tăng lên.
Nguồn lợi sẽ mang lại cho cả hai phía, phân tán rủi ro và đa dạng hóa danh mục
đầu tư.
Thứ tư: thúc đẩy cạnh tranh trong hệ thống các tổ chức tài chính nói riêng
và hệ thống Ngân hàng kinh doanh nói chung. Công ty tài chính cung cấp các
dịch vụ tài chính - Ngân hàng đa dạng. Do đó, tăng cường áp lực cạnh tranh
giữa các ngân hàng, làm cho chất lượng dịch vụ ngày càng tốt hơn tạo ra nhiều
cơ hội cho khách hàng lựa chọn các sản phẩm. Đó là động lực thúc đẩy hệ thống
Ngân hàng kinh doanh phát triển.
1.2) Hoạt động của công ty tài chính:
- Hoạt động huy động vốn: Tiền gửi là nguồn vốn quan trọng nhất, là hình
thức huy động vốn phổ biến của các công ty tài chính. Công ty tài chính tiến
hành các hoạt động nhận tiền gửi từ các cá nhân, tổ chức kinh tế, các tổ chức tín
dụng khác. Các khoản tiền gửi có thể được chia thành tiền gửi không kỳ hạn và
tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra bất cứ
lúc nào, nó có thể là tiền gửi thanh toán hoặc tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Đặc trưng của loại huy động này là biến động thường xuyên. Do đó, cần quản lý
chặt chẽ để nâng cao khả năng thanh toán cho bản thân công ty tài chính.
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian rút tiền

giữa khách hàng và công ty, đây là nguồn vốn lớn và ổn định.
Ngoài tiền gửi ra các công ty tài chính có thể huy động nguồn vốn tức
thời bằng cách vay vốn các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng hoặc là
phát hành các chứng từ có giá: chứng từ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu…Trong
hình thức huy động này, các công ty tài chính chủ động phát hành các chứng từ
Ngô Đăng Dũng 4 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
có giá theo đợt để bổ sung nguồn vốn kinh doanh, mà chủ yếu là nguồn vốn
trung và dài hạn.
- Hoạt động sử dụng vốn: Sử dụng vốn là hoạt động kinh doanh chủ yếu
và quan trọng nhất của các công ty tài chính. Trong nền kinh tế thị trường, hoạt
động sử dụng vốn ngày càng đa dạng và được thực hiện dưới nhiều hình thức:
+ Hoạt động cho vay đối với khách hàng: Đây là hoạt động trong đó ngân
hàng sử dụng số tiền huy động được cung cấp cho người đi vay một khoản tiền
nhất định để sản xuất, kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng hoặc để đáp ứng nhu cầu
thiếu hụt vốn trong thanh toán của các tổ chức tín dụng. Khi thực hiện hoạt động
này các công ty phải đảm bảo thu hồi cả vốn và tiền lãi. Gồm có cho vay ngắn
hạn, trung và dài hạn.
Cho vay ngắn hạn là loại cho vay có thời hạn dưới 12 tháng, là loại cho
vay phổ biến của công ty tài chính, nhằm bổ sung vốn lưu động cho khách hàng.
Cho vay trung và dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 12 tháng. Loại
cho vay này để khách hàng thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế,
mở rộng sản xuất có thời hạn thu lãi dài.
+ Hoạt động đầu tư: Hoạt động đầu tư của công ty tài chính được thực
hiện dưới các hình thức như: đầu tư chứng khoán, mua trái phiếu công ty khác,
trái phiếu chính phủ, đầu tư vốn liên doanh, tham gia góp vốn, tài trợ dự
án….Thông qua đó các công ty tài chính không những nhận được một khoản thu
nhập mà còn phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.
- Hoạt động dịch vụ của công ty tài chính: Các dịch vụ được phát triển
mạnh mẽ trong điều kiện nền kinh tế thị trường và đưa lại nguồn thu đáng kể

cho các công ty tài chính. Các hoạt động dịch vụ được thực hiện dưới các hình
thức:
+ Dịch vụ thanh toán: Công ty tài chính thay mặt khách hàng thanh toán
cho viêcẹ mua bán hàng hoá, dịch vụ của khách hàng. Bao gồm thanh toán
không dùng tiền mặt, hoặc thu chi tiền mặt qua công ty…Thông qua hoạt động
thanh toán, các công ty tài chính sẽ thu được lệ phí, tập trung được nhiều nguồn
Ngô Đăng Dũng 5 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
vốn và thông qua đó kiểm soát được chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế quốc
dân.
+ Dịch vụ bảo lãnh: là sự cam kết của công ty tài chính về việc thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ cam kết với bên có quyền. Bảo lãnh
được thực hiện dưới nhiều hình thức như bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu,
bảo lãnh chất lượng và khối lượng hàng hoá….
+ Kinh doanh ngoại hối: Các công ty tài chính tiến hành mua bán ngoại tệ
ở thị trường trong nước và quốc tế. Lợi nhuận mang lại là chênh lệch giá giữa
giá bán và giá mua.
+ Dịch vụ uỷ thác: Công ty tài chính thực hiện dịch vụ uỷ thác theo yêu
cầu của khách hàng bao gồm: quản lý tài sản, các giấy tờ có giá và chứng từ
quan trọng, mua hộ chứng khoán, thanh toán hộ khách hàng, đại lý và đại diện
tại các tổ chức kinh tế hoặc cơ quan pháp luật.
+ Hoạt động thông tin, tư vấn: Để có thể kinh doanh thuận lợi trong nền
kinh tế thị trường nhiều biến động, đòi hỏi các tổ chức kinh tế phải nắm bắt
thông tin nhanh nhạy và chính xác. Các công ty tài chính có khá đầy đủ và cập
nhật thường xuyên các thông tin về thị trường, giá cả do vậy nó có thể cung cấp
các thông tin theo yêu cầu của khách hàng trong giới hạn cho phép.Hơn nữa, do
có trình độ nghiệp vụ có thông tin và kinh nghiệm nên các công ty tài chính có
thể tư vấn cho khách hàng về xây dựng dự án đầu tư, phương án huy động vốn,
phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp…

2) Tổng quan hoạt động tín dụng của công ty tài chính:
2.1) Định nghĩa về tín dụng: Tín dụng xuất phát từ chữ La tinh Creditium
có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng Anh gọi là Credit. Theo ngôn ngữ dân
gian Việt Nam là sự vay mượn. Tóm lại có thể hiểu là sử dụng sự tin tưởng để
thực hiện các quan hệ vay mượn một lượng giá trị vật chất hoặc tiền tệ trong
một thời gian nhất định.
Ngô Đăng Dũng 6 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Định nghĩa đầy đủ: Tín dụng là quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa người
cho vay và người đi vay dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
Một số định nghĩa khác:
- Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (người cho
vay) chu cấp tiền hay hàng hoá dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai
của bên kia (người đi vay).
- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị
dưới hình thức tiền tệ hay hiện vật từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một
thời gian nhất định hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn.
- Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho
vay và bên đi vat, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử
dụng trong một thời gian nhất định, theo thoả thuận bên đi vay có trách nhiệm
hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Quá trình vận động của tín dụng được thể hiện theo sơ đồ:

Cho vay
Người cho vay Người đi vay
(người sở hữu vốn) (người sử dụng vốn)
Trả nợ
Định nghĩa tín dụng thể hiện ở ba nội dung cơ bản:
- Có sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng vốn từ người này sang
người khác.

- Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời. Đó là thời gian sử dụng
vốn. Nó là kết quả của sự thoả thuận giữa các đối tác tham gia quá trình chuyển
nhượng để đảm bảo phù hợp giữa thời gian nhàn rỗi và thời gian cần sử dụng
lượng vốn đó.
Ngô Đăng Dũng 7 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Người đi vay có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cho người cho vay cả
vốn gốc và lãi.
2.2) Phân loại tín dụng:
Căn cứ vào thời hạn tín dụng.
Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn không quá 12 tháng,
thường được dùng để cho vay bổ sung vốn lưu động của các doanh nghiệp và
đáp ứng nhu cầu chi tiêu cá nhân. Đây là loại hình tín dụng có mức rủi ro thấp vì
thời hạn hoàn vốn nhanh.
Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng,
chủ yếu dùng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật,
mở rộng và xây dựng các công trình quy mô nhỏ có thời hạn thu hồi vốn
nhanh Đây là loại tín dụng có mức rủi ro cao.
Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 60 tháng, được sử dụng
để cho vay dự án đầu tư xây dựng mới, cải tiến và mở rộng sản xuất ở quy mô
lớn, có thời hạn thu hồi vốn dài. Đây là loại tín dụng có mức rủi ro cao nhất.
Căn cứ vào đối tượng tín dụng:
Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cấp nhằm hình thành vốn
lưu động cho các doanh nghiệp hoặc các chủ thể kinh tế khác.
Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp nhằm hình thành vốn cố
định của các doanh nghiệp hoặc chủ thể kinh tế khác, loại tín dụng này được
thực hiện dưới hình thức cho vay trung và dài hạn.
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng:
Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cung cấp cho
các doanh nghiệp tiến hành sản xuất và kinh doanh hàng hoá, dịch vụ.

Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cung cấp cho các cá nhân nhằm đáp
ứng nhu cầu tiêu dùng.
Căn cứ vào chủ thể tín dụng:
Ngô Đăng Dũng 8 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp được
thực hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa hoặc ứng tiền trước khi nhận
hàng hóa.
Tín dụng ngân hàng: là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức xã hội…
Tín dụng Nhà nước: là hình thức tín dụng thể hiện mối quan hệ giữa Nhà
nước với các doanh nghiệp, cá nhânm tổ chức xã hội… Nhà nước vùă là người
đi vay, vừa là người cho vay.
Căn cứ vào tính chất đảm bảo tiền vay:
Tín dụng có đảm bảo: là loại tín dụng được đảm bảo bằng tài sản thế chấp
hay cầm cố của khách hàng, hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Nhờ có sự
bảo đảm này mà các tổ chức tài chính có thêm nguồn thu nợ thứ hai, bổ sung
nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
Tín dụng không có đảm bảo: là loại tín dụng không có các loại tài sản cầm
cố, thế chấp hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào
uy tín của bản thân khách hàng.
Căn cứ vào lãnh thổ hoạt động tín dụng:
Tín dụng nội địa: là quan hệ tín dụng phát sinh trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia giữa các tổ chức kinh tế với nhau.
Tín dụng quốc tế: là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các quốc gia với
nhau hoặc giữa một quốc gia với một tổ chức tài chính - tín dụng quốc tế.
2.3) Vai trò tín dụng:
- Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa:
Do tính đa dạng trong luân chuyển vốn của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường, tại một thời điểm nhất định, trong nền kinh tế có một số

doanh nghiệp "thừa vốn" tạm thời, có thể do bán được hàng hóa nhưng chưa có
nhu cầu sử dụng ngay đã làm nảy sinh nhu cầu cho vay vốn để tránh tình trạng ứ
đọng vốn và nhằm kiếm thêm lợi nhuận. Bên cạnh đó, có những doanh nghiệp
thiếu vốn tạm thời, có thể do chưa bán được hàng hóa hoặc đang cần vốn để mở
Ngô Đăng Dũng 9 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
rộng sản xuất làm nảy sinh nhu cầu đi vay để duy trì sản xuất kinh doanh
mang lại lợi nhuận. Việc cấp tín dụng thông qua cho vay kịp thời, đã tạo ra khả
năng đảm bảo tính liên tục của quá trình sản xuất kinh doanh, cho phép các
doanh nghiệp thỏa mãn nhu cầu về vốn, không để tồn đọng vốn trong quá trình
luân chuyển.
Nhờ vào các nguồn vốn tín dụng huy động đươc, các doanh nghiệp tổ
chức kinh tế không những đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn mở
rộng quy mô, cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tăng cường lượng hàng hóa
lưu thông trên thị trường, đa dạng hóa sản phẩm
Trong quá trình hoạt động của các chủ thể kinh tế, tín dụng góp phần thúc
đẩy nhanh quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, tạo mối liên hệ khắng khít
giữa sản xuất, lưu thông hàng hóa và tiêu dùng xã hội, nhờ đó mà quá trình lưu
thông hàng hóa không chỉ diễn ra trong nội bộ 1 quốc gia mà còn ra thị trường
quốc tế.
Tín dụng góp phần điều chỉnh quy mô sản xuất của doanh nghiệp, cơ cấu
lại vùng lãnh thổ kinh tế, từ đó phát huy năng lực sản xuất, kinh doanh của từng
thành phần kinh tế một cách tốt nhất.
Tín dụng góp phần tích tụ và tập trung vốn vào một số thành phần kinh tế,
tạo ra những tập đoàn kinh tế vững mạnh, những tập đoàn xuyên quốc gia, làm
nòng cốt cho sự phát triển của đất nước.
Tín dụng còn làm cho quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra nhanh
chóng, giúp cho các nước chậm phát triển có thể được sử dụng những tiến bộ
khoa học mới, những công nghệ sản xuất cao của thế giới, từ đó làm tăng năng
suất lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế.

- Tín dụng là công cụ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước:
Mục tiêu của kinh tế vĩ mô: ổn định giá cả, tăng trưởng kinh tế, tạo công
ăn việc làm phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiển tệ nói chung và chính sách tín
dụng nói riêng như các điều kiện về lãi suất, thế chấp, bảo lãnh và các điều kiện
khác trong chính sách tín dụng từng thời kỳ. Thông qua việc thay đổi và điều
Ngô Đăng Dũng 10 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chỉnh các điều kiện tín dung, có thể thay đổi quy mô hoặc chuyển hướng vận
động của nguồn vốn tín dụng, ảnh hưởng đến tổng cầu, tổng cung của nền kinh
tế. Nhờ đó, mà các mục tiêu vĩ mô có thể sẽ đạt được. Cụ thể
Nhà nước thường xuyên sử dụng tín dụng làm phương tiện cân đối thu chi
ngân sách nhà nước, góp phần đảm bảo các nguồn lực tài chính để thực thi các
chính sách kinh tế - xã hội.
Thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện lãi suất tín dụng, nhà
nước có thể thay đổi quy mô tín dụng, chuyển hướng vận động của nguồn vốn
tín dụng. Nhờ đó mà có thể thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển của một số
ngành, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của đất nước.
Nhà nước sử dụng tín dụng để điều tiết lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự cân
đối tiền hàng, ổn định giá cả hàng hóa.
Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng tín dụng như là công cụ thực thi các
quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực tài chính từ bên ngoài để đầu tư
phát triển kinh tế trong nước. Trong điều kiện nền kinh tế mở, vay nợ nước
ngoài trở thành một nhu cầu khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới, nó
lại càng bức thiết hơn đối với các nước đang phát triển. Nhờ có tín dụng, các
nước đang phát triển có thể liên hệ, nhập khẩu máy móc trang thiết bị hiện đại
và tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ thuật mới, cũng như trình độ quản
lý tiên tiến trên thế giới.Việc cấp tín dụng của các nước không chỉ mở rộng và
phát triển quan hệ ngoại thương, mà còn tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế
ở các nước nhập khẩu. Tín dụng đã tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư quốc tế
trực tiếp, một hình thức hợp tác kinh tế ở mức độ cao hơn.

- Tín dụng góp phần quan trọng trong việc giảm thấp chi phí sản xuất và
lưu thông hàng hóa:
Thông qua hoạt động tín dụng, vốn trong nền kinh tế được luân chuyển
nhanh, tức là làm tăng nhanh tốc độ lưu thông tiền tệ. Từ đó làm giảm khối
lượng phát hành vào lưu thông, đồng nghĩa với việc giảm chi phí lưu thông tiền
tệ.
Ngô Đăng Dũng 11 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Khi vốn tín dụng được cung cấp, đầy đủ kịp thời cho các doanh nghiệp,
làm cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành liên tục, chu kỳ sản xuất được
rút ngắn lại. Đây là một yếu tố góp phần làm giảm tổn thất khi doanh nghiệp
thiếu vốn liên quan đến cơ hội kinh doanh.
- Tín dụng góp phần tích tụ, tập trung vốn thúc đẩy sản xuất:
Do tín dụng đa dạng hóa danh mục đầu tư, thông qua việc cho nhiều nhà
đầu tư của nhiều dự án khác nhau vay, do đó độ rủi ro cá nhân của những người
tích lũy vốn được giảm xuống. Chính bởi lý do này cộng với tính chuyên môn
hóa cao, tín dụng đã làm cho quá trình tích tụ, tập trung vốn được thực hiện
nhanh chóng và có hiệu quả, tạo khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế, đặc
biệt là nguồn vốn dài hạn. Các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nhờ nguồn vốn tín
dụng, có thể nhanh chóng mở rộng sản xuất, thực hiện các dự án đầu tư tạo ra
những bước nhảy vọt về năng lực sản xuất do tiếp cận được với thiết bị máy
móc hiện đại, thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Tín dụng góp phần nâng cao đời sống của nhân dân và thực hiện các
chính sách xã hội khác của Nhà nước:
Thông qua các ưu đãi của Nhà nước về tín dụng như là ưu đãi về lãi suất,
điều kiện và thời hạn tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách,
tín dụng đã đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách việc làm,
dân số, các chương trình xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội. Từ đó
làm nâng cao đời sống nhân dân, thúc đẩy xã hội phát triển.
3) Rủi ro tín dụng:

3.1) Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro là điều không lành, không tốt xảy ra không thể lường trước và để
lại những hậu quả nhất định. Theo Allan Willett " rủi ro là sự bất trắc có thể liên
quan đến việc xuất hiện những biến cố không mong đợi". Quan điểm này được
nhiều học giả nổi tiếng ủng hộ. Một quan điểm khác về rủi ro cho rằng: "rủi ro là
khả năng xảy ra tổn thất" được đề cập lần đầu trong nghiên cứu của John
Haynes, sau đó được Irving Pfeffer trình bày chi tiết hơn trong cuốn "lý thuyết
Ngô Đăng Dũng 12 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bảo hiểm và Kinh tế".Một học giả Việt Nam. ông Nguyễn Hữu Thân thì cho
rằng "rủi ro là sự bất trắc gây ra mất mát, thiệt hại".
Từ đó ta có cách hiểu chung nhất về rủi ro là: "Rủi ro là khả năng xảy ra
các biến cố không lường trước, khi xảy ra sẽ làm cho kết quả thực tế khác với
kết quả kỳ vọng".
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp luôn luôn gắn liền với rủi ro. Các công ty tài chính cũng là một
hình thức doanh nghiệp, vẫn luôn phải đối mặt với vô vàn rủi ro : rủi ro tín
dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản Trong số đó thì rủi ro tín
dụng là đặc trưng tiêu biểu nhất, dễ xảy ra nhất và gây hậu quả nặng nề nhất. Vì
vậy các công ty tài chính nhất thiết phải đưa ra những giải pháp hiệu quả và thiết
thực nhất nhằm giảm thiểu tối đa những thiệt hại có thể xảy ra. Một số khái
niệm về rủi ro tín dụng
Theo Thomas P.Fitch "rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay
không thanh toán được nợ theo thỏa thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn trong nghĩa
vụ trả nợ".
Theo báo cáo thường niên của Ngân hàng Hoàng gia Canada thì: "rủi ro
tín dụng là rủi ro mất vốn do bên đối tấc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
trả nợ. Cũng có thể bao gồm cả sự mất đi giá trị thị trường do sự suy yếu vị thế
tài chính của đối tác. Đối tác có thể là nhà phát hành giấy tờ có giá, con nợ,
người đi vay, nhà hoạch định chính sách, nhà tái bảo lãnh và bảo lãnh".

Theo quyết định số 493/2002/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN
Việt Nam thì: "Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín
dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết".
Qua các khái niệm trên ta có thể hiểu bản chất của RRTD là khả năng chủ
thể vay vón hay chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng không thực hiện đúng với
hợp đồng tín dụng đã cam kết với tổ chức tín dụng, tức là không trả đúng hạn
Ngô Đăng Dũng 13 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hoặc không trả đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay cho chủ thể cung cấp khoản
vay và làm chủ thể này phải gánh chịu tổn thất về tài chính, trong trường hợp
nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn là phá sản. Ở đây
chúng ta nghiên cứu rủi ro tín dụng trong các công ty tài chính.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của công ty tài
chính đó là hoạt động tín dụng. Vì vậy, RRTD là một tất yếu luôn luôn tồn tại
trong hoạt động kinh doanh của công ty tài chính, chỉ có thể tìm giải pháp hạn
chế nó, chứ không thể triệt tiêu hoàn toàn nó được. Để có thể tìm được những
giải pháp tối ưu nhất, không những phải hiểu biết đầy đủ về RRTD mà còn phải
liên hệ mối quan hệ sâu sắc của nó với đặc điểm kinh doanh của từng công ty tài
chính riêng.
3.2) Phân loại rủi ro tín dụng trong các công ty tài chính:
Trên thế giới có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tùy vào
mỗi nước. Ở trong bài này, em xin giới thiệu tham khảo cách phân loại rủi ro tín
dụng mà Việt Nam đang áp dụng hiện nay.
Phân loại rủi ro tín dụng theo các loại nợ tín dụng, nếu phân loại theo
phương pháp định lượng, Quyết định 493 phân loại nợ thành năm nhóm, bao
gồm:
• Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao bồm nợ trong hạn được đánh giá có
khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong

tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán.
• Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ.
• Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180
ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày.
• Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày
và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày.
• Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày,
nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ tên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
Ngô Đăng Dũng 14 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nếu phân loại theo phương pháp định tính, nợ cũng được phân thành năm
nhóm tương ứng như năm nhóm nợ theo cách phân loại nợ phương pháp định
lượng, nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ,
mà căn cứ trên hệ thống xếp hạn tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro
của tổ chức tín dụng được NHNN chấp nhận. Các nhóm nợ bao gồm:
• Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giấ là có khả năng
thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn.
• Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
• Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có
khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn.
• Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn
thất cao, không thu hồi được vốn
• Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không
còn khả năng thu hồi, mất vốn.
3.3) Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng:
- Rủi ro tín dụng do nguyên nhân khách quan
Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định: Do sự biến động quá
nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới: Nền kinh tế VN vẫn còn

lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông
nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công,
… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương
khi thị trường thế giới biến động xấu.
Ngành dệt may trong một số năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị
khống chế hạn ngạch làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Ngành thủy
sản cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua.
Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương
không kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc
Ngô Đăng Dũng 15 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải
ngưng sản xuất do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản
phẩm.
Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế: Quá
trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi
tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp,
những khách hàng thường xuyên của ngân hàng và các tổ chức tín dụng phải đối
mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên
cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại,các công ty tài
chính và các tổ chức tín dụng khác trong nước và quốc tế trong môi trường hội
nhập kinh tế cũng khiến cho các tổ chức trong nước với hệ thống quản lý yếu
kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm
lực tài chính lớn sẽ bị các tổ chức nước ngoài thu hút.
Sự tấn công của hàng nhập lậu: Với hàng trăm km biên giới trên bộ và
trên biển cùng địa hình địa lý phức tạp và tình hình đời sống nghèo khó của dân
cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng lậu đã kéo dài dai dẳng từ rất nhiều
năm nay mà kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu
đứng các doanh nghiệp trong nước và các tổ chức tài chính đầu tư vốn cho các

doanh nghiệp này. Các mặt hàng kim khí điện máy, gạch men, đường cát, vải
vóc, quần áo, mỹ phẩm,… là những ví dụ tiêu biểu cho tình hình hàng lậu ở
nước ta.
Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng
hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành: Nền kinh tế thị trường thị trường tất
yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi
nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do
đó có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác và đây cũng là một hiện
tượng khách quan. Tuy nhiên ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát
triển một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp
tác, phân công lao động, chuyên môn hoá lao động, sự bất lực trong vai trò của
Ngô Đăng Dũng 16 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
các hiệp hội nghề nghiệp và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến
sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa,
lãng phí tài nguyên quốc gia.
Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi: Sự kém hiệu quả của cơ
quan pháp luật cấp địa phương: Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban
thường vụ quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN)và các cơ quan
liên quan đã ban hành nhiều luật,văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên
quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có
song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn
gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu
hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: Trong những hợp khách hàng
không trả được nợ, các tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay.
Trên thực tế, các tổ chức tín dụng không làm được điều này vì tổ chức tín dụng
là một loại hình kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, không có
chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng
để xử lý hoặc việc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để Tòa án xử lý qua con
đường tố tụng… cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng các tổ chức tín

dụng không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng.
Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN: Bên cạnh
những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo
an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ
thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh
doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và
phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đựơc đổi mới. Vai trò kiểm toán
chưa đựơc phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu.
Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị
trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động
một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn
và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn
Ngô Đăng Dũng 17 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM hay các công ty tài
chính cũng như các tổ chức tín dụng khác không được thanh tra NHNN cảnh
báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi
mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số
NHTM, công ty tài chính dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an
toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy
thanh tra phát hiện và xử lý sớm hơn.
Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập: Hiện nay ở VN chưa có một cơ
chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông
tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã hoạt động đã quá một thập niên và
đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông
tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định
mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp
còn đơn điệu, thiếu cập nhật và ngoài ra việc kết nối thông tin với trang Web –
CIC qua đường X25 của Chi cục tin học ngân hàng còn nhiều trục trặc, chưa đáp
ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin tại TP.HCM. Đó cũng là thách thức

cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh
tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng
cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường
thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân
hàng.
-Rủi ro tín dụng do nguyên nhân chủ quan :
Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay:
Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay: Đa
số các doanh nghiệp khi vay vốn đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả
thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo để chiếm
đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề,
liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp
khác.
Ngô Đăng Dũng 18 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Khả năng quản lý kinh doanh kém: Khi các doanh nghiệp vay tiền để mở
rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất
chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ
máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh
doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản
của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực
tế.
Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Quy mô tài
sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nơ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu
hết các doanh nghiệp VN. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ
ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh
và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho chủ
thể cho vay nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ
của tổ chức cho vay lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số
liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây

cũng là nguyên nhân vì sao các tổ chức cho vay vẫn luôn xem nặng phần tài sản
thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
Rủi ro do các nguyên nhân từ phía tổ chức tín dụng cho vay
Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các tổ chức tín dụng: Kiểm tra nội
bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp
thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do
việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh.
Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các tổ chức tín
dụng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như
hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ
thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những
ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Một số vụ
án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ NHTM đều có sự
Ngô Đăng Dũng 19 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay,
hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân
hàng.
Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết
vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng
thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật
vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay: Các tổ chức tín dụng thường
có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà
lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi các tổ chức
tín dụng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để
đảm bảo sẽ đựơc hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan
trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo
dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp

đồng tín dụng giữa khách hàng và tổ chức tín dụng nhằm tìm ra những cơ hội
kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua
các tổ chức tín dụng chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu
tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do
hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu,
không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà các tổ chức tín dụng yêu
cầu.
Sự hợp tác giữa các tổ chức tín dụng quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa
thực sự hiệu quả: Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để
cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt
động tín dụng là không thể tránh khỏi, các tổ chức tín dụng cần phải hợp tác chặt
chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro
đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều tổ chức tín
dụng khác nhau. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là
một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin,
Ngô Đăng Dũng 20 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
dẫn đến việc nhiều tổ chức tín dụng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt
quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một tổ chức
tín dụng nào.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng ngày càng gay gắt
như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp
thời, chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là
hiện nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu,
chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ
quan hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm
tay của các tổ chức tín dụng nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả
năng của riêng từng cá nhân tổ chức tín dụng, liên quan đến vấn đề nội tại của
bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng mô hình phát triển ở

VN. Trong phạm vi tầm tay của các tổ chức tín dụng, rủi ro tín dụng phụ thuộc
vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ lúc
xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Năng lực cấp tín
dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng và nhân viên của họ và các
nguồn lực của tổ chức tín dụng về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. Do vậy
biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan
đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ
trong quá trình xử lý công việc. Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng
con đường quản lý rủi ro tín dụng của ngành ngân hàng coi như đã đi được hơn
một nửa.
Nguyên nhân từ phía các tài sản đảm bảo
Trường hợp đảm bảo bằng tài sản: TSĐB là tài sản thuộc sở hữu của
người đi vay dùng để cầm cố, thế chấp cho tổ chức tín dụng cho vay. Một TSĐB
phải thỏa mãn 3 điều kiện: dễ định giá, dễ chuyển quyền sở hữu hợp pháp và có
tính khả mại cao. Tuy nhiên, TSĐB có thể bị suy giảm giá trị do giá cả thị
trường biến động theo chiều hướng bất lợi hoặc do bản thân tài sản trong quá
Ngô Đăng Dũng 21 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trình sử dụng bị hao mòn lớn hơn dự kiến. Ngoài ra, các tổ chức tín dụng cho
vay có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận, nắm giữ và xử lý TSĐB.
Trường hợp bảo lãnh: Bảo lãnh là sự đảm bảo gián tiếp có ba bên tham
gia trong đó bên thứ ba, tức là bên bảo lãnh đồng ý chịu trách nhiệm về khoản
nợ của bên thứ hai là khách hàng khi khách hàng không trả được nợ cho bên thứ
nhất là tổ chức tín dụng cho vay. Vấn đề là các tổ chức tín dụng cho vay có cố
gắng giải thích về trách nhiệm tiềm tàng đến đâu thì người bảo lãnh cũng không
bao giờ chờ đợi sẽ bị gọi đến trả tiền, các tổ chức tín dụng khó có thể thuyết
phục họ trả tiền, và thực tế là nhiều vụ kiện đã phải đưa ra tòa kinh tế xử lý.
Nguyên nhân do thông tin không cân xứng, lựa chọn sai đối tác
Đây cũng là một rủi ro rất hay xảy ra trong quá trình hoạt động của công
ty. Thông tin không cân xứng có thể do phía công ty không tìm hiểu kỹ càng về

đối tác, hoặc là phía đối tác cố ý che dấu thông tin, che dấu những số liệu thông
kê xấu, tình hình nợ xấu, khiến phía công ty có những đánh giá sai lệch về đối
tác của mình. Hậu quả của sự đánh giá sai lệch này thường là rất to lớn, công ty
có thể đối mặt với sự phá sản của đối tác và khả năng thu hồi nợ là hầu như
không có. Do đó, phía công ty phải hết sức lưu ý, tìm hiểu thông tin chính xác
và lựa chọn đúng đối tác tiềm năng.
3.4) Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với hoạt động của nền kinh tế
nói chung và công ty tài chính nói riêng:
- Ảnh hưởng đến nền kinh tế: Hoạt động tín dụng của các tổ chức tín
dụng nói chung và công ty tài chính nói riêng có liên quan mật thiết đến hoạt
động doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì vậy khi một tổ chức gặp phải
rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gởi tiền ở các tổ chức khác hoang mang
lo sợ và kéo nhau ồ ạt đến rút tiền ở các tổ chức khác, làm cho toàn bộ cả hệ
thống gặp khó khăn. Sự phá sản của các tổ chức tín dụng sẽ ảnh hưởng đến tình
hình sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời
sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng
thưong mại và các tổ chức tài chính khác ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền
Ngô Đăng Dũng 22 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
kinh tế. Nó làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất
nghiệp tăng, xã hội mất ổn định. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến
nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền
kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-
2002) đã làm rung chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa
các nước phát triển rất nhanh nên rủi ro tín dụng tại một nước ảnh hưởng trực
tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan.
- Ảnh hưởng đến bản thân công ty tài chính:
Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của các công ty tài chính:
Hoạt động đầu tiên và chủ yếu của các công ty tài chính là nhận tiền gửi và thực

hiện cho vay trên nguyên tắc hoàn trả. Khi hoạt động tín dụng gặp rủi ro không
thu hồi đủ cả gốc và lãi theo như hợp đồng tín dụng, trong khi đó công ty vẫn
phải thực hiện thanh toán đúng hạn cho người gửi tiền như cam kết. Do vậy, các
công ty tài chính sẽ gặp khó khăn trong khâu thanh toán. Bên cạnh đó khi rủi ro
tín dụng xảy ra thì các chi phí khác tiếp tục phát sinh có tính chất cộng hưởng
như chi phí quản lý nợ xấu và các chi phí khác có liên quan sẽ càng làm giảm
khả năng thanh toán của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của các công ty tài chính: Đối với các tổ
chức hoạt động trong lĩnh vực tín dụng thì chữ tín là rất quan trong, nếu 1 công
ty tài chính có tỷ lệ nợ xấu trên tổng nợ lớn hoặc có những thông tin trên
phương tiện thông tin đại chúng về việc công ty không thu hồi được nợ hoặc bị
NHNN đưa vào diện kiểm soát đặc biệt thì uy tín của công ty đó giảm sút một
cách nghiêm trọng. Các cá nhân, tổ chức sẽ không liều lĩnh gửi tiền vào một
công ty như vậy bởi vì họ cảm thấy rủi ro mất vốn là rất cao, từ đó làm ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động của công ty.
Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của công ty: Lợi nhuận của công ty tài
chính là chênh lệch giữa cho vay và lãi suất huy động vốn. Tuy nhiên rủi ro tín
dụng làm cho doanh thu thấp do không thu đuợc lãi vay thậm chí là thu không
Ngô Đăng Dũng 23 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đủ gốc, nên lợi nhuận thu được là rất thấp. Hơn nữa, khi rủi ro tín dụng cao các
công ty tài chính sẽ phải tăng trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng làm cho lợi
nhuận càng giảm sút.
Rủi ro tín dụng có thể khiến cho công ty tài chính lâm vào tình trạng phá
sản: Khi rủi ro tín dụng ở mức độ không thể kiểm soát, không có khả năng ứng
phó sẽ gây phản ứng dây chuyền trong dân chúng, họ sẽ đổ xô đến rút tiền, rút
giao dịch làm cho công ty mất khả năng thanh toán, đi đến phá sản.
3.5) Các chỉ tiêu đánh giá và lượng hóa rủi ro tín dụng:
- Chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn. Nợ quá hạn là một phần hoặc
toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn được đo bằng tỷ lệ phần

trăm số nợ quá hạn trên tổng số nợ.
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = x 10
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này cho biết trong mỗi đơn vị tiền tệ công ty cấp tín dụng thì có
bao nhiêu đơn vị tiền tệ công ty không có khả năng thu hồi đúng hạn tại thời
điểm xác định. Tỷ lệ này càng thấp thì chất lượng tín dụng càng cao, tỷ lệ này
càng cao thì rủi ro tín dụng càng lớn. Theo Ngân hàng Thế giới WB thì tỷ lệ này
ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được và được coi là ngưỡng an toàn đối với
hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng nói chung. Tỷ lệ này nằm trong
khoảng 1% - 3% là tốt.
- Chỉ tiêu nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu: Theo quyết định số 493/2005/QĐ-
NHNN, nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3,4,6 quy định tại điều 6 bao
gồm: nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ và nợ có khả năng mất vốn.
Dư nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu = x 100%
Tổng nợ xấu
Ngô Đăng Dũng 24 Ngân hàng 46C
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tỷ lệ nợ xấu càng cao thì chất lượng tín dụng càng thấp, rủi ro tín dụng
càng lớn. Bên cạnh đó, các công ty tài chính phải tăng chi phí cho việc giám sát,
đôn đốc thu nợ, ch phí quản lý nợ xấu và các chi phí khác có liên quan. Do đó,
kết quả kinh doanh của công ty sẽ bị ảnh hưởng.
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn:
Nợ dưói tiêu chuẩn
Tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn = x 100%
Tổng dư nợ
Nợ dưới tiêu chuẩn là các khoản nợ thuộc nhóm 3 trong cách phân loại nợ
theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN. Các khoản nợ trong nhóm này được
xem là nợ xấu đối với các tổ chức tín dụng và khi đến thời hạn được gia hạn

thêm mà vẫn không được thanh toán thì có thể được xếp vào nhóm nợ nghi ngờ
hoặc nợ không thu hồi được hoặc được xử lý theo các quyết định của tổ chức tín
dụng. Tỷ lệ nợ dưới tiêu chuẩn càng cao thì rủi ro tín dụng gây ra càng lớn.
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ nghi ngờ:
Nợ nghi ngờ
Tỷ lệ nợ nghi ngờ = x 100%
Tổng dư nợ
Cũng như nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ cũng phản ánh rủi ro đối với
các khoản vay của ngân hàng. Các khoản vay thuộc nhóm này lại có mức rủi ro
cao hơn nhóm 3. Tỷ lệ nghi ngờ phản ánh chất lượng tín dụng của ngân hàng và
nếu càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao.
- Chỉ tiêu nợ có khả năng mất vốn (nợ khó đòi):
Nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi = x 100%
Tổng dư nợ
Ngô Đăng Dũng 25 Ngân hàng 46C

×