Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

quan hệ văn hóa ấn độ - đông nam á mười thế kỷ đầu công nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.11 MB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH





Nguyễn Trần Chung Thủy



QUAN HỆ VĂN HÓA ẤN ĐỘ - ĐÔNG NAM Á
MƯỜI THẾ KỶ ĐẦU CÔNG NGUYÊN













TP. Hồ Chí Minh – 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ










QUAN HỆ VĂN HÓA ẤN ĐỘ - ĐÔNG NAM Á
MƯỜI THẾ KỶ ĐẦU CÔNG NGUYỂN














LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Thế Giới
Mã số: 60 22 50
TP. Hồ Chí Minh - 2011
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HÀ BÍCH LIÊN

Nguyễn Trần Chung Thủy
LỜI CẢM ƠN


Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học sư phạm Thành phố Hồ
Chí Minh, Phòng khoa học công nghệ - Sau Đại học, các thầy cô Khoa Sử cùng tất cả các
bạn đồng học đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng, biết ơn Tiến sĩ Hà Bích Liên, Cô đã tận tình chỉ
bảo và hướng dẫn cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin tỏ lòng kính trọng, biết ơn ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Viện Bảo tàng An
Giang, đài Phát thanh truyền hình An Giang đã tận tình giúp đỡ tôi về nguồn tư liệu.
Tuy chỉ được nghiên cứu trong thời gian ngắn, nhưng với sự giúp đỡ tận tình của quý
thầy cô, sự hỗ trợ của bạn bè, đồng nghiệp, sự cố gắng hết sức mình, tôi đã có điều kiện tiếp
thu được kiến thức và phương pháp nghiên cứu vô cùng quý báu.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!


Thành phố Hồ Chí Minh ngày 1 tháng 8 năm 2011

Nguyễn Trần Chung Thủy
MỤC LỤC
2TLỜI CẢM ƠN2T 3
2TMỤC LỤC2T 4
2TMỞ ĐẦU2T 6
2T1. Lý do chọn đề tài2T 6
2T2. Mục đích nghiên cứu2T 9
2T3. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu2T 9
2T4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu2T 13
2T5. Phương pháp nghiên cứu2T 14
2T6. Những đóng góp của luận văn2T 14

2T7. Cấu trúc của luận văn2T 15
2TCHƯƠNG 1: NHỮNG CON ĐƯỜNG LAN TỎA CỦA VĂN HÓA ẤN ĐỘ
XUỐNG ĐÔNG NAM Á
2T 16
2T1.1. Bức tranh tổng thể của lịch sử khu vực Đông Nam Á mười thế kỷ đầu công
nguyên
2T 16
2T1.2. Những con đường du nhập2T 21
2T1.2.1. Con đường thương mại2T 22
2T1.2.2. Thông qua hoạt động truyền giáo2T 25
2T1.2.3. Dân di thực2T 26
2T1.3. Sự lan tỏa của một nền văn hóa cao hơn văn hóa bản địa2T 28
2T1.3.1. Từ thế kỷ I - thế kỷ IV2T 28
2T1.3.2. Từ thế kỷ IV - thế kỷ VI2T 31
2T1.3.3. Từ thế kỷ VII - thế kỷ X2T 34
2TCHƯƠNG 2: SỰ HIỆN DIỆN CỦA VĂN HÓA ẤN ĐỘ Ở KHU VỰC ĐÔNG
NAM Á MƯỜI THẾ KỶ ĐẦU CÔNG NGUYÊN
2T 40
2T2.1. Sự hiện diện của một nền văn hóa Phật giáo2T 41
2T2.1.1. Phật giáo ở Phù Nam2T 41
2T2.1.2. Phật giáo ở Myanmar2T 46
2T2.1.3. Phật giáo ở Trung Java2T 50
2T2.2. Văn hóa Hindu2T 52
2T2.2.1. Tiền Angkor và giáo phái Visnu2T 54
2T2.2.2. Champa và sự ảnh hưởng của Siva2T 61
2T2.3. Sự lựa chọn và thích ứng2T 70
2TCHƯƠNG 3: NHỮNG DẤU ẤN CỦA MỘT THỜI KỲ HINDU HÓA TRONG
NỀN VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC ĐÔNG NAM Á
2T 75
2T3.1. Di tích văn hóa Hindu - những gì còn lại của một thời kỳ Hindu hóa2T 76

2T3.2. Phật giáo - một thành tố văn hóa không thể thiếu trong nền văn hóa các dân tộc
Đông Nam Á
2T 88
2TKẾT LUẬN2T 107
2TTÀI LIỆU THAM KHẢO2T 111
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ văn hóa Ấn Độ - Đông Nam Á - liệu có phải là cách nói văn chương và
mang tính ngoại giao nhiều hơn tính khoa học, trong khi dường như chúng ta chỉ có thể nhìn
thấy những bằng chứng cho thấy “quan hệ một chiều” “sự ảnh hưởng một chiều” hay
“không có chiều ngược lại” như đã được minh chứng trong lịch sử.
G. Coedes, một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu về cổ sử Đông Nam Á và là
người đặt nền móng cho ngành khoa học này, ngay từ những nghiên cứu và những cảm
nhận khoa học đầu tiên đã cho rằng: Những nét chung của các nước Đông Nam Á không
phải là những thuộc địa của Ấn Độ để di dân, mà là những xã hội bản địa được Ấn hóa. Quá
trình Ấn hóa được tiếp diễn trong nhiều thế kỷ nhờ những trao đổi được tiến hành thuận lợi
giữa người bản địa và người Ấn, và nhờ sự ra đời của các vương quốc Hindu hóa đầu tiên
trong khu vực [7]. Lương thư có cho biết về mối quan hệ Ấn Độ - Đông Nam Á thời cổ, mà
trong đó cho thấy sự chủ động của các cộng đồng cư dân địa phương qua lời nhận xét về
Phù Nam như sau:
“ Năm thăng bình thứ nhất (357), đời Mục đế, quốc vương Trúc Chiên Đàn (Phù
Nam) dâng biểu hiến voi thuần… Sau đó, quốc vương Kiều Trần Như vốn là một người
Bàlamôn ở Thiên Trúc. Có một vị thần báo với ông ta rằng ông ta đáng được làm vua ở Phù
Nam, Kiều Trần Như trong lòng rất vui đi về Phương Nam, đến Bàn Bàn. Người Phù Nam
nghe tin, cả nước vui mừng đón về rồi lập lên làm vua. Từ đó thay đổi chế độ, dùng pháp
luật của Thiên Trúc…” [29].
Đã có những trao đổi, mua bán, đi qua đi lại giữa cư dân Đông Nam Á thời cổ với
người Ấn - để có thể cho người Ấn biết đến vùng đất này từ thiên niên kỷ I trước công
nguyên - như trong sử thi đã phản ánh lại. Và vào thời điểm những thế kỷ đầu công nguyên,
khi những con đường buôn bán trên biển được mở ra giữa Đông - Tây, một mối quan hệ sâu

sắc và sôi động đã xảy ra giữa Ấn Độ và Đông Nam Á [27]. Mối quan hệ này dựa trên
những cơ sở sau:
+ Đông Nam Á là một “đầu”, một trong hai chủ thể cấu thành nên mối quan hệ này.
+ Đông Nam Á, vào thời điểm có giao lưu với những yếu tố ngoại sinh đã là một chủ
thể phát triển, đạt đến một trình độ phát triển nhất định về kinh tế và văn hóa để có thể chủ
động trong việc tiếp nhận những yếu tố văn hóa đến từ bên ngoài, mà hệ quả của nó là việc
hình thành nên những quốc gia dân tộc trong khu vực sau giai đoạn “Hindu hóa”, và là một
khu vực với bản sắc riêng khác hẳn với những nền văn hóa nguyên mẫu mà nó tiếp nhận.
Do vị trí đặc biệt của mình, nằm trên con đường biển thông thương giữa phương
Đông và phương Tây, giữa hai nền văn minh lớn của thế giới là Trung Quốc và Ấn Độ, nên
ngay từ những năm đầu công nguyên, quan hệ văn hóa đã xảy ra giữa một số vùng cư trú
phát triển trong khu vực với cả hai nền văn hóa Trung, Ấn đã phát huy ảnh hưởng của mình
đến vùng đất Đông Nam Á. Nằm dưới hai cái bóng quá vĩ đại, gần như những quan hệ theo
chiều ngược lại không thể không có, nhưng những nhân tố văn hóa mang sắc màu Đông
Nam Á quá mờ nhạt, nhỏ bé và tự tan ra trong hai nền văn hóa lớn đó.
Một số nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng ảnh hưởng của hai nền văn hóa đến các
nước Đông Nam Á rất khác nhau. Văn hóa Trung Quốc đến với cư dân một số quốc gia
trong vùng bằng vũ lực và áp đặt. Còn văn minh Ấn Độ đến Đông Nam Á bằng con đường
hòa bình. Có lẽ do cách thức du nhập của hai nền văn hóa khác nhau như vậy nên vùng ảnh
hưởng của văn hóa Ấn Độ trong một thời gian dài nhiều thế kỷ có phần rộng lớn hơn văn
hóa Trung Quốc.
Ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ, mà đại diện là hai tôn giáo lớn Ấn Độ giáo và Phật
giáo đến Đông Nam Á mạnh mẽ hơn cả. Từ đầu công nguyên trở đi, hai tôn giáo này đã
thay nhau chiếm vị trí chủ đạo trong từng giai đoạn của lịch sử các nước Đông Nam Á.
Cùng với sự có mặt của hai tôn giáo lớn này, văn hóa Ấn Độ đã chuyển tải, đem lại những
ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự ra đời cũng như sự phát triển của kiến trúc, điêu khắc, hội họa,
ngôn ngữ, văn tự, cũng như nền văn học các nước Đông Nam Á.
Vì những lý do trên nên đề tài luận văn chủ yếu đề cập đến “Quan hệ văn hóa Ấn Độ
- Đông Nam Á mười thế kỷ đầu công nguyên” thì gần như là nói về sự hiện diện của văn
hóa Ấn Độ ở khu vực Đông Nam Á sơ kỳ tạo nên một thời kỳ mà các sử gia Phương Tây

thường gọi là giai đoạn “Hindu hóa” hay các quốc gia “Hindu hóa” là khái niệm bao gồm
các quốc gia Đông Nam Á sơ kỳ xuất hiện trong khoảng mười thế kỷ đầu công nguyên bởi
vì có hai yếu tố cho thấy cách gọi hợp lý đó:
Thứ nhất, những sắc thái văn hóa Ấn Độ làm cho người ta dễ dàng nhận thấy ở các
loại hình tôn giáo, nghệ thuật, chữ viết và văn chương, thậm chí tên các quốc gia Đông Nam
Á, tên của các vương triều hay kinh đô trong khoảng thời gian này đều phỏng theo tên các
vùng - miền địa phương của Ấn Độ. Chẳng hạn: Kalinga, Amaravati, Champa,
Campuchia…Trong đó những dấu ấn văn hóa Trung Hoa lại có những biểu hiện hòa đồng
rất khó phân biệt với sở tại.
Thứ hai, chính cư dân Đông Nam Á đã lựa chọn, thích ứng và tạo điều kiện cho văn
hóa Ấn Độ lan tỏa và ảnh hưởng sâu sắc trên nhiều vùng của khu vực. Có thể một nền văn
hóa thiên về tâm linh phù hợp với cư dân vừa ra khỏi tình trạng xã hội công xã nguyên thuỷ
hơn. Văn hóa Ấn Độ chính là yếu tố quan trọng tiếp sức cho sự ra đời của các nhà nước đầu
tiên của khu vực: Phù Nam, Champa, Campuchia, Pagan, Dvaravati, Sri Vijaya, Kalinga…
những nhà nước tên tuổi nhất trong mười thế kỉ đầu của lịch sử khu vực là những ví dụ rất
điển hình.
Nghiên cứu quan hệ văn hóa Ấn Độ - Đông Nam Á để thấy rõ:
+ Hai tôn giáo lớn của Ấn Độ là Ấn Độ giáo và Phật giáo đã xâm nhập một cách hòa
bình và phát huy ảnh hưởng mạnh mẽ vào Đông Nam Á từ những thế kỷ đầu công nguyên.
+ Cùng với sự có mặt của hai tôn giáo lớn này, trong tiến trình phát triển của lịch sử
các quốc gia Đông Nam Á, Ấn Độ giáo và Phật giáo đã có những đóng góp nhất định đối
với sự ra đời của một số quốc gia cổ, đối với sự hưng thịnh của một số quốc gia cùng những
dấu ấn với những đặc trưng quan trọng của nó đã để lại rõ nét trong kiến trúc, điêu khắc, hội
họa của cư dân trong khu vực Đông Nam Á.
+ Sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ chính là nền tảng cho sự ra đời của ngôn ngữ,
văn tự, văn học, nghệ thuật các nước Đông Nam Á sau này.
+ Sự phát triển của các quốc gia cổ Đông Nam Á thông qua ảnh hưởng của văn hóa
Ấn Độ đóng góp rất lớn vào sự hình thành lịch sử khu vực.
Vì ý nghĩa khoa học và thực tiễn nêu trên nên chúng tôi quyết định chọn và nghiên
cứu đề tài “Quan hệ văn hóa Ấn Độ - Đông Nam Á mười thế kỷ đầu công nguyên” với

mong nuốn đóng góp một nguồn tư liệu bổ sung vào việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập
lịch sử ở bậc đại học, cao đẳng và cả ở các trường trung học phổ thông.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu Quan hệ văn hóa Ấn Độ - Đông Nam Á mười thế kỷ đầu công nguyên để
làm rõ hai vấn đề:
+ Ảnh hưởng và vai trò của những yếu tố văn hóa Ấn Độ đến sự hình thành và phát
triển của các quốc gia Đông Nam Á trong khoảng mười thế kỷ đầu công nguyên.
+ Thời kỳ Hindu hóa ở Ấn Độ đã để lại những dấu ấn như thế nào trong nền văn hóa
các dân tộc Đông Nam Á ngày nay.
Trên cơ sở đó, rút ra những nhận định, đánh giá mức độ thâm nhập, phạm vi ảnh
hưởng, cách tiếp nhận cùng những dấu ấn của một thời kỳ Hindu hóa trong nền văn hóa các
dân tộc Đông Nam Á ngày nay.
3. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Các tài liệu viết có liên quan đến các quốc gia Đông Nam Á mười thế kỷ đầu công
nguyên hay thời kỳ vẫn được các sử gia quen gọi “giai đoạn Hindu hóa” rất phong phú,
trong đó hầu hết đều có phần đề cập đến sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn xuống khu vực. Có
thể liệt kê một số tài liệu của một số tác giả nước ngoài như G.Coedes, D.G.E Hall,
S.Lêvi…Trong đó, đáng chú ý nhất là G.Coedes với công trình Lịch sử các quốc gia cổ
Hindu hóa ở Viễn Đông xuất bản ở Hà Nội năm 1944, được tái bản rất nhiều lần, năm 1948,
1962 và 1964, bằng tiếng Pháp và hai lần được dịch ra tiếng Anh, bản dịch của M.H Wright,
Berkeley năm 1966, bản của Susan Brown Cowing, Honolulu năm 1968 và mới nhất hiện
nay là bản dịch năm 2008 với tên Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông của Nhà xuất
bản thế giới. Các bản dịch đều không có sữa chữa gì đáng kể, chỉ thay đổi chút ít tên sách
so với lần đầu năm 1944. Điều đó, cũng cho thấy “giá trị kinh điển” của công trình này và
quả thực ở năm đó - năm 1944 nó xứng đáng là đỉnh cao của nghiên cứu khoa học về Đông
Nam Á vì hầu như các tài liệu thư tịch đều đã được xử lý, phân tích một cách sâu sắc chặt
chẽ, mẫu mực và nhiều điểm vẫn còn có giá trị cho đến ngày nay. Tuy nhiên, có một hạn
chế là ông đã bỏ qua các kết quả nghiên cứu mới sau năm 1944 và trong tất cả các công
trình kể trên ông chủ yếu viết về sự Ấn Độ hóa để nói về ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ ở
Đông Nam Á . Cụ thể ông đã nêu lên những bằng cớ đầu tiên của công việc này, trình bày

những nguyên nhân, những phương thức tạo thành các cơ sở ban đầu, điểm xuất phát cùng
những con đường lan tỏa văn hóa và cuối cùng là đánh giá mức độ thâm nhập của văn hóa
Ấn Độ vào Đông Nam Á. Và còn một hạn chế rất lớn của ông và của các nhà nghiên cứu
tiếp sau là ông đã sử dụng rất nhiều thuật ngữ “Ấn Độ hóa” để chỉ những quốc gia cổ Đông
Nam Á chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Tuy vậy, gạt ra những nhận xét mang tính chủ
quan đó thì đây là một tài liệu rất có giá trị đã tái hiện lại toàn bộ quá trình thâm nhập, lan
tỏa và những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đến khu vực Đông Nam Á sơ kì lịch sử.
Hiện nay, vẫn còn tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về yếu tố văn hóa Ấn Độ
trong việc hình thành nền văn minh Đông Nam Á và tác động qua lại giữa hai yếu tố đó.
Loại quan niệm thứ nhất mà Q. Uênx đại diện cho rằng, khi tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ,
văn hóa Đông Nam Á vẫn giữ được bản sắc riêng. Các học giả khác mà V. Poadoanh là tiêu
biểu thì cho sự ảnh hưởng đó là sự thích nghi của văn minh Ấn Độ trong điều kiện và tình
huống mới ở môi trường “ngoại Ấn”. Còn theo G.Coedes thì coi văn hóa Đông Nam Á có
trước là “cơ sở hạ tầng”, còn văn minh ngoại lai Ấn Độ là “cấu trúc thượng tầng”. Trong
luận văn này chúng tôi đặc biệt quan tâm đến quan điểm của Giáo sư Lương Ninh về quan
hệ văn hóa Ấn Độ - Đông Nam Á thời sơ kì - đó là sự “lựa chọn” và “thích ứng”, văn hóa
Đông Nam Á đã lựa chọn những điểm phù hợp và tiếp nhận một cách chủ động từ văn hóa
Ấn Độ.
Viết về lịch sử sơ kỳ Đông Nam Á có rất nhiều tài liệu của các nhà nghiên cứu nổi
tiếng như D.G.E Hall với cuốn Lịch sử Đông Nam Á nhưng công trình này chịu ảnh hưởng
và tiếp thu phần lớn phần cổ sử của G.Coedes, đáng chú ý nhất là quyển Lịch sử Đông Nam
Á của Giáo sư Lương Ninh được tái bản năm 2008 đã trình bày một hình thức lịch sử Đông
Nam Á: trong đó các sự kiện lịch sử chủ yếu của tất cả các quốc gia, các vùng được giới
thiệu “cắt lát” theo thời gian để thấy mối liên hệ ngang của nó trong khung “lát thời gian”
khoảng vài thế kỷ ở các thời kì xa xưa và vài thập kỉ ở thời gian gần đây, nội dung đánh dấu
mốc lịch sử nổi bật của các quốc gia trong lát thời gian đó, cùng những mối liên quan, tương
đồng, thậm chí tương tác, tạo nên lịch sử Vùng, lịch sử Khu vực. Đây là một tài liệu giúp
ích rất nhiều cho luận văn về tiến trình lịch sử của các quốc gia cổ trong khu vực thuộc giai
đoạn sơ kì.
Lịch sử và văn hóa của từng nước Đông Nam Á cũng rất được các nhà nghiên cứu

quan tâm. Điển hình nhất là quyển Lịch sử văn hóa thế giới cổ trung đại do Giáo sư Lương
Ninh chủ biên được tái bản năm 2009 đã cung cấp một nguồn tư liệu quý báu về lịch sử và
văn hóa truyền thống ở những khu vực có nền văn hóa phát triển rực rỡ trong thời kì cổ -
trung đại, trong đó có văn hóa truyền thống Ấn Độ và văn hóa truyền thống Đông Nam Á.
Công trình này đã cung cấp những hiểu biết đại cương và giản yếu về tư tưởng, triết thuyết,
văn tự, văn học, sử học, nghệ thuật và khoa học thời cổ - trung đại đã giúp luận văn có một
cái nhìn tổng thể hơn về đặc trưng văn hóa và sự tương tác văn hóa giữa Ấn Độ với Đông
Nam Á và giữa các vùng trong khu vực Đông Nam Á.
Nhiều tác phẩm nghiên cứu riêng từng quốc gia cổ, nhưng vẫn đề cập đến sự ảnh
hưởng, qua lại với nền văn hóa Ấn. J. Boissilie với Nghệ thuật tạc tượng Champa - nghiên
cứu và sưu tầm về các Đạo giáo và tiếu tượng học đã phân tích khá rõ những đặc trưng của
tôn giáo Ấn trong nghệ thuật điêu khắc cổ Champa. Về lịch sử và văn hóa Phù Nam có các
tác phẩm như: Sử liệu Phù Nam của Lê Hương; Vương quốc Phù Nam của Giáo sư Lương
Ninh; Văn hóa Óc Eo những khám phá mới của Lê Xuân Diệm…Đây là những công trình đi
sâu vào tìm hiểu lịch sử và văn hóa của vương quốc cổ Phù Nam - một quốc gia nổi bật nhất
trong lịch sử khu vực (bảy thế kỉ đầu công nguyên) với vai trò là một trung tâm điểm giao
lưu văn hóa Đông - Tây, giữa Trung Hoa và Ấn Độ, Ấn Độ với các nước Đông Nam Á
khác. Đặc biệt những công trình nghiên cứu chuyên biệt của Giáo sư Lương Ninh, tập hợp
lại trong ấn phẩm gần đây nhất của Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm Hà Nội Một con đường
sử học, trong đó có những bài viết mang tính chuyên môn rất cao về sự ảnh hưởng của văn
hóa Ấn Độ xuống Đông Nam Á như : Nước Chí Tôn, một quốc gia cổ ở miền Tây sông Hậu,
Thần tích Hindu giáo và nghệ thuật tiếu tượng Hindu giáo ở Đông Nam Á, Những bông sen
vàng và giao lưu văn hóa Đông Nam Á. Luận văn cũng đã sử dụng kết quả khảo cổ học của
Tiến sĩ Lê Thị Liên với công trình Nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở đồng bằng Sông
Cửu Long trước thế kỷ X đã cung cấp những tư liệu quý giá về nghệ thuật và các kết quả
khảo cổ học về di tích nghệ thuật đầy đủ nhất và mới nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long, nơi
có nền văn hóa Óc Eo - một trung tâm văn hóa phát triển bậc nhất của vương quốc cổ Phù
Nam. Đây là một công trình tổng hợp các tư liệu về nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở
Đồng bằng sông Cửu Long dưới các khía cạnh loại hình, sự phân bố, số lượng các di vật và
mối liên hệ của chúng với các di tích, qua đó, tác giả đã nêu lên ý kiến về nghệ thuật Phật

giáo và Hindu giáo dưới các góc độ kĩ thuật chế tác, nghệ thuật thể hiện, nội dung, đặc trưng
và phong cách của các loại hình nghệ thuật cơ bản và ảnh hưởng qua lại với các nền nghệ
thuật khác đã cung cấp cho luận văn những thông tin hữu ích cho việc nghiên cứu về niên
đại, phong cách nghệ thuật của các di vật trong việc tìm hiểu về lịch sử và văn hóa của Óc
Eo nói riêng, Phù Nam nói chung.
Luận án Tiến sĩ của Hà Bích Liên với đề tài Quan hệ giữa vương quốc cổ Champa
với các nước trong khu vực đã dành hẳn một phần “các mối quan hệ đến từ biển” để bàn đến
sự ảnh hưởng qua lại giữa các vùng văn hóa trong khu vực trên nền tảng quan hệ với văn
hóa Ấn Độ những thế kỷ đầu công nguyên. Đặc biệt trong hội nghị quốc tế vào năm 1998
“Cuộc gặp gỡ nghiên cứu các khía cạnh văn hóa Ấn Độ - Việt Nam”, báo cáo với tiêu đề
Hindu style in the ancient Cham art - Sự ảnh hưởng của văn hóa Hindu trong nghệ thuật
Chăm cổ là một nghiên cứu chi tiết có liên quan đến đề tài này. Trong những bài viết của
Tiến Sĩ Ngô Văn Doanh có đề cập rất nhiều nghiên cứu về Champa, ông chính là bậc thầy
trong hầu hết những công trình nghiên cứu sâu về văn hóa Champa. Trong những công
trình đó, có công trình nghiên cứu với đề tài Ấn Độ và văn hóa Champa đã đăng trong
nghiên cứu Đông Nam Á số 4 năm 1994 đã trình bày rất chi tiết về quan hệ văn hóa giữa Ấn
Độ với Champa, cụ thể khái quát những nguyên nhân du nhập, những bằng chứng và những
lĩnh vực mà văn hóa Ấn Độ vào Champa và lý giải về cách tiếp nhận những yếu tố ảnh
hưởng của văn hóa Ấn Độ tại Champa. Tài liệu này có ảnh hưởng rất lớn đến luận văn trong
nghiên cứu quan hệ văn hóa Ấn Độ với Champa.
Với đề tài “Quan hệ văn hóa Ấn Độ - Đông Nam Á mười thế kỷ đầu công nguyên”,
luận văn mong muốn phần nào giải quyết những vấn đề còn tồn tại sau:
+ Tìm những con đường du nhập và lan tỏa của các yếu tố văn hóa đến từ Ấn Độ vào
khu vực Đông Nam Á trong mười thế kỷ đầu công nguyên, qua đó khái quát những con
đường, phương thức thâm nhập và phạm vi ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ ở Đông Nam Á.
+ Tìm hiểu sự giao lưu văn hóa giữa Ấn Độ và Đông Nam Á sơ kỳ, trực tiếp là sự
hiện diện của những yếu tố văn hóa Ấn Độ ở khu vực Đông Nam Á trong mười thế kỷ đầu
công nguyên, từ đó đánh giá vai trò của những yếu tố văn hóa ảnh hưởng từ Ấn Độ.
+ Rút ra nhận xét, đánh giá về những dấu ấn của một thời kỳ Hindu hóa trong nền
văn hóa các dân tộc Đông Nam Á ngày nay về tôn giáo, tín ngưỡng, văn tự, văn học, nghệ

thuật…
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
+ Những con đường du nhập và lan tỏa văn hóa từ Ấn Độ đến các quốc gia Đông
Nam Á trong khoảng mười thế kỷ đầu công nguyên.
+ Sự hiện diện của những yếu tố văn hóa Ấn Độ ở khu vực Đông Nam Á trong mười
thế kỷ đầu công nguyên.
+ Những dấu ấn của một thời kỳ Hindu hóa trong nền văn hóa các dân tộc Đông Nam
Á ngày nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài chủ yếu nghiên cứu quan hệ văn hóa Ấn Độ - Đông Nam Á trong giới hạn thời
gian ở thời kì sơ kỳ của lịch sử Đông Nam Á (hay nói cách khác trong khoảng mười thế kỷ
đầu công nguyên). Tuy nhiên, giới hạn thời gian này chỉ có tính chất tương đối. Và khái
niệm “Hindu hóa” dùng để chỉ tác động của văn hóa truyền thống cổ điển Ấn Độ (kéo dài sự
phát triển đến sau thế kỉ thứ X - tức thời kỳ Chola) và đó cũng là thời kì mà nó du nhập
mạnh mẽ xuống khu vực Đông Nam Á. Vì vậy, đến sau thế kỷ thứ X, quan hệ qua lại giữa
các nước Đông Nam Á cổ với Ấn Độ vẫn còn rất “nồng thắm”, và điều đó đã được phản ánh
rõ ở Champa với ảnh hưởng của Siva - Nararaja (thế kỉ X - XI), đô thị Pagan (thế kỉ XI -
XIII), hay Angkor Wat và Angkor Thom ở Campuchia (thế kỉ XII - XIII).
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về những yếu tố ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ (chủ
yếu về tín ngưỡng, tôn giáo, văn tự, văn học, nghệ thuật…) đến sự hình thành và phát triển
của một số quốc gia cổ Đông Nam Á: Phù Nam, Champa, Sri Vijaya, Angkor, Pagan,
Kalinga…
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp tiếp cận hệ thống: đặt quan hệ văn hóa Ấn Độ - Đông Nam Á trong
bối cảnh khu vực và thế giới thời cổ - trung đại. Đặt Ấn Độ trong quan hệ với khu vực Đông
Nam Á thời cổ - trung đại và trong hệ thống các nước ở khu vực thời sơ kì lịch sử. Phương
pháp tiếp cận hệ thống là cơ sở để xem xét các vấn đề trình bày trong luận văn.
5.2. Là một đề tài lịch sử, quan điểm khi nghiên cứu là tuân thủ phương pháp lịch sử,

bám sát các sự kiện lịch sử, nghiên cứu theo không gian và thời gian lịch sử, chân thực lịch
sử, trình bày lịch sử như nó từng có. Sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp
logic nhằm vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng vận động của vấn đề nghiên cứu.
5.3. Sử dụng kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học có liên quan như khảo cổ
học, dân tộc học.
6. Những đóng góp của luận văn
Trên cở sở tập hợp, lựa chọn, xử lý về căn bản nhiều nguồn tài liệu khác nhau, luận
văn tập trung mô tả một cách chân thực bức tranh tổng thể về mức độ, phương thức thâm
nhập, phạm vi ảnh hưởng và quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hóa giữa văn hóa Ấn Độ với
văn hóa các quốc gia Đông Nam Á trong giai đoạn sơ kỳ (mười thế kỷ đầu công nguyên).
Luận văn có thể cung cấp hệ thống thư mục cũng như các luận điểm cơ bản của các nhà
nghiên cứu từ đó góp phần bổ sung vào việc nghiên cứu giai đoạn lịch sử này một cách có
hệ thống hơn.
Không dừng lại ở việc hệ thống hóa các nguồn tư liệu và luận điểm cơ bản của các
nhà nghiên cứu, luận văn còn đi sâu phân tích, giải thích những con đường du nhập, lan tỏa
văn hóa và sự hiện diện của văn hóa Ấn Độ ở Đông Nam Á giai đoạn sơ kỳ. Trên cơ sở đó,
rút ra những nhận định, đánh giá tầm quan trọng và vai trò của văn hóa Ấn Độ đối với khu
vực Đông Nam Á và đặc biệt là cách tiếp nhận và những dấu ấn văn hóa của một thời kỳ
Hindu hóa ở các quốc gia Đông Nam Á ngày nay như thế nào.
Một điều không thể thiếu là luận văn đóng góp một nguồn tư liệu cần thiết để phục
vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu văn hóa Ấn Độ và quan trọng nhất là lịch sử
và văn hóa của các quốc gia Đông Nam Á sơ kỳ.
7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 144 trang. Phần nội dung chính là 120 trang, trong đó gồm phần mở
đầu 13 trang, kết luận 5 trang, tài liệu tham khảo 6 trang. Luận văn được chia làm 3 chương:
- Chương I: Những con đường lan tỏa của văn hóa Ấn Độ xuống Đông Nam Á.
- Chương II: Sự hiện diện của văn hóa Ấn Độ ở khu vực Đông Nam Á mười thế kỷ
đầu công nguyên.
- Chương III: Những dấu ấn của một thời kỳ Hindu hóa trong nền văn hóa các dân
tộc Đông Nam Á.


CHƯƠNG 1: NHỮNG CON ĐƯỜNG LAN TỎA CỦA VĂN HÓA
ẤN ĐỘ XUỐNG ĐÔNG NAM Á

1.1. Bức tranh tổng thể của lịch sử khu vực Đông Nam Á mười thế kỷ đầu công
nguyên
Đông Nam Á là khu vực khá rộng, trải ra trên một phần trái đất vào khoảng 92P
0
P kinh
đông đến 140
P
0
P kinh đông, từ khoảng 28P
0
P vĩ bắc, chạy qua xích đạo đến 15P
0
P vĩ nam.
Do điều kiện địa lí của mình, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa, vì
thế, khu vực này được gọi là khu vực “Châu Á gió mùa”. Trước đây, có những nhận thức
khác nhau về tính khu vực của Đông Nam Á, thoạt đầu, nhận thức bắt nguồn từ bên ngoài
Đông Nam Á rồi mới đến chính các nước trong khu vực nhưng những nhận thức đó còn
phiến diện, đôi khi lệch lạc và chưa thể đầy đủ. Nếu như trước đây, người ta còn nhấn mạnh
đến những yếu tố “ngoại lai” trong quá trình phát triển lịch sử của các quốc gia Đông Nam
Á, thì đến nay, người ta đã có những nhận định đúng đắn hơn về lịch sử khu vực rằng trước
khi tiếp xúc với các nền văn minh từ bên ngoài, cư dân Đông Nam Á đã có một đời sống
văn hóa khá cao, nhiều người đã khẳng định rằng, ít nhất cho đến thế kỷ XVI, “Đông Nam
Á đã nổi lên như một trung tâm văn minh, một khu vực địa lí - lịch sử - văn hóa trước khi
trở thành một khu vực địa lí - chính trị”.[4,tr.22]. Đương nhiên, trong quá trình phát triển
lịch sử, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của các nền văn minh bên ngoài, song sự tác động ấy
không vì thế mà biến vùng này thành khu vực “Ấn Độ hóa” hay “Hán hóa” mà nó đã “lựa

chọn những gì thích hợp trong thế giới Đraviđa, đồng thời phục tùng các đặc điểm của mình
chứ không phải tiếp thu tất cả những gì xa lạ với họ”[14].
Vào những thế kỉ tiếp giáp công nguyên, trên cơ sở phát triển của đồ đồng, đồ sắt bắt
đầu được sử dụng phổ biến ở Đông Nam Á. Với đồ sắt phát triển, các dân tộc Đông Nam Á
nói chung bắt đầu đứng trước ngưỡng cửa của một xã hội có giai cấp và nhà nước. Từ
khoảng đầu công nguyên đến thế kỷ thứ VII là giai đoạn sơ kỳ của các nước ở khu vực
Đông Nam Á, của các tiểu quốc của những cư dân nói tiếng Nam Đảo hình thành rải rác ở
vùng ven biển từ phía nam Hải Vân (Việt Nam) đến bán đảo Malaixia và trên một số hải
đảo, còn các tiểu quốc của những cư dân nói tiếng Môn - Khmer hình thành trên lưu vực
sông Iwaradi, Menam, Semun, Mekong…Những cư dân phát triển ở ven biển, eo biển, cửa
biển, cửa sông đã chủ động mở cửa tiếp xúc giao lưu với văn hóa bên ngoài. Vì vậy, có thể
thấy ngay rằng, người Ấn Độ khi đến Đông Nam Á không phải tiếp xúc với những gì man ri
cần được khai hóa mà họ đã được tiếp xúc với một xã hội có một trình độ văn minh nhất
định.
Sự hình thành quốc gia này còn gắn liền với việc tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa Ấn
Độ và Trung Hoa là những trung tâm văn hóa lớn ở liền bên cạnh. Những ảnh hưởng này
khá toàn diện và sâu sắc cả về chữ viết, văn chương, tôn giáo và nghệ thuật kiến trúc, điêu
khắc. Hơn nữa, giữa các tiểu quốc với nhau vẫn thường xuyên có mối liên hệ, trao đổi văn
hóa và sản phẩm, đồng thời vẫn phát triển bản sắc văn hóa riêng của mỗi tiểu quốc, mỗi tộc
người.
Chính nhờ sự giao lưu tiếp biến văn hóa nói trên mà từ những khoảng đầu công
nguyên đến thế kỉ thứ VII, hàng loạt các quốc gia sơ kì đã được hình thành và phát triển ở
khu vực phía Nam của Đông Nam Á lục địa. Các vương quốc cổ này thoạt đầu chỉ là những
địa điểm quần cư, hoặc đã là nhà nước thực sự được nói tới trong thư tịch cổ hay trong bia
ký. Nhưng dù trong trường hợp nào thì cho đến nay người ta cũng chỉ biết được tên gọi của
các vương quốc này mà thông thường đó là tên gọi của kinh đô hoặc của vùng trung tâm mà
thôi. Đã có tới khoảng 30 vương quốc như thế được hình thành rải rác ở khu vực Đông Nam
Á, đó là vương quốc Champa ở vùng Nam trung bộ Việt Nam, Bhavapura (Semun -
Khorat), Naravara ở vùng Óc Eo, An Giang và vương quốc Phù Nam ở Nam bộ Việt Nam.
Trên lưu vực sông Mênam và Irawađi vào những thế kỉ đầu công nguyên là địa bàn

sinh sống chủ yếu của người Môn, có thể trong thời gian bành trướng của Phù Nam, vùng
hạ lưu Mênam cùng với một số địa điểm quần cư của người Môn đã bị lệ thuộc vương quốc
này. Thư tịch cổ Trung Hoa nói tới một trong số những nước phụ thuộc ấy tên là nước Xích
Thổ. Nhiều nhà nghiên cứu đoán định Xích Thổ là một “nước” của người Môn ở hạ lưu
Mênam. Vào nữa sau thế kỉ VII và thế kỉ VIII, ở vùng này còn xuất hiện một vương quốc
khác của người Môn đó là Dvaravati. Các tài liệu không nói gì về vị trí của vương quốc này
nhưng một tấm bia tìm được ở Laburi đã cho phép đoán định Dvaravati nằm ở vùng hạ lưu
sông Mênam sau đó một bộ phận hoàng tộc của Dvaravati đã chuyển lên phía Bắc, tham gia
xây dựng một quốc gia Môn khác là Haripunjaya, vương quốc này còn tồn tại đến thế kỷ
XIII.
Lưu vực sông Irawađi là địa bàn cư trú của người Môn, Pyu và Miến. Từ thế kỉ V, ở
khu vực này đã xuất hiện những điểm quần cư - trung tâm Phật giáo ở Thatơn và Prome.
Đến thế kỉ VII và VIII, các nhà sư Trung Hoa như Nghĩa Tĩnh và Huyền Trang có nói tới
một vương quốc Sri - Ksetra của người Pyu ở vùng Prome. Đầu thế kỉ IX, ở vùng cửa sông
Irawađi lại xuất hiện hai vương quốc khác của người Môn là Thatơn và Pêgu.
Trên bán đảo Mã Lai, các vương quốc cổ đã xuất hiện từ khoảng thế kỉ II - III. Đó là
các nước Kêda hay còn gọi là Katahe ở vùng Keđăc, nước Tambralinga (ở phía Bắc
Lankasutra) và nước Tumasic ở địa điểm Singapore ngày nay.
Cuối cùng trên đảo Java từ thế kỉ IV đã xuất hiện vương quốc Taruma ở phía Tây.
Tại đây, người ta đã tìm được những trụ đá và một số tượng phật có niên đại rất sớm thuộc
phong cách tượng Amaravati của người Ấn. Đặc biệt, người ta còn tìm được một số bản chữ
Phạn cho biết tên ông vua đầu tiên của Taruma là Punavarman trị vì vào khoảng năm 450.
Taruma đã có quan hệ buôn bán với nhiều nước, trong đó chủ yếu là Ấn Độ và Trung Quốc.
Tân Đường thư cho biết vương quốc Taruma đã tồn tại và có quan hệ buôn bán với Trung
Quốc cho mãi tới thế kỉ VII. Cùng thời gian này, ở đảo Sumatra cùng tồn tại một quốc gia
khác, mà Lương thư gọi là Cantôli. Còn ở vùng Jambbi thuộc hạ lưu sông Hari ngày nay lại
hình thành một quốc gia khác có tên là Malayu.
Trong số hàng chục tiểu quốc đã xuất hiện ở Đông Nam Á trong khoảng từ thế kỉ I
đến thế kỉ VII, nổi bật lên nước Phù Nam với vai trò tiếp thu và truyền bá văn hóa Ấn Độ.
Về vị trí của Phù Nam, Lương thư chép như sau: “Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật

Nam, trong một vịnh lớn ở phía Tây cửa biển, cách nước Nhật Nam chừng 7000 lí và cách
Lâm Ấp (tức Champa) hơn 3000 lí về phía Tây Nam. Đô thành cách biển 500 lí. Một con
sông lớn từ Tây Bắc chảy về phía Đông và đổ ra biển. Nước rộng hơn 300 lí, đất thấp và
bằng phẳng, phong tục tập quán đại để giống Lâm Ấp” [39, tr.240]. Những thông báo mơ hồ
về thư tịch cổ làm cho nhiều người đoán định rất khác nhau về phạm vi lãnh thổ của Phù
Nam. Theo Giáo sư Lương Ninh “lãnh thổ thuộc quyền cai quản của vương quốc Phù Nam,
phía Nam giáp vịnh Thái Lan, phía Bắc có lẽ giới hạn bởi sông Mun (chảy qua U-bon, Thái
Lan), phía Đông giáp biển Đông và phía Tây có lẽ bao gồm hạ lưu sông Mênam và một
phần bắc bán đảo Mã Lai” [37, tr.73].
Khi nghiên cứu về Phù Nam, nhiều học giả cho rằng “chủ nhân của vương quốc này
là cư dân gốc Đông Nam Á nói tiếng Nam đảo” [39]. Họ đã xây dựng vương quốc của mình
tồn tại hơn 5 thế kỉ và đã có lúc chinh phục được hầu hết các tiểu quốc ở phía Nam bán đảo
Trung Ấn. Nhưng nước Phù Nam không phải là một quốc gia thống nhất chặt chẽ với đúng
nghĩa của nó, trong đó có thể bao gồm nhiều tiểu quốc phụ thuộc với nhiều mức độ khác
nhau. Nhờ những điều kiện sinh sống thuận lợi và nhờ tiếp xúc với văn minh Ấn Độ qua vai
trò xúc tác của Phù Nam, các tiểu vương quốc này đã dần mạnh lên. Phù Nam khủng hoảng
vào thế kỉ thứ VI, lãnh thổ rộng lớn của nó “mọc” lên hàng loạt vương quốc độc lập khác.
Quá trình này diễn ra từ khoảng thế kỉ thứ VII đến thế kỉ X. Đó là giai đoạn các nước nhỏ
hình thành theo khu vực tự nhiên hợp nhất lại, lấy một tộc đa số và phát triển nhất làm nồng
cốt, hình thành nên các quốc gia “dân tộc” làm đà cho sự phát triển cực thịnh vào giai đoạn
sau.
Trong khi Phù Nam khủng hoảng thì Chân Lạp ở lưu vực Sêmun đã mạnh lên, đem
quân đánh bại Phù Nam (khoảng 580 - 640) và chinh phục lại vương quốc này. Vương quốc
mới này được thư tịch cổ Trung Hoa gọi là Chenla - tức Chân Lạp. Theo Tùy thư, “ Nước
Chân Lạp nằm ở phía Tây Nam nước Lâm Ấp, vốn là thuộc quốc của Phù Nam…Vua có họ
là Kshatrya, tên là Chitrasena. Các vua tiền bối đã làm cho nước lớn mạnh, Chitrasena đã
chiếm và bắt Phù Nam thuần phục”[39, tr.245-246].
Ở đảo Sumatra đến cuối thế kỉ thứ VIII đã thành lập vương quốc Sri Vijaya, bao gồm
cả vùng Đông đảo Sumatra và Bangka. Đến thế kỉ VIII Sri Vijaya đã bành trướng hết phần
Tây đảo Sumatra, sang cả Mã Lai, đến tận Ligo (Bắc Mã Lai), nơi tìm thấy bia, đánh chiếm

vương quốc Taruma ở Tây Java.
Trên đảo Java hình thành quốc gia Kalinga ở vùng đồng bằng Kêđu mà trung tâm của
nó có lẽ ở khoảng Jakarta ngày nay. Thế kỉ VIII, Kalinga chinh phục đảo Pali và cả
Campuchia.
Những vương quốc sơ kì nằm rải rác trên bản đồ khu vực mà không có đường biên
giới rõ ràng, chiến tranh dường như chưa xảy ra, đất đai nhiều hoang vu, thú dữ và sự bí ẩn
vẫn còn ngự trị, những hiện tượng không thể giải thích được về một xã hội sơ khai dễ chấp
nhận một nền văn hóa siêu linh và bí ẩn của Ấn Độ. Trong tiềm thức của người Ấn Độ cổ
xưa, Đông Nam Á hiện lên như một miền đất vàng đã mang lại sự sung túc cho những ai từ
đó trở về, phải chăng, điều đó đã tạo ra sự cuốn hút rất lớn cho những thương nhân Ấn Độ
giương buồm ra khơi mỗi khi có điều kiện, trong những năm đầu công nguyên, cùng với sự
cập bến thường xuyên của những đoàn thuyền thương nhân Ấn Độ, ở khu vực Châu Á gió
mùa đã diễn ra quá trình tiếp thu văn hóa mà sau này G.Coedes đã gọi bằng thuật ngữ “Ấn
Độ hóa”. Thuật ngữ “Ấn Độ hóa” mang ý nghĩa rộng, bao gồm những yếu tố ảnh hưởng từ
nền văn hóa cổ điển hay văn hóa truyền thống của Ấn Độ mà cơ sở của nó là Hindu giáo và
văn hóa Hindu. Nói một cách khác văn hóa Hindu là linh hồn của văn hóa truyền thống Ấn
Độ, nó ảnh hưởng sâu sắc đến cả văn hóa phật giáo. Do đó, thời kì ra đời của các vương
quốc sơ kì Đông Nam Á là nhận sự ảnh hưởng của văn hóa truyền thống Ấn Độ.
Hơn nữa, khi xem xét quá trình tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ tại các nước
Đông Nam Á sâu sắc đến mức có học giả còn gọi đây là thời kì “Hindu hóa”. Bàn về vấn đề
này, một số nhà nghiên cứu cho rằng việc lập nước ở đây nằm trong làn sóng lan tỏa của
văn hóa Ấn Độ xuống phía Nam mà kết quả là hình thành một “Ấn Độ bên ngoài”, “Ấn Độ
rộng lớn”, “Đại Ấn Độ”, “Thế giới Ấn Độ hóa” hay “Hindu hóa”.
Về ảnh hưởng này, G.Coedes đã dành hẳn chương II trong công trình Cổ sử các quốc
gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông, Ông đã đưa ra một định nghĩa phù hợp về “Ấn Độ hóa” được
thể hiện ở Đông Nam Á là “sự lan tỏa của một nền văn hóa có tổ chức, dựa trên quan niệm
Hindu về vương quyền, được xác định đặc trưng bằng sự tôn thờ Hindu giáo và Phật giáo,
hệ thần thoại Purânas, tin theo Dharmasâstras (Đạo Pháp) và lấy Sanskrit (Phạn ngữ) làm
phương tiện diễn đạt”[7]. Theo định nghĩa này, G.Coedes đã đưa ra 4 nhân tố: (a) quan niệm
về địa vị và quyền hành của nhà vua được đặc trưng bởi tục thờ cúng theo đạo Hindu hay

đạo Phật, (b) biểu đạt văn chương bằng phương tiện chữ Phạn, (c) một thần thoại lấy từ
Ramayana và Mahabharata, Puranas và các văn bản chữ Phạn khác chứa đựng một hạt nhân
của truyền thống hoàng tộc và những phả hệ truyền thống của các hoàng gia thuộc khu vực
sông Hằng, và (d) sự tuân thủ Dharmasastra, luật thiêng liêng của đạo Hindu và đặc biệt là
Manava Dharmasastra tức “Những luật của Manu”[18, tr 41].
Chính Ông cũng cho rằng, chính người Ấn Độ đã không hề tiến hành một cuộc chinh
phục bằng quân sự nhằm thôn tính một quốc gia nào, rằng ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ chỉ
như một lớp Vecni phủ trên một nền văn hóa chung của “Châu Á gió mùa”, trong đó, mỗi
vùng, mỗi quốc gia đã không bị mất đi tính cách riêng, độc đáo của mình.
Tuy nhiên, nhấn mạnh ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ, Ông đã đưa ra một tên
gọi cho khu vực là “Ấn Độ bên ngoài” ý muốn nói về một Ấn Độ ở bên ngoài Ấn Độ chính
tông, cũng như có tác giả sau đó ít lâu gọi là một nước “Ấn Độ rộng lớn hơn”.
Ý kiến của D.G.E.Hall về “những nền văn hóa bản địa có đặc tính riêng hết sức rõ
nét” của Đông Nam Á và “các nền văn hóa này đều phát triển theo hướng riêng biệt rõ nét”
của mình có ý phản đối mọi cách gọi “Ấn Độ bên ngoài”, “Ấn Độ rộng lớn hơn”, “Đại Ấn
Độ”, “Thế giới Ấn Độ hóa” hay “Hindu hóa” có ý hạ thấp cái cốt cách riêng của Đông Nam
Á[18].
Mặc dù thế, gần đây, O.W.Wolter (1982) cũng phản đối cả D.G.E.Hall và G.Coedès
vì vẫn trình bày Đông Nam Á là một khu vực, một khối thống nhất mà không thấy tính đa
dạng, phân tán của Đông Nam Á.
Vai trò của văn hóa Ấn Độ dù có quan trọng đến đâu cũng chỉ là “sự tiếp thêm sức
vào sự phát triển tự nhiên đã đi gần tới”. Và có một điều không thể phủ nhận rằng cư dân
văn hóa Đông Nam Á tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ theo hướng lựa chọn
và thích ứng, biết dung hợp với những yếu tố văn hóa bản địa tạo nên nhiều sắc thái văn hóa
đa dạng song không mất đi bản sắc địa phương. Điều này rất đúng với nhận xét của Giáo sư
Lương Ninh: “Hình như mỗi nước Đông Nam Á đã chọn trong cây cổ thụ xum xuê của Ấn
Độ một vài cành lá thích hợp với mình”[32,tr.26].
1.2. Những con đường du nhập
Văn hóa Ấn Độ đã du nhập vào Đông Nam Á bằng những phương thức nào?
Người Ấn Độ đến với Đông Nam Á chủ yếu bằng đường biển, trên những hải trình

đầy nguy hiểm giữa biển cả mênh mông bốn bề sóng vỗ, người Ấn Độ đã tìm thấy niềm tin
từ đức Phật Dipankara có sức mạnh làm yên sóng gió. Nằm án ngữ vị trí quan trọng trên
con đường tơ lụa trên biển, Đông Nam Á hấp dẫn với các thương nhân Ấn Độ bởi nơi đây
chính là xứ sở của hương liệu, của gỗ thơm nhưng hấp dẫn nhất vẫn là những hạt cát vùng
Nam Dương chở đầy vàng chảy vào những triền núi hay những dòng sông. Người Ấn Độ đã
khéo léo tạo lập những cơ sở đặt chân trên vùng đất mới bằng bức màn phù phép, bằng vẻ
giàu có và những cuộc hôn nhân với con gái của các thủ lĩnh, từ những người phụ nữ này
mà văn hóa, đức tin được lan tỏa sâu rộng trong dân chúng, từ đó đã thu hẹp khoảng cách
giữa những người bản xứ với những người khách lạ.
Chính người Ấn Độ đã biết đến Đông Nam Á từ rất sớm. Nhiều thế kỷ trước khi
Khang Thái và Chu Ứng nhà Ngô đến nước Phù Nam và những ghi chép của các biên niên
sử nhà Hán (Trung Quốc), về nước Lâm Ấp…sử thi Ramayana của Ấn Độ đã nói tới xứ
Java và Sumatra. Trong cuốn sách Arthasastra (khảo cứu về tổ chức chính trị và hành
chính) của Kaudilya, vị thượng thư của Vua Chandragupta (cuối TK IV đầu TK III TCN) có
đoạn khuyên nhà vua chiếm đoạt đất đai của các vương quốc khác hoặc di dân quá đông của
mình tới đó. Các tập Jakata (bổn sinh kinh) của Phật giáo, sử thi Ramayana và đặc biệt cuốn
Niddơsa có ghi lại những lời tường thuật của những người đi biển Ấn Độ, có nhắc tới các
địa danh như Java, Sumatra, Suvannabhumi (xứ vàng)…ở Đông Nam Á. Tài liệu thời muộn
hơn Sasanavamsaappadipika cũng cho biết Asoka (thế kỷ III TCN) đã cử tới 3 đoàn truyền
giáo do các vị cao tăng Gavampti, Sona và Uttara đi truyền bá Phật giáo đến xứ đất vàng
(Suvannabhumi) tức Thatơn và vùng Nam sông Sittang (Myanmar).
Vậy, nguyên nhân nào đã khiến người Ấn Độ vượt biển tới các vùng đất ở Đông
Nam Á?
1.2.1. Con đường thương mại
Các nguyên nhân thì có nhiều, nhưng các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng yếu
tố thương mại là nguyên nhân chủ yếu khiến người Ấn Độ, vào những thế kỷ đầu công
nguyên, đã tìm đường vượt biển tới Đông Nam Á. Các nguồn tư liệu khác nhau cho biết
nguồn hương liệu, gỗ trầm, các loại dầu thơm (long não, cánh kiến trắng)…vô cùng phong
phú ở Đông Nam Á đã thu hút các thương nhân Ấn Độ đến đây. Thế nhưng, những sức hấp
dẫn nói trên chưa mạnh bằng sức hút của vàng ở Đông Nam Á đối với người Ấn Độ đã bị

mất nguồn mua vàng ở Xibêri và Trung Á vào các thế kỷ trước và sau công nguyên. Một
loạt các địa danh của Đông Nam Á đã được ghi lại bằng chữ Phạn như Takhola (chợ Bạch
đầu khấu), Karguradvipa (đảo long não), Narikeladvipa (đảo dừa), Karakapuri (thành phố
vàng), Suvarnadhumi hay Suvarnadvipa (xứ vàng)… Chính “xứ trầm hương” của Champa
là một trong những nơi ở Đông Nam Á trở thành sức hút sớm nhất đối với các thương nhân
Ấn Độ.
Các sử liệu Trung Quốc cho biết, từ xưa, lãnh thổ thuộc vương quốc Champa - miền
Trung và Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay - đã nổi tiếng về nhiều sản vật. Nơi đó “bốn
mùa ấm áp”, “cây cỏ mùa đông tươi tốt, bốn mùa đều ăn rau sống” (theo Cựu Đường Thư
quyển 197,1b) “có đồi mồi, vỏ bối, ngà voi, cổ bối, gỗ trầm” (Nam sử q78,1b). Đặc biệt,
Champa từ xưa nổi tiếng là “xứ trầm”mà người ta phải mua gỗ trầm bằng lượng vàng nặng
tương đương” (Thủy kinh chú). Cùng với trầm hương, ở Champa còn có “thứ quế thơm, cây
mọc thành rừng” (Thủy kinh chú). Ngoài những hương liệu trên, sử liệu Trung Quốc còn
nói tới vàng của Champa, “Nước đó có núi vàng, đá đều màu đỏ, trong đó sinh ra vàng,
vàng ban đêm bay ra giống như đom đóm” (Lương Thư q.54,2a).
Không chỉ giàu có về vàng, hương liệu, đặc biệt là trầm hương mà các nhà buôn gọi
là canfi được đánh giá là tốt nhất trên thế giới (theo lời ghi chép vào năm 875 - 880 của nhà
sử học Ba Tư tên là Ibn Abei Yak Kub) mà Champa xưa còn là nơi có nhiều hải cảng mang
tính quốc tế quan trọng. Theo sử liệu Trung Quốc (Tân Đường thư, Địa lý chí) vào những
thế kỷ VII - X trên con đường biển từ Quảng Châu (Trung Quốc) đến Bagdad (Ả rập),
thuyền bè Trung Quốc, Ba Tư, Ả Rập, Sri Vijaya…bao giờ cũng ghé qua Chiêm Bất Lao
(Cù Lao Chàm), Lăng Sơn Môn Độc (Quy Nhơn), Cổ Bát Quốc (Kauthara - tức Nha Trang
hiện nay), Bôn Đà Lăng Châu (Panduranga - Phan Rang và Phan Thiết hiện nay).
Chính vì sức hấp dẫn kể trên mà vào những thế kỷ tiếp giáp công nguyên, thuyền bè
của người Ấn, người Hoa đã thường xuyên có mặt ở vùng biển Đông Nam Á. Nhưng nơi
đây chưa phải là con đường giao thương lúc bấy giờ nếu người ta muốn đi từ Trung Quốc
sang Ấn Độ - vào thế giới phương Tây hay ngược lại. Người Hoa và các lái buôn thuộc
nhiều “màu cờ sắc áo” khác nhau đã thiết lập “con đường tơ lụa” trên bộ nổi tiếng từ Đông
sang Tây con đường dài 7000km với điều kiện lúc bấy giờ hàng hóa vận chuyển được rất ít
nên tới được tay người tiêu dùng hàng hóa trở nên rất đắc đỏ. Những hạn chế ít nhiều của

con đường tơ lụa trên bộ đã dẫn đến sự xuất hiện của con đường tơ lụa mới “con đường tơ
lụa trên biển”. Và từ đây, những địa chỉ thương mại của khu vực Đông Nam Á đã ra đời.
Chính con đường tơ lụa từ Trung Hoa đến các nước Tây Á phát triển từ thời Hán đã
bộc lộ nhiều nhược điểm nên các thương nhân Ấn Độ đã sử dụng các thuyền buôn của mình
để đến Trung Hoa bằng cách băng qua các eo biển Đông Nam Á. Đây là kết quả của các
thương nhân Ấn Độ muốn tìm cách tạo ra con đường tắt để đến thị trường tơ lụa Trung Hoa.
Xuất phát từ một cảng ở gần cửa sông Hằng, họ men theo bờ biển thuộc vịnh Bengal, sau
đó, họ đặt chân đến bán đảo Malaya là eo đất Kra - một eo đất hẹp, rộng khoảng 35 dặm.
Sau đó, hàng hóa và hành khách sẽ vận chuyển qua eo đất này, phía bên kia eo Kra, thuyền
bè đang chờ họ và chở họ dọc theo Vịnh Thái Lan để đến Phù Nam. Họ dừng lại ở đây một
khoảng thời gian nhất định rồi tiếp tục hành trình đến Trung Hoa.
Hành trình ngược lại của tơ lụa và hàng hóa là: Trung Hoa → Phù Nam → Eo Kra →
Nam Ấn Độ. Sau đó, hàng hóa sẽ được vận chuyển đến Châu Âu, con đường này mặc dù
vẫn còn một số hạn chế như phải vận chuyển hàng hóa qua eo Kra, phải dừng ở eo Phù Nam
nhưng nó vẫn tối ưu hơn con đường tơ lụa trên bộ vì vận chuyển được nhiều hàng hóa hơn.
Việc vận chuyển hàng hóa qua eo Kra gặp không ít khó khăn, nhưng do điều kiện kỹ thuật
lúc bấy giờ các con thuyền không thể xuôi xuống cực nam bán đảo Malaya để vượt qua eo
Malacca đến Thái Lan và do vậy, họ đã chọn con đường băng qua eo Kra và men theo vịnh
Thái Lan để đến Phù Nam. Điều này lý giải tại sao Phù Nam trở thành một trung tâm buôn
bán của khu vực trong những thế kỷ đầu công nguyên. Do là cảng cuối cùng trước khi vào
biển Đông nên hàng hóa ở các cảng thuộc bán đảo Malaya dồn hết về Óc Eo làm cho nơi
đây trở thành một chợ đầu mối lớn trong khu vực.
Trên con đường hành trình đó, Phù Nam chiếm một vị trí trung độ, nơi mà các con
thuyền ghé vào nghỉ ngơi và tiếp lương thực. Do đó, nơi đây có cơ hội đầu tiên tiếp xúc với
văn hóa Ấn Độ. Và cũng nhờ vị trí ấy mà Phù Nam trở thành một quốc gia phát triển nhất
khu vực giai đọan sơ kì. Sự hấp dẫn của tơ lụa Trung Hoa đã khiến cho nhiều thương nhân
muốn đặt chân đến đất nước này, mà con đường duy nhất là phải tạt qua Phù Nam thậm chí
còn phải ở lại một thời gian để đợi gió mùa. Thế kỉ thứ I đến thế kỉ VII là khoảng thời gian
đánh dấu sự phát triển của Phù Nam, trong đó, thương mại đóng vai trò quan trọng với trung
tâm là đô thị cảng Óc Eo. Nhờ vào vị trí địa lý, Óc Eo - Phù Nam đã thu hút những con

thuyền gần xa cập bến, nhiều luồng buôn bán trên biển theo đó mà trôi dạt về. Từ một đầu
mối giao thông trên biển, nơi đến - đi - rẽ vào - tạt qua, Óc Eo - Phù Nam trở thành một đầu
mối giao thông, một trung tâm thương mại cổ của khu vực Đông Nam Á, nơi thể hiện tập
trung nhất sự phát triển của thương mại khu vực trong những thế kỉ đầu công nguyên.
1.2.2. Thông qua hoạt động truyền giáo
Các cuộc tiếp xúc thương mại là không đủ để truyền bá văn minh cao hơn của một
dân tộc này cho một dân tộc khác. Nếu nhà buôn đóng vai trò truyền bá văn hóa thì trung
tâm ban đầu phải là những khu buôn bán ven biển nhưng những gì tìm được cho thấy rằng
bên cạnh hoạt động thương mại thì theo những đoàn thuyền buôn là những nhà truyền giáo
truyền bá một cách tự nguyện hay có sự chỉ đạo từ phía các ông hoàng trên đất Ấn, hai tôn
giáo có ảnh hưởng sâu rộng là Phật giáo và Bàlamôn giáo.
Thời gian Phật giáo được truyền bá vào Đông Nam Á cho đến nay vẫn chưa xác định
chính xác nhưng chắc rằng rất sớm. Lịch sử ghi nhận nhiều cuộc truyền giáo lớn ra bên
ngoài Ấn Độ kể từ sau khi Đức Phật viên tịch trong đó nổi bật nhất là những cuộc truyền
giáo do vua Asoka (273-237 TCN) vị vua hùng mạnh nhất của vương triều Môrya phát động
sau khi từ bỏ chiến tranh và giác ngộ tư tưởng Ahimsa (không sát sinh). Theo tài liệu cổ Xri
Lanca - cuốn Maha Vamsa và bút tích số 13 của vua Asôka thì sau khi định đô ở Pataliputra
và tổ chức thành công đại hội Phật giáo họp năm 242 TCN, Asôka không đưa những đoàn
quân viễn chinh mà đã phái 9 đoàn thuyền truyền giáo ra nước ngoài trong đó có một đoàn
gồm 3 cao tăng đã đến vùng đất vàng (Suvarnabhumi).
Ngoài những cuộc truyền giáo lớn được tiến hành có tổ chức theo mệnh lệnh của các
vị vua, chúng ta còn ghi nhận rất nhiều công sức của các nhà sư đi truyền đạo với danh
nghĩa cá nhân. Họ thường thâm nhập vào tầng lớp bình dân, hòa nhập với cuộc sống của cư
dân nơi họ đến để rồi dần dần giáo hóa theo tôn giáo của mình. Nhiều khi những cuộc
truyền giáo như thế này lại có tác dụng rất lớn và nó dần trở thành cách thức truyền đạo phổ
biến của các tăng lữ Phật giáo sau này khi mà đạo Bàlamôn mạnh lên lấn áp đạo Phật trong
đời sống tâm linh của cư dân trên bán đảo Ấn.
Đạo Bàlamôn cũng được truyền bá vào Đông Nam Á rất sớm. Cách thức truyền bá
của Bàlamôn lại không giống như Phật giáo. Ở Phật giáo, nếu như cách thức truyền bá với
danh nghĩa cá nhân và đối tượng tập trung chủ yếu vào tầng lớp bình dân ngày càng chiếm

ưu thế thì Bàlamôn giáo lại trái hẳn. Nó gắn chặt với vương quyền như một thể thống nhất.
Tăng lữ Bàlamôn thường được triều đình các nước trong khu vực mời đến và do vậy đối
tượng truyền bá sẽ là bộ phận quý tộc, quan lại. Bàlamôn giáo từ đó sẽ tỏa ra khỏi phạm vi
cung đình đi vào đời sống dân chúng. Ngoài ra, những đạo sĩ Bàlamôn vượt qua cấm đoán

×