Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Điều kiện hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.93 KB, 42 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KHÁCH SẠN - DU LỊCH
----------------------

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN
Đề tài : “Điều kiện hình thành và phát triển thị trường chứng
khốn Việt Nam”

Giáo viên hướng dẫn: Đặng Thị Lan Phương

Hà Nội, 2022


MỤC LỤC



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TTCK

Thị trường chứng khoán

KDCK

Kinh doanh chứng khốn

CTCK

Cơng ty chứng khốn



NHTM

Ngân hàng thương mại

NĐT

Nhà đầu tư

UBCKNN

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước

SGDCK

Sở Giao dịch Chứng khoán

TTCKPS

Thị trường chứng khốn phái sinh

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

CNTT

Cơng nghệ thơng tin

TTGDCK


Trung tâm giao dịch chứng khoán

4


LỜI MỞ ĐẦU
Hình thành và phát triển một chiều dài lịch sử trên 400 năm, TTCK là một
thực thể tài chính tồn tại phổ biến trong hầu hết ở các quốc gia trên thế giới. Ở
Việt Nam, trong bước chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, dù mới mẻ và hết sức
phức tạp, vấn đề xây dựng TTCK đã và đang thu hút sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều nhà kinh tế. Đến nay, theo nhận định của các nhà kinh tế, không cịn
nghi ngờ gì nữa, TTCK là “chiếc chìa khóa vàng” giúp giải quyết 1 cách hữu
hiệu vấn đề huy động vốn cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước. TTCK là một hoạt động phát triển mạnh ở hầu hết các nước có cơ chế thị
trường, là nơi huy động đồng tiền nhàn rỗi của mọi người trong xã hội phục vụ
nhu cầu vốn dài hạn của các doanh nghiệp. Nền kinh tế của Việt Nam đã tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến sâu vào nền kinh tế thị trường, từng bước hội nhập nền
kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Vậy TTCK Việt Nam cần có những điều
kiện hình thành và phát triển như thế nào? Vì vậy để làm rõ vấn đề này, nhóm 4
chúng em đã lựa chọn đề tài: “Điều kiện hình thành và phát triển TTCK Việt
Nam” để có cái nhìn tổng quan nhất về TTCK Việt Nam.

5


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ CHUNG VỀ TTCK
1.1. Khái niệm và đặc điểm về TTCK
1.1.1. Khái niệm

TTCK là nơi diễn ra các hoạt động phát hành, giao dịch mua bán chứng
khoán.
1.1.2. Đặc điểm
- Hàng hóa là các loại chứng khốn. Do chứng khốn là những cơng cụ
chuyển tải giá trị nên người ta chỉ quan tâm chứng khốn đó là thật hay giả, khả
năng sinh lời và tiềm ẩn rủi ro như thế nào, khả năng thanh khoản ra sao. Việc
phát hành và giao dịch chứng khốn nhằm mục đích huy động các nguồn vốn
nhàn rỗi cho đầu tư, đồng thời thực hiện việc chuyển dịch các dòng tiết kiệm và
đầu tư nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.
- Được đặc trưng bởi những định chế tài chính trực tiếp. Những người
có khả năng cung ứng vốn có thể điều tiết chuyển vốn trực tiếp cho người cần
vốn mà không cần thơng qua các trung gian tài chính, với tư cách là một chủ
thể riêng biệt, độc lập thực hiện huy động vốn để phân phối vốn nhằm đạt được
những lợi ích riêng.
- Hoạt động mua bán thông qua người môi giới. Để bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho NĐT, đảm bảo TTCK hoạt động đúng pháp luật, công bằng
công khai và hiệu quả, luật pháp các nước thường quy định hoạt động mua bán
chứng khốn trên các thị trường có tổ chức phải thơng qua các trung gian, đó là
những nhà mơi giới chứng khốn đã được cấp phép là thành viên giao dịch của
thị trường đó.
6

- TTCK gần với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tất cả mọi người đều
được tự do tham gia mua và bán theo nguyên tắc hoạt động của thị trường,
khơng có sự áp đặt giá cả.


- Về cơ bản là thị trường liên tục. Những người đầu tư có thể chuyển các
chứng khốn của họ nắm giữ thành tiền bất cứ lúc nào.
1.1.3. Các chủ thể tham gia trên TTCK

Tham gia TTCK Bao gồm nhiều chủ thể khác nhau, song thông thường và phổ
biến là:
- Tổ chức phát hành chứng khoán: Là các tổ chức cần vốn và thực hiện
huy động vốn thông qua TTCK. Tổ chức phát hành là người cung cấp chứng
khoán - hàng hóa của TTCK. Thơng thường tổ chức phát hành bao gồm: Chính
phủ và các cấp chính quyền địa phương, doanh nghiệp, công ty quản lý quỹ đầu
tư.
- NĐT chứng khoán: Là những người bỏ tiền đầu tư vào chứng khốn
nhằm mục đích thu lợi nhuận. Có thể chia NĐT thành nhiều nhóm như: NĐT tổ
chức, NĐT cá nhân, NĐT trong nước và NĐT nước ngồi. Tùy theo chính sách
quản lý nguồn vốn đầu tư nước ngoài của mỗi quốc gia, trong từng thời kì mà
số lượng các ngành và tỷ lệ tham gia đầu tư cổ phiếu, trái phiếu của các tổ chức
và cá nhân nước ngoài vào các doanh nghiệp thuộc các ngành có thể khác
nhau.
- Người KDCK: tham gia KDCK có thể bao gồm nhiều tổ chức như
CTCK, công ty quản lý quỹ đầu tư… và cá nhân hành nghề độc lập.
- Người cung cấp các dịch vụ hỗ trợ KDCK (tổ chức phụ trợ): để đảm
bảo cho TTCK có thể vận hành một cách bình thường, bên cạnh các chủ thể
nêu trên cần có các tổ chức cung cấp các dịch vụ hỗ trợ KDCK như: tổ chức
lưu kí chứng khốn và thanh tốn bù trừ, tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm, tổ
chức tài trợ chứng khoán, tổ chức kiểm soát, CNTT TTCK…
7

- Cơ quan quản lý quản lý nhà nước đối với TTCK: là nhân tố rất quan
trọng để đảm bảo cho thị trường hoạt động trật tự, công bằng, đúng pháp luật.
Tuy nhiên mơ hình quản lý nhà nước đối với TTCK ở các nước đều có những


điểm khác nhau. Nhìn nhận khái quả có thể thấy có hai loại mơ hình về cơ quan
quản lý nhà nước đối với TTCK: Một số nước giao nhiệm vụ quản lý nhà nước

đối với TTCK cho một bộ của Chính phủ, thường là bộ Tài Chính (Nhật bản,
Hàn Quốc…), một số nước thành lập cơ quan độc lập trực thuộc Chính phủ: Ủy
ban chứng khốn, một số bộ ngành khác cũng cso chức năng tham gia quản lý
TTCK ở một lĩnh vực thuộc thẩm quyền. Ví dụ: Ngân hàng Trung ương quản
lý các NHTM thực hiện cá hoạt động kinh doanh có liên quan đến chứng
khonas như các hoạt động thanh tốn bù trù, Bộ Tư pháp có trách nhiệm xử lý
các hành vi gian lận trên TTCK…
1.2. Phân loại TTCK
1.2.1. Theo đối tượng giao dịch
- Thị trường cổ phiếu: Là nơi giao dịch các loại cổ phiếu của các cơng ty
cổ phần (cịn được gọi là thị trường vốn). Thị trường cổ phiếu được coi là bộ
phận cơ bản và giữ vị trí quan trọng nhất của hệ thống TTCK.
- Thị trường trái phiếu: Là nơi giao dịch các loại trái phiếu (còn được
gọi là thị trường nợ).
- Thị trường chứng chỉ quỹ đầu tư: Là nơi giao dịch các loại chứng chỉ
quỹ.
- TTCK phái sinh: Là nơi giao dịch các loại chứng khoán phái sinh như
quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn, hợp đồng kỳ hạn, …
1.2.2. Theo các giai đoạn vận động
- Thị trường sơ cấp: Là thị trường phát hành các chứng khoán mới (lần
đầu được phát hành và đưa vào lưu thông).
8

- Thị trường thứ cấp: Là thị trường diễn ra các giao dịch mua bán các
chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp.


1.2.3. Theo hình thức tổ chức và hoạt động
- TTCK chính thức: Là thị trường mà các hoạt động giao dịch nằm dưới
sự kiểm soát và chịu sự ảnh hưởng bởi cơ chế điều tiết gián tiếp của Nhà nước.

- Thị trường tập trung: Là thị trường mà ở đó việc giao dịch mua bán
chứng khoán được thực hiện tại một địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch.
- Thị trường phi tập trung: Là thị trường mà ở đó đó việc giao dịch mua
bán chứng khốn khơng diễn ra tại một địa điểm tập trung mà thông qua hệ
thống máy vi tính và điện thoại kết nối giữa các thành viên của thị trường.
- TTCK khơng chính thức: Là thị trường mà hoạt động giao dịch mua
bán, chuyển nhượng chứng khốn có thể diễn ra ở bất cứ đâu, vào bất cứ lúc
nào, có thể thơng qua các nhà mơi giới hoặc do chính những người khi có nhu
cầu đầu tư, mua bán chứng khoán thực hiện.
1.2.4. Theo hình thức giao dịch
- Thị trường giao ngay: Là thị trường mà việc giao nhận chứng khoán và
thanh toán được diễn ra ngay trong ngày giao dịch hoặc trong thời gian thanh
toán bù trừ theo quy định.
- Thị trường kỳ hạn: Là thị trường mà việc giao nhận chứng khoán và
thanh toán được diễn ra sau ngày giao dịch một khoảng thời gian nhất định.
1.3. Chức năng và vai trò của TTCK
1.3.1. Chức năng của TTCK
- Tập trung huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
- Điều tiết các nguồn
vốn trong nền kinh tế.
9


1.3.2. Vai trò của TTCK
- Là kênh huy động, tập trung và luân chuyển vốn.
- Kích thích cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động.
- Đa dạng hóa hình thức đầu tư và huy động vốn.
- Thúc đẩy hội nhập kinh tế.
- Tạo mơi trường giúp chính phủ thực hiện chính sách kinh tế.
- Đánh giá hiệu quả hoạt động doanh nghiệp.


10


CHƯƠNG 2. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TTCK VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu chung về TTCK Việt Nam
Mọi biến động trên TTCK Việt Nam đều có thể tác động đến nền kinh tế
nước ta, vì đây là kênh dẫn vốn quan trọng cho nền kinh tế, cũng là kênh đầu tư
tiềm năng của cơng chúng. TTCK có khả năng tạo thanh khoản cao, tập trung
phân phối vốn và chuyển thời hạn vốn phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế.
Nhờ vào TTCK, Chính phủ có thể huy động các nguồn lực tài chính mà khơng
phải chịu áp lực về lạm phát, đặc biệt khi nguồn vốn đầu tư khu vực của Nhà
nước còn nhiều hạn chế.
Để thực hiện chủ trương phát triển các hình thức cơng ty cổ phần, mở
rộng từng bước việc phát hành và lưu thông các loại cổ phiếu, tín phiếu, trái
phiếu, tạo tiền đề thiết lập TTCK; Chính phủ đã nhanh chóng chuẩn bị các điều
kiện cần thiết về cơ sở pháp lý và cơ sở vật chất cho sự hình thành TTCK tại
Việt Nam, trong đó có sự kiện thành lập UBCKNN tháng 11/1996. Tiếp đó, đến
tháng 7/2000, TTGDCK TP. Hồ Chí Minh đã được khai trương, trở thành đơn
vị tổ chức giao dịch chứng khoán tập trung đầu tiên của Việt Nam và tổ chức
phiên giao dịch lần thứ nhất vào ngày 28/7/2000, đánh dấu sự ra đời chính thức
của TTCK ở nước ta. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng được hình thành
ngay trong năm 2000 và từng bước phát triển.
Năm 2003, Công ty quản lý quỹ tại Việt Nam VFM ra đời, đánh dấu sự
tham gia của NĐT tổ chức chuyên nghiệp trong nước đầu tiên, đồng thời mở
đầu cho một dạng đầu tư tập thể mới trên thị trường.
Tiếp sau đó, TTCK Việt Nam tiếp tục có thêm bước tiến mới với sự ra
mắt của TTGDCK Hà Nội vào năm 2005, hoạt động theo mơ hình thị trường
11
phi tập trung (OTC), tổ chức

thị trường thứ cấp cho các chứng khoán chưa

niêm yết theo cơ chế thỏa thuận và Trung tâm lưu ký chứng khoán vào năm
2006.


TTCK còn ghi nhận một sự kiện mới vào năm 2009, đó là việc tổ chức
thị trường trái phiếu Chính phủ chun biệt. Đây là thị trường đóng vai trị then
chốt trên thị trường trái phiếu, nhằm đáp ứng hai mục tiêu là kênh huy động
vốn hiệu quả cho ngân sách nhà nước, hỗ trợ công tác phối hợp điều hành
chính sách tài chính - tiền tệ của Chính phủ và góp phần củng cố hình ảnh, độ
tín nhiệm của Việt Nam trên thị trường tài chính quốc tế.
Năm 2017, TTCK phái sinh được đưa vào vận hành giúp đa dạng hóa
danh mục đầu tư, cung cấp cơng cụ phịng ngừa rủi ro, cải thiện cơ sở NĐT,
đặc biệt là các NĐT có tổ chức, thúc đẩy thanh khoản trên TTCK cơ sở. Việc ra
đời TTCK phái sinh đã tạo một bước ngoặt mới cho TTCK nói riêng và thị
trường tài chính nói chung.
Đồng hành cùng sự phát triển của TTCK trong 25 năm qua là quá trình
xây dựng và hồn thiện khung pháp luật về chứng khốn, từ khung pháp lý ban
đầu, các chính sách đến các quy chế, quy trình cụ thể để vừa xây dựng, vừa
quản lý TTCK trong bối cảnh Nhà nước đang sửa đổi, hoàn chỉnh thể chế kinh
tế, cơ chế quản lý nền kinh tế.
2.2. Điều kiện hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam
2.2.1. Điều kiện về kinh tế
2.2.1.1. Sự phát triển của nền kinh tế
Trước năm 1986, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp, với hình thức sở hữu chủ yếu là quốc doanh, tập
thể. Trong thời kỳ kinh tế cịn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng thì cơ chế
này có tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế
vào mục đích chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong

q trình cơng nghiệp hóa theo xu hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.
Tuy vậy, theo thời gian, cơ
12 chế này ngày càng không phù hợp với hồn cảnh
của đất nước. Nó làm thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến bộ khoa học – cơng
nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, khơng kích thích tính


năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Chính điều này đã làm
cho nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, để tạo ra sự ổn định và tăng
trưởng kinh tế, đòi hỏi phải có một lượng vốn rất lớn và dài hạn. Trong khi đó
thị trường vốn ở nước ta chưa phát triển, cịn nhiều khiếm khuyết; vì thế chưa
tìm được nguồn vốn đáp ứng nhu cầu. Để khắc phục phần nào tình trạng thiếu
vốn hệ thống các ngân hàng nước ta đã phát triển trái phiếu, kỳ phiếu để huy
động nguồn vốn nhàn rỗi của dân chúng. Nhưng hoạt động của hệ thống ngân
hàng cũng cịn nhiều hạn chế, do đó các nguồn vốn huy động được chủ yếu là
ngắn hạn và trung hạn, không đáp ứng được các dự án đầu tư lớn và dài hạn. Vì
thế dẫn tới tình trạng các ngân hàng thừa vốn, nhưng lại thiếu vốn cho hoạt
động của nền kinh tế.
Mặt khác, khả năng thanh khoản của thị trường vốn nước ta thấp, do
việc thu hút các nguồn vốn vào thị trường đạt hiệu quả thấp, trong khi đó các
khoản đầu tư địi hỏi phải có tính ổn định cao nhưng chúng ta chưa đáp ứng
được. Tồn tại tình trạng này cũng là vì thị trường giao dịch các chứng khoán đã
phát hành, để luân chuyển các nguồn vốn nhằm biến các nguồn vốn ngắn hạn,
nhỏ, lẻ tẻ thành nguồn vốn lớn, dài hạn đầu tư cho các dự án lớn mới được hình
thành, cịn rất nhiều hạn chế.
Qua việc phân tích và đánh giá được thực tiễn hoạt động của thị trường
vốn ở nước ta tại thời điểm đó, chúng ta thấy cịn bộc lộ nhiều yếu kém. Để có
thể khơi thơng các nguồn vốn lớn, thu hút được các nguồn vốn nhỏ, rải rác tập
trung thành nguồn vốn lớn và chuyển từ nguồn vốn ngắn hạn thành nguồn vốn

dài hạn đầu tư cho những dự án trọng điểm của nền kinh tế. Trong tình hình
như vậy rất cần thiết phải xây dựng TTCK và đến nay TTCK Việt Nam đã
chính thức ra đời và đi vào hoạt động. Việc hình thành và phát triển TTCK sẽ
đa dạng hóa hình thức tạo 13
vốn và lưu thơng các nguồn vốn một cách dễ dạng và
có một ý nghĩa quyết định trong chiến lược phát triển kinh tế mà Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc thứ VIII đã đề ra và đây cũng là tính tất yếu khi nền


kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển,
chính sách một giá tạo điều kiện cho hàng hóa lưu thơng thuận tiện giữa các
khu vực trong nước. Lãi suất tín dụng và lãi suất tiết kiệm đã được ấn định trên
cơ sở tổng quan giữa cung và cầu vốn trên thị trường. Quy luật cung cầu và quy
luật giá trị đang phát huy những tác động tích cực tới nền kinh tế.

Thực tế cho thấy, Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên
thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn
đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt
4,4%, thì giai đoạn 1991 - 1995, tăng trưởng GDP bình quân đã đạt 8,2%/năm.
Các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao, riêng giai đoạn 2016 2019 đạt mức bình quân 6,8. Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt
Nam đứng trong top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền
kinh tế mới nổi thành công nhất.
TTCK là một thị trường bậc cao. Vì vậy nó chỉ tồn tại ở các quốc gia có
nền kinh tế vận hàng hóa - tiền tệ và các quan hệ thị trường ngày càng phát
triển một cách ổn định, bền vững. Cũng giống như các thị trường khác, TTCK
chỉ phát triển khi và chỉ khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định biểu hiện ở sự gia
tăng đều đặn của tổng sản phẩm quốc dân và quốc nội, tỉ lệ thất nghiệp thấp,..
2.2.1.2. Tình hình lưu thơng tiền tệ
Trong nền kinh tế bao cấp quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là

hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu, việc phân phối hàng hoá chủ yếu dựa
vào hệ thống tem phiếu. Mua hàng gì thì có tem phiếu hàng đó. Một phần tiêu
biểu của thời kỳ bao cấp là đồng tiền Việt Nam bị mất giá. Trong thời kỳ này,
14

các công cụ như giá cả, lãi suất, tiền lương chỉ áp dụng để tính tốn một cách
hình thức. Giá cả không phản ánh quan hệ cung cầu. Lương của cơng nhân
cũng được trả bằng hiện vật thay vì tiền mặt. Mặt khác, tiền lương được quy


định theo cấp bậc hành chính và thâm niên, tính theo chủ nghĩa bình qn,
khơng tính theo hiệu quả lao động của mỗi người. Không chỉ vậy nền kinh tế
bao cấp đất nước đóng cửa, khơng giao lưu bn bán hay ngoại giao với các
quốc gia khác trên thế giới nên hàng hóa rất khan hiếm và dựa chủ yếu trên sự
tự cung tự cấp của nền kinh tế trong nước.
Nhờ đường lối đổi mới cơ chế, chính sách theo hướng xóa bỏ bao cấp,
giải phóng sức sản xuất, tự do hóa sản xuất lưu thơng hàng hóa, từng bước tự
do hóa giá cả, những khó khăn kinh tế đã được khắc phục đáng kể. Ngày nay,
trong nền kinh tế thị trường quan hệ hàng hóa – tiền tệ được coi trọng. Nền
kinh tế thị trường không sử dụng tem phiếu mà tiền tệ được đẩy mạnh lưu
thông và phát hành. Đối với nền kinh tế thị trường chính sách mở cửa ngày nay
hàng hóa nhập khẩu mạnh và rộng rãi, nguồn hàng hóa phong phú và đa dạng
trong cả nước và giá cả cạnh tranh. Từ đó, lưu thơng tiền tệ dễ dàng, kinh tế bắt
đầu phát triển; lạm phát được kiểm soát và giảm dần, kinh tế vĩ mô dần ổn
định, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm; thanh khoản hệ
thống ngân hàng từ chỗ thiếu hụt, tiềm ẩn nguy cơ đổ vỡ hệ thống đã cải thiện
rõ nét và ổn định bền vững; tín dụng tăng trưởng ở mức hợp lý, gắn với chuyển
đổi mơ hình tăng trưởng kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh; tỉ giá và thị trường ngoại hối đã cơ bản ổn định, niềm tin vào đồng
Việt Nam tăng lên.

Chỉ khi kinh tế phát triển, chế độ lưu thông tiền tệ ổn định, lạm phát
được kiểm soát ở mức vừa phải, lãi suất được hình thành theo quan hệ cungcầu vốn trên thị trường, giá trị đồng nội tệ được ổn định thì cơng chúng mới
n tâm, tin tưởng tham gia đầu tư chứng khốn.
2.2.1.3. Hàng hóa
Để huy động nguồn15 vốn nhàn rỗi của dân chúng sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945, theo Sắc lệnh số 112/SL ngày 16/7/1946, Chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hịa đã phát hành đợt cơng trái đầu tiên để huy động vốn cho


chính quyền cách mạng. Qua các thời kì cách mạng, Nhà nước phát hành nhiều
đợt công trái với các tên gọi như: công phiếu kháng chiến, công trái xây dựng
Tổ quốc, trái phiếu cơng trình… Nhưng hoạt động của hệ thống ngân hàng
cũng cịn nhiều hạn chế, do đó các nguồn vốn huy động được chủ yếu là ngắn
hạn và trung hạn, không đáp ứng được các dự án đầu tư lớn và dài hạn. Hiện
nay, theo quy định của pháp luật, ở Việt Nam chỉ có chính quyền trung ương
(Chính phủ) phát hành trái phiếu.
Trải qua chặng đường 25 năm, TTCK Việt Nam đã khơng ngừng hồn
thiện về cấu trúc, phát triển mạnh mẽ trở thành một thị trường có quy mơ đáng
kể (so với GDP) trong khu vực, góp phần phát triển hệ thống tài chính quốc gia
theo hướng cân bằng, bền vững hơn và trở thành kênh huy động vốn quan trọng
cho nền kinh tế. Các khu vực thị trường đã được hình thành, bao gồm thị
trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu (trong đó có trái phiếu chính phủ) và
TTCK phái sinh. Số lượng, chủng loại hàng hóa ngày càng tăng, quy mơ và giá
trị vốn hóa tăng, đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn trong
nền kinh tế quốc dân.
Trên TTCK, hàng hóa là yếu tố vơ cùng quan trọng góp phần tạo nên
tính sơi động của thị trường. Vì vậy, để TTCK khơng ngừng phát triển và hồn
thiện phải tạo ra cho thị trường một lượng chứng khoán đa dạng, phong phú, đủ
về số lượng, đảm bảo về chất lượng, phù hợp với nhu cầu và tâm lý đa dạng
của công chúng đầu tư.

2.2.1.4. Các NĐT, KDCK và các tổ chức phụ trợ khác
Một TTCK hồn chỉnh khơng thể thiếu các NĐT, các CTCK, tổ chức
xếp hạng tín nhiệm, các quỹ đầu tư, các tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ,...
Sự gia tăng số lượng và nâng cao chất lượng hoạt động của các chủ thể tham
gia thị trường khơng chỉ góp
phần gia tăng quy mơ của thị trường mà cịn làm
16
cho thị trường hoạt động cơng bằng, hiệu quả.


Do đó, để TTCK phát triển cần có sự tham gia đông đảo của các NĐT,
hệ thống các tổ chức KDCK và các tổ chức phụ trợ hoạt động có hiệu quả và
không ngừng nâng cao năng lực đầu tư, kinh doanh cho các chủ thể này. Muốn
vậy, Chính phủ cần khuyến khích sự tham gia thị trường của các NĐT có tổ
chức: cơng ty quản lý quỹ đầu tư, các CTCK, các NHTM và các trung gian tài
chính khác. Thúc đẩy các trung gian tài chính tham gia các dịch vụ môi giới,
đại lý, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn và đầu tư chứng khoán, thanh
toán và lưu ký chứng khoán
Cần tăng số lượng, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơng ty kiểm
tốn, tổ chức cung cấp thơng tin,.. Hệ thống kế tốn và kiểm toán là hệ thống
phụ trợ quan trọng trong nền kinh tế nói chung, TTCK nói riêng. Sự hoạt động
nghiêm túc, đáng tin cậy của hệ thống này là cơ sở giúp cho việc cung cấp
thông tin về các công ty niêm yết đảm bảo được các yêu cầu cơ bản của thơng
tin đó, đó là: đầy đủ, chính xác, kịp thời - điều kiện quan trọng để NĐT có
được các quyết định đầu tư chính xác.
Trong giai đoạn phát triển của TTCK, hệ thống lưu kí và thanh tốn bù
trừ cũng rất quan trọng. Vì vậy, để thị trường khơng bị tê liệt, hay gián đoạn
q trình hoạt động, địi hỏi các nhà tổ chức và quản lý thị trường phải tổ chức
tốt bộ máy và có sự đầu tư cơ sở vật chất thích hợp.
Cần xây dựng hệ thống các cơng ty đánh giá hệ số tín nhiệm nhằm cung

cấp chuẩn xác các thông tin và xếp hạng cho các chứng khoán, đặc biệt là các
chứng khoán nợ. Hoạt động có hiệu quả của các tổ chức này làm tăng lịng tin
của cơng chúng đối với TTCK Việt Nam.
2.2.1.5. Thu nhập dân cư
Khối lượng và tỷ trọng tiết kiệm trong tổng số thu nhập sẽ quyết định
17

mức độ hoạt động của TTCK. Khi thu nhập bình quân đầu người thấp thì tỷ
trọng chi tiêu cho tiêu dùng cao và tỷ trọng này càng giảm khi thu nhập bình


quân đầu người tăng. Vì thế, TTCK Việt Nam chỉ có thể phát triển khi và chỉ
khi thu nhập quốc dân cũng như thu nhập bình quân đầu người tăng lên.
2.2.2. Điều kiện về pháp lý
Sự ra đời của Luật Chứng khốn đầu tiên vào năm 2006, có hiệu lực từ
01/7/2007 trong bối cảnh hội nhập quốc tế diễn ra, đồng thời để tạo cơ sở cho
TTCK phát triển nhanh, ổn định và đảm bảo lợi ích hợp pháp của NĐT; tạo
điều kiện cho TTCK hội nhập sâu rộng với các thị trường vốn quốc tế và khu
vực, cũng như thực hiện các cam kết của Việt Nam trong lộ trình hội nhập kinh
tế quốc tế,… đã hình thành khung khổ pháp lý tương đối đầy đủ, đồng bộ, điều
chỉnh toàn diện, đáp ứng được yêu cầu về tăng cường hiệu lực quản lý nhà
nước về chứng khoán và TTCK; đảm bảo các doanh nghiệp tham gia trên thị
trường phải hoạt động cơng khai, minh bạch, từ đó góp phần làm minh bạch
hố nền kinh tế. Qua đó, khuyến khích mạnh mẽ tổ chức, cá nhân thuộc các
thành phần kinh tế và các tầng lớp nhân dân tham gia đầu tư và hoạt động trên
TTCK, tạo ra kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, góp phần
nâng tầm TTCK Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển, yêu cầu hội nhập kinh
tế quốc tế sâu rộng trong tình hình mới.
Có thể thấy được, TTCK ra đời, tồn tại và không ngừng phát triển không
thể thiếu các điều kiện pháp lý. Môi trường pháp lý trong lĩnh vực chứng khoán

và TTCK bao gồm:
- Các quy chế về quản lý nhà nước đối với quá trình vận hành thị trường
- Các quy chế quản lý đối với các chủ thể tham gia thị trường: chủ thể
quản lý, chủ thể phát hành, chủ thể kinh doanh dịch vụ, NĐT,…
- Các quy chế quản lý đối với các hoạt động trên TTCK như: phát hành,
niêm yết, giao dịch, công bố
18 thơng tin, lưu kí và tốn bù trừ,…
Trên thực tế phát triển TTCK cho thấy TTCK chỉ có thể phát triển nếu
quốc gia đó ban hành một hệ thống các văn bản pháp lý đầy đủ, đồng bộ, có


tính tiên liệu và hiệu quả pháp lý cao (bao gồm các văn bản pháp luật và dưới
luật có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến chứng khoán và TTCK), ổn định
trong thời gian dài. Một hệ thống pháp lý chắp vá, khơng đồng bộ, tính pháp lý
thấp và thay đổi thường xuyên sẽ làm TTCK hoạt động không ổn định, hiệu
quả kém và chậm phát triển.
2.2.3. Điều kiện nhân lực
Con người là yếu tố có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
thị trường. Vì vậy, để đảm bảo cho TTCK Việt Nam không ngừng phát triển và
hồn thiện phải có đội ngũ chun gia chứng khốn giỏi về chun mơn nghiệp
vụ, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn và phẩm chất, tư cách đạo đức tốt trên các
lĩnh vực.
2.2.3.1. Các chủ thể hoạch định chính sách, tổ chức, quản lý thị trường
- Cơ quan quản lý nhà nước đối với TTCK là nhân tố rất quan trọng để
đảm bảo cho thị trường hoạt động trật tự, công bằng, đúng pháp luật
- SGDCK là nơi giao dịch các chứng khoán đã được niêm yết. Nhiệm vụ
của Sở giao dịch là tổ chức vận hành thị trường thông qua các bộ phận chức
năng như quản lý niêm yết, quản lý giao dịch, quản lý công bố thông tin, thanh
tra giám sát,... trên cơ sở các văn bản pháp luật của nhà nước và các quy định
của Sở.

- Hiệp hội các nhà KDCK là tổ chức của các CTCK và một số thành
viên khác hoạt động trong ngành chứng khốn được thành lập với mục đích
bảo vệ lợi ích cho các cơng ty thành viên nói riêng và cho tồn ngành chứng
khốn nói chung. Hiệp hội các nhà KDCK thường là tổ chức tự điều hành,
tham gia quản lý giám sát thị trường theo một số nội dung chủ yếu:
19

+ Ban hành các quy định đối với thành viên và có trách nhiệm giám
sát việc thực hiện các quy định của các thành viên hiệp hội


+ Thu nhận các khiếu nại của khách hàng đối với các CTCK thành
viên. Xử lý các vi phạm của thành viên theo quy chế của Hiệp hội
+ Đề xuất các kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước về các
biện pháp phát triển thị trường
Công tác quản lý, điều hành của cơ quan quản lý bảo đảm tính chủ động,
linh hoạt, phù hợp thực tiễn, qua đó đã giúp TTCK Việt Nam vượt qua những
giai đoạn rất khó khăn như giai đoạn khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008,
khủng hoảng nợ công châu Âu, đặc biệt gần đây là vấn đề dịch Covid-19 với
diễn biến hết sức phức tạp…
Công tác thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm phạm trong lĩnh vực chứng
khoán và TTCK ngày càng được tăng cường. Cơ quan quản lý luôn chú trọng
công tác giám sát, thanh tra và kiểm tra thường xuyên việc chấp hành pháp luật
về chứng khoán đối với các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường, phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan hữu quan như cơ quan thuế, cơ quan công an... nhằm đảm
bảo hiệu quả trong công tác thanh tra, kiểm tra. Các hành vi vi phạm pháp luật
trên TTCK đã được xử lý nghiêm minh, kịp thời và được công bố công khai
theo quy định, góp phần hạn chế các hành vi trục lợi, thao túng thị trường.
Nhìn chung, các chủ thể hoạch định chính sách, tổ chức, quản lý thị trường do
Chính phủ thành lập nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của các NĐT và đảm bảo

cho TTCK hoạt động lành mạnh, suôn sẻ và phát triển vững chắc.
2.2.3.2. Các chủ thể tác nghiệp trên thị trường
Các chủ thể tác nghiệp trên thị trường: mơi giới chứng khốn, tự doanh,
bảo lãnh phát hành, lưu ký chứng khoán, tư vấn và quản lý danh mục đầu tư…
- Mơi giới chứng khốn là người đại diện, bảo vệ quyền lợi cho khách
hàng, có thể là tổ chức, Công
ty hay cá nhân, thông qua việc tư vấn, thực hiện
20
các giao dịch. Vì vậy, cơng việc của người mơi giới chứng khốn bao gồm thu
thập và thẩm định thông tin về thị trường cổ phiếu trong hoặc ngoài nước,


chứng khốn và trái phiếu chính phủ; trên cơ sở đó đưa ra lời khun thích hợp
cho khách hàng…
- Theo Luật chứng khoán năm 2019, tự doanh chứng khoán là việc
CTCK tự tiến hành các giao dịch mua hoặc bán chứng khốn cho chính mình.
Hay nói cách khác, tự doanh chứng khốn cũng có thể được hiểu là hoạt động
tự mua bán chứng khốn cho mình nhằm mục đích cuối cùng là hưởng lợi
nhuận từ khoản chênh lệch giá (mua thấp, bán cao).
+ Hoạt động tự doanh chứng khoán của các CTCK mang tính chuyên
nghiệp cao. Điều này được thể hiện ở nguồn lực có trình độ và kiến thức
chun mơn cao, có có khả năng đưa ra các quyết định đúng đắn. Bên cạnh đó,
các hoạt động đầu tư và kinh doanh của CTCK đều tuân theo một quy định đầu
tư chặt chẽ nhằm đảm bảo tính hiệu quả và an toàn trong đầu tư. Trách nhiệm
quyền hạn của các đối tượng tham gia vào hoạt động tự doanh chứng khốn
đều được quy định rõ, được thực hiện thơng qua các bước nhất định và có
phương án đầu tư cụ thể.
- Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc cam kết với tổ chức phát hành
nhận mua một phần hoặc tồn bộ chứng khốn của tổ chức phát hành để bán lại
hoặc mua số chứng khốn cịn lại chưa được phân phối hết hoặc cố gắng tối đa

để phân phối số chứng khoán cần phát hành của tổ chức phát hành. Bảo lãnh
phát hành bao gồm cả việc tư vấn tài chính và phân phối chứng khốn.
- Lưu ký chứng khoán là hoạt động lưu giữ, bảo quản chứng khoán của
khách hàng; thực hiện các dịch vụ liên quan đến việc mở tài khoản lưu ký, gửi,
rút, chuyển khoản, thực hiện các giao dịch bảo đảm như cầm cố, giải tỏa cầm
cố chứng khoán... Quản lý việc nhập, xuất và bảo quản an tồn chứng chỉ
chứng khốn tại kho chứng chỉ chứng khoán.
21

Các SGDCK, thị trường liên kết chứng khoán đã thực hiện chức năng
giao dịch, lưu ký, thanh tốn chuyển giao chứng khốn thơng suốt, an tồn,


đồng thời chú trọng phát triển CNTT, phát triển nguồn nhân lực, quản trị nội bộ
và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đa dạng cho thị trường.
2.2.3.3. Các chủ thể tham gia thị trường với vai trò phụ trợ
- Định mức tín nhiệm là đánh giá về uy tín của một doanh nghiệp đi vay
trong việc họ có khả năng hồn trả nghĩa vụ tài chính đó khơng. Mỗi thể nhân
có nhu cầu vay vốn đều có thể được gán một mức xếp hạng tín nhiệm. Đối với
các NĐT, Xếp hạng tín nhiệm cung cấp cho họ những thơng tin tham khảo
quan trọng và đáng tin cậy, để có thể quyết định đầu tư (NĐT chiến lược, hoạt
động M&A, trái phiếu, cổ phiếu, hoặc các mục đích kinh doanh khác). Đối với
các NHTM, thơng tin Xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp được xem là kênh
tham khảo tin cậy, trong hồ sơ thẩm định tài trợ vốn vay trung và dài hạn.
Ngồi ra, thơng tin Xếp hạng tín nhiệm sẽ là thơng tin hữu ích nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp lần đầu thực hiện IPO tăng cơ hội thành
công hơn; đồng thời sẽ giúp cho doanh nghiệp trên sàn dễ dàng thu hút dòng
vốn đầu tư trong nước và quốc tế trên TTCK.
- Kiểm toán: TTCK là một thị trường địi hỏi tính minh bạch cao trên
các thơng tin được cơng bố. Vai trị của các cơng ty kiểm tốn đối với việc

kiểm tốn các cơng ty cổ phần niêm yết trên TTCK hiện rất quan trọng. Trách
nhiệm đó địi hỏi kiểm tốn viên của các cơng ty kiểm tốn phải đưa ra được
báo cáo tài chính đầy đủ, trung thực, hợp lý và khách quan cung cấp, đảm bảo
độ tin cậy cho các cổ đông những thơng tin xác thực nhất về tình hình tài chính
của cơng ty để NĐT có thể nắm bắt tình hình tài chính của các cơng ty niêm yết
cổ phần một cách chính xác nhất và đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.
- Thanh toán bù trừ: Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán là
tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù
trừ cho các giao dịch chứng
khoán. Các NHTM, các CTCK đáp ứng đủ các
22
điều kiện của UBCKNN, sẽ thực hiện dịch vụ lưu ký và thanh toán bù trừ
chứng khoán.


Vì vậy, để có một TTCK minh bạch và chính xác, cần có các chủ thể
tham gia thị trường với vai trị phụ trợ nhằm đưa ra các thơng tin chính xác,
đáng tin cậy để NĐT có thể chắc chắn, tin tưởng để đầu tư vào TTCK từ đó
thúc đẩy sự phát triển của TTCK Việt Nam.
2.2.3.4. Các NĐT và các nhà quản trị doanh nghiệp
- TTCK đã thu hút đơng đảo các NĐT trong nước và nước ngồi với
trình độ ngày càng cao, từ 3.000 tài khoản năm 2000, đến nay (tháng 6/2020)
đã đạt trên 2,5 triệu tài khoản, bao gồm 33.395 tài khoản của các NĐT nước
ngoài giúp thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngồi, góp phần phát triển nhiều
doanh nghiệp niêm yết thành các doanh nghiệp có thương hiệu quốc tế và
quảng bá hình ảnh kinh tế Việt Nam. Giá trị danh mục đầu tư của NĐT nước
ngồi chiếm khoảng 20% vốn hóa thị trường cổ phiếu.
- Bên cạnh đó, sự tham gia tích cực trên TTCK của các NHTM, cơng ty
tài chính, CTCK, cơng ty quản lý quỹ, các doanh nghiệp bảo hiểm, quỹ đầu tư
đã dần góp phần hình thành một hệ thống các NĐT chuyên nghiệp trên TTCK.

Các chủ thể này phải am hiểu TTCK, có một trình độ chun mơn và
nghiệp vụ và kinh nghiệm nhất định. Do đó, phải có chương trình đào tạo
chun mơn đối với nguồn nhân lực trong lĩnh vực chứng khốn. Trước mắt có
thể th chun gia nước ngoài đào tạo ngắn hạn, hoặc cử các đoàn đi nghiên
cứu nước ngoài. Về lâu dài, phải đưa chương trình TTCK vào các trường đại
học, trung học kinh tế tài chính ngân hàng.
Bộ trưởng Bộ Tài Chính đã ban hành quy định về quy chế hành nghề
chứng khoán, chương trình đào tạo người hành nghề chứng khốn, đã được đổi
mới nhằm dáp ứng tốt hơn nhu cầu đào tạo của người hành nghề chứng khoán
cũng như phù hợp với giai đoạn phát triển mới của TTCK Việt Nam.
23


2.2.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật
Để phục vụ cho các giao dịch chứng khốn cần có hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật tương thích, cùng với sự phát triển về CNTT, hệ thống các tổ
chức KDCK, tổ chức cung cấp dịch vụ chứng khốn đã có sự phát triển cả về
năng lực chuyên môn nghiệp vụ và năng lực tài chính, nhờ đó cải thiện chất
lượng dịch vụ, tăng cường kiểm tra, kiểm sốt tính tn thủ của khách hàng và
quản trị rủi ro trong quá trình hoạt động, phát huy vai trò cầu nối giữa NĐT và
doanh nghiệp.
2.2.4.1. Hệ thống giao dịch
Sự kiện thành lập UBCKNN tháng 11/1996. Sau hơn 3 năm tích cực
thực hiện, đến tháng 20/7/2000, TTGDCK TP. Hồ Chí Minh đã được khai
trương, trở thành đơn vị tổ chức giao dịch chứng khoán tập trung đầu tiên của
Việt Nam và tổ chức phiên giao dịch lần thứ nhất vào ngày 28/7/2000, đánh
dấu sự ra đời chính thức của TTCK ở nước ta.
Trong bối cảnh hoạt động của TTGDCK TP. Hồ Chí Minh chưa thực sự
sôi động, việc triển khai xây dựng TTGDCK Hà Nội cũng đã gặp khơng ít khó
khăn.

Vào thời điểm đầu những năm 2000, ít ai cho rằng một đơn vị trong
nước có thể cung cấp được giải pháp cơng nghệ giao dịch chứng khoán. Tuy
nhiên, UBCKNN vẫn quyết định giao TTGDCK Hà Nội đấu thầu, tìm kiếm
đơn vị trong nước phối hợp thiết kế, xây dựng hệ thống giao dịch của
TTGDCK Hà Nội. Doanh nghiệp Việt Nam được chọn để xây dựng hệ thống
giao dịch mới cho TTGDCK Hà Nội là FPT.
Ngày 14/7/2005, hệ thống phần mềm “made in Việt Nam” đã được
TTGDCK Hà Nội triển khai
24 và đưa vào sử dụng đúng thời điểm khai trương
sàn giao dịch thứ cấp với 6 công ty niêm yết đầu tiên, với phương thức giao
dịch ban đầu là giao dịch thỏa thuận. Ngày 2/11/2005, chính thức áp dụng bổ


sung phương thức giao dịch khớp lệnh liên tục song song với phương thức giao
dịch thỏa thuận.
Quyết định chọn “hàng nội” có phần liều lĩnh ở thời điểm đó đến nay đã
chứng minh là rất đúng đắn, đặc biệt trong giai đoạn sàn giao dịch chứng khốn
TP. Hồ Chí Minh (HoSE) – vốn sử dụng hệ thống giao dịch của Thái Lan từ
thời kỳ đầu - liên tục nghẽn lệnh trong năm 2021 nhưng sàn giao dịch chứng
khoán Hà Nội (HNX và UPCoM) vẫn giao dịch thông suốt. Đây cũng là tiền đề
để Bộ Tài chính, UBCKNN tin tưởng giao nhiệm vụ khắc phục tình trạng
nghẽn lệnh trên sàn HoSE cho FPT.
Sau 3 tháng đưa vào vận hành, hệ thống mới của FPT trên HoSE đã hoạt
động thơng suốt, có thể xử lý từ 3-5 triệu lệnh/phiên, gấp 3-5 lần hệ thống cũ,
có khả năng đáp ứng nhu cầu của HoSE và thị trường ít nhất từ 3-5 năm tới.
Tuy vậy, vẫn còn khiêm tốn nếu so với năng lực xử lý 20-30 triệu lệnh/phiên
của HNX, dù phần lõi của hệ thống trên HoSE được sửa từ hệ thống trên HNX,
bởi đây chỉ là hệ thống mang tính tạm thời. Sự thành cơng của FPT trong việc
khắc phục tình trạng nghẽn lệnh trên HoSE cho thấy năng lực của doanh
nghiệp trong nước.

Dự kiến nửa đầu năm 2022, hệ thống giao dịch của FPT trên HoSE sẽ
được thay bằng hệ thống giao dịch của SGDCK Hàn Quốc (KRX). Mặc dù quá
trình triển khai đầy nhọc nhằn nhưng giới đầu tư vẫn đang rất kỳ vọng vào hệ
thống KRX, bởi hệ thống mới có thể cho phép triển khai mơ hình đối tác bù trừ
thanh toán trung tâm (CCP) và hàng loạt sản phẩm mới, đặc biệt là day-trading
(thường được gọi là giao dịch T0), không chỉ giúp nâng dịch vụ chứng khoán
lên một tầm cao mới trong bối cảnh thị trường đang phát triển rực rỡ với sự
tham gia “ào ạt” của NĐT cá nhân trong nước, mà còn giúp giải quyết nhiều
quan ngại của các tổ chức nâng hạng thị trường, từ đó giúp tiến trình nâng hạng
được diễn ra nhanh hơn.

25


×