Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

tiểu luận điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh ấn độ cổ- trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.14 KB, 28 trang )

iu kin hỡnh thnh v nhng thnh tu ch yu v vn hc ngh thut ca vn minh ấn
1
Lạng Giang, tháng 5 năm 2007
Sở gd-đt bắc giang
Tr ờng THPT lạng giang số 1
Sáng kiến kinh nghiệm
Năm học 2006-2007
Điều kiện hình thành
và những thành tựu chủ yếu
Ng ời thực hiện: Nguyễn Thị ái Hoa
Tổ Tổng hợp

Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
MỤC LỤC.
A. MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài.
2. Phương pháp nghiên cứu.
3. Giới hạn đề tài.
4. Cấu tạo của đề tài.
B. NỘI DUNG.
CHƯƠNG I. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VĂN MINH ÊN ĐỘ CỔ- TRUNG ĐẠI.
1. Sơ lược lịch sử Ên Độ cổ- trung đại.
a. Thời kì văn minh lưu vực sông Ên ( từ đầu thiên kỉ III đến giữa thiên kỉ
II TCN)
b. Thời kỡ Vờđa ( từ giữa thiên kỉ II đến giữa thiên kỉ I TCN).
c. Từ thế kỉ VI TCN đến thế kỉ XIX.
2. Điều kiện hình thành nền văn minh Ên Độ cổ- trung đại.
a. Vị trí địa lý, cư dân.
b. Sự phát triển kinh tế.
c. Sù ra đời của thành thị.
CHƯƠNG II. THÀNH TỰU VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CỦA VĂN MINH ÊN


ĐỘ CỔ- TRUNG ĐẠI.
1. Sơ lược những thành tựu văn minh Ên Độ cổ- trung đại.
1.1. Chữ viết.
1.2. Văn học.
1.3. Nghệ thuật.
1.4. Khoa học.
1.5. Tôn giáo.
2. Thành tựu văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ cổ- trung đại.
2.1. Thành tựu văn học.
2.1.1. Vê đa.
2.1.2. Sử thi.
2.1.3. Những tác phẩm của Caliđasa.
2.1.4. Những tác phẩm viết bằng phương ngữ.
2.2. Thành tựu nghệ thuật.
3. Ảnh hưởng của văn minh Ên Độ cổ- trung đại ở Việt Nam .
C. KẾT LUẬN.
2
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Cộng hòa Ên Độ nằm ở Nam Á, diện tích đứng thứ bảy và dân số
đứng hàng thứ hai trên thế giới. Tên gọi Ên Độ- India, Hindustan là do
người Ba Tư và người phương Tây từ thời cổ xưa gọi xứ sở này theo tên
của sông Ên (Indus), còn tên gọi truyền thống mà cư dân Ên Độ gọi đất
nước mình là Bharat, nghĩa là đất nước của vị tổ tiên truyền thuyết Bharata.
Là quốc gia lớn có truyền thống lịch sử văn hoá lâu đời từ thế kỉ III
trước công nguyên, người Ên Độ cổ đại đó xõy dùng cho mình nền văn
minh đầu tiên đặt cơ sở cho toàn bộ nền văn hoá Ên Độ sau này. Trải qua
quá trình lịch sử lâu dài, nền văn minh Ên Độ phát triển một cách đều đặn
và đạt nhiều thành tựu rực rỡ về các lĩnh vực: Tôn giáo, văn học, nghệ

thuật, chữ viết và các bộ môn khoa học khác đặc biệt trong thời kì cổ- trung
đại, suốt từ thời Mụhenjụđarụ đến vương triều Mụgụn. Còng qua quá trình
phát triển của lịch sử mà văn minh Ên Độ đã có ảnh hưởng rất lớn đối với
khu vực xung quanh đặc biệt là các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á trong
đó có Việt Nam.
Văn minh Ên Độ đó cú vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
của đất nước mình và là một trong những nền văn minh đầu tiên trên thế
giới. Vậy nhờ đâu mà văn minh Ên Đé hình thành và phát triển những
thành tựu của nó có vai trò như thế nào? Trong giảng dạy lịch sử líp 10 ở
THPT có hai tiết nói đến sự phát triển của Ên Đé và những thành tựu rực rỡ
của văn minh Ên Đé. Để tìm hiểu thêm về điều kiện ra đời và thành tựu văn
minh Ên Đé đặc biệt là phần văn học nghệ thuật phục vụ cho việc giảng
dạy tiết 9 và 10 trong chương trình sách giáo khoa được tốt hơn mà tụi đã
chọn đề tài cho sáng kiến kinh nghiệm của tôi là “Điều kiện hình thành và
những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Đé
cổ- trung đại” để góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu về văn minh của
một quốc gia có nhiều ảnh hưởng đến Việt Nam.
3
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
2. Phương pháp nghiên cứu.
Đây là một vấn đề mang tính lịch sử nờn tụi chọn phương pháp
nghiên cứu là phương pháp lịch sử và phương pháp lụgic.
Phương pháp lịch sử là phương pháp dùa vào những sự kiện lịch sử, tư liệu
lịch sử để trình bày tiến trình lịch sử một cách đầy đủ theo thứ tự thời gian
ra đời, phát triển…
Phương pháp lụgic là phương pháp nghiên cứu lịch sử trong hình
thức tổng quát với những mối liên hệ bản chất của nó.
Trong quá trình nghiên cứu, thu thập các nguồn tư liệu của các tác
giả tụi cũn dựng phương pháp so sánh, tổng hợp rót ra những điểm mấu
chốt có tính khái quát. Thực hiện phương pháp này tôi mới rót ra được

những sự kiện một cách chính xác căn bản nhất.
3. Giới hạn của đề tài.
Để có sự liên kết lụgic giữa các vấn đề, sự kiện trước hết tôi sẽ trình
bày khái quát lịch sử Ên Độ cổ- trung đại nhằm tạo thuận lợi cho việc theo
dõi nghiên cứu của người đọc.
Sau đó làm rõ những nét lớn về điều kiện hình thành và những thành
tựu chủ yếu về lĩnh vực văn học nghệ thuật của văn minh Ên Đé cổ- trung
đại.
Bằng những dẫn chứng, tư liệu cụ thể để nói rõ những điều kiện và
những thành tựu chủ yếu và từ đó rót ra những nhận định đánh giá của bản
thân.
Thấy được từ những điều kiện sẵn có và sức lao động sáng tạo của
cư dân Ên Độ cổ- trung đại mà đã tạo nên được nền văn minh độc đáo cho
nhân loại. Từ đó cũng thấy được sự tác động ảnh hưởng của văn minh Ên
Độ đối với Việt Nam thời cổ- trung đại.
4. Cấu tạo của đề tài.
A. MỞ ĐẦU.
B. NỘI DUNG.
CHƯƠNG I. ĐIỀU KIỆN HèNH THÀNH NỀN VĂN MINH ÊN ĐỘ CỔ-TRUNG
ĐẠI.
1. Sơ lược lịch sử Ên Độ cổ- trung đại.
2. Điều kiện hình thành nền văn minh Ên Độ cổ- trung đại.
4
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
CHƯƠNG II. THÀNH TỰU VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CỦA VĂN MINH ÊN ĐỘ
CỔ- TRUNG ĐẠI.
1. Sơ lược những thành tựu văn minh Ên Độ cổ- trung đại.
2. Thành tựu văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ cổ- trung đại.
3. Ảnh hưởng của văn minh Ên Độ cổ- trung đại ở Việt Nam .
C. KẾT LUẬN.

Tài liệu tham khảo.
5
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH NỀN MINH ÊN ĐỘ CỔ- TRUNG ĐẠI
1. Sơ lược lịch sử Ên Độ cổ- trung đại.
Từ khi bước vào xã hội có nhà nước cho đến khi bị thực dân Anh
xâm lược, lịch sử Ên Đé có thể chia làm 4 thời kì lớn sau:
a. Thời kì văn minh lưu vực sông Ên (từ đầu thiên kỉ III đến giữa thiên
kỉ II TCN)
Từ khoảng đầu thiên kỉ III TCN, nhà nước Ên Độ đã ra đời, nhưng
cả giai đoạn từ đó cho đến khoảng giữa thiên kỉ II TCN, trước đây chưa
được biết đến. Mãi đến năm 1921, nhờ việc phát hiện ra hai thành phố
Harapa và Mụhenjụđarụ cũng rất nhiều hiện vật bị chôn vùi dưới đất ở
vùng lưu vực sông Ên, người ta mới biết được thời kì lịch sử này.
b. Thời kỡ Vờđa ( từ giữa thiên kỉ II đến giữa thiên kỉ I TCN).
Thời kì này lịch sử Ên Đé được phản ánh trong bé kinh Vờđa nờn
gọi là thời Vờđa. Vờđa vốn là những tác phẩm văn học, gồm có 4 tập là :
Rớch Vờđa, XamaVờđa, Atacva Vờđa và Yagiva Vờđa, trong đó Rich
Vờđa được sáng tác vào khoảng giữa thiên kỉ II TCN, còn 3 tập Vờđa khỏc
thỡ được sáng tác vào khoảng đầu thiên kỉ I TCN.
Chủ nhân của thời kỡ Vờđa là người Arya (nghĩa là “người cao
quớ”) mới di cư từ Trung Á vào Ên Đé. Địa bàn sinh sống của họ trong
thời kì này chủ yếu là vùng lưu vực sông Hằng. Trong giai đoạn đầu của
thời kỡ Vờđa, người Arya đang sống trong giai đoạn tan rã của xã hội
nguyên thuỷ đến khoảng cuối thiên kỉ II TCN, họ mới tiến vào xã hội có
nhà nước. Chính trong thời kì này, ở Ên Độ đã xuất hiện hai vấn đề có ảnh
hưởng rất quan trọng và lâu dài trong xã hội nước này, đó là chế độ đẳng
cấp (Vacna) và đạo Bàlamụn.
c. Từ thế kỉ VI TCN đến thế kỉ XIX.

- Các quốc gia ở miền Bắc Ên Đé và sự xâm lược của Alechxangđrơ
Makờđụnia.
Bắt đầu từ thế kỉ VI TCN, Ên Đé mới có sử sách ghi chép về tình
hình chính trị của đất nước mỡnh. Lúc bấy giê ở miền Bắc Ên Độ có 16
nước, trong đó mạnh nhất là nước Magađa hạ lưu sông Hằng. Trong số các
nước nh ở Tây Bắc Ên Đé, chỉ có nước Po là tương đối lớn. Năm 327 TCN,
sau khi tiêu diệt quân Ba Tư, quân đội Makờđụnia do Alechxangđrơ chỉ
6
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
huy đã tấn công Ên Đé. Quân đội của nước họ chiến đấu rất dũng cảm
nhưng cuối cùng bị thất bại.
-Vương triều Mụrya (321-187 TCN).
Ngay sau khi Alechxangđrơ rút lui, ở Ên Độ đã dấy lên phong trào
đấu tranh giải phóng chống lại sự chiếm đóng của quõn Makờđụnia. Thủ
lĩnh của phong trào này là Sanđragupta. Quõn Makờđụnia bị đuổi hẳn khỏi
Ên Đé, Sanđragupta làm chủ được cả một vựng Pungiỏp. Tiếp đú ụng tiến
quân về phía đông giành được ngôi vua ở Magadda lập nên một triều đại
mới là Mụrya, triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử Ên Đé cổ đại.
Đến thời Asụka (273-236 TCN), vương triều Mụrya đạt đến giai
đoạn cường thịnh nhất. Đạo Phật ra đời từ khoảng thế kỉ V TCN, đến thời
kì này được phát triển nhanh chóng và trở thành quốc giáo. Sau khi Asụka
chết, vương triều Mụrya suy yếu nhanh chóng, nước Magadda thống nhất
dần dần tan rã, đến năm 28 TCN thì diệt vong.
-Nước Cusan.
Trong khi tình hình chia cắt Ên Đé đang diễn ra trầm trọng thì vào
thế kỉ I, téc Cusan (cùng một huyết thống với người Tuốc) từ Trung Á tràn
vào chiếm được miền Tây Bắc Ên Đé lập thành một nước tương đối lớn.
Vua nước Cusan lúc bấy giê là Canixca (78-123) cũng là một người rất tôn
sùng đạo Phật nên thời kì này Phật giáo cũng rất hưng thịnh. Sau khi
Canixca chết, nước Cusan ngày càng suy yếu, lãnh thổ chỉ còn lại vùng

Pungiap và tồn tại đến thế kỉ V thì diệt vong.
-Vương triều Gỳpta và vương triều Hacsa.
Trong thế kỉ III, Ên độ lại bị chia cắt trầm trọng. Năm 320, vương
triều Gỳp ta được thành lập, miền Bắc và một phần miền Trung Ên độ tạm
thời thống nhất một thời gian. Từ năm 500-528, phần lớn miền Bắc Ên độ
bị người Eptalil xâm chiếm và thống trị, đến năm 535, triều Gupta diệt
vong.
Năm 606, vua Hacssa lại dựng lên một vương triều tương đối hùng
mạnh ở miền Bắc Ên Đé. Năm 648, Hacsa chết, quốc gia hùng mạnh do
ông dựng lên cũng tan rã.
Từ đó cho đến thế kỉ XII, Ên Đé bị chia cắt càng trầm trọng và nhiều
lần bị ngoại téc xâm nhập. Đặc biệt từ đầu thế kỉ XI, Ên Đé thường bị các
7
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
vương triều Hồi giáo ởÂpganixtan tấn công và đến năm 1200, toàn bộ miền
Bắc Ên Đé bị nhập vào Apganixtan.
-Thời kì Xuntan Đờli (1206-1526)
Năm 1206, viên Tổng đốc của Apganixtan ở miền Bắc Ên Độ đó tỏch miền
Bắc Ên Đé thành mét nước riêng tự mình làm Xuntan (vua), đóng đô ở
Đờli, gọi là nước Xuntan Đờli (vương quốc Hồi giáo Đờli). Từ đó đến năm
1526, ở miền Bắc Ên Độ đã thay đổi đến 5 vương triều, nhưng đều do
người ngoại téc theo Hồi giáo thành lập, đồng thời đều đóng đô ở Đờli, nờn
thời kì này gọi là thời kì Xuntan Đờli.
- Thời kỡ Mụgụn ( 1526-1857).
Nước Mông Cổ do Thành Cát Tư Hãn thành lập năm 1206. Sau khi Thành
Cát Tư Hãn chết (1227), đế quốc Mông cổ chia thành nhiều nước. Dòng
dõi của người Mông Cổ ở Trung Á đều Tuốc hoá và đều theo đạo Hồi. Từ
thế kỉ XIII, người Mông Cổ ở Trung Á nhiều lần tấn công Ên Đé. Năm
1526, họ chiếm được Đờli, thành lập vương triều mới gọi là vương triều
Mụgụn (Mông Cổ). Từ giữa thế kỉ XVIII, thực dân Anh bắt đầu chinh

phục Ên Đé, đến năm 1849, Ên độ hoàn toàn biến thành thuộc địa của Anh,
vương triều Mụgụn đến năm 1857 bị diệt vong.
2. Điều kiện hình thành nền văn minh Ên Độ cổ- trung đại.
a. Vị trí địa lý, cư dân.
Ên Đé là một bán đảo hình tam giác, nằm ở phía Nam Châu Á có
dãy núi cao nhất thế giới- Hymalaya ngăn cách châu lục này cho nên Ên
Độ còn được gọi là một “tiểu lục đia.”. Do vậy, Ên Độ chỉ có thể liên hệ
với thế giới bên ngoài bằng đường bộ về phía Tây, qua đèo BoLan (phía
nam Philippin ngày nay) vượt núi TobaKakar, hoặc về phía Tây- tây bắc,
từ Taxila qua Kabul (nay là thủ đô Afghanistan) vượt đóy nỳi Hinducuc
hiểm trở để đến Iran và Trung á. Ngoài ra, Ên Độ cũn cú hai mặt giáp biển,
nằm giữa đường biển từ Tây (Hồng Hải và vịnh BăTư) sang Đông (Biển
Đông và Thái Bình Dương).
Dóy nói Vindhya cắt đôi bán đảo Ên Độ tạo nên ở nửa phía Bắc hai
đồng bằng rộng lớn: ở phía Đông Bắc do sông Hằng tạo nên, nửa ở phía
Nam có cao nguyên Dekan, hai dãy nỳi Đụng Ghats và Tây Ghats chạy dọc
hai bờ Đụng, Tõy của bán đảo tạo nên hai vùng duyên hải hẹp và dài dân
cư đông đúc thuận lợi.
8
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
Từ vị trí địa lý tạo nên khí hậu khác nhau giữa cỏc vựng. Từ cực
nam đến sỏt vựng hạ lưu sông Ên và sông Hằng khí hậu nóng và rất nóng.
Miền Bắc chịu ảnh hưởng của đới chí tuyến đó núng lại rất khụ. Vựng Tây
Bắc khí hậu khụ núng cú sa mạc, vùng Đông Bắc lưu vực sông Hằng lại có
tác động của gió mùa, có mưa cây cối tốt tươi.
Miền Bắc Ên Độ có nhiều sông ngòi và miền Nam lắm rừng nhiều
nỳi, cú hai dải bờ biển dài vào loại nhất thế giới, có sa mạc nóng cháy lại
có mưa theo gió mùa “ Thật là một thiên nhiên vừa đóng kín vừa cới mở,
vừa là một tiểu lục địa thống nhất, cách biệt với bên ngoài, vừa chia cắt và
khác nhau bên trong, vừa hùng vĩ và cực kì đa dạng”

1
.
Cư dân Ên Đé gồm có hai chủng tộc chớnh: người Đrabiđa chủ yếu
cư trú ở miền Nam và người Arya chủ yếu cư trú ở miền Bắc. Ngoài ra còn
có nhiều tộc khỏc như HyLạp, Hung Nô, Ả Rập… là quốc gia đa dõn tộc,
sắc tộc nờn vấn đề bộ téc ở Ên Độ là một vấn đề hết sức phức tạp.
Là một tiểu lục địa với những con sông lớn là sông Ên và sông
Hằng, người bản địa Đrabiđa đó xõy dùng cho mình một nền văn minh lúa
nước ở lưu vực sông Hằng vào cuối thiên kỉ thứ III- còn được gọi là nền
văn minh Mờgiopotami. Đến thiên kỉ II, người Arya tràn vào đã tiếp nhận
toàn bộ nền văn minh của người Đrabiđa và sử dụng thêm công cụ để
thống trị là tôn giáo và đẳng cấp. Đõy chớnh là nguồn gốc tạo nên sự đa
dạng về tôn giáo và sắc téc ở Ên độ.
Tuy vậy, sự đa dạng phức tạp của Ên Độ từ xa xưa vẫn được xem
nh mét thể thống nhất tạo nên nền văn minh Ên Đé.
b. Sù phát triển về kinh tế :
- Nông nghiệp:
Chủ yếu dùa vào nền kinh tế tự cấp tự túc. Trong các làng xã người
nông dân thường ở trong những nếp nhà rơm rạ cổ truyền. Đã bao đời
người nông dân vất vả với ba vụ gặt chớnh cựng ba loại cõy ngũ cốc riêng.
Trong các thế kỉ IV-VII , trước thời kì Gupta Ên Độ đã có những
bước phát triển nhất định về nông nghiệp. Người ta đã biết xác định và
phân loại các thứ đất trồng trọt, sử dụng các biện pháp gieo hạt và dựng
phõn
9
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
1
-Lịch sử thế giới cổ đại-trang 101- Lương Ninh chủ biên. NXB Giáo dục-
1998
bón, đồng thời biết trồng thờm cỏc loại cây mới. Diện tích khai thác cũng

được mở rộng nhờ khai phá rừng rậm và đất hoang. Nhiều công trình thuỷ
lợi lớn nhỏ được xây dựng để phục vụ cho nhu cầu tưới nước trong nông
nghiệp.
Sang thời Gupta (thế kỉ IV- VI) và thời Hacssa (thế kỉ VII), các công
trình thuỷ lợi tiếp tục được xây dựng và mở rộng. Người ta đào thêm nhiều
kênh dẫn nước nối liền đồng ruộng với cỏc sụng nhỏ và xây nhiều đập
ngăn nước qua những dòng sông. ở những nơi ruộng cao, người ta sử dụng
những xe nước do bũ kộo. Loại xe này giảm được nhiều sức lao động của
con người lại có thể đưa nước từ hồ và sông lên cao tới 2m. Nhiều loại cõy
cụng
nghiệp và cây lương thực được trồng nh: lúa, lúa mì, lúa mạch, kê, đậu,
vừng, lạc, bông, đay, lanh, chàm… Ngoài ra người ta còn trồng nhiều loại
cây rau quả và cả các loại cây gia vị nữa. ởnhiều nơi người ta còn trồng
dừa, là loại cây được coi là rất quớ. Bên cạnh trồng trọt người ta cũn nuụi
rất nhiều loài gia sóc nh trõu, bò, lạc đà…
Từ giữa thế kỉ VII- thế kỉ XII, đất nước bị chia cắt, nội chiến và sự
xâm nhập liên tục của ngoại tộc đó làm cho nền kinh tế Ên độ thời kì này
sa sót. Tuy vậy, để phục vụ cho chiến tranh và nhu cầu tiêu dùng của giai
cấp thống trị, bọn phong kiến cũng đã tìm cách duy trì sù phát triển kinh tế
ở một mức độ nhất định. Dùa vào đất đai phì nhiêu người ta đã canh tác hai
mùa trong một năm và áp dụng kĩ thuật mới mà người nông dân đó cú sản
phẩm dư thừa để đem trao đổi.
Đến thời kì Xuntan Đờli, nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong
nền kinh tế Ên Độ. Nhà nước đó cú nhiều biện pháp để phát triển đặc biệt
là việc tiến hành xây dựng các công trình thuỷ lợi và mở rộng diện tích
canh tác. Xuntan Ala Utđin (1296-1316) đã cho xây dựng một hồ chứa
nước rất lớn ở ngoại thành Đờli, cú chiều dài 0,5 dặm và rộng 0,4 dặm, nhờ
đó mà tưới nước cho cả một vùng rộng lớn. Đến thời trị vì của Phiruđơ Sat
(1357-1388) người ta lại đào một con kênh dài gần 200 km.
Đất đai trồng trọt cũng được khai thác nhiều hơn, đặc biệt là những

vùng đất đai phì nhiêu dọc theo những dòng sông. Nhờ vây, diện tích gieo
10
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
trồng được mở rộng, nhiều làng mới được mọc lên. Người ta trồng nhiều
loại cây nhưng lúa là cây trồng chính “ Có tới 21 loại lúa được trồng ở Ên
độ thời kì này”
1
. Các biện pháp thâm canh và kĩ thuật canh tác để chú ý dẫn
tới một năm có thể thu hoạch từ 2 đến 3 vô.
- Thủ công nghiệp:
Trong thời kì từ Gỳpta đến Hacsa khá phát triển. Nghề dệt là phổ
biến nhất và giữ ý nghĩa hàng đầu trong kinh tế thủ công nghiệp. Chỉ với
những khung cửi thô sơ những người thợ dệt thủ công Ên độ đã dệt được
những tấm vải mỏng, mềm và nhẹ, màu sắc rực rỡ không phai. Nó trở
thành một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của Ên Độ mà
phương Tây rất ưa thích.
Nghề khai mỏ cũng phát triển. Người ta khai thác sắt, đồng, vàng,
muối và các loại đỏ quớ. Nhờ khai thác được nhiều kim loại mà các nghề
luyện kim, rèn và làm đồ trang sức thời kì này đạt đến độ hoàn thiện. Vào
thế kỉ V, những người thợ luyện kim Ên Độ đó đỳc một cột sắt cao 7,25m,
nặng 6500 kg ở Đờli, mà điều đáng kinh ngạc là cho đến nay trải qua hàng
ngàn năm cột sắt đó vẫn hầu nh không han rỉ. Cũng ở thế kỉ naỳ người ta
đó đỳc được một bức tượng Phật bằng đồng cao 2 m.
Nghề làm đồ trang sức cũng rất nổi tiếng chỉ đứng sau nghề dệt.
Người dân Ên Độ giàu hay nghèo đều rất thích đeo đồ trang sức và để cất
giữ. Đồ trang sức thường bằng bạc, vàng, đỏ quớ…Nghề đóng thuyền cũng
đạt được những thành tựu đáng kể. Người ta đó đúng được những con
thuyền lớn chở hàng trăm người, có buồm và nhiều chèo, thích hợp cho
những cuộc du hành xa xôi trên biển. Nghệ thuật xây dựng cũng đạt mức
cao phổ biến là xây nhà bằng đá và xây dựng đền chùa trong các hang

động.
Thợ thủ công lành nghề được tập hợp lại thành những đẳng cấp riêng
biệt: đẳng cấp thợ dệt, thợ vàng, thợ giày…
- Thương nghiệp:
11
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
Sông Hằng cùng với cỏc nhỏnh của nó trở thành mạch máu giao
thông chính của vùng Bắc Ên. Nhiều con đường buôn bán nối liền cỏc
vựng khác nhau trên bán đảo cũng được hình thành, trên đó thường có
nhiều đoàn súc vật chở hàng hoá đi lại. Hàng hóa dùng để trao đổi thường
là kim
1
-Đại cương lịch sử thế giới trung đại-trang 206- Nguyễn Gia Phu, Nguyễn
Văn Ánh….NXB Giáo dục-1997.
loại, muối, gạo. Ngoài ra cũn cú cỏc loại hàng được coi là xa xỉ nh vải quớ
và ngựa chiến. Thời Gupta các thương nhân Hy lạp, La Mã thường đổ xô
vào thị trường Ên. Họ mua hương liệu, dầu thơm, thuốc dán và phải trả với
giá rất đắt các hàng gấm, lụa, và hàng dệt đồ kim tuyến của Ên Độ. Thời đú
cỏc đoàn súc vật chở hàng hoá sang phương Tây đi theo một nhánh của
“con đường tơ lụa”, từ Ên Độ qua Apganixtan đến Trung á, qua Ba Tư,
Lưỡng Hà rồi đến Địa Trung Hải.
Ngoại thương của Ên Độ bằng đường biển cũn nhộn nhịp hơn nhiều.
Thời Gupta và Hacsa, các hải cảng Tamralipti ở cửa sông Hằng, Brốc và
Campõy ở bờ biển Tây Bắc Ên Độ là những hải cảng chủ yếu. Các thương
nhân Ên Độ từ những hải cảng này vượt biển đến buôn bán ở Ai Cập,
Trung Quốc, các nước Đông Dương, các đảo thuộc quần đảo Mã Lai, trong
đó có nhiều người lập nghiệp ở nước ngoài, gây dựng được những thực địa
buôn bán gọi là các “làng Ên Độ”.Những người này dần hoà với dân cư địa
phương đóng vai trò lớn trong việc truyền bá văn hoá Ên Độ.
Ngoài ra việc nhập những hàng của nước ngoài cũng khá phổ biến

đặc biệt là ngựa chiến thông qua lái buôn Iran và Arõp.
c. Sù ra đời của thành thị.
Cuối thế kỉ XIX, các nhà khảo cổ học mới tìm và khai quật đầy đủ
hai di chỉ khảo cổ là hai thành phố cổ Harappa và Mohendjo Daro trên triền
sông Indus. Tiếp đó hàng loạt các thành thị cổ khác được phát hiện như
Kot Diji, Kalibõngan…
Mỗi thành phố cổ này gồm có hai khu: khu thành là nơi có dinh thự,
đền đài và khu cư dân. Khu dân cư là những đường phố qui hoạch tốt và
một hệ thống tiêu nước đàng hoàng thường xuyên được nạo vét, có những
12
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
ngôi nhà hai tầng xây bằng gạch nung với những nhà tắm công cộng và
những nhà tắm riêng. ở đõy cũn cú những nhà kho đựng lúa, những quầy
hàng kiểu cửa hàng nhỏ nằm liền một dãy, những kho hàng gắn liền với
những ngôi nhà riêng rộng rãi.
Ở Harappa người ta đã tìm thấy tới 2000 con dấu hình vuông hoặc
chữ nhật, bằng đất nung, có hình người hoặc thó và có chữ.
Trong suốt thời gian từ thế kỉ VII đến thế kỉ XII, đất nước thường
xuyên xảy ra các cuộc chiến tranh do vậy nhiều thành phố đã bị sụp đổ
nhưng sinh hoạt thành thị vẫn được duy trì ở những địa điểm đã biến thành
thủ đô của các tiểu quốc phong kiến và ở miền duyên hải. ở các thành thị
vẫn luôn diễn ra các hoạt động thủ công và thương nghiệp.
Tuy thành thị là trung tâm của các hoạt động công thương nghiệp ,
song thành thị vẫn không tách rời hẳn với nông thôn. Các thợ thủ công
thành thị, ngoài nghề riêng vẫn có đất đai để cày cấy. Tính chất nông
nghiệp của thành thị đó vẫn được duy trì suốt thời kì phong kiến.
Sang thời kì Xuntan Đờli xuất hiện nhiều thành phố lớn. Đó chủ yếu
là nơi trú ngụ của Tuntan và các quan cai trị địa phương, nờn cú nhu cầu
lớn về tiêu thụ các sản phẩm thủ công nghiệp và nông nghiệp. Do vậy,
thành phố là nơi có thủ công nghiệp phát triển. Khác với nông thôn, thủ

công nghiệp ở thành phố có sự phân công giữa các ngành nghề khá tỉ mỉ.
Phẩm chất của sản phẩm thủ công ở thành phố cũng tốt hơn.
Ngoài ra, cũn cú những thành thị tồn tại gắn liền với ngoại thương.
Đó là những hải cảng ở vịnh Bõngan, biÓn Arập, và một số địa điểm trờn
cỏc đốo ở dọc các đường thương mại lớn.
Các thợ thủ công sống ở thành thị tổ chức thành phường hội. Các
nhà buôn chuyên chở và trao đổi hàng hoá từ hạ lưu sông Hằng đến cửa
sông Indus rồi theo đường biển đến vịnh BaTư và Hồng Hải, hoặc ngược
sông Hằng đến Punjab, qua Taxila, theo đường bộ đến Iran và Tiểu Á.
Trong việc buôn bán, người Ên Độ đã đúc tiền bạc và đồng.
Như vậy, sự ra đời của thành thị thường gắn liền với sự phát triển
của thủ công thương nghiệp. Từ đó nền kinh tế hàng hoá hình thành phục
vụ cho nhu cầu của người dân thành thị, quan hệ giữa con người trong
thành thị cũng khác hẳn với quan hệ giữa con người ở nông thôn. Nhu cầu
của con người trong thành thị lớn đòi hỏi những người thợ thủ công phải
13
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
sáng tạo, phải suy nghĩ để đáp ứng những yêu cầu đó và từ đó làm nảy sinh
kỉ thuật mới, các thiết chế xã hội ngày càng phức tạp hơn. Một nhà văn
minh học người Pháp đã nói “Văn minh ra đời ở túp lều tranh của người
nông dân nhưng chỉ nở hoa ở đô thị”.
Với vị trí địa lý tương đối đặc biệt cùng với sự phát triển kinh tế thủ
công thương nghiệp đã làm nảy sinh thành thị để từ đó đã tạo ra nền văn
minh Ên Đé đặc sắc trong lịch sử thế giới. Đõy chớnh là những điều kiện
làm nảy sinh và phát triển văn minh Ên Độ.
CHƯƠNG II. NHỮNG THÀNH TỰU VĂN HỌC NGHỆ THUẬT CỦA VĂN
MINH ÊN ĐỘ CỔ- TRUNG ĐẠI.
1. Sơ lược những thành tựu văn minh Ên Độ cổ- trung đại.
1.1. Chữ viết.
Chữ viết đầu tiên của Ên Đé được sáng tạo từ thời Harappa là những

chữ khắc đồ hoạ để đóng trờn cỏc kiện hàng để xác nhận hàng hoá và xuất
xứ của những hàng hoỏ đú.
Đến khoảng thế kỉ V TCN, ở Ên Độ xuất hiện một loại chữ nữa gọi
là chữ Kharosthi. Đây là loại chữ phỏng theo chữ viết của người Lưỡng Hà.
Sau đó là chữ Brami là loại chữ được sử dụng rộng rãi. Trên cơ sở chữ
Brami người Ên Độ đã đặt ra chữ Đờvanagari cú cách viết đơn giản thuận
tiện hơn. Đó là thứ chữ mới để viết tiếng Xanxcrit. Đến nay ở Ên Độ và
Nờpan vẫn dùng loại chữ này.
1.2. Văn học.
Ên Độ là nước có nền văn học rất phát triển gồm có hai bộ phận
quan trọng là Vờđa và sử thi.
Vờđa vốn nghĩa là hiểu biết gồm có bốn tập là Rớch Vờđa, Xama
Vờđa, Yagiua Vờđa, Atỏcva Vờđa.
Sử thi gồm có hai bộ sử thi đồ sộ là Mahabharata và Ramayana. Hai
bộ sử thi này được truyền miệng từ đầu thiên kỉ I TCN rồi được chép lại
bằng khẩu ngữ, đến các thế kỉ đầu công nguyên thì được dịch ra tiếng
Xancrit.
1.3. Nghệ thuật.
Nghệ thuật Ên Độ rất phong phú và đa dạng. Các khía cạnh của nghệ
thuật Ên Độ như: mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, lễ hội… đã góp phần làm
rực rỡ nền văn minh Ên Độ.
14
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
1.4. Khoa học và kĩ thuật.
Mặc dầu áp lực của tôn giáo rất manh nhưng do nhu cầu của cuộc
sống hàng ngày, nhân dân Ên Độ đã có nhiều phát minh quan trọng về một
số môn khoa học tự nhiên như thiên văn, toán học, vật lý, y dược học…
1.5. Tôn giáo.
Ên Đé là nơi sản sinh ra rất nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất
là đạo Bàlamụn về sau là đạo Hinđu và đạo Phật. Ngoài ra còn một số tôn

giáo khác như đạo Jain, đạo Xích.
2. Thành tựu văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ cổ- trung đại.
Nền văn minh trên bán đảo Ên Độ phát triển một cách đều đặn lạ
thường từ thời Mụhengiụ- Đarụ cho đến tận ngày nay đặc biệt là ở thời kì
cổ- trung đại. Tiêu biểu cho những thành tựu đó là lĩnh vực văn học- nghệ
thuật đã để lại cho nhân loại một kho tàng tri thức có giá trị nhân văn và
nghệ thuật cao.
2.1. Thành tựu văn học.
Văn học Ên Độ đặc bịờt là văn học dân gian rất phát triển và có
những thành tựu đứng vào hàng nhất nhì trên thế giới Ýt cú dõn tộc nào
sánh kịp. Người Ên Độ đã sáng tác ra những tác phẩm làm kinh ngạc hậu
thế tiêu biểu là Vờđa và hai bộ sử thi Mahabharata và Ramayana.
2.1.1. Vờđa.
Vờđa vốn nghĩa là hiểu biết. Vờđa cú 4 tập là Rớch Vờđa, Xama
Vờđa, Yagiua Vờđa và Atỏcva Vờđa.
Ba tập Vờđa trờn gồm những bài ca và những bài cầu nguyện phản
ánh tình hình người Arya tràn vào Ên Độ, tình hình tan rã của chế độ thị
téc, tình hình cư dân đấu tranh với thiên nhiên như hạn hán, lũ lụt. Trong
đó, Rớch Vờda với 1.028 bài thơ là tập quan trọng nhất.
Còn Atacva Vờđa chủ yếu bao gồm các bài chú nhưng nội dung mà
tập Vờđa này đề cập đến các mặt như chế độ đẳng cấp, việc hành quân,
chữa bệnh, đánh bạc và cả tình yêu nữa.
Ca ngợi thần sét Inđra, Rich Vờđa viết:
Tôi muốn ca ngợi sự tích anh hùng của thần Inđra,
Những chiến công của vị thần Thiên Lôi Êy,
Ngài đó chộm con ác long cho nước mưa tuôn chảy,
Và mở toang các hang động trên non cao.
15
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
Nói về uy quyền của đẳng cấp Bàlamụn khi họ làm cố vấn tôn giáo

cho nhà vua, Atacva Vờđa viết:
Sắc hơn lưỡi búa,
Sáng hơn ngọn lửa,
Vang hơn tiếng sét của Inđra
Cố vấn của người như thế chính là ta.
Trong Atacva Vờđa cũng có những bài thơ tỏ tình:
Như giã lay ngọn cỏ,
Anh lay chuyển lòng em,
Rồi em sẽ yêu anh
Và không rời anh nữa.
Kế tiếp theo 4 tập Vờđa và có liên quan với Vờđa cũn cú cỏc tác
phẩm Bramana, Araniaca, Ypanisat… Những sách này đều viết bằng văn
xuôi, nội dung bao gồm những bài cầu nguyện, thần chú, những nghi thức
cúng bỏi, những bài thuyết pháp, những lời giải thích triết lí trong kinh
Vờđa chứ về văn học thì không có giá trị gì đáng kể.
2.1.2. Sử thi.
Người Ên Đé cổ đại đã để lại hai bộ sử thi vĩ đại vừa có giá trị về
văn học, vừa có giá trị về sử liệu (phản ánh tình hình xã hội ở miền bắc Ên
Độ vào những thế kỉ đầu của thiên niên kỉ I TCN), đó là hai bộ sử thi
Mahabharata và Ramayana.
- Mahabharata: là một trường ca dài có 18 chương và một chương
bổ sung tài liệu, gồm 222.000 câu là 107.000 khổ thơ. Đây là bộ sử thi dài
nhất thế giới, “so với cả hai bé Iliat và ễđixờ của HyLạp cổ đại gộp lại còn
dài hơn 8 lần”
1
. Tương truyền rằng người biên soạn bộ sử thi này là Viasa
(từ này có nghĩa là người sưu tập) thực tế nó đượctập hợp và chỉnh lí bởi
hàng trăm thi sĩ dân gian từ những năm đầu của thiên niên kỉ I TCN đến
thời Gupta, thế kỉ IV TCN.
Chủ đề của tác phẩm là cuộc đấu tranh trong nội bộ một dòng họ đế

vương ở miền Bắc Ên Độ. Bởi vậy, tập thơ lấy tên là Mahabharata nghĩa là
“ Cuộc chiộn tranh giữa con cháu Bharata”.
Truyện kể về nàng (nữ thần) Sơkuntơla xinh đẹp, sinh hạ được một
người con trai dũng mãnh, tên là Bharat. Bharat chính là vua thuỷ tổ của
người Ên Độ.Đây là câu chuyện diễn ra trong nội bộ vương téc Bharat.
16
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
Bharat là vị “ vua” đầu tiên của bộ lạc Bharat, mét trong những bộ lạc của
người Arya xâm nhập đầu tiên vào Ên Đé. Bộ lạc này có hai anh em là
Yudhishthira và Panđava. Vì người anh bị mự nờn Panđava được làm vua.
Yudhishthira có 100 con trai, gọi chung là anh em Kuru, còn Panđava có 5
con trai, gọi chung là anh em Panđu. Sau khi Panđava chết, anh em Kuru


1
-Lịch sử văn minh thế giới-trang 75- Vũ Dương Ninh chủ biên. NXB
Giáo dục- 2006.
anh em Panđava chia đôi vương quốc. Nhưng vì muốn chiếm toàn bộ đất
đai, anh em Kuru đó thỏch anh em Panđava đánh bạc.Vua Yudhishthira của
người Kuru chơi đánh đố, mang cả vương quốc, gia tài , vợ con, anh em ra
đánh cược, nếu thua sẽ phải để lại đất đai, của cải, bỏ đi biệt xứ 12 năm.
Phe Kuru chơi gian nên thắng. Phe Pandava phải nhận điều kiện thua. Sau
12 năm, phe Pandava trở về đòi giữ lời hứa, trả lại đất đai, của cải. Phe
Kuru bội ước, thế là chiến tranh xảy ra.
Mỗi bên đều lôi kéo đồng minh của mình và hầu như toàn bộ miền
Bắc Ên độ vào cuộc chiến. Cuộc chém giết tàn khốc đã diễn ra. Trờn cánh
đồng Kurukshetra, huyết chiến liên tiếp không nghỉ trong suốt 18 ngày
đêm. Kết cục là bên Pandava tử trận gần hết, cũn bờn Kuru thì không còn
người nào sống sót. Riêng chàng dũng sĩ Bhisma một mình giết được 10
vạn đối phương trong 10 ngày (theo các nhà thơ cổ tổng số chết lên đến

hàng trăm triệu).
Sử thi đã nêu rõ cuộc tranh chấp giữa hai dòng họ Pandava và Kuru
đều thuộc dòng dõi vương téc Bharat chứng tỏ xã hội đã phân hóa, chế độ
tư hữu tài sản đã phát sinh và phát triển, tư tưởng cá nhân chủ nghĩa đã dẫn
đến sự tranh giành của cải, đất đai và quyền lực chính trị ngay trong nội bộ
một vương téc. Trường ca Mahabharata là một bản anh hùng ca chiến trận
của tầng líp Kshatriya nhưng sự tích chiến trận chỉ chiếm 20% số câu, phần
còn lại mượn lời các nhân vật để nói về thiết chế đẳng cấp, về lễ nghi, luật
pháp, về những nguyên tắc đạo đức…
Xoáy vào cốt truyện Êy, bộ sử thi này đã miêu tả rất nhiều cảnh khác
nhau với những chi tiết li kì như cảnh ăn chơi xa hoa ở chốn cung đình,
những cuộc tình duyên Ðo le nhưng chung thuỷ, những cảnh sinh hoạt
17
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
trong xã hội lúc bấy giê và đậm nét nhất là cảnh chiến đấu anh dũng nhưng
vô cùng thảm khốc. Hơn nữa cùng với thời gian, những câu chuyện như
vậy không ngừng được bổ sung vào làm cho tác phẩm càng thêm phong
phó. Đặc biệt được đưa vào cả một tác phẩm tôn giáo Bhagavadgita dài
trên 700 câu thơ, mà các tín đồ đạo Hinđu sùng kính ngang với các kinh
điển khác.
-Ramayana: là một trường ca dài 24.000 khổ thơ (chưa bằng 1/4 của
Mahabharata), có 7 chương trong đó chương I và chương VII về sau mới
thêm vào có cốt truyện được kết cấu chặt chẽ hơn Mahabharata. Tương
truyền tác giả là Vanmiki, nhưng có lẽ ông chỉ là người chỉnh lí, hoàn thiện
một công trình tập thể của hàng trăm nghệ sĩ dân gian, sáng tác trong thời
gian dài hàng thế kỉ. Ramayana phản ánh giai đoạn muộn hơn
Mahabharata, khi người Arya đã mở rộng địa bàn cư trú về phía đông, đến
trung và hạ lưu sông Hằng, đã tiến về phương Nam và vượt biển sang đảo
Lan ka.
Chủ đề của tác phẩm này là câu chuyện tình duyên giữa hoàng tử

Rama và người vợ chung thuỷ Sita.
Trong thời Vờda, vương quốc Cụxala được sống trong cảnh thanh
bình dưới sự trị vì của vua Đaxarađa. Người con trưởng của vua là Rama,
mét thanh niên thông minh dũng cảm và có đạo đức được vua chọn làm
thái tử nối ngôi.
Gần đó, có một vương quốc khác là Viđờha, dân chúng cũng được
an cư lạc nghiệp dưới quyền thống trị của vua Giănăc. Bản thân vua cũng
cầm cày cày ruộng. Một hôm nhà vua đang cày, bỗng thấy từ trong luống
cày hiện lên một thiộu nữ xinh đẹp. Nhà vua đem về nuôi, đặt tên là Sita và
coi như con. Khi Sita đến tuổi lấy chồng, nhà vua tổ chức một cuộc thi bắn
cung để kén phò mã. Nhiều thanh niên tham dự cuộc thi, nhưng chỉ có
Rama giương nổi cây cung của nhà vua. Rama đượckết hôn với cụng chúa
Sita.
Nhưng một ái phi của vua Đaxarata vì ghen với hoàng hậu có con
trai là Rama được làm thái tử nối ngôi nên yêu cầu vua đày ra khỏi đất
nước 14 năm.
Rama cùng Sita đến sống ở trong rừng. Một cụng chúa goỏ chồng
một hôm dạo chơi trong rừng gặp Rama rồi đem lòng yêu chàng. Bị từ chối
18
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
quyết liệt, nàng cụng chúa Êy tức giận nên bảo em trai mình là Ravan, vua
nước quỉ ở đảo Lanka bắt cóc Sita.
Nhờ sự giúp đỡ của vua nước Vượn là Xugriva, Rama tổ chức được
một đội quân gồm toàn vượn và gấu. Theo lệnh của Rama, một cái cầu
được xây dựng nối liền lục địa với đảo Lanka. Ngày nay, giữa Ên Độ và
Xrilanca có những hòn đảo mà theo truyền thuyết cư dân địa phương, đú
chớnh là dấu vết của cái cầu Êy. Với đội quân vượn và gấu đó, Rama đánh
bại vua nước quỉ và cứu được Sita. Thời gian đi đày cũng hết, Rama trở về
đất nước của mình và lên làm vua.
Chương cuối do người đời sau thêm vào kể tiếp rằng mặc dầu Sita đã

thắng được cuộc thử lửa, Rama vẫn nghi ngờ nàng không giữ được trinh
tiờt với mình trong thời gian ở trong cung điện của Ravan, nên Rama đã
đày vợ vào rừng. Tại đây, Sita sinh được hai đứa con trai và gặp Vanmiki
mà về sau trở thành tác giả của tập thơ. Lớn lên hai đứa con Êy trở thành
người đi hát rong và một hôm chỳng đó hỏt cho Rama nghe bản trường ca
Ramayana. Rama nhận ra con mình, sai sứ giả vào rừng đón Sita về cung.
Sita được minh oan nhưng vẫn đau khổ vỡ đó bị chồng nghi ngờ nên biến
vào lòng đất, người mẹ trước đây đã sinh ra nàng từ luống cày. Rama tiếp
tục trị vì trong nhiều năm nữa, nhân dân được sống yên vui, nhưng bản
thân ông phải sống trong cảnh buồn rầu cô độc.
Ramayana cũng giống như Mahabharata phản ánh một xã hội đang
phân hóa, đứng trước ngưỡng cửa của xã hội có giai cấp và sự hình thành
nhà nước. Cuộc xung đột giữa Rama và Ravana phải chăng là sự đấu tranh
trên con đường phát triển giữa cư dân nông nghiệp ở lưu vực sông Hằng
với dân săn bắn và lượm hái trong vùng núi Vinđya.
2.1.3. Những tác phẩm của Caliđasa.
Caliđasa là nhà thơ và nhà soạn kịch lớn nhất thời Gupta (thế kỉ V).
Trường ca Mờgađuta của ông là một bài thơ trữ tình mẫu mực. Nhưng
những vở kịch do ông sáng tác còn được giữ lại đến nay mới được coi là
thành công nhất của ông trong đó tiêu biểu là vở Sơcuntơla. Vở kịch này là
niềm tự hào của nhân dân Ên Độ trong suốt 15 thế kỉ qua,và đã đưa
Caliđaxa lên hàng các nhà văn lớn của thế giới.
Vở kịch Sơcuntơla vốn phỏng theo một câu chuyện dân gian chép
trong sử thi Mahabharata, nhưng đã được tác giả cải biên và thêm nhiều
19
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
tình tiết. Nội dung của vở kịch miêu tả câu chuyện tình duyên giữa nàng
Sơcuntla và vua Đusơnta, trải qua nhiều Ðo le trắc trở, cuối cùng hai người
được đoàn tụ và được hạnh phóc đời đời.
Tuy là một nhà soạn kịch cung đình, lại chịu ảnh hưởng của đạo

Bàlamụn, nhưng Caliđaxa đã thể hiện trong tác phẩm của mình tư tưởng tự
do, chống lại lễ giáo khắt khe, lên án bản chất giả rối lừa gạt, không chung
thuỷ của giai cấp thống trịvà trờn chừng mực nhất định đã chống quan
niệm về đẳng cấp.
2.1.4. Các tác phẩm văn học viết bằng các phương ngữ.
Trong các thế kỉ XII- XV, văn học Ên Độ phát triển khá mạnh. Thời
kì này xuất hiện nhiều tác giả với các tác phẩm văn học viết bằng các tiếng
địa phương khác nhau.
Vào thế kỉ thứ XIII, nhà thơ Tichcala đã dịch 15 chương trong bộ sử
thi Mahabharata ra tiếng Tờlugu, làm cho nền văn học cổ điển càng được
phổ cập rộng rãi.
Đến thế kỉ XVI, XVII, dưới triều Mụgụn, cú một số nhà thơ đã sáng
tác bằng tiếng BăTư. Tuy nhiên, phong phú nhất vẫn là nền văn học bằng
tiếng Inđi và các loại ngôn ngữ địa phương khỏc. Thiờn trường ca
Ramayana do Tunxi Đat viết bằng tiếng Inđi là một tác phẩm nổi tiếng
được nhân dân rất ưa thích.
Tập thơ Xuốc của nhà thơ mự Xuục Đat viết bằng một loại phương
ngữ khác trong tiếng Inđi mà chủ đề chính là chủ nghĩa anh hùng và tình
yêu cũng là một tác phẩm có giá trị.
Đặc trưng chung của nền thi ca giai đoạn này là dùng ngôn ngữ dân
gian chứ không dùng ngôn ngữ cung đình, đồng thời còn sử dụng nhiều
chất liệu trong văn học dân gian, phản ánh được tâm tư nguyện vọng của
quần chúng nên được nhân dân rất thớch thú.
2.2. Thành tựu nghệ thuật.
Thời cổ- trung đại, Ên Độ đó cú một nền nghệ thuật phong phú đặc
sắc bao gồm nhiều mặt, trong đó nổi bật nhất là các ngành kiến trúc, điêu
khắc. Thời Harappa, nhà cửa chỉ mới xây bằng gạch, đến thời vương triều
Mụrya, nghệ thuật kiến trúc đá mới bắt đầu phát triển mà các công trình
tiêu biểu là cung điện, chựa thỏp, trụ đỏ…
20

Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
Asụca đã xõy cho mình một toà hoàng cung rất lộng lẫy. Cung điện
chính là một toà nhà ba tầng và được trang sức bằng những tác phẩm điêu
khắc rất đẹp.
Tháp mé tiếng Xanxcrit là stupa, tiếng Pali và thupa. Tháp mộ lúc
đầu có hình dáng một cái nấm hình bán cầu khổng lồ, được xây bằng gạch
sống, phần ngoài bằng gạch nung và ngoài cựng cú trỏt một líp thạch cao
dầy. Bên trong nấm mộ có một căn phòng nhỏ chứa di cốt hoặc vật thiêng
(xá lợi) của đức Phật. Xá lợi của đức Phật đựng trong một cái tiểu nhỏ bằng
pha lê rất đẹp. Phía trên ngọn nấm mộ, người ta dựng một cái lọng lớn
bằng gỗ hay đá để che cho xá lợi. Chung quanh nấm mộ có một hàng lan
can bằng gỗ bọc ngoài một lối đi nhỏ dung làm lối đi hành lễ hay rước
sách. Hiện nay chỉ còn một ngụi thỏp mộ duy nhất ở Nờpan giữ được hình
dáng nguyên thuỷ của thời Asụka, cũn cỏc ngụi khỏc đều đã sửa đổi nhiều.
Trong số cỏc thỏp cũn giữ đến ngày nay, điển hình nhất là tháp Xansi ở
Trung Ên, xây từ thế kỉ III TCN. Tháp này xây bằng gạch, hình nửa quả
cầu, cao hơn 16m, xung quanh có lan can có bốn cửa lớn. Lan can và cửa
đều làm bằng đá và được chạm trổ rất đẹp.
Trụ đá cũng là một công trình kiến trúc dùng để thờ Phật. Những trụ
đá này trung bình cao 15m nặng 50 tấn, trên đá chạm một hoặc nhiều con
sư tử và các hình trang trí khỏc. Cỏc sắc lệnh của Asụka thường được khắc
trờn cỏc trụ đá đó. Trong số các hình trụ đá còn lại, nổi tiếng nhất là trụ đá
ở Xỏcan. Trờn đỉnh trụ đá này có chạm 4 hình con sư tử chụm đuôi vào
nhau, mặt nhìn ra 4 hướng trong tư thế tự vệ. Dưới sư tử, có hình bánh xe
luân hồi. Hình tượng này nay được vẽ thành quốc huy của nước Ên Độ.
Trong số cỏc chựa đền của các tôn giáo như Bàlamụn, đạo Phật, đạo
Jain, chùa hay là một loại công trình đặc biệt của Ên Độ thời cổ- trung đại,
thường là những công trình nghệ thuật kết hợp kiến trúc với điêu khắc, hội
hoạ. Tiêu biểu cho loại công trình này là chùa hang Ajanta được kiến tạo từ
thế kỉ II TCN đến thế kỉ VIII sau CN. Trong ngót một nghìn năm, các nhà

kiến trúc cùng những người thợ xây dựng và điêu khắc của nhiều thế hệ, đã
tạo ra công trình kì vĩ này.
21
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
Dóy chùa hang Ajanta gồm tất cả 29 gian dùng để làm nơi thờ Phật,
nơi giảng kinh và nơi ở của các nhà sư. Người ta đã lợi dụng hang đá, vách
đá, rồi công phu đục đẽo hàng cột phía ngoài cao từ trên đến mái, tạo nên
tiền sảnh trước vòm hang.
Chính giữa là một khoảng trống, rộng trong lòng hang, dùng làm
Caityagrihaa (hay phòng chung), tức lễ đường và gần đáy lễ đường (nhưng
khụng giỏp vỏch hang) là bàn thờ để làm lễ, mà theo tập quán Ên độ,
người ta có thể đi vòng quanh, ngược nhiều kim đồng hồ. Xung quanh lễ
đường là một chuỗi ô nhỏ, là các trai phòng (vihara), nơi nghỉ của các sư
tăng. Hang Ajanta sè 1 có 16 trai phòng, hang Nasik sè 3 có 20 trai phũng,

Trờn các chân cột, đầu tiền sảnh và bàn thờ, có phù điêu tạc hình
Phật. Trờn cỏc vỏch hang Ajanta, người ta đó dựng phẩm màu vẽ và chạm
khắc nhiều hình nói về sự tích Đức Phật.
Ngoài chùa hang Ajanta, dóy chựa hang Enlụra ở Trung Ên kiến tạo
vào thế kỉ VIII cũng là một công trình tuyệt mĩ. Dóy chựa này dài khoảng
2km, bao gồm chùa Phật giáo, chùa đạo Hinđu và chùa đạo Jain.
Từ thế kỉ VII- VIII, bắt đầu xuất hiện những kiến trúc đá ở miền
Nam. Những công trình này gọi là Rath, làm bằng vật liệu vĩnh cửu, bằng
đá, nhiều khi được đục đẽo từ một tảng đá lớn nguyên khối thành hình đền
thỏp, cú núc vũm, đỉnh nhọn, có hàng cột, điện thờ, phù điêu thần…Vào
thế kỉ VIII đền lộ thiờn Cailasa được xây dựng cũng là một công trình kì
diệu của loại kiến trúc và điêu khắc tạc trong núi đá. Đền cao 30m, rộng
60m và sâu 40m, cú phũng rộng bên trong, những điện thờ khác nhau với
chi tiết đầy đủ, có trụ đá được chạm khắc, tượng voi lớn bên ngoài, vô số
tượng Phật và các hình trang trí rất tinh vi… tất cả đều được tạc ra trong

một khối núi đá độc nhất. Điều kì diệu là tất cả cỏc ngụi đền với các chi tiết
của nó đều đạt tới một trình độ rất cao. Chẳng hạn như các tượng Siva,
Pỏcvati và Đamụna… được coi là những tác phẩm điêu khắc vào loại đẹp
nhất của nghệ thuật tạo hình Ên Độ.
Tuy nhiên, vì mang nặng tính chất tôn giáo và để phục vụ tôn giáo,
điêu khắc Ên Độ thời kì này có đặcđiểm chung là: mô tả người không được
chính xác và sinh động. Các tượng hình người thường kì dị với nhiều đầu,
22
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
nhiều tay và những tư thế kì quặc. Chỉ có những tượng động vật đặt ở
ngoài đền thì được các nhà điêu khắc dân gian mô tả rất sinh động và hoàn
toàn không theo hình thức tôn giáo.
Ở thế kỉ X- XII, các vương triều Salukya và Sụla ở miền Nam không
chỉ chú trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, chính trị mà còn rất quan tâm
xây dựng đền tháp Hinđu giỏo. Cỏc vương triều Sụla đặc biệt tôn sùng
Siva, nhất là Siva dưới hình tượng Vua múa. Nhiều đền thỏp đó được hoàn
thành và nhiều tượng Siva – vua mỳa đó được sáng tạo thành một kiểu hình
tượng rất đặc biệt.
Vương triều Sụla nổi tiếng vì những công trình đồ sộ như cụm đền
Tanjora, xây bằng granit cao hơn 85m ở kinh đô Konda- cholapuram.
Người ta cũng bắt đầu đúc những pho tượng thần bằng kim loại để thờ, để
rước trong những ngày lễ.
Đến thời Xuntan Đờli và thời Mụgụn, cùng với việc đạo Hồi trở
thành quốc giáo, ở Ên Độ đã xuất hiện những công trình kiến trúc mới xây
dựng kiểu Trung Á và Tây Á. Đó là những nhà thờ Hồi giáo, cung điện,
lăng mộ mà đặc điểm chung của lối kiến trúc này là cửa vòm, mái tròn, có
tháp nhọn. Có khi các công trình này còn kết hợp với phong cách truyền
thống của Ên Độ như xây theo lối có bao lơn lộ thiờn, cú cột chống thanh
thoỏt…
Thời Xuntan Đờli có công trình kiến trúc nổi tiếng là Tháp

KutubMinar được khởi công từ năm 1199 dưới thời vua đầu tiên của vương
triều Đờli. Thỏp hoàn thành năm 1.230, cao 73m, đường kính đáy là
14,2m, đường kính đỉnh là 2,7m. Bên trong có một cầu thang cuốn vòng
376 bậc dẫn đến đỉnh tháp.
Tháp KutubMinar kế thừa phong cách thỏp múi, nhưng là những mói
đều từ đỏy lờn đỉnh núi, như kiểu gân tường thõn thỏp. Toàn bộ tháp như
một mũi tờn chĩa thẳng lên trời cao. Thõn thỏp ốp sa thạch đỏ rất đẹp.
Công trình tiêu biểu nhất thời Mụgụn là lăng Taj Mahan được xây
dựng vào thế kỉ XVII theo yêu cầu của nhà vua Sa Jahan. Vua Sa Jahan lấy
Mumtaz làm ái phi, người được vua yêu quí trong hàng nghìn cung tần mĩ
nữ. Mumtaz 18 tuổi, sinh hạ được 14 người con và chết khi sinh con cuối
cùng, năm 39 tuổi. Vô cùng thương tiếc người vợ yêu quí, hoàng đế quyết
định xây lăng mộ đặt thi hài Mumtaz và cũng để dành chỗ bên cạnh cho
23
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
chính mình. Lăng Taj Mahan là sự kết tinh tài nghệ của các kiến trúc sư và
thợ thủ công nhiều nước: Ên Độ, Iran, Thổ Nhĩ Kì, Italia… Nổi bật là vai
trò của 3 kiến trúc sư: Ustad (người BăTư), Gieronimo (người Italia), Ôxtin
đơ Boocđụ (người Pháp) là những nhà xây dựng tài hoa bậc nhất thế giới
hội lại. Thợ xây dựng cần đến 24.000 người, tuyển từ Batđa và lao động
cần mẫn suốt 22 năm.
Lăng được xây ở Agra, trên bờ sông Yamuna, cỏch Đờli 200km về
phía hạ lưu, phía đông- nam, trên một nền đất hình chữ nhật, dài 580m,
rộng 304m, được biến thành vườn, phủ thảm cỏ, trồng cây, xây hồ nước, bể
phun nước ở phía trước và các lối đi dẫn đến lăng.
Lăng là một kiến trúc đồ sộ hình bát giác, cao 75m, được xây bằng
đá cẩm thạch và sa thạch đỏ, núc vũm trũn như hình lăng thu nhỏ. Bốn góc
là 4 thảp tròn đứng nhô cao, trên đỉnh cũng là 4 vọng lâu xây kiểu nhà tum
thu nhỏ ở giữa. Toàn bộ lăng được xây bằng đá cẩm thạch trắng. Nhìn từ
xa, tất cả cảnh vật của lăng in lung linh trên mặt nước hồ xanh biếc, trông

lại càng kì diệu.
Như vậy, trên một nền cảnh rất Âu Tây, với những hàng cây trắc
bách diệp, hồ nước, lối đi, thảm cá, nổi lên một công trình kiến trúc Hồi
giáo không lẫn vào đâu được, với núc vũm “củ hành”, vòm cong hình
cung. Nhưng đi vào bên trong mới “thấy rõ hơn tâm hồn thanh tịnh, ý
nguyện thiêng liêng và tình yêu chung thuỷ của người Ên Độ Hồi giáo
thấm đượm đến từng võn đỏ trờn tường”
1
. Trờn vòm cửa hình cung, mi
cửa được chạm trổ Hồi văn rất tỉ mỉ. Mở hai cánh cửa bằng bạc (nay được
thay bằng hợp kim đồng), ta đi vào bên trong, thấy trên tường đá cẩm thạch
cũng được chạm trổ như một tấm thêu, lại dát ngọc thạch hình chữ nhật
một đoạn kinh Coran “ Người nào có trái tim trong sạch thỡ hóy vào Thiên
đường của trần gian.” ở khoảng trong, ngăn cách bởi một bức tường đá
cẩm thạch, cũng được chạm trổ như một tấm thêu rua mà người ta có thể
ghé mắt nhìn qua khe trống của hỡnh thờu rua, thấy hai chiếc quan tài đá,
chứa đựng thi hài của Sa jahan và Mumtaz, đôi vợ chồng vương giả yêu
nhau đến trọn đời.
Lăng được gọi tên là Taj Mahal (Cung điện bằng đá trắng) mà nhiều
học giả đã coi là “ công trình Hồi giáo thực sự duy nhất ở Ên Độ”, là “ một
công trình hoàn hảo nhất còn đứng đú”, “ là nấm mộ, lăng mộ đẹp nhất thế
24
Điều kiện hình thành và những thành tựu chủ yếu về văn học nghệ thuật của văn minh Ên Độ
gian”. Và vì thế có người còn thốt lên “ Thời gian vốn thông minh, nếu cần
phải huỷ hoại thì xin hãy huỷ tất cả, trước đền Taj để nú cũn làm chứng
nhân cho sù cao quÝ của con người và để làm niềm an ủi cuối cùng cho
con người cuối cựng.”
2
1
-Lịch sử văn hoá thế giới cổ trung đại – trang227 - Lương Ninh chủ biên.

NXB Giáo dục-1999.
2
-Lịch sử văn hoá thế giới cổ trung đại – trang228 - Lương Ninh chủ biên.
NXB Giáo dục-1999.
3. Ảnh hưởng của văn minh Ên Độ cổ- trung đại ở Việt Nam .
Từ rất lâu đời, văn hóa Ên Đé đó có giao lưu trên nhiều mặt với nền
văn hóa truyền thống Việt Nam. Ở các quốc gia cổ- trung đại như Đại Việt,
Phù Nam, Cham pa đều thấy rõ ảnh hưởng của giao lưu đó.
Trong thời kì Văn Lang- Âu Lạc, chúng ta chưa tìm thấy bằng
chứng ảnh hưởng của văn hoá Ên Đé. Ảnh hưởng đó chỉ thấy rõ trong
những thế kỉ đầu công nguyên, mà trước hết là Phật giáo.
Phật giáo vào Giao Châu từ rất sớm, có rất nhiều ý kiến cho rằng
Phật giáo đã xâm nhập Giao Châu bằng cả đường biển từ phương Nam và
đường bộ từ phương Bắc. Ở đời Hỏn , cú ba trung tâm Phật giáo thì Luy
Lâu ( Giao Châu ) là một trong số đó và có thể có sớm hơn hai trung tâm
Bành Thành và Lạc Dương ( Trung Quốc ).
Thế kỉ thứ VI, Tinidachilưu là người Ên Độ sang Trường An ( Trung
Quốc ) rồi sang Giao Châu. Ông đã ở đây 15 năm và có nhiều học trò trong
đó có nhà sư Pháp Hiển nổi tiếng. Cũng từ đây, một số nhà sư Giao Châu
thông thạo kinh Phật giỏi chữ Phạn đã đi nghiên cứu Phật giáo tận Ên Độ
hoặc đến kinh đô nhà Đường.
Trong văn học dân gian, Phật ( Bụt ) được nhắc đến nhiều trong
truyện cổ tích. Về mặt ngôn ngữ, chữ Bụt bắt nguồn từ chữ Budda còn chữ
chùa là từ chữ Stupa của tiếng Phạn. Có khá nhiều truyện cổ Việt có nguồn
gốc Ên Độ. Sử thi của Mahabharata kể về cục thịt của Gadhari đã sinh ra
25

×