Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên ở các trường trung học phổ thông thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.12 KB, 121 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH




Nguyễn Thị Thanh Trúc



THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN Ở
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC






Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH




Nguyễn Thị Thanh Trúc


THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN Ở
CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 05



LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ HƯƠNG





Thành phố Hồ Chí Minh - năm 201

LỜI CÁM ƠN

Luận văn này là kết quả học tập tại lớp Cao học Quản lý giáo dục khoá 20, trường Đại

học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh.
Với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến:
- Thành Ủy TP Hồ Chí Minh, Ban Tổ chức chương trình đào tạo Tiến sĩ, Thạc sĩ của
Thành phố.
- Lãnh đạo Sở Giáo dục- Đào tạo TP HCM.
- Lãnh đạo và cán bộ, giáo viên Phòng Khoa học Công nghệ & Sau Đại học, Khoa
Tâm lý – Giáo dục của trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
- Quý Thầy Cô đã tham gia giảng dạy lớp cao học khóa 20 chuyên ngành Quản lý
Giáo dục và Thầy Cô ở các trường THPT Trần Đại Nghĩa, Bùi Thị Xuân, Hoàng Hoa
Thám, Nguyễn Hữu Huân, Hiệp Bình, Tam Phú, Thủ Đức.
Tác giả cũng vô cùng cảm ơn Thầy Nguyễn Hữu Diệu, hiệu trưởng Trường THPT
Thủ Đức, người đã tạo mọi điều kiện để tác giả được đi học và hoàn thành được chương
trình học.
Chân thành cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và các bạn học cùng lớp đã giúp đỡ và
đồng hành cùng tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Tác giả xin cảm ơn ba mẹ, anh chị em trong gia đình đã luôn hỗ trợ và chia sẻ trong
suốt giai đoạn học tập.
Đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Trần Thị Hương đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tác giả nghiên cứu đề tài và hoàn chỉnh luận văn.
Mặc dù bản thân đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn luận văn không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp bổ sung của quý Thầy Cô và
các đồng nghiệp.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 04/2011
Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Trúc


MỤC LỤC
2TLỜI CÁM ƠN2T 7
2TMỤC LỤC2T 8

2TDANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT2T 11
2TMỞ ĐẦU2T 12
2T1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI2T 12
2T2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU2T 14
2T3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU2T 14
2T4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC2T 14
2T5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU2T 14
2T6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU2T 14
2T7. PHẠM VI NGHIÊN CỨU2T 16
2TCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG
GIÁO VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2T 17
2T1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề2T 17
2T1.1.1. Hoạt động bồi dưỡng giáo viên phổ thông2T 17
2T1.1.2. Quản lý hoạt động bồi dưỡng GV ở các trường phổ thông2T 19
2T1.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu2T 21
2T1.2.1. Bồi dưỡng - Bồi dưỡng giáo viên2T 21
2T1.2.2. Năng lực sư phạm2T 23
2T1.2.3. Bồi dưỡng năng lực sư phạm2T 24
2T1.2.4. Quản lý - Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên2T 25
2T1.3. Lý luận về hoạt động bồi dưỡng giáo viên trường THPT2T 26
2T1.3.1. Những cơ sở khoa học của hoạt động bồi dưỡng giáo viên THPT2T 26
2T1.3.2. Mục tiêu của hoạt động bồi dưỡng giáo viên THPT2T 29
2T1.3.3. Nội dung bồi dưỡng năng lực sư phạm cho GV ở các trường THPT2T 29
2T1.3.4. Hình thức, phương pháp bồi dưỡng giáo viên ở các trường THPT2T 31
2T1.4. Lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên ở các trường THPT2T 32
2T1.4.1. Chức năng quản lý ở trườngTrung học phổ thông2T 32
2T1.4.2. Nội dung quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên trường THPT2T 34
2T1.4.3. Cơ chế phối hợp trong quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên ở các trường
THPT

2T 37
2T1.4.4. Điều kiện hỗ trợ quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên ở các trường trung học
phổ thông
2T 38

2TCHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG GIÁO
VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
2T 39
2T2.1. Khái quát chung về sự phát triển kinh tế - xã hội – giáo dục Trung học phổ
thông TP Hồ Chí Minh
2T 39
2T2.1.1. Khái quát về sự phát triển kinh tế - xã hội TP Hồ Chí Minh2T 39
2T2.1.2. Sự phát triển giáo dục THPT TP.HCM2T 40
2T2.2. Thực trạng hoạt động bồi dưỡng giáo viên ở các trường Trung học phổ thông
TP Hồ Chí Minh
2T 44
2T2.2.1. Thực trạng nhận thức về hoạt động bồi dưỡng năng lực sư phạm cho giáo viên
THPT
2T 46
2T2.2.2. Đánh giá về nội dung hoạt động bồi dưỡng cho giáo viên trung học phổ thông2T 49
2T2.2.3. Hình thức, phương pháp bồi dưỡng giáo viên trung học phổ thông2T 53
2T2.2.4. Thời gian tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên THPT2T 56
2T2.2.5. Kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng giáo viên THPT2T 57
2T2.2.6. Hiệu quả hoạt động bồi dưỡng GV THPT2T 58
2T2.3. Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên ở các trường Trung học phổ
thông TP Hồ Chí Minh
2T 60
2T2.3.1. Xây dựng kế hoạch, chương trình bồi dưỡng giáo viên2T 60
2T2.3.2. Tổ chức, chỉ đạo hoạt động bồi dưỡng giáo viên2T 64

2T2.3.3. Quản lý việc kiểm tra – đánh giá hoạt động bồi dưỡng giáo viên2T 68
2T2.3.4. Quản lý các điều kiện hỗ trợ hoạt động bồi dưỡng giáo viên THPT2T 71
2T2.3.5. Sự phối hợp quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên ở các trường Trung học phổ
thông TP.HCM
2T 74
2T2.4. Nguyên nhân của thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên THPT ở TP
Hồ Chí Minh
2T 75
2TCHƯƠNG 3: CÁC BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI DƯỠNG GIÁO
VIÊN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TẠI TP.HCM
2T 80
2T3.1. Nguyên tắc chỉ đạo hoạt động bồi dưỡng GV2T 80
2T3.2. Các biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên THPT2T 81
2T3.2.1. Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý, giáo viên về hoạt động bồi
dưỡng giáo viên
2T 82
2T3.2.2. Biện pháp 2: Điều tra khảo sát, quy hoạch và lập kế hoạch cho hoạt động bồi
dưỡng giáo viên
2T 84
2T3.2.3. Biện pháp 3: Đổi mới và cải tiến nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức
hoạt động bồi dưỡng giáo viên
2T 86
2T3.2.4. Biện pháp 4: Tăng cường các điều kiện phục vụ tốt cho kế hoạch bồi dưỡng giáo
viên
2T 89

2T3.2.5. Biện pháp 5: Kiểm tra, đánh giá hoạt động bồi dưỡng giáo viên2T 90
2T3.2.6. Biện pháp 6: Xây dựng cơ chế phối hợp trong tổ chức bồi dưỡng giáo viên2T 92
2T3.2.7. Biện pháp 7: Khuyến khích, hỗ trợ cho giáo viên tự bồi dưỡng2T 94
2T3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp2T 96

2TKẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ2T 107
2T1. Kết luận2T 107
2T2. Kiến nghị2T 109
2TTÀI LIỆU THAM KHẢO2T 111
2TPHỤ LỤC2T 114


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Bộ GD-ĐT : Bộ Giáo dục và Đào tạo
BDTX : Bồi dưỡng thường xuyên
BDGV : Bồi dưỡng giáo viên
CBQL : Cán bộ quản lý
CNH – HĐH : Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
ĐHSP : Đại học sư phạm
ĐTB : Điểm trung bình
GD : Giáo dục
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
SGK : Sách giáo khoa
QLGD : Quản lý giáo dục
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, đất nước ta đang bước vào một thời kỳ phát
triển mới: thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường

định hướng XHCN, hướng tới kinh tế tri thức và mở rộng hội nhập quốc tế với nhiều thuận
lợi và khó khăn, thử thách phải vượt qua. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: “Lấy việc phát triển nguồn lực con người là yếu tố cơ
bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [46]. Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng nhấn
mạnh: tiếp tục “phát huy nhân tố con người” và “tăng cường nguồn lực con người” để “từng
bước phát triển kinh tế tri thức” [21]. Bởi lẽ, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực cho
sự phát triển, đầu tư cho con người chính là tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển, là bảo
đảm vững bền cho sự phồn thịnh của mỗi quốc gia. Việc phát triển nguồn nhân lực là “chìa
khóa” quyết định thành công của giai đoạn cách mạng mới trên đất nước ta.
GD-ĐT có vị trí quan trọng để phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục trong hệ thống
trường học với chủ thể là đội ngũ nhà giáo là yếu tố quyết định chất lượng giáo dục. Hệ
thống giáo dục nước ta hiện nay có nhiều cấp học, ngành học được xây dựng chặt chẽ và
mang tính phát triển, đội ngũ nhà giáo là lực lượng nòng cốt thực hiện mục tiêu GD-ĐT, là
người xây dựng cho HS thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ, trang bị cho HS tri thức và
phương pháp tư duy khoa học, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo. Vì vậy, vai trò của đội
ngũ nhà giáo rất quan trọng, công việc của họ sẽ để lại dấu ấn trong tương lai. Khi nói về
vai trò của đội ngũ nhà giáo, tại hội nghị giáo dục ở Australia năm 1993 các đại biểu đã đưa
ra nhận định: người GV sẽ là người có trách nhiệm làm thay đổi thế giới. Đảng ta cũng xác
định “GV là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh”. [46]
Nằm trong cấu trúc chung của hệ thống giáo dục quốc dân, các trường THPT là một
cấp học, một bộ phận hữu cơ của giáo dục phổ thông, là cầu nối giữa bậc tiểu học, THCS
với bậc đại học. Nếu giáo dục đại học là khâu trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao tham gia quá trình CNH - HĐH đất nước, thì giáo dục THPT
là khâu chuẩn bị cho HS THPT – bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực tiếp tục học lên
hoặc đi vào cuộc sống lao động. Ở cấp học này, đội ngũ nhà giáo có vai trò rất quan trọng

trong việc đào tạo HS thành nguồn nhân lực có tri thức, có năng lực và phẩm chất, có đủ
điều kiện để tiếp cận bậc GD-ĐT cao hơn hoặc lao động ở một ngành nghề cụ thể khi chưa
có khả năng học tiếp. Nhưng hiện nay trong các trường THPT, “đội ngũ nhà giáo vừa thiếu
lại vừa thừa, một bộ phận nhỏ nhà giáo chưa đạt chuẩn đào tạo, một số thiếu năng lực giảng

dạy và tinh thần trách nhiệm [31]. “Đáng lo ngại là tác động tiêu cực của cơ chế thị trường
đã làm xói mòn phẩm chất của một số nhà giáo gây ảnh hưởng xấu đến uy tín người thầy
trong xã hội” [45]. Điều đó làm hạn chế việc thực hiện vai trò đào tạo nguồn nhân lực của
đội ngũ nhà giáo, là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới thực trạng: nhiều HS
kiến thức lệch lạc, thiếu hiểu biết các vấn đề chính trị - xã hội, một bộ phận HS suy thoái về
đạo đức, lối sống; phần lớn HS sau khi tốt nghiệp THPT thiếu khả năng tự tìm kiếm việc
làm, chưa vững vàng trước những biến đổi phức tạp của cuộc sống. Chất lượng đào tạo ở
cấp học này chưa thực sự đáp ứng được mục tiêu đặt ra. Đặc biệt, vào thời điểm hiện nay
dấu hiệu một cuộc khủng hoảng GD-ĐT đã đến mức khiến xã hội phải lên tiếng.
Chính vì thế, phát triển đội ngũ nhà giáo được xem là giải pháp trọng tâm trong Chiến
lược phát triển giáo dục Việt Nam 2010-2020, trong đó công tác bồi dưỡng GV là một trong
những nhiệm vụ quan trọng được Bộ GD - ĐT đặt ra cho từng năm học. Tham gia hoạt
động đào tạo bồi dưỡng sẽ giúp cho GV thuận lợi khi làm việc với chương trình mới, có thái
độ tích cực và thích ứng với những thay đổi và thách thức của thời đại. Tổ chức bồi dưỡng
cho GV còn khuyến khích GV làm việc chăm chỉ, tích cực hơn để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Trong những năm qua, cùng với cả nước, việc tổ chức hoạt động bồi dưỡng GV THPT
luôn được ngành giáo dục – đào tạo TP.HCM quan tâm. Nhiều hình thức và nội dung bồi
dưỡng được đưa vào chương trình bồi dưỡng cho GV THPT bước đầu đã thu được một số
kết quả đáng khả quan, điển hình là giáo dục THPT của TP.HCM luôn dẫn đầu cả nước về
chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, để chuẩn bị nguồn nhân lực cho TP.HCM trong thời kỳ mới,
thời kỳ hội nhập toàn cầu và cạnh tranh quốc tế, giáo dục TP.HCM cần có những cố gắng
vượt bậc để đáp ứng được đòi hỏi của xã hội. Vì vậy, đổi mới và nâng cao năng lực của đội
ngũ GV theo định hướng vươn tới các chuẩn mực quốc tế sẽ là yếu tố cốt lõi cho sự chuyển
mình của các trường phổ thông ở TP.HCM trong giai đoạn mới. Xuất phát từ những cơ sở lý
luận và thực tiễn trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng
giáo viên ở các trường Trung học phổ thông TP. Hồ Chí Minh”.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận, khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động bồi
dưỡng GV ở các trường THPT TP.HCM và đề tài đề xuất biện pháp quản lý hoạt động bồi

dưỡng GV, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động bồi dưỡng GV đáp ứng yêu cầu
của giáo dục trong xu thế hội nhập.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Khách thể: Công tác quản lý trường trung học phổ thông
- Đối tượng: Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng GV ở các trường trung học phổ
thông TP.HCM
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng GV các trường THPT TP.HCM đã được thực
hiện và bước đầu đạt được một số kết quả. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn một số hạn chế
và bất cập trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình bồi dưỡng; hoạt động tổ chức, chỉ
đạo cũng như công tác kiểm tra, đánh giá sau đợt bồi dưỡng chưa phù hợp và hiệu quả hoạt
động bồi dưỡng chưa rõ nét. Nguyên nhân của thực trạng này có thể do chưa có các biện
pháp quản lý thật sự hiệu quả.
Vì vậy khi đánh giá đúng thực trạng và đề xuất biện pháp thiết thực thì sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động bồi dưỡng GV ở các trường THPT hiện nay.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về hoạt động bồi dưỡng GV và quản lý hoạt động bồi
dưỡng GV.
2- Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng GV ở các trường THPT TP.HCM.
3- Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động bồi dưỡng GV ở các trường
THPT.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1.Cơ sở phương pháp luận

6.1.1. Quan điểm hệ thống - cấu trúc
Quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc giúp người nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ
chặt chẽ giữa công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng GV với quản lý các hoạt động sư phạm
khác ở trường học đồng thời xem công tác quản lý nhà trường là một hệ thống, trong đó
quản lý hoạt động bồi dưỡng GV là một hệ thống con với các yếu tố hợp thành. Từ đó giúp
tìm hiểu chính xác thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng GV.

6.1.2. Quan điểm lịch sử - logic
Quan điểm lịch sử - logic giúp người nghiên cứu xác định phạm vi, không gian, thời
gian và điều kiện hoàn cảnh cụ thể để điều tra thu thập số liệu chính xác, đúng với mục đích
nghiên cứu đề tài, đồng thời nghiên cứu đối tượng trong quá trình phát triển của nó.
6.1.3. Quan điểm thực tiễn
Việc đề ra các biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý hoạt động
bồi dưỡng GV THPT dựa trên việc khảo sát thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng GV các
trường THPT TP.HCM. Qua khảo sát, tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu, những nguyên
nhân, hạn chế từ đó đề ra các biện pháp mang tính khả thi.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
5TPhân tích và tổng hợp các văn bản, tài liệu, sách báo và các công trình nghiên cứu liên
quan đến đề tài làm cơ sở lý luận cho đề tài.
6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
a) Phương pháp quan sát nhằm thu thập thông tin qua việc quan sát hoạt động quản
lý bồi dưỡng năng lực sư phạm cho GV ở các trường THPT.
b) Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi nhằm thu thập thông tin, số liệu, tư liệu về
thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng GV qua điều tra đội ngũ CBQL và GV của 6 trường
THPT TP.HCM.
Các phiếu điều tra tập trung nghiên cứu về thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng
năng lực sư phạm cho GV ở các trường THPT TP.HCM, những ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân đồng thời khảo sát tính cần thiết và khả thi của hệ thống các biện pháp đề xuất.

c) Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia nhằm thu thập những thông tin đáng tin cậy từ
những chuyên gia, những nhà QLGD có kinh nghiệm về quản lý hoạt động bồi dưỡng GV.
6.2.3. Phương pháp thống kê toán học
Xử lý các kết quả điều tra khảo sát nhằm đánh giá thực trạng và định hướng nâng cao
hiệu quả quản lý hoạt động bồi dưỡng GV ở các trường THPT.
7. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu về thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng năng lực sư

phạm cho GV THPT với chủ thể quản lý là Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng và Tổ Trưởng
chuyên môn các trường THPT.
Tiến hành khảo sát 6 trường thuộc 2 khu vực: khu vực trung tâm TP. HCM gồm trường THPT
chuyên Trần Đại Nghĩa, THPT Hoàng Hoa Thám, THPT Bùi Thị Xuân; khu vực ngoại ô TP. HCM
gồm trường THPT Thủ Đức, THPT Hiệp Bình, THPT Nguyễn Hữu Huân.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG BỒI
DƯỠNG GIÁO VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Hoạt động bồi dưỡng giáo viên phổ thông
Trong hơn 30 năm qua, kể từ ngày đất nước thống nhất, việc đào tạo, bồi dưỡng GV
phục vụ sự nghiệp giáo dục nước nhà luôn sôi động, vấn đề số lượng, chất lượng đội ngũ
GV trong hệ thống giáo dục quốc dân được coi là vấn đề cấp thiết, mang tính thời sự nóng
bỏng và sau khi đã tạm ổn về số lượng, vấn đề chất lượng của đội ngũ GV được đặt lên
hàng đầu. Vấn đề này được coi trọng trong quá trình đào tạo và được quan tâm ngày càng
mạnh mẽ trong quá trình sau đào tạo, quá trình công tác của GV. Việc nâng cao chất lượng
bồi dưỡng GV được coi là bước thứ hai sau quá trình đào tạo đội ngũ này ở các trường lớp
chính quy, chính quy không tập trung. Việc tìm kiếm các giải pháp nâng cao chất lượng bồi
dưỡng GV luôn là mối quan tâm của các người làm công tác giáo dục, đặc biệt là các cấp
quản lý. Một số hoạt động bồi dưỡng GV trong thời gian qua được thực hiện như sau:
Từ năm 1993, Bộ GD-ĐT tổ chức các chương trình BDTX theo chu kỳ ba năm cho
GV THPT. Bộ GD-ĐT đã tổ chức được 3 chu kỳ, bắt đầu là chu kỳ BDTX 1993 -1996; chu
kỳ BDTX 1997 - 2000 và chu kỳ 2001 -2004.
Tháng 5/2006 Bộ GD-ĐT đã sớm xây dựng kế hoạch bồi dưỡng GV dạy lớp 10 theo
chương trình SGK mới theo quy trình 2 cấp: Bộ GD – ĐT giao các trường (khoa) ĐHSP
trực tiếp bồi dưỡng GV cốt cán các môn học của các địa phương và các Sở GD – ĐT sử
dụng đội ngũ GV cốt cán các môn học tổ chức bồi dưỡng cho tất cả GV thực hiện chương
trình SGK mới. Về nội dung bồi dưỡng GV, ngoài việc nắm vững chương trình SGK, còn

chú ý bồi dưỡng về đổi mới phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá và sử
dụng thiết bị dạy học, phương pháp dạy các bài học có thí nghiệm, thực hành. Tuy nhiên,
trong đánh giá tình hình thực hiện phân ban THPT trong năm đầu tiến hành triển khai đại trà
của Viện chiến lược và Chương trình giáo dục khi nhận định về các điều kiện thực hiện dạy
học phân hóa, phần chất lượng bồi dưỡng có nêu: “còn một số bất cập trong công tác bồi
dưỡng GV nhưng nội dung tập huấn chưa thật sự đáp ứng nhu cầu của GV; phân phối chưa

hợp lý giữa thời gian bồi dưỡng kiến thức chuyên môn với thời gian giải quyết các thủ tục
hành chính; một số GV cốt cán đi tập huấn về nhìn chung chưa đủ năng lực để giải đáp đầy
đủ các khúc mắc cho đồng nghiệp” [1, tr.34].
Hiện nay, để nâng cao chất lượng giáo dục, ngành GD - ĐT đã đặt ra yêu cầu trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng phải được thực hiện thường xuyên và coi đây là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của mỗi cán bộ, GV trong toàn ngành. Vai trò của việc BDTX
cũng được Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển nhấn mạnh: Chương trình BDTX cho GV đã góp
phần thiết thực trong việc nâng cao chất lượng dạy – học, đáp ứng yêu cầu đổi mới nội
dung, chương trình, SGK mới cho giáo dục phổ thông. BDTX không chỉ là nhiệm vụ của cơ
quan QLGD các cấp, của cơ sở giáo dục mà còn là nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi GV [36].
Về định hướng phát triển, Chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho GV giai đoạn
2010-2015, Bùi Văn Quân, Phó Cục trưởng Cục Nhà giáo và CBQL cơ sở giáo dục (Bộ GD
- ĐT) cho biết: Chương trình tập trung tăng cường phát triển nghề nghiệp, chú trọng phát
triển năng lực thực hành cho GV. Bồi dưỡng theo nhu cầu của GV, cơ sở giáo dục và lấy
nhà trường làm đơn vị bồi dưỡng. Thiết lập các chương trình bồi dưỡng linh hoạt, mềm dẻo,
cung ứng đầy đủ, kịp thời hệ thống học liệu phục vụ công tác bồi dưỡng. Chuẩn hóa, xã hội
hóa và tăng cường hợp tác quốc tế trong công tác bồi dưỡng GV. Tăng cường phân cấp
trong công tác bồi dưỡng thường xuyên GV… [36].
Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy của GV và phương pháp học của HS thế kỷ 21,
Trần Thị Bích Liễu, Đại học Giáo dục – Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng, GV nên thay
việc yêu cầu HS “Học những kiến thức này và làm như thế này” bằng “Học sáng tạo kiến
thức và cách làm”; dạy HS học nơi tìm kiếm thông tin thay cho việc dạy các em học cái gì
[36].

Nguyễn Hữu Ân, Trung tâm Nghiên cứu GD & BDGV Trường ĐHSP Huế đề xuất
việc thực hiện công tác BDTX nên được tiến hành thành 3 giai đoạn: giai đoạn 1, tập trung
cung cấp cho GV đầy đủ giáo trình, tài liệu bồi dưỡng. GV tự học, tự nghiên cứu, chú trọng
tổ chức học tập theo môn học, học trong từng tập thể sư phạm… Giai đoạn 2, mở các lớp
bồi dưỡng tập trung với thời gian hợp lý trong năm học để giảng viên hệ thống hóa kiến
thức, cùng trao đổi và giải đáp thắc mắc của GV, giảng sâu thêm một số vấn đề của chuyên
đề bồi dưỡng. Giai đoạn 3, đánh giá hoàn thành học phần, cấp chứng chỉ bồi dưỡng… [36].

1.1.2. Quản lý hoạt động bồi dưỡng GV ở các trường phổ thông
Vấn đề quản lý bồi dưỡng GV sao cho có hiệu quả ngày càng được quan tâm và
nghiên cứu. Có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến việc quản lý hoạt động bồi
dưỡng GV.
- Năm 1996, đề tài khoa học cấp nhà nước “Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực
trong điều kiện mới” có đề cập đến vấn đề bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực, trong
đó có đào tạo và bồi dưỡng lại đội ngũ GV.
- Năm 1997, tác giả Nguyễn Trí, vụ GD THPT, Bộ GD –ĐT có đề cập đến vấn đề tự
học trong đào tạo bồi dưỡng GV.
- Năm 1999, Phạm Quang Huân có bài viết: “Nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động
tự học, tự bồi dưỡng của GV trường phổ thông”, Tạp chí phát triển giáo dục số 1.
- Năm 2001, Nguyễn Thị Tươi, trường ĐHSP Quy Nhơn với bài viết “Về công tác bồi
dưỡng thường xuyên cho GV THPT”.
- Năm 2002, trong tạp chí giáo dục, tháng 11/2002, Trần Bá Hoành đã đề cập đến vấn
đề bồi dưỡng GV trong bài “Bồi dưỡng tại chỗ và bồi dưỡng từ xa”.
Trong những năm gần đây thì có thể kể đến:
- Đề tài khoa học công nghệ do trung tâm nghiên cứu đào tạo bồi dưỡng GV (Viện
Khoa Học GD Việt Nam) thực hiện trong ba năm đã tiến hành khảo sát thực trạng đội ngũ
GV, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, từ đó nêu những vấn đề xây dựng đội ngũ GV đáp
ứng yêu cầu giai đoạn đổi mới hiện nay theo hướng: cần đa dạng hóa việc bồi dưỡng GV,
coi trọng nhu cầu và hứng thú của người học, kết hợp chặt chẽ với yêu cầu đổi mới GD, coi
việc bồi dưỡng GV là trọng tâm, có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả và

chất lượng giáo dục. Để thực hiện được điều này, cần có những chế độ và chính sách hợp lí
đối với GV, có đầy đủ kinh phí. Tổ chức tốt công tác thanh tra chuyên môn và công tác
QLGD, trước hết là ban hành chính sách đối với GV, xem xét lại thang lương ngành giáo
dục, chính sách thu hút GV công tác ở vùng khó khăn, tăng kinh phí bồi dưỡng GV… [46,
tr.5].
- “Phát triển chuyên môn nghiệp vụ cho giảng viên đại học trong thời đại thông tin”
của tác giả Lưu Xuân Mới, Học viện QLGD trong tạp chí Khoa học giáo dục, số 23 tháng
8/2007 đề cập đến việc phát triển chuyên môn nghiệp vụ cho người GV thời hiện đại như là
tất yếu khách quan và là chìa khóa then chốt để cải thiện chất lượng dạy đại học và có xác
định đến một số kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của GV. [34]

- Bùi Thị Loan trong bài viết “Về công tác bồi dưỡng GV THPT hiện nay” đề cập đến
thực trạng chất lượng và điều kiện của công tác đào tạo bồi dưỡng GV hiện nay, có đề xuất
các giải pháp là cần quan tâm bồi dưỡng đội ngũ CBQL trường THPT về năng lực đánh giá,
phân loại GV, trong đó chú ý nhiều đến kỹ năng phân loại năng lực GV, kỹ năng tác động
đến GV, kỹ năng huy động các nguồn lực từ phía GV. Cần bồi dưỡng cho Hiệu trưởng năng
lực thiết kế nội dung, xây dựng chương trình bồi dưỡng GV, huấn luyện cho GV năng lực
nhận biết, hiểu đối tượng giáo dục và kỹ năng cơ bản trong sử dụng công nghê thông tin
trong quản lý chuyên môn [30].
- Trong chuyên đề báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện quyết định số 09/2005/QĐ-TTg
ngày 11/01/2005 của chính phủ về “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và
CBQL giáo dục giai đoạn 2005 – 2010” của Sở GD – ĐT TP Cần Thơ vào tháng 02/2008.
Trong phần giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng GV,
CBQL giáo dục, có đề xuất: việc xây dựng quy hoạch, hoàn thiện mạng lưới, xác định rõ
ràng quy mô, nhiệm vụ của các cơ sở đào tạo cần gắn với hoạt động bồi dưỡng GV ở cấp
học, bậc học.
- Luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Quản lý GD của Vũ Hoàng Chương với
đề tài: “Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm
cho GV trường THCS huyện Định Quán - tỉnh Đồng Nai” đã đề xuất các giải pháp như xây
dựng quy hoạch bồi dưỡng GV, các biện pháp cho công tác bồi dưỡng thường xuyên, bồi

dưỡng thay SGK, tự bồi dưỡng. Đẩy mạnh công tác thanh tra GV. Chứng nhận lại trình độ
nghề nghiệp và nâng chuẩn lại GV. Có kế hoạch cụ thể sử dụng công nghệ thông tin như là
một công cụ hỗ trợ việc dạy. Đồng thời với những biện pháp trên là sự đổi mới thực sự về
công tác quản lý về chế độ, chính sách đãi ngộ GV trong tham gia bồi dưỡng, tự bồi dưỡng
[6].
- Luận văn Thạc sĩ giáo dục học năm 2006 của Mai Văn Nhân với đề tài “Các biện
pháp quản lý công tác bồi dưỡng đội ngũ GV THPT tỉnh Sóc Trăng” có đề cập đến các giải
pháp như nâng cao nhận thức về công tác bồi dưỡng GV, quy hoạch công tác bồi dưỡng GV
THPT, đa dạng hoá các hình thức bồi dưỡng GV, cải tiến, đổi mới chương trình, nội dung
và phương pháp bồi dưỡng,… [35].
- Luận văn Thạc sĩ giáo dục học năm 2009 của Trịnh Hùng Cường với đề tài “Thực
trạng và biện pháp quản lý bồi dưỡng GV trường THPT ở các huyện trong tỉnh Cà Mau” có
đề ra các giải pháp quản lý mục tiêu, chương trình bồi dưỡng GV [7].

- Dự án phát triển GV THPT và TCCN đã tiến hành đề tài “Một số kết quả về khảo sát
thực trạng hoạt động nghề nghiệp và đánh giá GV THPT” có nhận định: nhìn chung phần
lớn GV chưa nhận thức đầy đủ nhiệm vụ, chức năng của người GV. Chỉ có 5,6% nhận thức
được 4 nhiệm vụ là dạy học, giáo dục HS, giữ gìn phẩm chất nhà giáo và phát triển chuyên
môn nhưng không nêu được nhiệm vụ phối hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà trường
và các chức năng xã hội khác. Còn đến 1/4 GV chỉ nắm được chương trình khối mình giảng
dạy. Hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lí HS THPT còn hạn chế, có đến 1/5 không biết và đa
phần GV chỉ có một ý kiến về từng đặc điểm riêng lẻ. Điều này sẽ là rào cản khi GV xử lí
các tình huống dạy học và giáo dục HS [9].
Lực lượng sư phạm của TP.HCM hiện nay có thể nói là rất mạnh so với cả nước
nhưng chưa đồng bộ, cơ cấu nhân sự trong nhà trường chưa rõ, công tác đào tạo bồi dưỡng
chưa bắt kịp với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay (gần 50% năng lực sử dụng hiện nay là
do GV tự học tập trao đổi nghề nghiệp). Mặc dù vậy, chưa có công trình nghiên cứu nào của
TP.HCM khảo sát đến thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng GV THPT. Chính vì vậy, cần
có một công trình nghiên cứu về thực trạng hoạt động bồi dưỡng GV THPT ở TP.HCM
nhằm đề xuất những giải pháp thiết thực nâng cao chất lượng đội ngũ GV, đáp ứng mục tiêu

giáo dục hội nhập cho giáo dục thành phố.
1.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Bồi dưỡng - Bồi dưỡng giáo viên
1.2.1.1. Bồi dưỡng
Khái niệm bồi dưỡng được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu và đưa ra nhiều định nghĩa
khác nhau:
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt cho rằng: “Bồi dưỡng là làm cho khỏe thêm, mạnh
thêm” [50].
UNESCO định nghĩa: Bồi dưỡng có ý nghĩa nâng cao trình độ nghề nghiệp. Quá trình
này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên
môn nghiệp vụ của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp [29].
Bồi dưỡng theo nghĩa rộng là quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình thành nhân cách
và những phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định hướng mục đích đã chọn. Theo

nghĩa hẹp là trang bị thêm kiến thức, kỹ năng nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện năng
lực hoạt động trong lĩnh vực cụ thể [16].
Tóm lại, bồi dưỡng là bổ sung, cung cấp thêm những thiếu hụt về tri thức, cập nhật
thêm cái mới trên cơ sở những cái cũ đã có nhằm mở mang có hệ thống những tri thức, kỹ
năng, nghiệp vụ, làm giàu vốn hiểu biết, nâng cao hiệu quả trong quá trình lao động.
1.2.1.2. Bồi dưỡng giáo viên
Trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, “bồi dưỡng GV là việc nâng cao, hoàn thiện trình
độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cho các GV đang dạy học”; bên cạnh đó, “bồi
dưỡng GV là sự tiếp tục phát huy năng lực tự học, tự đào tạo đã được tạo ra ở quá trình đào
tạo ban đầu theo hình thức bồi duỡng từ xa, theo định hướng “tự đào tạo để dạy HS tự học”
[20].
Tác giả Nguyễn Minh Đường quan niệm: “Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật
những kỹ năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu trong một cấp học, bậc học và thường xác nhận
bằng một chứng chỉ” [29].
Trong bài quản lý nhân sự trong giáo dục - đào tạo, tác giả Mạc Văn Trang có nêu:
“Bồi dưỡng GV là nâng cao trình độ về kiến thức và kỹ năng của GV lên một bước mới”

[29].
Bồi dưỡng GV là làm tăng thêm trình độ hiện có của đội ngũ GV (cả về phẩm chất,
năng lực, sức khỏe) với nhiều hình thức, mức độ khác nhau. Bồi dưỡng không đòi hỏi chặt
chẽ, chính quy như đào tạo và được thực hiện trong thời gian ngắn. Như vậy, chủ thể bồi
dưỡng là giáo viên đã được đào tạo và đã có một trình độ chuyên môn nhất định.
Bồi dưỡng GV là quá trình bổ sung kiến thức, kỹ năng (những nội dung liên quan đến
nghề nghiệp) để nâng cao trình độ trong một lĩnh vực hoạt động chuyên môn nhất định, giúp
GV có cơ hội củng cố, mở mang hoặc nâng cao hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên
môn nghiệp vụ có sẵn nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công việc đang làm.
Như vậy, bồi dưỡng GV là bổ sung những kiến thức còn thiếu hoặc đã lạc hậu, cập
nhật thêm những tri thức mới về các lĩnh vực của khoa học giáo dục nhằm nâng cao trình độ
mọi mặt cho đội ngũ GV nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp trồng người.

1.2.2. Năng lực sư phạm
1.2.2.1. Năng lực
Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt
động [37].
Năng lực là tổ hợp các thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của
một hoạt động nhất định đảm bảo cho hoạt động đó đạt kết quả [28].
Năng lực có thể chia thành 2 loại cơ bản, chúng bổ sung, hỗ trợ nhau, đó là năng lực
chung và năng lực riêng biệt:
- Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực hoạt động khác như những
thuộc tính về thể lực, trí tuệ.
- Năng lực riêng biệt hay năng lực chuyên môn riêng biệt là sự thể hiện độc đáo các
phẩm chất riêng biệt, có tính chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu của một lĩnh vực hoạt
động chuyên biệt với kết quả cao.
Như vậy, có hai quan điểm về sự hình hành và phát triển của năng lực. Quan điểm thứ
nhất cho rằng năng lực, đặc biệt là tài năng của con người mang tính bẩm sinh, tuy nhiên số
người mang năng lực bẩm sinh thường không nhiều. Quan điểm thứ hai cho rằng năng lực
hình thành và phát triển trong hoạt động thực tiễn của con người. Nó là kết quả của quá

trình giáo dục, tự rèn luyện của cá nhân [8].
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả sử dụng quan điểm cho rằng năng lực là
kết quả của quá trình giáo dục, tự phấn đấu và rèn luyện.
1.2.2.2. Năng lực sư phạm
Năng lực sư phạm là khả năng thực hiện các hoạt động dạy học và giáo dục đạt kết quả
cao. Năng lực sư phạm là tổ hợp hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo thể hiện năng lực dạy
học – giáo dục của người GV, khả năng lĩnh hội và vận dụng sáng tạo tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo đó trong những trường hợp cụ thể, bao gồm:
- Hệ thống kiến thức gồm có:
+ Kiến thức môn học và những kiến thức về các môn khoa học liên quan đến môn
học, người GV cần có những hiểu biết rộng về khoa học, sâu về môn phụ trách giảng dạy.

+ Kiến thức về hoạt động giáo dục và giảng dạy nhằm hình thành những kỹ năng sư
phạm như kỹ năng thiết kế bài học, xây dựng tiến trình bài học…. Nhóm kiến thức này bao
gồm những kiến thức về giáo dục học, tâm lý học, phương pháp dạy học và giáo dục,…
+ Bên cạnh đó, người GV cần có những kiến thức công cụ, đó là những kiến thức về
ngoại ngữ, về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học, về logic học,
- Hệ thống kỹ năng sư phạm bao gồm:
+ Nhóm kỹ năng nền tảng như kỹ năng tổ chức, kỹ năng nhận thức, kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng quản lý, kỹ năng tự học và phát triển nghề nghiệp
+ Nhóm kỹ năng chuyên biệt như kỹ năng dạy học, kỹ năng giáo dục. Kỹ năng dạy
học của GV bao gồm nắm vững, lựa chọn và tổ chức sắp xếp các tri thức; lựa chọn, phân
loại, phối hợp các phương thức dạy học; lôi cuốn, thuyết phục học sinh trong các hoạt động
học tập; biết ứng xử nhanh các tình huống có vấn đề trong giờ học; biết cách hướng dẫn có
hiệu quả việc dạy các đối tượng cá biệt,…. Kỹ năng giáo dục gồm tìm hiểu đối tượng giáo
dục, tìm hiểu môi trường giáo dục, xây dựng, tổ chức, thực hiện được kế hoạch giáo dục và
kiểm tra, đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức HS [29].
Tóm lại, người GV cần có kiến thức và kỹ năng về chuẩn bị dạy học, giáo dục; biết và
quán triệt mục tiêu dạy học, giáo dục, thực hiện kế hoạch đề ra đạt mục tiêu; ứng xử với HS
và kiểm tra, đánh giá sự tiến bộ của HS; cam kết liên tục phát triển nghề nghiệp làm cho

năng lực sư phạm luôn được cập nhật, hoàn thiện.
1.2.3. Bồi dưỡng năng lực sư phạm
Bồi dưỡng năng lực sư phạm là quá trình đào tạo bổ sung nhằm mục đích nâng cao và
hoàn thiện năng lực sư phạm của GV. Bồi dưỡng năng lực sư phạm giúp GV cập nhật
những kiến thức khoa học chuyên ngành, những phương pháp mới, tiếp thu các kinh nghiệm
giáo dục tiên tiến, để từ đó nâng cao thêm kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ sư phạm. Vì vậy
nhà trường và các cơ quan QLGD cần có kế hoạch lâu dài về bồi dưỡng GV nhằm thoả mãn
nhu cầu nghề nghiệp của nhà giáo, đồng thời đáp ứng những đòi hỏi nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo của các GV.
Trong giai đoạn hội nhập, GV THPT cần được bồi dưỡng những năng lực sư phạm sau
đây:
- Năng lực hiểu biết toàn bộ công nghệ dạy học để đảm bảo dạy - học có hiệu quả nhất.
- Năng lực cập nhật kiến thức và nâng cao kiến thức môn học mà GV đảm nhận.

- Năng lực hướng dẫn HS tìm kiếm và lựa chọn, phân tích, tổ chức lựa chọn và xử lý
các thông tin phù hợp với nhu cầu của mình.
- Năng lực mở rộng mối quan tâm, hứng thú tìm hiểu về văn hóa, văn học, nghệ thuật
để tạo kiến thức nền.
- Năng lực phát hiện vấn đề, điều tra và giải quyết vấn đề.
- Năng lực phê phán và sáng tạo, kế thừa cái cũ, vận dụng cái mới.
- Năng lực nắm chắc công nghệ thông tin và sử dụng công nghệ thông tin một cách
linh hoạt vào việc dạy học của mình.
- Năng lực tổ chức các công việc ngoài lớp.
- Năng lực ra đề thi, kiểm tra và đánh giá các mặt hoạt động của HS.
1.2.4. Quản lý - Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên
1.2.4.1. Quản lý
Thuật ngữ “Quản lý” (Tiếng Việt gốc Hán) là sự tích hợp hai quá trình “quản” và “lý”.
“Quản” có nghĩa là bao trùm, coi sóc, trông coi tất cả, giữ gìn, duy trì ở trạng thái ổn định;
“lý” nghĩa là chỉnh đốn, sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa vào hệ thống phát triển. Vì vậy,
“Quản lý” tức là bảo quản, duy trì, đổi mới, phát triển sự vật ở trạng thái ổn định trong bối

cảnh biến động [29].
Theo Henry Fayol: “Quản lý nghĩa là dự kiến, tổ chức, lãnh đạo, phối hợp và kiểm tra”
[3].
Theo Harold Koontz: “Quản lý là một thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá
nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. Mục tiêu của mọi nhà quản lý là nhằm hình
thành một môi trường mà trong đó con người có thể đạt được các mục đích của nhóm với
thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [3].
Vũ Hào Quang cho rằng: “Quản lý chính là sự tác động liên tục, có định hướng, có tổ
chức, có ý thức hướng mục đích của chủ thể vào đối tượng nhằm đạt được hiệu quả tối ưu
so với yêu cầu đặt ra” [40, tr.105].
Quản lý là phải biết đào tạo, bồi dưỡng, chia sẻ trách nhiệm, quyền hạn và phải biết ủy
quyền [26].
Một cách khái quát:
Quản lý là sự tác động liên tục có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ
thống thông tin của chủ thể quản lý (người quản lý, tổ chức quản lý) đến khách thể (đối

tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế… bằng một hệ thống các luật
lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm sử dụng
có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu đặt ra trong
điều kiện biến động của môi trường, làm cho tổ chức hoạt động có hiệu quả [13,tr.7].
1.2.4.1. Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên
Quản lý hoạt động bồi dưỡng GV là tác động có định hướng của chủ thể quản lý (các
tổ chức QLGD và cán bộ QLGD các cấp từ trung ương đến cơ sở) đến GV nhằm tạo điều
kiện cho GV có cơ hội học tập hoàn thiện, nâng cao trình độ nghề nghiệp của mình đáp ứng
yêu cầu giảng dạy, đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay nhằm đào tạo nguồn nhân lực
có chất lượng cao phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Cụ thể quản lý hoạt động bồi
dưỡng GV là việc thực hiện các chức năng quản lý trong quá trình tổ chức bồi dưỡng GV từ
chức năng hoạch định – tổ chức – chỉ đạo – kiểm tra, đánh giá để hoạt động bồi dưỡng GV
đạt hiệu quả.
1.3. Lý luận về hoạt động bồi dưỡng giáo viên trường THPT

1.3.1. Những cơ sở khoa học của hoạt động bồi dưỡng giáo viên THPT
1.3.1.1. Cơ sở lý luận của hoạt động bồi dưỡng giáo viên
Nghị quyết hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII chỉ rõ:
“Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh. Giáo viên
phải đủ đức, đủ tài” [46]. Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII nêu: “Khâu then chốt đó thực
hiện chiến lược phát triển giáo dục là phải đặc biệt chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng và tiêu
chuẩn hóa đội ngũ giáo viên cũng như cán bộ QLGD và chính trị, tư tưởng, đạo đức và nâng
cao năng lực chuyên môn” [46].
Vấn đề xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD cũng đã
được thể hiện rõ trong chỉ thị 40 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 15 tháng 06 năm
2004. Chỉ thị nêu rõ: xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD là một nhiệm vụ vừa đáp
ứng yêu cầu trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài nhằm thực hiện thành công chiến
lược phát triển giáo dục 2001- 2010 và chấn hưng đất nước. Chỉ thị đã đưa ra mục tiêu là
xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ QLGD bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng, cân
đối về cơ cấu, đạt chuẩn, đáp ứng yêu cầu của thời kì mới. Đây là chỉ thị vô cùng quan trọng

và hết sức cụ thể về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD.
Đặc biệt, chỉ thị đã nhấn mạnh: “Phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là
một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, là điều
kiện để phát huy nguồn lực con người. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, trong
đó nhà giáo và cán bộ QLGD là lực lượng nòng cốt có vai trò quan trọng” [4].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nói: “Thầy tốt thì ảnh hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh
hưởng xấu” và: “giáo viên cũng phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiệm vụ,
chớ tự mãn cho mình giỏi rồi thì dừng lại mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, tự đào thải
mình trước” [32, tr.489]. Điều đó cho thấy, điều kiện quan trọng nhất để nâng cao chất
lượng giáo dục là phải có được một đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng và có chất lượng. Để
làm được điều này, ngày 11 tháng 01 năm 2005, Thủ tướng chính phủ đã ra quyết định phê
duyệt đề án “Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD giai đoạn
2005- 2010”. Đề án đã khẳng định: “Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD theo
hướng chuẩn hóa, nâng cao chất lượng, đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt

chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề nghiệp
và trình độ chuyên môn của nhà giáo, đáp ứng đòi hỏi ngày cáng cao của sự nghiệp giáo dục
trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [42].
Chuẩn nghề nghiệp GV THPT ban hành ngày 22/10/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo quy định được dùng làm cơ sở để đánh giá, xếp loại GV hằng năm phục vụ công
tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ GV trung học.
Chuẩn nghề nghiệp GV trung học là hệ thống các yêu cầu cơ bản đối với GV trung học về
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; năng lực chuyên môn, nghiệp vụ [44].
Xuất phát từ những yêu cầu trên, một trong những nhiệm vụ của ngành GD-ĐT hiện
nay là phải xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và bước đi cụ thể trong công tác đào tạo và bồi
dưỡng lực lượng GV và CBQL sao cho phù hợp với định hướng phát triển và thực hiện tinh
thần Đại hội Đảng lần thứ IX, nghị quyết 40 của Chính phủ và chỉ thị 14 của Thủ tướng
chính phủ về việc thực hiện chương trình thay SGK là phải: “Tổ chức tốt việc bồi dưỡng
GV; bảo đảm các GV phải được bồi dưỡng đủ các nội dung cần thiết khi thực hiện giảng
dạy theo chương trình mới, sách mới” [2]. “Đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ
QLGD đủ sức, đủ tài cùng với đội ngũ nhà giáo và toàn xã hội chấn hưng nền giáo dục
nước nhà” và “Chú trọng việc nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống của nhà giáo”
[2].

1.3.1.2. Cơ sở thực tiễn
Ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá X, trong phiên họp thứ 43 (20/9/2006) đã thông qua
Báo cáo đánh giá kết quả khảo sát về đội ngũ GV và cán bộ quản lý trong ngành giáo dục
của Ủy ban Văn hoá - Giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng. Theo đó, tỷ lệ GV yếu kém
khá cao: 20% GV chưa đạt yêu cầu về năng lực sư phạm, từ 11,6 đến 23,8% GV không đáp
ứng những yêu cầu đổi mới về chuyên môn, từ 3 đến 5% GV chưa đạt trình độ chuẩn về đạo
đức nhà giáo. Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam 2009- 2020 đã chỉ ra những yếu kém
và bất cập trong giáo dục như: “Đội ngũ nhà giáo và cán bộ QLGD chưa đáp ứng được
nhiệm vụ giáo dục trong thời kỳ mới” và “Bên cạnh sự nỗ lực của tuyệt đại bộ phận, một số
nhà giáo còn có biểu hiện vi phạm đạo đức lối sống, làm ảnh hưởng xấu tới uy tín của người
thầy trong xã hội. Công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ

nhà giáo còn thiếu hiệu quả. Các chế độ chính sách đối với nhà giáo chưa thỏa đáng, chưa
tạo được động lực phấn đấu vươn lên trong bản thân mỗi người thầy” [5]. Vì thế trong Hội
nghị triển khai Đổi mới giáo dục phổ thông theo Nghị quyết 40 của Quốc hội (tháng 4 năm
2002), Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã khẳng định sự cần thiết phải nâng cao chất
lượng đội ngũ GV, một điều kiện quan trọng số một để thực hiện thành công chủ trương đổi
mới GD của Đảng và Nhà nước, đồng thời nêu rõ quyết tâm của Chính phủ trong việc nâng
cao chất lượng đội ngũ GV đứng lớp, trước hết là có những biện pháp chỉ đạo các địa
phương và ngành giáo dục giải quyết tình trạng vừa thừa vừa thiếu GV.
Chất lượng đội ngũ GV đa phần phụ thuộc vào chất lượng đào tạo của các trường sư
phạm và chất lượng bồi dưỡng trong quá trình công tác. Hiện nay, thời gian đào tạo GV
THPT là bốn năm, sau đó được bồi dưỡng trong suốt nhiều năm công tác. Nhưng thực tế
kiến thức được bồi dưỡng không theo kịp thực tế phát triển nhanh chóng của xã hội. Vì vậy
đòi hỏi GV phải được bồi dưỡng thường xuyên, GV phải có ý thức học tập, nâng cao trình
độ năng lực sư phạm trên cơ sở lấy tự học là chính.
Đổi mới chương trình và SGK tất yếu dẫn đến đổi mới phương pháp dạy học và tổ
chức dạy học theo lối mới. Tuy nhiên chất lượng đội ngũ giáo viên còn bất cập chưa đáp
ứng được yêu cầu giảng dạy chương trình SGK mới. Một số GV nghiệp vụ sư phạm còn hạn
chế, chưa biết tổ chức một giờ học theo mục tiêu bài học, công tác chủ nhiệm lớp còn yếu
đặc biệt là việc sử dụng phương pháp dạy học mới: “Lấy HS làm trung tâm của quá trình
dạy học”, dẫn đến hiệu quả giáo dục thấp.

Vì vậy chiến lược bồi dưỡng GV trong giai đoạn mới phải nhằm mục tiêu cơ bản là tạo
lập cho GV những năng lực mới, thích ứng với những đòi hỏi của đổi mới giáo dục ở các
trường phổ thông. Ở đây năng lực được hiểu là khả năng thực hiện có hiệu quả và có trách
nhiệm các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, các vấn đề thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp,
xã hội hay cá nhân trên cơ sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm, sẵn sàng hành động
và niềm tin.
Nhìn chung, hoạt động bồi dưỡng có tầm quan trọng đặc biệt trong việc nâng chất
lượng giáo dục THPT. Yêu cầu bồi dưỡng vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược.
1.3.2. Mục tiêu của hoạt động bồi dưỡng giáo viên THPT

Bồi dưỡng GV là một hoạt động thường xuyên bởi xu hướng của giáo dục thời đại
ngày nay là “học tập suốt đời”. Mục đích của việc bồi dưỡng đội ngũ GV THPT nhằm nâng
cao thường xuyên bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực sư phạm cho GV
THPT, giúp GV thực hiện tốt nhiệm vụ người thầy, đảm bảo yêu cầu về chất lượng và hiệu
quả hoạt động giáo dục của nhà trường trong thời kì hội nhập. Bên cạnh đó, mục tiêu còn
hướng đến việc giúp GV có thói quen tự học, tự nghiên cứu để tự nâng cao trình độ, nắm
chắc kiến thức, kỹ năng thực hành, sử dụng thiết bị và vận dụng các phương pháp giảng dạy
mới để nâng cao chất lượng giáo dục và hiệu quả đào tạo.
Tùy theo từng đối tượng, từng yêu cầu mà hoạt động bồi dưỡng đề ra những mục tiêu
thích hợp. Hiện nay hoạt động bồi dưỡng GV THPT nhằm đạt các mục tiêu cụ thể sau:
- Bồi dưỡng chuẩn hóa trình độ.
- Bồi dưỡng nâng cao trình độ trên chuẩn.
- Bồi dưỡng cập nhật kiến thức (bồi dưỡng thường xuyên).
- Bồi dưỡng đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, dạy theo chương trình SGK
mới.
- Bồi dưỡng trình độ chính trị, ngoại ngữ, tin học đáp ứng tiêu chuẩn ngạch GV
THPT.
1.3.3. Nội dung bồi dưỡng năng lực sư phạm cho GV ở các trường THPT
Bồi dưỡng năng lực sư phạm là một việc không thể thiếu của người GV trong suốt qua
trình giảng dạy. Mỗi GV cần phải có một trình độ chuyên môn vững chắc, sâu rộng về bộ
môn của mình. Vì vậy GV cần được bồi dưỡng những kiến thức cập nhật, nâng cao của bộ

×