Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

một số giải pháp và khuyến nghị nhằm phát triển hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành của công ty du lịch thành đạt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.36 KB, 42 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Du lịch ngày nay đã và đang trở thành nhu cầu cần thiết đối với nhiều
tầng lớp xã hội của mỗi quốc gia, là hiện tượng quan trọng nhất của cuộc sống
hiện đại”. Theo trào lưu phát triển của du lịch quốc tế, nhiều nước đã đặt sự
nghiệp phát triển du lịch lên một trong những vị trí quan trọng hàng đầu và đã
gặt hái được những thành công ở lĩnh vực này trong những năm gần đây.
Với Việt Nam, thực tế đã cho thấy du lịch “ngành công nghiệp không
khói” đang ngày càng khẳng định vững chắc vị trí quan trọng của mình trong
nền kinh tế quốc dân. Có được vai trò này là nhờ sự đóng góp không nhỏ của
hàng trăm, hàng ngàn các doanh nghiệp trong lĩnh vực du lịch khắp cả nước.
Một trong những loại hình doanh nghiệp không thể thiếu và góp phần quan
trọng cho sự phát triển của ngành du lịch đó là công ty du lịch lữ hành.
Nằm trong hệ thống các công ty lữ hành, bày năm qua công ty du lịch
Thành Đạt đã không ngừng vươn lên phát triển tự khẳng định mình trên thị
trường du lịch trong nước và quốc tế. Với những chương trình du lịch văn hoá
- độc đáo và hấp dẫn, phong phú cả về chất lượng lẫn loại hình du lịch, công
ty du lịch Thành Đạt đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp với khách du lịch, số
lượng khách đến với công ty ngày càng cao.
Sau khi đã đi sâu nghiên cứu thực tế bằng phương pháp quan sát cùng
với số liệu đã thu thập được về tình hình hoạt động kinh doanh du lịch lữ
hành của công ty du lịch Thành Đạt.
Chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I - Khái quát chung về công ty Thương mại và Du lịch
Thành Đạt
Chương II - Thực trạng hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành
của công ty du lịch Thành Đạt
Chương III - Một số giải pháp và khuyến nghị nhằm phát triển
hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành của công ty du
lịch Thành Đạt.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH


DU LỊCH LỮ HÀNH
I-/ ĐẶC ĐIỂM CỦA DU LỊCH LỮ HÀNH VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÁC
CÔNG TY DU LỊCH LỮ HÀNH.
1-/ Đặc điểm của du lịch lữ hành.
Hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành là hoạt động đặc trưng nổi bật và
rõ nét nhất trong hoạt động kinh doanh du lịch nói chung. Một quốc gia, một
vùng nào đó muốn phát triển du lịch thì việc nâng cao chất và lượng của các
hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành là một điều rất quan trọng.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiều công ty lữ hành có phạm vi hoạt động
rộng lớn mang tính khu vực và toàn cầu trong hầu hết các lĩnh vực của hoạt
động du lịch. Các công ty lữ hành đồng thời sở hữu các tập đoàn khách sạn, các
hãng hàng không tầu biển, ngân hàng, phục vụ chủ yếu khách du lịch của công
ty lữ hành. Kiểu tổ chức các công ty lữ hành nói trên rất phổ biến ở Châu Âu,
Châu Á và đã trở thành những tập đoàn kinh doanh du lịch có khả năng chi
phối mạnh mẽ thị trường du lịch quốc tế. Ở giai đoạn này thì các công ty lữ
hành không chỉ là người bán (phân phối), người mua sản phẩm của các nhà
cung cấp du lịch mà trở thành người sản xuất trực tiếp ra các sản phẩm du lịch.
Kinh doanh du lịch lữ hành là hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lĩnh
vực tổ chức xây dựng, bán và thực hiện các chương trình du lịch trọn gói cho
khách du lịch. Ngoài ra còn có thể tiến hành các hoạt động trung gian bán sản
phẩm của các nhà cung cấp du lịch hoặc thực hiện các hoạt động kinh doanh
tổng hợp khác đảm bảo phục vụ cho nhu cầu du lịch của khách từ khâu đầu
tiên đến khâu cuối cùng.
2-/ Tầm quan trọng của các công ty kinh doanh du lịch lữ hành.
Để hiểu rõ vai trò của công ty du lịch lữ hành, trước hết cần hiểu rõ mối
quan hệ giữa cung và cầu trong du lịch.
Quan hệ giữa cung - cầu trong du lịch là mối quan hệ tương đối phức
tạp, chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố bên trong cũng như bên ngoài. Mối
quan hệ này có khá nhiều điểm bất lợi cho cả những người kinh doanh du lịch
(cung) cũng như khách du lịch (cầu).

a, Những mâu thuẫn xung quanh quan hệ cung - cầu.
* Tính cố định của cung và sự phân tán của cầu du lịch đã góp phần
hình thành các công ty du lịch lữ hành. Tính cố định của cung thể hiện một
cách hiển nhiên ở tài nguyên du lịch, nó không thể di chuyển được mà khách
du lịch phải tự tìm kiếm đến với nó. Cũng như các dịch vụ lưu trú chỉ có thể
mọc lên ở xung quanh các tài nguyên du lịch và nằm chờ khách du lịch tới.
Tính cố định của cung dẫn tới một điều là khách du lịch dù không muốn họ
cũng phải bỏ ra một khoản chi phí dành cho vận chuyển đến các điểm du lịch
trước khi họ được tiêu dùng trong thưởng thức chúng, nó thể hiện một cách
đơn giản và dễ hiểu qua một cụm từ chỉ hoạt động của khách, đó là “đi du
lịch”.
Mặt khác, cầu về du lịch lại phân tán ở khắp nơi vì chúng nằm trong mỗi
con người. Khi một cá nhân muốn đi du lịch họ phải biết các dịch vụ hàng
hoá, điểm du lịch mà họ sẽ lựa chọn có chất lượng như thế nào ? họ phải qua
các phương tiện vận chuyển để đến với điểm du lịch. Ngoài các nhu cầu thiết
yếu được phục vụ như ăn, ở còn có rất nhiều các nhu cầu bổ sng khác nảy
sinh trong quá trình du lịch nhưng họ khó có thể biết vì sự phân tán và cách
biệt của cầu so với cung.
Nhờ có đặc điểm trên mà công ty lữ hành ra đời để thoả mãn nhu cầu của
cả cung và cầu về du lịch.
Các công ty lữ hành sẽ khắc phục những mâu thuẫn trên bằng cách ghép
nối cung cầu du lịch không chỉ thông qua vận chuyển khách tới tài nguyên du
lịch (họ cần tới) mà cần bán các sản phẩm có thể có của chương trình du lịch
cho khách hàng. Tất nhiên, các sản phẩm này có thể là của họ và cũng có thể
của các nhà cung cấp khác. Một loại sản phẩm của công ty lữ hành đó là các
chương trình du lịch trọn gói. Các chương trình này là một trung gian ghép
nối nhiều nhu cầu riêng lẻ thành một sản phẩm hoàn thiện nhất. Sự thuận tiện
và hiệu quả này của chương trình đã khiến cho dù cung du lịch có đứng yên
một chỗ và cầu du lịch có phân tán khắp nơi thì chúng vẫn tìm đến nhau trong
sự thuận tiện và hiệu quả cho cả cung và cầu thông qua nhà trung gian: Công

ty du lịch lữ hành.
* Tính bộ phận của cung và tính tổng hợp của nhu cầu.
Cầu về du lịch chính là nhu cầu trong suốt chuyến du lịch của khách
hàng. Nó bao gồm hai loại cơ bản là các nhu cầu chung như ăn, uống, ngủ, đi
lại, nghỉ ngơi, giải trí và các nhu cầu đặc trưng khiến họ đi du lịch. Như vậy,
khó có thể có một nhà cung cấp sản phẩm nào có thể có đủ mọi loại hàng hoá
dịch vụ phục vụ cho họ. Đó là chưa xét đến sự phát sinh rất phức tạp trong
các chương trình du lịch quốc tế khi sự khác nhau về vị trí địa lý và việc vượt
qua biên giới cần những thủ tục hành chính mang tính pháp lý mà chúng
không thuộc thẩm quyền của một hãng du lịch nào. Vậy cần có một tổ chức
đứng ra ghép nối các cung riêng lẻ từ các thủ tục: Visa hộ chiếu, phương tiện
vận chuyển (máy bay, ô tô ). Các nhà cung cấp dịch vụ phục vụ các nhu cầu
chung như khách sạn, nhà hàng và các điểm tham quan du lịch Công ty lữ
hành ra đời để làm toàn bộ việc ghép nối phức tạp trên một cách có hiệu quả
nhất. Việc ra đời của nó giúp cho việc phân công lao động trong du lịch giữa
các bộ phận ngày một hoàn thiện hơn mà tính phân tán của chúng lại không
hề ảnh hưởng tới nhu cầu về du lịch mang tính tổng hợp cao và đối lập rõ nét.
Công ty lữ hành ra đời như một tất yếu không thể theieú được trong sự phát
triển những ghép nối đầu tiên của toàn bộ nhu cầu của khách du lịch trong
một chuyến du lịch.
b, Khả năng thông tin quảng cáo của cung đối với cầu.
Xuất phát từ những cách biệt về khoảng cách mà thông tin quảng cáo của
các nhà cung cấp địa phương hoặc về các tài nguyên du lịch rất tốn kém mới
có thể đến được với khách du lịch. Ngoài ra, tính tổng hợp của các nhu cầu và
tính bộ phận của cung cũng có ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả của thông
tin quảng cáo. Có thể cho một ví dụ đơn giản khi khách du lịch sẽ đến vùng
du lịch với khách sạn đang tồn tại, điều này vẫn không đem lại kết quả gì
nhiều vì không du lịch đâu chỉ cần một thứ dịch vụ lưu trú đó. Đó không phải
là một chuyến du lịch và cũng thật vất vả cho họ để tìm kiếm các thông tin
khác trên những trang quảng cáo, trên những chương trình quảng cáo khiến

họ thật mệt mỏi khi muốn đi một chuyến du lịch.
Trên thực tế mọi việc diễn ra đơn giản hơn nhiều vì công ty lữ hành ra
đời và khách du lịch có thể có mọi thông tin về cung du lịch qua các chương
trình du lịch trọn gói có sẵn. Chương trình này sẽ khắc phục được sự chậm trễ
về khả năng thông tin của cung đối với cầu cũng như khả năng thông tin của
cầu đối với cung. Công ty lữ hành làm nhiều phần việc của cung và cầu, đó là
cung cấp thông tin và tìm kiếm thông tin.
c, Những ảnh hưởng do sở thích tâm lý và thu nhập của khách.
Mỗi khách du lịch đều muốn đi du lịch để thoả mãn được những đặc
điểm riêng về tâm lý xã hội của mình, đồng thời đáp lại là những yếu tố khó
thay đổi nhưng rất quan trọng của mỗi khách du lịch ảnh hưởng đến chuyến
đi. Khi một nhóm khách quyết định đi du lịch thì các đặc điểm trên khiến cho
mõi người sẽ chọn một chương trình du lịch riêng cho mình. Như vậy sẽ rất
khó tổ chức một chuyến đi du lịch. Tuy nhiên, xét toàn bộ khách đi du lịch
trên một khu vực nhất định thì lại có thể tìm thấy rất nhiều người có quyết
định đi du lịch giống nhau. Công ty lữ hành sẽ là nơi đứng ra gom các khách
du lịch có cùng nhu cầu để có thể có một só lượng đủ lớn cho một chương
trình du lịch. Việc quảng cáo một chương trình du lịch trọn gói nào đó cũng
chính là việc đứng ra gom những khách du lịch có quyết định du lịch giống
nhau, nhờ vậy mà các ảnh hưởng của sở thích tâm lý và thu nhập khác nhau
cũng không thành vấn đề có thể cản trở việc đi du lịch của du khách.
Ngoài ra, thu nhập của từng khách cũng có sự khác nhau tương đối lớn,
cho nên yếu tố này gần như quan trọng và quyết định đến hành vi đi du lịch
của khách. Vì vậy, mà tuỳ thuộc vào khả năng tài chính của mình, khách du
lịch sẽ đi những chuyến du lịch phù hợp với họ nhất, và tất nhiên công ty lữ
hành sẽ quan tâm tới yếu tố này.
II-/ HỆ THỐNG SẢN PHẨM VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH LỮ
HÀNH.
1-/ Hệ thống sản phẩm của các công ty du lịch lữ hành.
Công ty du lịch lữ hành kinh doanh chủ yếu bằng các hoạt động trung

gian ghép nối cung - cầu du lịch, các dịch vụ tổng hợp phục vụ khách du lịch
và kinh doanh các chương trình du lịch trọn gói. Như vậy ta có thể phân loại
các sản phẩm của công ty lữ hành bao gòm các loại cơ bản là các dịch vụ
trung gian và các chương trình du lịch trọn gói.
a, Cách dịch vụ trung gian.
Đối với các công ty lữ hành, tỷ trọng về loại dịch vụ này chiếm phần
không lớn nhưng nó lại tương đối quan trọng đối với nhiều đại lý, văn phòng
du lịch. Các dịch vụ du lịch mà công ty có thể làm trung gian môi giới rất đa
dạng, phổ biến nhất là các dịch vụ bán vé máy bay, cho thuê xe ô tô, đặt
phòng Lợi nhuận từ các dịch vụ môi giới này là chênh lệch giá hay hoa
hồng mà các nhà cung cấp dành cho họ nhờ mối quan hệ thường xuyên hoặc
những thoả thuận trước của họ với nàh cung cấp. Ngoài ra, hoa hồng có được
còn do sự hiểu biết về chuyên ngành, về thị trường du lịch cũng như các mối
quan hệ rộng rãi được thiết lập qua những khoảng thời gian nhất định của
mình.
Muốn bán được các sản phẩm này đòi hỏi công ty không những có mối
quan hệ chắc chắn với nhà cung cấp mà còn cần tới sự nhạy bén và năng động
để có thể tìm ra một trong số nhiều nhà cung cấp những địa chỉ tin cậy và
mức giá hợp lý. Ngoài ra, quan hệ rộng rãi cũng cho công ty những cơ hội để
lựa chọn những mức giá đầu vào hợp lý nhằm nâng cao lợi nhuận.
b, Các chương trình du lịch trọn gói.
* Khái niệm.
Chương trình du lịch trọn gói là các nguyên mẫu để căn cứ vào đó người
ta tổ chức nên các chương trình du lịch với mức giá đã được xác định trước.
Nội dung của chương trình bao gồm các hoạt động như vận chuyển, lưu trú,
tham quan, giải trí
Trong những điều kiện nhất định như giá các sản phẩm dịch vụ trong
chương trình không thay đổi, lịch trình chuyến đi không thay đổi, không có
các thay đổi khác về điều kiện giao thông đi lại thì một chương trình du lịch
định sẵn có thể làm nguyên mẫu cho rất nhiều chuyến du lịch. Tuy nhiên,

trong thực tế, tính ổn định và tính nguyên mẫu của một chương trình du lịch
chỉ mang tính tương đối, nó chỉ là nguyên mẫu cho một thời gian nhất định.
Khi xảy ra các thay đổi dù do chủ quan hay khách quan đem lại, người ta phải
tính toán sắp xếp lại chương trình du lịch cho phù hợp hơn. Những thay đổi
kịp thời này có ý nghĩa rất quan trọng vì nếu không thực hiện các thay đổi kịp
thời, các chuyến du lịch có thể không thực hiện được và đôi khi công ty sẽ
phải mất những khoản chi phí phụ thêm hoặc cp phạt cho công ty gửi khách
du lịch, đồng thời ảnh hưởng tới uy tín của công ty.
* Phân loại các chương trình du lịch trọn gói.
Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, người ta có thể phân loại các
chương trình du lịch trọn gói thành nhiều loại khác nhau. Dưới đây là một số
cách phân loại có ý nghĩa hơn cả với hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành.
- Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh.
+ Chương trình du lịch chủ động.
Du lịch chủ động là hình thức du lịch mà ở đó công ty lữ hành chủ động
hoàn toàn trong việc tổ chức và thực hiện chương trình.
Chương trình du lịch chủ động được thực hiện như sau:
Công ty lữ hành  Nghiên cứu thị trường  Xây dựng các chương trình
du lịch  Ấn định ngày thực hiện  Quảng cáo và bán chương trình 
Khách du lịch  Thực hiện.
Chương trình này thường thích hợp với các công ty có thị trường khách
tương đối ổn định. Tuy nhiên trên thực tế cách xây dựng chương trình kiểu
này không có hiệu quả và không một công ty nào dám đảm bảo một số lượng
khách đủ đem lại mức lợi nhuận cho họ sau khi quảng cáo.
+ Chương trình du lịch bị động.
Du lịch bị động là hình thức du lịch được thực hiện bằng cách gửi công
dân của nước mình ra nước ngoài du lịch. Hay nói cách khác là được thực
hiện theo yêu cầu của khách.
Khách du lịch  Yêu cầu  Công ty lữ hành  Xây dựng chương trình
du lịch  Thoả thuận  Thực hiện.

Các công ty lữ hành thực hiện các chương trình du lịch kiểu này đảm bảo
độ an toàn cao, ít mạo hiểm nhưng có một nhược điểm lớn là kinh doanh theo
kiểu ngồi chờ khách, ngoài ra còn gây bất tiện cho khách vì họ phải chờ đợi
mới có được câu trả lời chính xác về giá cả, lịch trình chi tiết và đôi khi câu
trả lời không có tính thuyết phục.
Để khắc phục nhược điểm của hai loại chương trình du lịch trên người ta
xây dựng chương trình du lịch kết hợp.
+ Chương trình du lịch kết hợp.
Công ty lữ hành  Nghiên cứu thị trường  Xây dựng chương trình du
lịch nhưng không ấn định ngày thực hiện  Khách du lịch  Thoả thuận 
Thực hiện.
Loại chương trình này đã kế thừa được những ưu điểm và khắc phục
những nhược điểm của hai loại chương trình du lịch nói trên. Nhưng theo
cách xây dựng này thì công ty lữ hành phải xây dựng một lượng các chương
trình du lịch thật đa dạng để khách du lịch có thể tìm ngay cho mình một
chương trình du lịch phù hợp.
- Căn cứ vào mức giá.
+ Chương trình du lịch có giá toàn phần: là giá bao gồm hầu hết các dịch
vụ hàng hoá phát sinh trong quá trình thực hiện. Đây là hình thức chủ yếu của
các chương trình du lịch do các công ty lữ hành du lịch tổ chức.
Giá của chương trình được tính:
G = (Di: Giá của dịch vụ thứ i trong chương trình).
+ Các chương trình du lịch mức giá tuỳ trọn: là các chương trình du lịch
mà khách có thể chọn lấy một mức bất kỳ trong số các mức giá được đưa ra
sao cho phù hợp với sở thích và khả năng thanh toán của họ.
Trên thực tế chương trình du lịch kiểu này chỉ được áp dụng với một loại
dịch vụ hàng hoá nào đó vì nếu thực hiện cho tất cả các hàng hoá dịch vụ thì
mức rủi ro của nó là khá lớn. Tuy nhiên với các công ty lữ hành đủ lớn họ vẫn
có thể áp dụng cách này và kết hợp thực hiện chúng với các chương trình du
lịch cùng loại của hãng lữ hành khác (qua quan hệ gửi khách).

c, Các yếu tố cấu thành giá một chương trình du lịch.
* Các yếu tố cấu thành giá thành.
Giá thành của một chương trình bao gồm toàn bộ những chi phí thực sự
mà công ty lữ hành phải chi trả để tiến hành thực hiện các chương trình du
lịch. Trước hết cần nhận thấy rằng giá thành của một chương trình du lịch dù
là xác định cho một khách du lịch cũng phụ thuộc vào số lượng khách du lịch
trong đoàn. Vì vậy, người ta nhóm toàn bộ những chi phí vào hai loại cơ bản:
- Các chi phí biến đổi tính cho một khách du lịch. Bao gồm chi phí cho
tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ mà đơn giá của chúng được quy định cho
từng khách. Đây thường là các chi phí gắn liền trực tiếp với sự tiêu dùng riêng
biệt của từng khách du lịch.
- Các chi phí cố định cho cả đoàn: Bao hàm chi phí của tất cả các loại
hàng hoá và dịch vụ mà đơn giá của chúng được xác định cho cả đoàn khách,
không phụ thuộc một cách tương đối vào số lượng khách trong đoàn. Nhóm
này gồm các chi phí mà mọi thành viên trong đoàn đều tiêu dùng chung,
không bóc tách được cho từng thành viên một cách riêng lẻ.
Giá thành cho một khách du lịch được tính như sau:
Z = b +
Giá thành cho cả đoàn khách: Z = N.b + A
Trong đó: N: Số thành viên trong đoàn.
A: Tổng chi phí cố định tính cho cả đoàn khách.
b: Tổng chi phí biến đổi tính cho một khách.
* Các yếu tố cấu thành giá bán.
Giá bán của một chương trình du lịch phụ thuộc vào những yếu tố sau:
+ Mức giá phổ biến trên thị trường.
+ Vai trò, khả năng của công ty trên thị trường.
+ Mục tiêu của công ty.
+ Giá thành của chương trình.
Căn cứ vào những yếu tố trên, ta có thể xác định giá bán của một chương
trình du lịch theo công thức:

G = Z + P + C
b
+ C
k
+ T
Trong đó:
P: Khoản lợi nhuận dành cho công ty lữ hành.
C
b
: Chi phí bán bao gồm hoa hồng cho các đại lý, chi phí khuếch
trương
C
k
: Các chi phí khác như chi phí quản lý, chi phí thiết kế chương
trình, chi phí dự phòng
T: Các khoản thuế.
2-/ Hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành của các công ty du lịch lữ
hành.
a, Đối với các công ty lữ hành gửi khách.
Hoạt động kinh doanh của công ty bắt đầu từ việc nghiên cứu thị trường
để tìm ra nhu cầu của khách du lịch. Công việc này do phòng thị trường tiến
hành.
Công việc tiếp theo là của bộ phận điều hành với nhiệm vụ thực hiện
việc gửi khách và giám sát thực hiện hợp đồng của các công ty nhận khách.
b, Đối với các công ty nhận khách.
Qua nghiên cứu thị trường, nắm bắt được yêu cầu về sở thích của khách
du lịch ở các thị trường khác nhau, công ty (bộ phận thị trường) thực hiện
việc xây dựng chương trình rồi thực hiện việc chào hàng cho các công ty gửi
khách. Cũng có thể việc xây dựng chương trình do các công ty gửi khách yêu
cầu và xây dựng khung.

Khi có khách, bộ phận thị trường trực tiếp làm việc với công ty gửi
khách để thống nhất cụ thể chương trình rồi đưa xuống bộ phận điều hành. Bộ
phận điều hành đặt chỗ với các cơ sở cung cấp dịch vụ đảm bảo cung cấp đầy
đủ và đúng chương trình.
Phòng điều hành yêu cầu phòng hướng dẫn điều động hướng dẫn viên
hoặc trực tiếp điều động và thông qua hướng dẫn viên giải quyết mọi phát
sinh trong quá trình đi cuủa đoàn.
c, Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh lữ hành của các
công ty du lịch lữ hành.
Công ty lữ hành là đơn vị hoạt động nhằm mục đích sinh lợi bằng việc
giao dịch, ký kết các hợp đồng du lịch và tổ chức thực hiện các chương trình
du lịch đã bán cho khách du lịch. Chính vì mô hình hoạt động rất đặc biệt mà
trong quá trình kinh doanh nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố: có nhân
tố chủ quan, có nhân tố khách quan tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt
động kinh doanh của công ty.
* Nhân tố khách quan.
- Chế độ chính sách Nhà nước, nơi công ty lữ hành đó hoạt động: chủ
trương, đường lối của Nhà nước có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh
doanh của công ty. Nhiều khi những chủ trương, chính sách này tác động tích
cực tới công ty, tạo điều kiện thuận lợi cho công ty hoạt động kinh doanh
nhưng ngược lại chính nó nhiều khi gây rất nhiều khó khăn, gây tác động tiêu
cực cho công ty.
- Các điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị Tất cả những nhân tố này cũng
tác động không nhỏ tới hoạt động kinh doanh của công ty lữ hành. Nhu cầu
được an toàn là một trong những nhu cầu được khách du lịch quan tâm đầu
tiên. Vì vậy mọi nền chính trị ổn định là cái mà khách du lịch có thể nhìn
ngay thấy và họ sẽ đến khi nơi ấy đảm bảo sự an toàn cho họ.
- Chịu ảnh hưởng của luật quốc tế: do hoạt động kinh doanh lữ hành
quốc tế có nhiều sự khác biệt với các ngành khác, đặc biệt có mối quan hệ đa
quốc gia. Vì vậy ngoài việc thực hiện đúng pháp luật trong nước nó còn phải

thực hiện theo luật quốc tế.
* Nhân tố chủ quan.
- Uy tín của công ty trên thị trường tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng tới hoạt
động kinh doanh của công ty. Nếu uy tín tốt sẽ là một lợi thế lớn của công ty,
khách du lịch đến với công ty nhiều hơn nếu công ty biết khai thác lợi thế
này. Còn nếu uy tín xấu thì tác hại của nó gây ra rất lớn và việc lấy lại uy tín
cũng rất khó khăn, nó có tác động xấu tới hoạt động kinh doanh của công ty.
- Đội ngũ cán bộ công nhân viên: Đây là nhân tố cơ bản tác động trực
tiếp tới hoạt động kinh doanh của công ty. Đội ngũ này cần đủ trình độ
chuyên môn, am hiểu đường lối chính sách của Nhà nước. Nếu không sẽ ảnh
hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của công ty.
- Các mối quan hệ của công ty với bên ngoài là hết sức cần thiết (với bạn
hàng, với khách ), nó sẽ là nhân tố thúc đẩy sự đi lên của công ty trong kinh
doanh.
d, Những thuận lợi và khó khăn đối với việc phát triển du lịch lữ hành ở
Việt Nam.
* Thuận lợi.
Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng vào mùa xuân năm
1975, đất nước Việt Nam chuyển sang một kỷ nguyên mới. Đây chính là một
điều kiện và cơ hội thuận lợi cho việc phát triển ngành du lịch Việt Nam nói
riêng và đất nước Việt Nam nói chung.
Từ năm 1990 đến nay, trên thị trường du lịch Việt Nam các nhà cung cấp
sản phẩm đã đông hơn, đa dạng hơn, cơ cấu chủng loại mỗi sản phẩm cũng
phong phú hơn nhiều.
- Về hệ thống các phương tiện vận chuyển: Các nhà cung cấp phương
tiện vận chuyển cũng tăng lên nhiều, chất lượng phục vụ tốt hơn, hàng không
mở thêm các tuyến bay nội địa, các tuyến bay quốc té với phương tiện hiện
đại và chất lượng phục vụ cao. Đường sắt, giảm giờ tầu chạy, đổi mới phương
thức phục vụ, đường thuỷ có nhiều cải tiến, đặc biệt vận chuyển đường bộ có
thêm hệ thống vận tải ở các thành phố, điểm du lịch taxi lớn.

- Hệ thống thông tin liên lạc được hiện đại hoá ngang tầm với thế giới
được khách du lịch thừa nhận và đánh giá cao. Vì thế phương tiện thông tin
cho khách và trong quản lý không còn là vấn đề khó khăn nữa.
- Hệ thống dịch vụ văn hoá giải trí: Đây là hệ thống sản phẩm được quan
tâm chú ý nhất: như là hệ thống các công viên, khuôn viên giải trí, điện ảnh,
sân khấu, hệ thống các bảo tàng, thư viện được quan tâm, đặc biệt là viện bảo
tàng dân tộc học với tầm cỡ lớn nhất Đông Nam Á, sẽ được khai thác phục vụ
cho khách du lịch. Nhiều điểm tham quan du lịch mới được khai thác phục vụ
cho khách du lịch, các lễ hội, các Festival, các cuộc thi đấu thể thao đã được
chú ý đăng cai tổ chức ở Việt Nam trong những năm gần đây.
- Tổ chức du lịch đã được củng cố và hoàn thiện từ trung ương đến địa
phương.
* Khó khăn.
Với bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng có rất nhiều những thuận
lợi nhưng cũng chẳng ít những khó khăn, khó khăn lớn nhất đối với ngành du
lịch nói chung và các công ty du lịch lữ hành nói riêng là cơ chế quản lý của
Nhà nước đối với khách du lịch từ nước ngoài vào Việt Nam, khách du lịch
nước ngoài vào Việt Nam họ phải làm rất nhiều các thủ tục như Visa, hộ
chiếu và đương nhiên nếu có được những thứ đó họ phải trả giá bằng một số
tiền rất lớn, từ một yếu tố nhỏ đó nó đã kìm hãm sự ra vào của khách du lịch
nước ngoài. Mặt khác, các công ty lữ hành kinh doanh đặc biệt là với khách
nước ngoài thì họ sẽ bị giảm lợi nhuận rất nhiều vì khách nước ngoài vào Việt
Nam ít.
Với nguyên nhân trên, Nhà nước ta cần xem xét và có giải pháp như thế
nào về cơ chế quản lý với khách nước ngoài vào Việt Nam để từ đó tạo điều
kiện cho khách nước ngoài biết đến Việt Nam và tạo cơ hội cho các công ty
du lịch lữ hành của Việt Nam hoạt động và góp vào một phần ngân sách cho
Nhà nước.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH LỮ

HÀNH CỦA CÔNG TY DU LỊCH THÀNH ĐẠT
I-/ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY DU LỊCH
THÀNH ĐẠT.
1-/ Sự hình thành và phát triển của công ty.
Công ty du lịch Thành Đạt tên giao dịch được thành lập ngày 26 - 03 -
1993 bởi quyết định số 79 của Tổng Cục du lịch Việt Nam.
Để có tên như ngày nay thì công ty đã trải qua một giai đoạn lịch sử khá
dài. Ngày 9 - 7 - 1960 Công ty du lịch Việt Nam được thành lập với Nghị
định 36 CP của Chính Phủ, thuộc phủ thủ tướng. Thực chất công ty gồm các
thành viên như Công ty du lịch Hà Nội, Khách sạn du lịch Tam Đảo, đoàn xe
du lịch, công ty du lịch và cung ứng tàu điện Hải Phòng, Công ty cung ứng và
du lịch Quảng Ninh, khách sạn Cửa Lò. Sau năm 1975 có thêm công ty du
lịch dầu khí Việt Nam, công ty du lịch Quảng Nam Đà Nẵng, công ty du lịch
Nghĩa Bình và các công ty du lịch thuộc các tỉnh khác.
Tổng cục du lịch Việt Nam được thành lập ngày 27 - 6 - 1978 bởi Nghị
quyết 252 - NQ - QH K6 của UBTVQH. Nó quản lý trực tiếp các đơn vị đã
nêu ở trên, quản lý về mặt nhà nước các công ty du lịch còn lại thuộc các tỉnh,
các ngành.
Ngày 31 - 3 - 1990 Tổng cục du lịch nhập vào bộ văn hoá thông tin và
gọi là Bộ văn hoá thông tin - thể thao và du lịch (Nghị quyết 244 - NQ
HĐNN 8).
Sau hai năm chuyển vào Bộ thương mại và Tổng công ty du lịch Việt
Nam ra đời trên cơ sở Văn phòng tổng cục du lịch cũ (nghị định số 119
HĐBT ngày 9 - 4 - 1990).
Ngày 26 - 10 - 1992 Tổng cục du lịch được thành lập lại bởi nghị định số
05 -CP. Kèm theo nó là quyết định giải thể Tổng công ty du lịch Việt Nam
ngày 5 - 1 - 1993 bởi nghị định số 02 - CP và công ty du lịch Thành Đạt được
thành lập trên cơ sở cơ quan của tổng công ty du lịch Việt Nam cũ.
Công ty du lịch Thành Đạt là một trong những công ty lữ hành lớn của
cả nước, phục vụ khách du lịch quốc tế vào Việt Nam cũng như tổ chức các

chuyến du lịch trong nước và ra nước ngoài cho công dân Việt Nam. Công ty
có một đội ngũ cán bộ, nhân viên thành thạo trong công việc, giỏi ngoại ngữ
có thể đảm bảo cho khách hàng các dịch vụ du lịch với chất lượng tốt nhất.
Công ty du lịch Thành Đạt có trụ sở chính tại Hà Nội và hai chi nhánh ở
TP Hồ Chí Minh và TP Huế. Công ty là thành viên của một số tổ chức du lịch
trên thế giới như PATA (Hiệp hội du lịch châu Á - Thái Bình Dương), ASTA
(Hiệp hội du lịch Mỹ), JATA (Hiệp hội du lịch Nhật Bản), công ty có
mốiquan hệ, cộng tác chặt chẽ với hàng chục công ty du lịch hàng đầu ở các
châu lục trên thế giới.
2-/ Cơ cấu tổ chức của Công ty du lịch Thành Đạt.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty du lịch Thành Đạt tuân theo
chế độ một thủ trưởng. Quyền hạn quản lý của các phòng ban được phân công
rạch ròi không bị chồng chéo, vì vậy các cán bộ, nhân viên có thể phát huy
được hết khả năng về trình độ chuyên môn. Khuyến khích tinh thần trách
nhiệm và ý thức làm chủ tập thể cuat từng người. Bộ máy quản lý của công ty
được tổ chức khá gọn nhẹ, năng động phù hợp với cơ cấu kinh doanh của
công ty. Các pjòng ban chức năng có quan hệ chặt chẽ với các cấp lãnh đạo
trực tiếp điều hành trợ giúp giám đốc và các phó giám đốc thực hiện các kế
hoạch về kinh doanh, giúp giám đốc có các định hướng kinh doanh nhằm đạt
hiệu quả cao.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty du lịch Thành Đạt bao gồm 6
ơhòng: phòng thị trường quốc tế 1, phòng thị trường quốc tế 2, phòng hướng
dẫn, phòng điều hành, phòng hành chính - tổ chức, phòng tài chính - kế toán.
Một đội xe chuyên chở khách du lịch và hai chi nhánh của công ty (ở TP Hồ
Chí Minh và TP Huế) cùng phối hợp với nhau làm việc.
* Phòng thị trường quốc tế 1: Có nhiệm vụ là giao dịch, tuyên truyền
quảng cáo, ký kết hợp đồng và trực tiếp đón khách của riêng nước Cộng hoà
Pháp sang du lịch tại Việt Nam. (Lượng khách của Cộng hoà Pháp sang du
lịch Việt Nam qua dịch vụ của công ty tương đối lớn).
* Phòng thị trường quốc tế 2: cũng có nhiệm vụ quảng cáo, giao dịch,

tuyên truyền, ký kết hợp đồng và đón khách du lịch tại Việt Nam của tất cả
các nước trên thế giới (trừ Cộng hoà Pháp). Đồng thời có nhiệm vụ hợp đồng
với khách Việt Nam và các công dân nước ngoài đang làm việc và đang công
tác tại Việt Nam đi du lịch nước ngoài cũng như đi du lịch trong nước.
*Phòng hướng dẫn: Có nhiệm vụ cử các hướng dẫn viên du lịch, các
cộng tác viên du lịch đưa khách du lịch nước ngoài tại Việt Nam, đưa khách
trong nước đi du lịch ở nước ngoài.
* Phòng điều hành: Có nhiệm vụ tổ chức nơi ăn, ngủ, nghỉ ngơi của
khách nước ngoài khi họ tới du lịch tại Việt Nam hay của khách Việt Nam khi
họ có nhu cầu di du lịch nước ngoài.
* Phòng tài chính - kế toán: Có nhiệm vụ thực hiện các vấn đề có liên
quan tới tiền như thanh toán tiền với khách, thực hiện thu chi các khoản tiền
trong cơ quan, thanh toán các hợp đồng
* Phòng hành chính - tổ chức : có nhiệm vụ giúp đỡ giám đốc thực hiện
sắp xếp, bố trí đào tạo cán bộ ngành du lịch để làm việc ngay tại cơ quan cũng
như làm việc tại các cơ quan bạn. Có nhiệm vụ tổ chức thực hiện tiền lương -
tiền thưởng, lao động, chuẩn bị trang phục cho tất cả cán bộ, công nhân viên
đang làm việc tại công ty. Phục vụ trật tự nội vụ, vệ sinh, sinh hoạt, trang
trí và tất cả các việc khác trong nội bộ cơ quan.
* Đội xe: Có nhiệm vụ bố trí lái xe, đoàn xe đưa khách nước ngoài đi du
lịch Việt Nam, đưa khách Viẹt nam ra sân bay để đi du lịch nước ngoài cũng
như đưa khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài bằng ôtô và rất nhiều các
công việc khác.
* Hai chi nhánh : (Chi nhánh của công ty tại TP Hồ Chí Minh và TP
Huế) cả hai chi nhánh đều có nhiệm vụnhư tổ chức đón tiếp khách nước ngoài
đi du lịch vào khu vực miền trung và miền nam (đặc biệt là khu vực Đồng
bằng Sông Cửu Long). Hai chi nhánh đồng thời có nhiệm vụ lo thực hiện tất
cả các dịch vụ khác về du lịch như tổ chức nơi ăn ngủ, nghỉ ngơi, sinh hoạt,
cử hướng dẫn viên, cộng tác viên hướng dẫn khách đi du lịch
Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty là cơ cấu chức năng tuân theo chế độ

một thủ trưởng. Giám đốc có toàn quyền quyết định những công việc trong
công ty, hai phó giám đốc có nhiệm vụ làm cố vấn tham mưu giúp đỡcho
giám đốc những công việc khó khăn. Các phòng, các ban trong công ty có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau trong công việc và trực tiếp báo cáo công việc
lên giám đốc. Mỗi cán bộ nhân viên trong công ty có thể báo cáo trực tiếp lên
giám đốc những vấn đề cần bổ sung sửa đổi trong công tác nhằm giúp công ty
đạt hiệu quả cao trong kinh doanh.
BIỂU SỐ 1: SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨCBỘMÁY QUẢN LÝ CỦA CÔNG TY DU
LỊCH THÀNH ĐẠT.
3-/ Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty du lịch Thành Đạt
GIÁM ĐỐC
PHÓ GIÁM ĐỐC PHÓ GIÁM ĐỐC
Phòng
Quốc
tế (1)
Phòng
Quốc
tế (2)
Phòng
hướng
dẫn
Phòng
Điều
h nhà
Phòng
TC -
KT
Phòng
HC
-TC

Đội
Xe
Chi nhánh
TP HCM
Chi
nhánh
Huế
BIỂU 2: CHỈ TIÊU DOANH THU ĐẠT ĐƯỢC TRONG 3 NĂM 1997, 1998, 1999.
Chỉ tiêu 1997 1998 1999
Tổng doanh thu (triệu đồng) 51.870 60.500 67.800
Tổng số ngày khách quốc tế 53.335 53.386 62.800
Khách du lịch nội địa 370 476 500
Qua bảng số liệu trên ta thấy doanh thu của công ty liên tục tăng từ năm
1997 - 1999 chủ yếu do lượng khách quốc tế vào Việt Nam. Thật vậy, có
được những kết quả như hiện nay ta không thể không nói đến mảng kinh
doanh lữ hành quốc tế. Mặc dù chỉ hoạt động trong vài năm trở lại đây nhưng
nó đã nghiễm nhiên trở thành nguồn doanh thu chủ yếu của toàn công ty, đặc
biệt là thị trường Pháp. Trong năm 1999, Công ty đã mạnh dạn tổ chức và đã
thành công một loại hình du lịch mới - du lịch kết hợp hội nghị cho trên 300
khách là các quan chức trong ngành y tế nước Pháp. Thành công về Tour du
lịch này không những chỉ mang lại hiệu quả cao về kinh tế mà còn gây một ấn
tượng tốt đối với hàng trăm du khách, một hứa hẹn tốt cho công tác kinh
doanh của công ty.
Công ty thường xuyên chú trọng đảm bảo chất lượng các dịch vụ, các
sản phẩm du lịch với phương châm: “Khách sạn tốt nhất, xe tốt nhất, hướng
dẫn viên tốt nhất và giá Tour hợp lý nhất”. Công ty coi đây là cách quảng cáo
tại chỗ mang lại hiệu quả thiết thực nhất cho kinh doanh.
II-/ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH LỮ HÀNH CỦA
CÔNG TY DU LỊCH THÀNH ĐẠT
1-/ Tình hình hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành của công ty.

* Hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành quốc tế bị động:
Hoạt động chủ yếu của mảng kinh doanh này là tổ chức và bán các
chương trình du lịch ở nước ngoài cho công dân Việt Nam. Thị trường du lịch
lữ hành quốc tế bị động ở Việt Nam được phát triển cách đây một vài năm
nhưng từ năm 1995 trở lại đây, do mức sống của người dân ngày càng cao
cộng thêm thủ tục nhập cảnh được đơn giản hoá nên càng có nhiều người Việt
Nam muốn đi du lịch quốc tế với nhiều lý do: thăm thân nhân, đi du lịch kết
hợp mua bán hàng hoá Nắm được nhu cầu đó,Công ty du lịch Thành Đạt đã
chủ động đặt quan hệ làm ăn với một số hãng du lịch nước ngoài (Thái Lan,
Trung Quốc, các nước trong khối ASEAN). Công ty đã xây dựng một số
chương trình du lịch quốc tế cho hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế bị
động như:
- Chương trình du lịch Trung Quốc : 3 ngày, 5 ngày, 19 ngày.
- Chương trình du lịch Thái Lan : 4 ngày, 5 ngày, 7 ngày.
- Chương trình du lịch Malaysia : 5 ngày.
- Chương trình du lịch Singapore : 5 ngày.
Ngoài ra, hiện nay Công ty đang thực hiện chiến lược kéo thu hút khách
hàng bằng chính sách giá và chính sách sản phẩm để một lần nữa khẳng định
vị trí của công ty trên thị trường trong nước và quốc tế.
* Hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành quốc tế chủ động:
Hoạt động chính của công ty về mảng kinh doanh du lịch quốc tế chủ
động là tổ chức bán và thực hiện chương trình du lịch trong nước cho khách
du lịch quốc tế và khách trong nước đi du lịch Việt Nam. Nhưng vào những
năm 1997, 1998 số lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam đột nhiên bị
giảm nguyên nhân chính là do nền kinh tế của một số nước trong khu vực bị
suy thoái do cơn lốc khủng hoảng tài chính tiền tệ tàn phá nặng nề. Điểm nổi
bật là chỉ số GDP giảm sút, đồng tiền bản địa bị mất giá, đời sống người dân
gặp khó khăn, tình hình xã hội có những diễn biến phức tạp, sự suy thoái đó
không những ảnh hưởng đến một số nước lân cận mà còn ảnh hưởng sâu rộng
đến nhiều nước trên thế giới. Điều đó đã ảnh hưởng xấu tới công ty là nguồn

khách bị phân tán giá bán Tour bị giảm sút cho phù hợp với một số nước lan
cận, trong khi chất lượng dịch vụ phải nâng cao hơn, tỷ giá giữa đồng Việt
Nam và đồng đô la Mỹ tăng nhanh và dừng lại ở mức cao. Tuy nhiên, mặt trái
của một số khó khăn lại là sự thuận lợi. Đó là tỷ giá đô la Mỹ tăng cao, doanh
thu và lãi được đẩy lên, khách sạn có biểu hiện dư thừa do đó công ty có điều
kiện để chăm sóc cho khách được chu đáo hơn và giá dịch vụ được hạ hơn so
với những năm trước.
Trải qua năm 1999 khi cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực cơ bản
đã chấm dứt, nền kinh tế đã từng bước được khôi phục, thị trường khách du
lịch đã sôi động trở lại. Do vậy, nguồn khách quốc tế vào Việt Nam đã tăng
trưởng đáng kể, điều này được thể hiện là tổng doanh thu của công ty đã tăng
lên rất cao. Bước vào năm 2000 năm cuối cùng của thế kỷ 20, năm bản lề để
bước vào thiên niên kỷ mới, nước ta có rất nhiều sự kiện và cũng là yếu tố
thuận lợi để phát triển nguồn khách du lịch quốc tế vào Việt Nam. Điều này
đã ảnh hưởng rất tốt tới công ty và hơn bao giờ hết công ty phải thực hiện
bằng được phương châm lấy “chất lượng dịch vụ, hiệu quả kinh doanh” làm
điều kiện tồn tại của doanh nghiệp.
2-/ Kết quả hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành của Công ty du lịch
Thành Đạt
Hoạt động kinh doanh của Công ty du lịch Thành Đạt bao gồm hầu hết
các hoạt động điển hình của một công ty du lịch lữ hành. Điều đó được thể
hiện thông qua kết quả kinh doanh của công ty năm 1997 - 1998; 1998 - 1999.
BIỂU SỐ 3: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỘT SỐ CHỈ TIÊU NĂM 1997 - 1998.
Chỉ tiêu Đơn vị tính 1997 1998
So sánh
(%)
A - Khách quốc tế
I- Tổng số khách quốc tế đi tour Khách 4.800 5.882 122,54
1 - Thị trường I - 2.500 3.120 124,8
2 - Thị trường II - 2.300 2.762 120,00

II - Tổng số ngày khách Ng khách 45.000 53.335 118,52
1 - Thị trường I - 23.000 33.555 145,90
2 - Thị trường II - 22.000 19.780 89,91
B - Khách DLVN đi DLNN Khách 200 220 110
C - Khách du lịch nội địa Khách 400 510 127,5
D - Tổng doanh thu bằng ngoại tệ USD 3.636.500 4.483.875 123,3
I - Khách quốc tế - 3.407.000 4.009.758 117,69
II - Khách VN đi DLNN - 115.000 339.066 294,89
III - Khách du lịch nội địa - 114.500 135.051 117,94
E - Tổng doanh thu quy đổi Triệu 40.000 59.190 147,97
G - Tổng lãi thực hiện - 1.250 3.750 300
H - Tổng nộp ngân sách - 1.683 3.198 190
Qua số liệu trên ta thấy hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành của công
ty tăng một cách đáng kể:
- Về khách quốc tế đi tour:
Tổng số khách quốc tế đi tour năm 1998 đạt 5.882 khách tương ứng với
53.335 ngày khách và 4.009.758 USD doanh thu. So với năm 1997 bằng
122,54% về khách, 118,52% về ngày khách và 117,69% về doanh thu.
Như vậy, chỉ tiêu khách và ngày khách công ty đạt được năm 1998 cao
hơn nhiều so với năm 1997.
- Về người Việt Nam đi du lịch nước ngoài.
Chỉ tiêu người Việt Nam đi du lịch nước goài năm 1998 công ty đạt mức
khá cao với 220 khách tương ứng 339.066 USD doanh thu. So với năm 1997
tăng 20 khách tương ứng với 110% về khách.
- Khách du lịch nội địa:
Tổng số khách du lịch nội địa năm 1998 đạt 510 khách so với năm 1997
tăng 110 khách tương ứng với 127,5%.
- Về tổng doanh thu năm 1998 công ty đạt được 59.190 triệu VND tăng
hơn nhiều so với năm 1997 là 19.190 triệu VND tương ứng với 147,97%.
- Tổng nộp ngân sách Nhà nước năm 1998 là 3.198 triệu VNĐ tăng hơn

so với năm 1997 là 1.515 triệu VND tương ứng với 190%.
- Tổng lãi thực năm 1998 công ty đạt được 3.750 triệu VND tăng hơn so
với năm 1997 là 2.500 triệu VND tương ứng với 300%.
Những con số trên tuy nhiên cao nhưng đây chính là kết quả làm việc của
công ty với mục tiêu và phương châm kinh doanh là du lịch sạch, cao cấp, hoạt
động theo đúng thể chế pháp luật Nhà nước ban hành. Cùng với sự trưởng thành
của ngành du lịch Việt Nam, Công ty du lịch Thành Đạt hoạt động khá hiệu quả
và góp một phần không nhỏ vào nộp ngân sách cho Nhà nước.
BIỂU SỐ 4 - TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỘT SỐ CHỈ TIÊU NĂM 1998 - 1999
Chỉ tiêu Đơn vị tính 1998 1999
So sánh
(%)
A - Khách quốc tế
I- Tổng số khách quốc tế đi tour Khách 5.882 6.300 107,1
1 - Thị trường I - 3.120 4.075 130,6
2 - Thị trường II - 2.762 2.225 80,55
II - Tổng số ngày khách Ng khách 53.335 62.870 117,87
1 - Thị trường I - 33.555 41.650 124,12
2 - Thị trường II - 19.780 21.220 107,28
B - Khách DLVN đi DLNN Khách 220 500 227,27
C - Khách du lịch nội địa Khách 510 572 112,15
D - Tổng doanh thu bằng ngoại tệ USD 4.483.875 4.840.300 107,94
I - Khách quốc tế - 4.009.758 4.442.700 110,79
II - Khách VN đi DLNN - 339.066 323.000 95,26
III - Khách du lịch nội địa - 135.051 74.600 55,23
E - Tổng doanh thu quy đổi Triệu 59.190 67.800 114,54
G - Tổng lãi thực hiện - 3.750 5.500 146,66
H - Tổng nộp ngân sách - 3.198 5.335 166,82
Qua số liệu trên ta thấy hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành của công
ty ngày càng có hiệu quả hơn.

- Về khách quốc tế đi tour:
Tổng số khách quốc tế đi tour năm 1999 đạt 6.300 khách tương ứng với
62.870 ngày khách và 4.840.300 USD doanh thu. So với năm 1998 bằng
107,1% về khách, 117,87% về ngày khách và 107,94% về doanh thu.
- Về người Việt Nam đi du lịch nước ngoài:
Chỉ tiêu người Việt Nam đi du lịch nước ngoài năm 1999 công ty đạt
được mức kỷ lục là 500 khách tương ứng 323.000 USD doanh thu.
- Khách du lịch nội địa:
Tổng số khách du lịch nội địa năm 1999 đạt 572 khách so với năm 1998
tăng 62 khách.
- Về tổng doanh thu năm 1999 công ty đạt được 67.800 triệu VND tăng
hơn nhiều so với năm 1999 là 8.610 triệu VND tương ứng với 114,54%.
- Tổng nộp ngân sách Nhà nước năm 1999 là 5.335 triệu VND tăng hơn
so với năm 1998 là 2.137 triệu VND tương ứng với 166,82%.
- Tổng lãi thực hiện năm 1999 công ty đạt được 5.500 triệu VND tăng
hơn so với năm 1998 là 1.550 triệu VND tương ứng 146,66%.
Có được những kết quả như trên, toàn công ty đã có những nỗ lực rất
lớn, những biện pháp rất tích cực, kịp thời, đó là:
+ Thường xuyên chú trọng công tác tiếp thị và tuyên truyền quảng cáo
để duy trì hình ảnh và tên tuổi của du lịch Việt Nam trên thị trường quốc tế.
+ Đầu tư nhiều kinh phí, công sức để mở thêm tour, tuyến mới và tăng
cường một số dịch vụ để tăng thêm sức hấp dẫn với bạn hàng.
+ Thường xuyên quan tâm chăm lo đến quyền lợi của khách bảo đảm
cho khách ăn thật ngon, ngủ thật tốt, đi lại thuận tiện.
+ Thực hiện chế độ khuyến mại trong những trường hợp đặc biệt cần
thiết để khắc phục nguy cơ bị phân tán, giảm sút nguồn khách.
+ Tích cực đàm phán để giảm giá một số dịch vụ ở trong nước như
phòng ngủ, xe ô tô để chào bán với giá thấp, tạo nên sức cạnh tranh thu hút
khách.
+ Mạnh dạn điều chỉnh lại bộ máy tổ chức, động viên đúng mức và kịp

thời các bộ phận, cá nhân, trên cơ sở đó đã khai thác được tốt tiềm năng sẵn
có, thu hút được nhiều khách đi du lịch nước ngoài và du lịch nội địa.
3-/ Sản phẩm lữ hành của công ty du lịch Thành Đạt
a, Phân loại các chương trình du lịch.
Khách có nhu cầu đi du lịch đến với công ty hiện nay có thể chọn một
trong nhiều chương trình du lịch sao cho phù hợp với khả năng của mình.
Ngoài chương trình du lịch trong nước, công ty còn chia các chương trình ra
làm hai loại:
* Các chương trình du lịch đưa khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài.
Các chương trình du lịch của công ty du lịch Thành Đạt.
TT Tên chương trình Thời gian
1 BangKok 4 ngày/ 3 đêm
2 BangKok - Pattaya 5 ngày/ 4 đêm, 7 ngày/ 6 đêm
3 BangKok - Chiangmai 7 ngày/ 6 đêm
4 Phnompenh - Siemriep 3 ngày/ 2 đêm, 5 ngày/ 4 đêm
5 Các chương trình du lịch Trung Quốc 3 ngày/ 2 đêm, 10 ngày/ 9 đêm
6 Singapore 4 ngày/ 3 đêm, 5 ngày/ 4 đêm
7 Malaysia 4 ngày/ 3 đêm
8 Trung Quốc - Hong Kong 6 ngày/ 5 đêm
Ngoài những chương trình trên do nắm bắt được nhu cầu của người Việt
gốc Hoa muốn thăm lại thân nhân của mình, công ty đã ký hợp đồng với một
số hãng lữ hành bên Trung Quốc để tổ chức những chuyến du lịch hành
hương bằng tàu hoả với giá rất rẻ.
- Chương trình du lịch: Hà Nội - Nam Ninh - Quảng Châu - Thượng Hải
- Tô Châu - Nam Kinh - Bắc Kinh - Hà Nội (14 ngày/ 13 đêm bằng tàu hoả
với giá trọn gói 8.500.000 đ/người).
- Hà Nội - Nam Ninh - Thượng Hải (13 ngày/ 12 đêm với giá trọn gói
8.200.000 đ/người).
* Các chương trình du lịch dành riêng cho người nước ngoài vào Việt
Nam.

Với khả năng sẵn có của công ty và cung cầu du lịch về các chương trình
du lịch này mà công ty có thể đưa ra một hệ thống tương đối hoàn chỉnh các
chương trình du lịch loại dành cho người nước ngoài vào du lịch Việt Nam.
Đó là:
- Chương trình du lịch City Tour: là chương trình du lịch tham quan
thành phố Hà Nội (khu phố cổ, khu di tích lịch sử văn hoá). Tùy theo nhu cầu

×