Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (272.44 KB, 45 trang )

Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài :
Hơn thập kỷ kiên định với sự nghiệp đổi mới cơ chế kinh tế do Đảng
khởi xớng, Việt Nam đã từng bớc nâng cao đợc vị thế của nền kinh tế nói
chung và các doanh nghiệp nói riêng trong quá trình phát triển, hội nhập
khu vực và thế giới. Dới sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trờng cùng
việc điều tiết vĩ mô của Nhà nớc môi trờng kinh doanh và đầu t ngày một
thông thoáng, hoàn thiện hơn. Mọi mối quan hệ kinh tế ngày thêm nẩy sinh
đa dạng đồng thời đều đợc tiền tệ hoá và diễn ra hết sức sôi động trong môi
trờng cạnh tranh đầy quyết liệt.
Khi nói tới nền kinh tế hàng hoá mà bớc phát triển cao là kinh tế thị tr-
ờng từ một quy luật cơ bản ngự trị trong nó là cạnh tranh và dờng nh nền
kinh tế càng phát triển thì mức độ cạnh tranh cũng ngày một gia tăng. Sự
thực, nó đã hết sức sức quyết liệt và nghiệt ngã khi có hỗ trợ đắc lực của sa
lộ thông tin toàn cầy cùng những tiến bộ khoa học công nghệ mang tính
thần tốc của thời đại. Theo đó, cuộc chiến thơng mại ngày nay không
dừng ở sản phẩm, dịch vụ mà quan trọng hơn cả là cạnh tranh tìm kiếm
thông tin giá trị sinh lời. ở đó cạnh tranh không đơn thuần với mục đích
đào thải, loại trừ theo quy luật tiến hoá mạnh đợc yếu thua, khôn sống
mống chết mà còn mang tính thúc đẩy nhau cùng phát triển hơn nữa nhằm
đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia cạnh tranh.
Trớc sức ép cạnh tranh không ngừng gia tăng do cơ cấu thị trờng cung
đã vợt xa cầu. Để tồn tại và phát triển doanh nghiệp luôn phải đối mặt với
cạnh tranh gay gắt. Trong cuộc chiến không khoan nhợng ấy. Yếu tố quyết
định sự thành bại không gì khác ngoài khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Nó đợc coi là năng lực tổng hợp mà doanh nghiệp có đợc từ các lợi
thế so sánh. Với doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp thơng
mại nói riêng sức ép đó không phải là nhỏ khi mà chúng ta thực hiện hội
nhập kinh tế cùng lúc với thời kỳ đầu CNH - HĐH nền kinh tế.
Do vậy năng lực cạnh tranh là điều đáng quan ngại không chỉ với
doanh nghiệp mà cả với chính phủ. Nó vừa là yêu cầu cấp thiết vừa mang


tính chiến lợc lâu dài. Vậy nội dung, thớc đo của nó là gì cùng nhiều vấn đề
khác là câu hỏi cần đợc giải đáp, đặc biệt hơn là làm thể nào để nâng cao
năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp ? Đây là một vấn đề lớn mà nhiều
cuộc hội thảo, công trình nghiên cứu đã đang và sẽ đợc tiến hành để phục
vụ cho quốc tế dân mình.
Trong giai đoạn hiện nay khi mà làn sóng mở cửa hội nhập nh yêu cầu
tất yếu thì vấn đề cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh khó thú vị với
sinh viên khối kinh tế cũng nh nhiều ngời khác có liên quan đến hoạt động
kinh tế Thơng mại. Nó đã trở nên thờng thức trong nhiều doanh nghiệp và
việc nghiên cứu một cách cụ thể về thực trạng NLCT của các doanh nghiệp
nói chung và DNTMVN nói riêng là điều cần thiết, nên làm. Trên cơ sở đó
giúp sinh viên bớc đầu đa ra những nhận định và kiến nghị để hoàn thiện
quá trình học đồng thời góp phần hoạch định chiến lợc sản phẩm, nâng cao
KNCT và vị thế doanh nghiệp trên thơng trờng. Việc đó có ý nghĩa rất quan
trọng với những chủ thể liên quan cũng nh những sinh viên đang trong quá
trình học tập. Bởi vấn đề không chỉ đơn thuần dừng lại ở giá trị lý luận mà
còn là sự kết hợp với giá trị thực tiễn trong suốt quá trình nghiên cứu tìm
hiểu.
2. Mục đích nhiệm vụ
+ Góp phần làm sáng tỏ thêm nhận thức đúng đắn về cạnh tranh để từ
đó có cơ sở khoa học và chiến lợc nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi
doanh nghiệp.
+ Nêu lên thực tế môi trờng cạnh tranh, khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong giai đoạn đầu của mở cửa hội nhập kinh tế khu vực, thế giới.
+ Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháo góp phần nâng cao khả năng
cạnh tranh và củng cố vị thế của các doanh nghiệp ở thị trờng nội địa và xa
hơn là Ngoại quốc. Thông qua xây dựng chiến lợc cạnh tranh các nguồn lực
sử dụng tạo lợi thế cạnh tranh trong giai đoạn tới nhằm đảm bảo hội nhập
thành công.
3. Đối tợng nghiên cứu : Với khả năng và nguồn t liệu còn hạn chế

nên đề tài đã tiến hành tập trung vào các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
trong nớc mà đối tợng chính là doanh nghiệp thơng mại (DNTM). Từ đó ớc
đoán cho khả năng cạnh tranh ở phạm vi rộng hơn.
4. Phơng pháp nghiên cứu :
Đề tài đợc xử lý phơng pháp phân tích tổng hợp lôgích và lịch sử, sự
hiểu biết của bản thân cùng quá trình khảo sát phỏng vấn nhanh.
Trong đề tài cũng sử dụng một số t liệu và các kết quả nghiên cứu,
điều tra có liên quan đã đợc công bố.
5. Kết cấu đề tài :
Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung của đề tài gồm 3 phần :
Phần 1 : Cơ sở lý luận chung về cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Phần 2 : Thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp thơng mại.
Phần 3 : Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Phần I
Cơ sở lý luận chung về cạnh tranh và năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền
kinh tế
I. Tổng quan về cạnh tranh
1. Khái niệm, đặc trng và bản chất của cạnh tranh.
a. Khái niệm : Hiện tợng cạnh tranh đợc xuất hiện đồng thời với sự ra
đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Tức là vào khoảng thế kỷ 14
-15, trong cuộc cách mạng t sản và cách mạng công nghiệp. Nhng cả một
thời gian dài ngời ta không coi cạnh tranh nh một qúa trình, quy luật đồng
thời không quan sát và phân tích những tác động của chúng trong nền kinh
tế cũng nh bản thân mỗi chủ thể. Chỉ khi các khái niệm về giá trị, giá cả đ-
ợc nghiên cứu một cách nghiêm túc thì vấn đề cạnh tranh mới đợc sự quan

tâm của nhiều học giả.
Cho tới nay, cạnh tranh vẫn cha có đợc khái niệm chính thức. Tuy vậy,
mọi nhà nghiên cứu dờng nh cũng thống nhất ở chỗ : Cạnh tranh là một
khái niệm đợc sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Để đơn giản hoá, có
thể hiểu cạnh tranh là sự ganh đua giữa một (hoặc một số nhóm) ngời mà sự
nâng cao vi thế của ngời này sẽ làm giảm vị thế của những ngời tham gia
còn lại. Trong kinh tế khái niệm cạnh tranh đợc hiểu là sự ganh đua giữa
các doanh nghiệp trong việc giành lấy những nhân tố sản xuất hoặc khách
hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thơng trờng. Theo đó, có thể
mang lại lợi ích cho ngời này và thiệt hại cho chủ thể khác. Song xét dới
góc độ lợi ích toàn xã hội cạnh tranh luôn luôn có tác động tích cực. Chẳng
hạn : chất lợng hàng hoá tốt hơn, giá cả giảm đi, dịch vụ chu đáo tận tình
hơn Điều này nó giống nh quy luật sinh tồn và đào thải tự nhiên, quy luật
cạnh tranh là thải loại những thành viên yếu kém trên thị trờng để duy trì và
phát triển những thành viên tốt nhất và qua đó hỗ trợ đắc lực cho qúa trình
phát triển toàn xã hội.
Nh vậy, ở thời kỳ nền sản xuất hàng hoá, thị trờng cha hình thành và
phát triển thì không thể có hiện tợng cạnh tranh giữa ngời sản xuất với
nhau. Cạnh tranh trong kinh tế bao gồm cả lành mạnh và không lành mạnh.
Cạnh tranh đợc coi là lành mạnh chỉ khi nó hợp pháp, giữ gìn đạo đức
kinh doanh và tập quán kinh doanh bằng chính nội lực, tiềm lực thực có của
nhà kinh doanh mà không gây thiệt hại cho ngời khác. Đối lập với cạnh
tranh lành mạnh là cạnh tranh không lành mạnh. Khoản 2 điều 10 công ớc
Paris về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ định nghĩa : Bất kỳ hành vi cạnh tranh
nào trái các hoạt động thực tiễn trung thực trong lĩnh vực công nghiệp và
thơng mại đều bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tại khoản 3
điều 40 của công ớc này đã chi tiết hoá một số hành vi cạnh tranh không
lành mạnh có tính chất điển hình nh tạo ra sự nhầm lẫn, lừa dối công chúng,
lợi dụng không chính đáng thành quả hoặc giá trị có chức năng quảng cáo,
lạm dụng danh tiếng uy tín thơng mại của ngời khác

Khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh có tính chất tơng đối và
luôn thay đổi do các hành vi cạnh tranh không hề bất biến. Trái lại nó rất đa
dạng và phức tạp. ở Việt Nam cạnh tranh không lành mạnh đợc coi nh
những hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, trái đạo đức xã hội, gây thiệt hại
cho ngời tiêu dùng và lợi ích của Nhà nớc nh : làm hàng giả, giả mạo, lừa
đảo, vu khống
b. Đặc trng của cạnh tranh :
Cạnh tranh là đặc trng căn bản của sản xuất hàng hoá. Ưu thế cạnh
tranh trên thị trờng do năng suất, chất lợng, hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp quyết định. Đặc trng hàng đầu của cạnh tranh
là chất lợng của tiềm lực cạnh tranh và nghệ thuật cạnh tranh trên thị trờng.
Chất lợng cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển hoặc phá sản
của tất cả những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hoá. Nó còn có
đặc trng cơ bản là : 1. Có mặt tích cực và tiêu cực ; 2. Luôn có xu hớng độc
quyền chiếm lĩnh thị trờng thủ tiêu đối phơng cạnh tranh ; 3. Cạnh tranh
gắn liền với thị trờng, biến động trên tất cả các loại thị trờng, quy mô cạnh
tranh bao trùm cả thị trờng nội địa và thị trờng nớc ngoài.
Cạnh tranh là động lực phát triển sản xuất hàng hoá của nhà kinh
doanh, là động lực cho sự phát triển nền kinh tế quốc gia. Nó cũng là động
lực quan trọng cho việc hình thành, vận động tiến lên của thị trờng - đa
dạng hoá các loại thị trờng. Chính vì vậy, để có thể cạnh tranh đợc trên thị
trờng, các doanh nghiệp và nhà sản xuất kinh doanh dịch vụ đều phải tự
mình đổi mới cơ cấu sản xuất, công nghệ đồng thời không ngừng nâng cao
chất lợng sản phẩm dịch vụ cũng nh phơng thức kinh doanh trong quan hệ
thơng mại.
Cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp có tác dụng tích cực làm tăng lợi
nhuận của ngời điều kiện. Song song với nó chất lợng hàng hoá dịch vụ
ngày một tốt hơn, giá cả có xu hớng giảm sẽ đảm bảo lợi ích cho ngời tiêu
dùng và lợi ích của nền kinh tế quốc dân.
Mặc khác, cạnh tranh cũng có mặt tiêu cực, thể hiện ở xu hớng phân

hoá các doanh nghiệp, phân hoá giàu nghèo gây ra tình trạng phá sản doanh
nghiệp, phân hoá giàu nghèo gây ra tình trạng phá sản doanh nghiệp, nạn
thất nghiệp của ngời lao động. Từ đó nó gây ra những bất ổn định về mặt
xã hội, tạo ra sức ép lớn với các chính sách kinh tế và chính sách xã hội, tạo
ra sức ép lớn với các chính sách kinh tế và chính sách xã hội của mỗi quốc
gia. Cạnh tranh không lành mạnh càng tạo ra nhiều hậu quả tiêu cực. Đối
với ngời tiêu dùng và các đối tác cùng cạnh tranh, đối với cả Nhà nớc và xã
hội.
Ngoài những đặc trng chung, cạnh tranh trên từng loại thị trờng, trên
từng lĩnh vực kinh tế cũng có đặc điểm riêng. Chẳng hạn nh cạnh tranh trên
thị trờng sức lao động vừa tạo động lực để cả cung và cầu về lao động cùng
thực hiện quyền tự do mua bán sức lao động vừa tạo ra điều kiện phát triển
lao động có hàm lợng chất xám càng cao. Nó thúc đẩy cạnh tranh giữa
những ngời sử dụng lao động với nhau trong cuộc cạnh tranh về sức lao
động. Điều đó buộc mỗi nhà doanh nghiệp phải khai thác có hiệu quả sức
lao động - một loại hàng hoá đặc biệt để tạo ra nội lực và tiềm lực cạnh
tranh của mình trên thị trờng. Tơng tự vậy cho các thị trờng vốn, công
nghệ
c. Bản chất của cạnh tranh :
Theo khái niệm, cạnh tranh đợc biểu hiện ra bên ngoài là sự ganh đua
giữa các chủ thể trong một môi trờng nhất định. Cụ thể, trên thị trờng mỗi
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh dịch vụ đều hoạt động trong điều kiện
cạnh tranh, giành giật với các đối thủ khác nhằm theo đuổi những mục đích
nhất định vì lợi nhuận của mình. Và mục đích cuối cùng của cạnh tranh
không gì khác là thu đợc lợi nhuận cao, chiếm lĩnh và mở rộng thị trờng
qua đó nâng cao uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, mức độ đạt đợc mục đích đó còn tùy thuộc vào tiềm lực
thực có của chủ thể kinh doanh - Năng lực cạnh tranh. Chúng đợc định h-
ớng bởi bản chất kinh tế và bản chất xã hội của cạnh tranh.
ở đó, bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện ở mục đích vì lợi nhuận

và mong muốn chi phối thị trờng của doanh nghiệp tham gia cạnh tranh.
Còn bản chất xã hội của cạnh tranh chính là đạo đức kinh doanh, là uy tín
kinh doanh của mỗi chủ thể thực hiện cạnh tranh trong mối quan hệ với ng-
ời tiêu dùng và các đối thủ khác cũng nh giữa doanh nghiệp với những ngời
lao động trực tiếp tạo ra tiềm lực cạnh tranh.
Dới tác động điều tiết vĩ mô của Nhà nớc đối với hoạt động cạnh tranh
trên thị trờng, sự cạnh tranh ở mỗi quốc gia và có bản chất chính trị khác
nhau. Nó tùy thuộc vào việc hoạch định và thực thi chính sách kinh tế và
chính sách xã hội của từng quốc gia. Suy cho cùng cạnh tranh cũng chỉ vì
lợi ích của chính mình.
2. Lý thuyết về cạnh tranh.
a. Trờng phái cổ điển :
ý nghĩa của cạnh tranh trớc hết đợc những ngời theo trờng phái cổ
điển phát hiện ra thông qua sự biến động giá cả. Theo họ, giá tự nhiên bao
gồm lao động chứa trong sản phẩm và địa tô. Khi xuất hiện một sự bất th-
ờng nào đó thì giá thị trờng có thể chênh lệch với giá tự nhiên trong giai
đoạn ngắn. ở trờng hợp đó, cạnh tranh tiêu cực để điều chỉnh bên cung và
làm cho giá thị trởng trở lại mức giá tự nhiên. Adam Smith đã tiếp thu
những nội dung này và bổ sung thêm vào đó các vấn đề cạnh tranh bên cầu.
Nh vậy Adam Smith chính là ngời đầu tiên đa ra lý thuyết tơng đối hoàn
chỉnh về cạnh tranh.
Luận thuyết của ông đòi hỏi tự do hành động cho mọi doanh nghiệp và
các hộ gia đình - nghĩa là đảm bảo sự tự do cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp cũng nh sự tự do lựa chọn tiêu dùng của hộ gia đình.
Thông qua cơ chế thị trờng, việc vận dụng tự do cạnh tranh để theo
đuổi lợi ích riêng dẫn đến mỗi chủ thể kinh tế sẽ nhận đợc những thành quả
mà họ đã cống hiến cho thị trờng. Nh vậy, sự hài hòa về lợi ích riêng đợc
hình thành nh thế thông qua sự sắp đặt của bàn tay vô hình. Mô hình cạnh
tranh của trờng phái này có thể đợc hiểu nh một quy trình điều phối không
có sự điều tiết của Nhà nớc. Mặc dù vậy, mô hình cạnh tranh của họ không

đồng nghĩa với chính sách bỏ mặc doanh nhân nh nhiều ngời lầm tởng mà
họ đòi hỏi Nhà nớc phải tạo ra và đảm bảo một trật tự pháp luật làm khuôn
khổ cho qúa trình cạnh tranh diễn ra.
Sự hài hòa về lợi ích nh Adam Smith phỏng đoán đã đợc trờng phái tân
cổ điển nghiên cứu. Trên cơ sở đó, họ tìm cách xác định những điều kiện để
tồn tại sự tởng thích giữa lợi ích riêng và lợi ích tổng hợp trong xã hội. Kết
quả cố gắng của những nhà kinh tế phái tân cổ điển đã mang lại mô hình
cân bằng của cạnh tranh hoàn hảo. Họ đã thay thế và rút gọn việc phân tích
trạng thái cân bằng theo lý thuyết giá. Từ những giả thuyết (không mấy
thực tế) về cơ cấu và quan hệ trên thị trờng, họ đã rút ra những kết luận về
giá và khối lợng cân bằng. Vì thế qúa trình cạnh tranh động dẫn dẫn đến
cân bằng đã bị việc quan sát tĩnh lấn át.
b. Lý thuyết cạnh tranh không hoàn hảo và cạnh tranh mang tính
độc quyền.
Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX nhiều nhà kinh tế mà nổi trội là
E. Chamberlin (ngời Mỹ) và S.Robinson (Anh) đã nghiên cứu để tìm cách
vợt qua sự tách bạch quá rạch ròi giữa hai thái cực là độc quyền và thuần
tuý cạnh tranh hoàn hảo. Trọng tâm của việc nghiên cứu này là vấn đề độc
quyền nhóm, hàng hoá tạp chủng và bổ sung những hình thái cạnh tranh
không bằng giá (VD : qua lĩnh vực phân phối quảng cáo).
Mô hình cạnh tranh không hoàn hảo hoặc cạnh tranh mang tính độc
quyền là phạm trù thứ 3 giữa hai cực cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền. Sự
khác biệt của nó so với hai phạm trù kia là nó thiếu một số nhân tố hoàn
hảo hoặc nhân tố độc quyền của thị trờng. Khởi đầu phân tích này từ chỗ
nhận thấy rằng : Không bao giờ có thể tồn tại cạnh tranh hoàn hảo. Bởi
những giả thuyết về sự tồn tại tất cả các nhân tố hoàn hảo của thị trờng là
điều không tởng.
Cạnh tranh mang tính độc quyền theo nghĩa rộng là cạnh tranh giữa
nhiều đơn vị cung ứng với những hàng hoá khác biệt cạnh tranh lẫn nhau
trên những thị trờng với một số ít đơn vị cung ứng. Sau khi lý thuyết về hình

thái thị trờng độc quyền nhóm ra đời và phát triển, đến nay ngời ta hiểu
khái niệm cạnh tranh mang tính độc quyền chỉ theo nghĩa hẹp là : Cạnh
tranh giữa nhiều ngời cung ứng với những hàng hoá khác biệt.
Lý thuyết này ra đời và tạo cơ sở cho các doanh nghiệp có thêm những
phơng pháp để xây dựng chiến lợc Marketing khác nhau, phù hợp với vị thế
của mình trên thị trờng đồng thời thích nghi với hình thái thị trờng hiện
hữu.
c. Lý thuyết cạnh tranh hiệu quả.
Nó đợc hình thành vào đầu những năm 40 của thể kỷ 20. Lý thuyết
dựa trên luận điểm lấy độc trị độc của nhà kinh tế Mỹ - John Maurice
Clack là : những nhân tố không hoàn hảo trên thị trờng có thể đợc sửa chữa
bằng những nhân tố không hoàn hảo khác. Chẳng hạn (nh) tính không hoàn
hảo do có ít ngời cung ứng (thị trờng độc quyền nhóm) sẽ đợc cải thiện
phần nào thông quan nhân tố không hoàn hảo khác vì nh thiếu sự tờng minh
của thị trờng và tính tạp chủng của hàng hoá. Bởi vì những nhân tố không
hoàn hảo này sẽ làm giảm sự phụ thuộc lẫn nhau trong chính sách giá cả
giữa các hãng ở thị trờng độc quyền nhóm, tạo điều kiện cho các hoạt động
cạnh tranh có kết quả.
Luận điểm của nhà kinh tế học Mỹ gốc áo Schumpeter (1883 - 1857)
về cạnh tranh đã ảnh hởng một cách mạnh mẽ đến sự phát triển tiếp theo
của lý thuyết cạnh tranh cũng cho rằng : phải cạnh tranh bằng sản phẩm
mới, kỹ thuật công nghệ mới, nguồn cung ứng mới và bằng cả hình thức tổ
chức mới. Theo ông đổi mới chính là sự phá hủy mang tính sáng tạo.
Clack đã nhanh chóng tiếp thu luận điểm này của Schumpeter và gắn
nó với lý thuyết cạnh tranh trong tác phẩm : Competition is a Dynamie
Proces. Theo đó, việc các siêu lợi nhuận của doanh nghiệp tiên phong trên
cơ sở lợi thế so sánh nhất thời vừa là hệ quả, vừa là tiền đề của cạnh tranh.
Lợi nhuận này không nên xoá bỏ ngay lập tức mà chỉ nên giảm dần để
doanh nghiệp có thể có điều kiện thời gian tạo ra một sự đổi mới, cải tiến
khác. Chính vì vậy, theo Clack, sự vận động của cạnh tranh đợc đo bằng sự

giảm giá, tăng chất lợng hàng hoá cũng nh việc hợp lý hoá trong sản xuất.
Tóm lại nội dung cơ bản của lý thuyết cạnh tranh hiệu quả là phân biệt
rõ những nhân tố không hoàn hảo nào là có lợi và nhân tố nào không có lợi
cho chính sách cạnh tranh. Từ đó, giúp các chủ thể kinh tế nhận biết đợc
các điều kiện cần (thiết) và đủ cho tính hiệu quả của cạnh tranh trong nền
kinh tế.
II. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế.
Cạnh tranh là hoạt động thực tiễn của các chủ thể kinh doanh trong
nền kinh tế thị trờng. Nó mang tính tất yếu của một quy luật kinh tế, chịu sự
chi phối, tác động của nhiều quy luât kinh tế khác. Hơn thế cạnh tranh còn
là hoạt động mang tính chủ quan của nhà sản xuất, kinh doanh vừa do bản
chất mục đích kinh doanh của bản thân ngời đó chi phối vừa chịu sự quản
lý vĩ mô của Nhà nớc cạnh tranh cũng chứa đựng trong nó tính hai mặt :
Tích cực và tiêu cực đối với nền kinh tế nói chung và với các doanh nghiệp
nói riêng trong quá trình phát triển.
1. Đối với doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trờng cạnh tranh trở thành sức ép vô hình nhng
rất mạnh mẽ với mọi doanh nghiệp. Nó sẽ có lợi hơn nếu phía doanh nghiệp
biết tiếp nhận một cách chủ động và vận dụng sáng tạo quy luật cạnh tranh
vào điều kiện hiện có của mỗi doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu
kinh tế cũng nh xã hội.
Nhờ có quy luật cạnh tranh mà các doanh nghiệp tham gia hoạt động
sản xuất kinh doanh có điều kiện để khẳng định mình. Bởi trong môi trờng
nh vậy buộc các doanh nghiệp phải có cách nhìn động cùng một t duy nhậy
bén mới thích ứng đợc với những biến động thất thờng thiếu quy luật của
các yếu tố liên quan đặc biệt là phía khách hàng. ở vào thời kỳ mà cung lớn
hơn cầu, thậm chí lớn hơn nhiều thì khách hàng càng trở nên quan trọng với
mọi nhà kinh doanh. Theo quan điểm của Marketing thì khách hàng sẽ là
trung tâm của quá trình kinh doanh. Họ chính là lực lợng quyết định đến lợi
nhuận, đợc thua của doanh nghiệp. Vì vậy cuộc chiến trong thơng mại

chính là cuộc chiến để giành lấy khách hàng giữa các đối thủ cạnh tranh mà
sự gia tăng lợi ích của ngời này sẽ làm giảm lợi ích của ngời còn lại. Bởi
vậy, cạnh tranh sẽ hối thúc doanh nghiệp không chỉ định hớng vào khách
hàng mà phải định hớng chính xác để nắm bắt kịp thời nhu cầu khách hàng.
Trên cơ sở đó sẽ đề ra phơng thức phục vụ khách hàng một cách tối u. Trớc
yêu cầu nh vậy, doanh nghiệp nào không thực hiện tốt sẽ nắm chắc phần
thua trong tay và nếu sai lầm nối tiếp sai lầm thì nguy cơ bị loại thải sẽ
thành hiện thực.
Nhng bí quyết cho cạnh tranh thành công lại nằm ở công nghệ sản
xuất kinh doanh. Do đó, cạnh tranh sẽ dẫn đờng cho doanh nghiệp tìm ra
công nghệ hợp lý hơn trong kinh doanh. Công nghệ với các doanh nghiệp
sản xuất thuần tuý hay doanh nghiệp thơng mại đều ảnh hởng đến năng suất
và chất lợng của sản phẩm dịch vụ. ở doanh nghiệp sản xuất công nghệ chủ
yếu nằm ở máy móc, quy trình sản xuất quản lý. Còn doanh nghiệp Thơng
mại nó là tập hợp các phơng thức chủ yếu nhằm phục vụ nhu cầu khách
hàng về hàng hoá dịch vụ và các hoạt động hậu cần trớc đó (liên quan). Dù
có điểm giống và khác nhau về công nghệ giữa hai loại hình doanh nghiệp
nhng nguyên tắc chung cho lựa chọn công nghệ là phải giảm thiểu chi phí
trong khi vẫn phải đáp ứng sản xuất, phục vụ nhu cầu tối đa. Điều này chỉ
có thể thực hiện đợc khi doanh nghiệp chịu khổ đổi mới, tìm và sử dụng
những công nghệ tiên tiến phù hợp bằng nhiều cách khác nhau : Mua mới,
sáng tạo, cải tiến Trớc sự cạnh tranh gay gắt, một doanh nghiệp giậm chân
tại chỗ cũng đồng nghĩa với tụt lùi so với đối thủ. Vì vậy, cạnh tranh với bản
chất kinh tế cũng nh xã hội của nó đã thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới
công nghệ sản xuất kinh doanh trên con đờng tìm đến tối đa hoá lợi nhuận.
Những tác động tích cực trên có thể đợc quy về việc thúc đẩy sử dụng
có hiệu quả hơn nữa các nguồn lực sẵn và sẽ có của doanh nghiệp (Nhân -
tài - vật lực). Để có hiệu quả tối u trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp phải tìm mọi cách để tối thiểu hoá chi phí trong khi doanh thu
phải đạt mức cao nhất. Từ yêu cầu trên, mô hình chung đã đặt các doanh

nghiệp vào vị trí cạnh tranh lẫn nhau trong việc tìm kiếm sử dụng và bồi d-
ỡng nguồn lực. Ví dụ : Quá trình tìm và sử dụng nguyên vật liệu cho kinh
doanh hay vốn để đầu t cũng chính là quá trình thiết lập mối quan hệ bạn
hàng với mỗi doanh nghiệp. Khi mà cạnh tranh thơng mại gay gắt thì độ
bền vững của quan hệ này là rất quan trọng, nó quyết định thế ổn định trong
kinh doanh của doanh nghiệp. Song song với việc củng cố mối quan hệ bên
ngoài theo kiểu liên minh (dọc, ngang) các doanh nghiệp phải quan tâm
hơn cả vào nội lực của nó - vốn con ngời. Bởi mọi nguồn lực đều có hạn chỉ
duy nhất sức sáng tạo của con ngời và vô hạn. Hiểu và khai hoá tốt đợc yếu
tố này mới là sự đảm bảo vững bền cho doanh nghiệp trong quá trình phát
triển. Nó thờng đợc thực hiện qua chính sách khuyến khích, đãi ngộ với ng-
ời lao động. Từ đó làm tăng thêm quan hệ khăng khít vừa mang tính phụ
thuộc vừa có xu hớng độc lập giữa chủ và thợ trong một doanh nghiệp.
Chính sự cạnh tranh đó đã nâng cao đời sống, điều kiện làm việc của những
lao động có kỹ năng tay nghề cao. Đó sẽ là tiền đề cho những sáng kiến, cải
tiến mới mang lại hiệu quả cao hơn.
Nh vậy có thể nói rằng : sự cạnh tranh cùng với những áp lực vốn có
đã mang lại nguồn sinh lực mới cho doanh nghiệp. Rất có thể nó trở thành
những ngọn gió lành với nhiều doanh nghiệp. Song cũng không ít nhà kinh
doanh ngọn gió ấy chẳng lành chút nào nếu không muốn nói là dữ. Bởi đơn
giản cạnh tranh sẽ tất yếu dẫn tới phân cực - những ngời thành công và
những kẻ thất bại. Cho dù thành bại ở mức độ khác nhau, song mỗi chủ thể
đều có thêm những kinh nghiệm cho riêng mình trên chặng đờng tiếp theo
trong nghiệp kinh doanh.
2. Trên phơng diện nền kinh tế quốc dân
Cạnh tranh không chỉ tác động đối với các doanh nghiệp mà trên bình
diện của nền kinh tế quốc dân nó còn thể hiện vai trò của mình một cách
tích cực hơn nhiều thông qua những khía cạnh cơ bản sau :
Đảm bảo điều chỉnh quan hệ giữa cung và cầu : Vẫn biết rằng trạng
thái cân bằng tuyệt đối của thị trờng chỉ là ảo tởng ngay cả trong ngắn hạn.

Nhng mục tiêu duy trì trạng thái cân bằng tơng đối (cho phép) kiểm soát đ-
ợc cũng không đơn giản chút naò. Ngoài việc điều tiết của chính phủ Nhà
nớc với bàn tay hữu hình thì sự đóng góp không nhỏ thuộc về bàn tay vô
hình mà nổi trội là quy luật cạnh tranh.
Nhờ có quy luật cạnh tranh mà các chủ thể kinh doanh biết ứng xử
linh hoạt khi có sự biến động thất thờng về cung cầu một loại hàng hoá dịch
vụ trong lĩnh vực nào đó. Bởi theo lý thuyết cạnh tranh đã nêu, cũng nh trên
thực tế hoạt động kinh doanh. Nếu xảy ra hiện tợng cung nhỏ hơn cầu thì
tực khắc các chủ thể cung ứng sẽ thể hiện sự năng động của mình bằng việc
đầu t để duy trì thị phần hoặc giãn ra đi tìm thị trờng mới (nếu chu kỳ sống
sản phẩm vẫn còn) hay mặt hàng mới (khi chu kỳ sống của sản phẩm đó đã
tới hạn) để tiếp tục công việc kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận tại những thị
trờng về mặt lý thuyết các chủ thể đó chỉ có thể đến với những thị trờng mà
lợng cung nhỏ hơn cầu. Điều này đồng nghĩa với hoạt động điều chỉnh thị
trờng thiếu hụt cung để cùng lúc đạt đợc sự cân bằng tơng đối giữa cung và
cầu trong toàn bộ nền kinh tế.
Việc điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các nhà kinh doanh thực ra
không nhằm mục đích để cân bằng cung cầu (khi đó lợi nhuận kinh doanh
sẽ giảm, thậm chí phải bỏ cuộc) mà vì tối đa hoá lợi nhuận do bản chất kinh
tế của cạnh tranh. Để điều này thành hiện thực chắc chắn doanh nghiệp phải
tìm đến thị trờng có sức lao động. ở đó mức độ cạnh tranh thấp, đối thủ ít ,
thị trờng còn bỏ ngỏ nên chi phí kinh doanh thấp tạo điều kiện nâng cao lợi
nhuận. Nhng rồi cũng đến lúc thị trờng sẽ bão hoà cung cầu và quá trình
cân bằng lại tiếp tục diễn ra.
Thông qua quá trình cân bằng động đó, ngời hởng lợi nhuận hơn cả
chính là khách hàng (phía cầu). Có cạnh tranh tự do sẽ hạn chế đợc độc
quyền nhóm cũng nh cá nhân trong kinh doanh. Do đó, ngời tiêu dùng nói
chung sẽ tiết kiệm đợc một khoản chi tài chính nhất định để dùng cho việc
khác (tiết kiệm, đầu t ) và trên tổng thể nền kinh tế sẽ có thêm nguồn lực
để thực hiện tái đầu t sản xuất mở rộng tốt hơn nhằm phục vụ cho chu kỳ

cân bằng tiếp sau đó.
Điều tiết việc phân bổ và sử dụng nguồn lực sản xuất hiệu quả hơn :
Bản chất kinh tế của cạnh tranh sẽ dẫn nhà kinh doanh tìm và sử dụng
nguồn lực tối u để tăng hiệu quả kinh tế. Cạnh tranh sẽ điều phối nguồn lực
của nền kinh tế từ chỗ d thừa đến nơi thiếu hụt. Theo đó, doanh nghiệp sẽ
định hớng khai thác mở rộng thị trờng cha bão hoà đồng thời sẽ duy trì cơ
cấu với những thị trờng đi vào ổn định hoạt động này cùng lúc tối u hoá lợi
ích nhà kinh doanh và giảm thiểu chi phí mua sắm cho ngời tiêu dùng cả về
thời gian và tiền bạc.
Nh vậy, quy luật cạnh tranh thực sự là bàn tay vô hình mà hữu hiệu
trong việc phân bổ nguồn lực nền kinh tế quốc dân. Cùng với lợi nhuận
bình quân (giữa các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau) đã
điều chỉnh các doanh nghiệp trong quyết định vào ra thị trờng và phát triển
thị phần của mình một cách thích hợp. Từ đó nó sẽ gia tăng nguồn lực cần
thiết cho những thị trờng triển vọng mới và điều chỉnh hợp lý cơ cấu thị tr-
ờng đã phát triển ổn định trong nền kinh tế.
Cạnh tranh không chỉ điều tiết việc phân bổ sử dụng nguồn lực xã hội
một cách hiệu quả mà còn ảnh hởng tích cực đến quá trình phân phối thu
nhập trong xã hội. Thông qua cạnh tranh lành mạnh hoạt động sản xuất
kinh doanh ngày một phát triển hoàn thiện hơn. Hiện tợng độc quyền trong
kinh doanh đợc giảm thiểu. Nhờ đó các doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội
tìm kiếm lợi nhuận, cải thiện vị thế doanh nghiệp cũng nh nâng cao mức
sống của ngời lao động. Bởi khi đó, quyền lực thị trờng và lợi nhuận không
còn tập trung vào một hoặc một số ít kẻ quen thao túng thị trờng .
Cạnh tranh lành mạnh còn tạo ra cơ hội bình đẳng hơn cho ngời lao
động trong việc tìm kiếm, lựa chọn việc làm và thu nhập. Nhìn chung, sức
lao động sẽ đợc đánh giá đúng mức trong thị trờng lao động tự do. Tiền
công mà họ nhận đợc sẽ phản ánh tơng đối chính xác giá trị họ bỏ ra mà
không chịu sự chi phối, ép buộc nào. Thậm chí họ có quyền lựa chọn việc
làm có mức thu nhập cao và môi trờng lao động phải đảm bảo

Theo quan điểm này thì cạnh tranh phần nào đã thực hiện đợc vai trò
với xã hội trong việc chống lại sự phân hoá giàu nghèo. Đồng thời thúc đẩy
sự phát triển hơn nữa với ngời lao động nói riêng và xã hội nói chung.
Ngoài những vai trò kể trên cạnh tranh còn làm lạnh mạnh hoá sự phát
triển của hệ thống doanh nghiệp. Đây có thể nói là vai trò khá nổi trội và đ-
ợc thể hiện rõ nét trong thực tế.
Chúng ta đều biết rằng cạnh tranh là sự ganh đua loại trừ nhau theo
quy luật của riêng nói nhng cũng đồng thời thúc đẩy các chủ thể cùng nhau
phát triển vơn lên. Trong cuộc đua đó nếu doanh nghiệp nào yếu kém đến
mức không theo nổi thì tự khắc sẽ bị diệt vong. Khoảng trống đó sẽ giành
cho các doanh nghiệp đủ mạnh sử dụng và khai thác nó. Việc hình thành,
phát triển rồi diệt vong của một doanh nghiệp là hiện tợng tự nhiên, cũng
giống nh con ngời không tránh khỏi vòng đời sinh - lão bệnh tử.
Doanh nghiệp cũng là một thực thể nên nó cũng có một chu kỳ sống nhất
định.
Cạnh tranh sẽ làm cho chu kỳ sống của doanh nghiệp ngắn đi . Điều
này đồng nghĩa với việc khai thác tốt hơn quãng đời khoẻ mạnh của doanh
nghiệp để phục vụ cho nền kinh tế và mau chóng loại bỏ khi nó đi vào già
yếu. Vì vậy hệ thống doanh nghiệp sẽ phát triển tốt hơn và nền kinh tế sẽ
tập trung đợc nguồn lực cho đổi mới phát triển mũi nhọn.
III. Năng lực cạnh tranh
1. Khái niệm
Để cạnh tranh có hiệu quả các doanh nghiệp không chỉ dừng ở việc
vận dụng những thuyết về lợi thế so sánh với các mô hình của Ricarđo và
Reckcher Ohlin mà trong những năm gần đây ngời ta còn lu ý sử dụng
khái niệm lợi thế cạnh tranh. Họ coi đây là khái niệm rộng hơn so với khái
niệm về lợi thế so sánh trong việc lý giải các hiện tợng và quá trình diễn ra
ở Thơng mại quốc nội cũng nh quốc tế. Lợi thế cạnh tranh chính là sức
mạnh tổng hợp của các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của sản phẩm.
Đó là chi phí cơ hội thấp, năng suất lao động cao (lợi thế so sánh), chất lợng

sản phẩm đảm bảo, nguồn cung cấp ổn định, chi phí vận chuyển và bảo
quản thấp, môi trờng thơng mại thông thoáng, thuận lợi Từ đó, yêu cầu
với mỗi doanh nghiệp phải phát huy đợc lợi thế cạnh tranh hay nói khác đi
là cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình kinh doanh để bảo
đảm vị thế và lợi ích của doanh nghiệp trên thị trờng.
Mặc dù thuật ngữ năng lực cạnh tranh đợc sử dụng rộng rãi trong
lĩnh vực kinh tế cũng nh nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống nhng đến nay
vẫn cha có một sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái
niệm và cách thức đo lờng, phân tích năng lực cạnh tranh ở cả cấp quốc gia
lẫn cấp ngành cũng nh doanh nghiệp. Bởi có nhiều cách hiểu khác nhau về
năng lực cạnh tranh. Theo nghĩa hẹp, nó đợc thể hiện qua các chỉ số về tỷ
giá thực trong mối quan hệ thơng mại còn rộng hơn, nó bao gồm cả khả
năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ đủ sức đáp ứng đòi hỏi của cạnh tranh.
Với Krugmar (1994) thì lại cho rằng khái niệm về năng lực cạnh tranh chỉ
phù hợp với cấp độ Công ty, đơn giản là vì nếu một Công ty nào đó không
đủ khả năng bù đắp chi phí của mình thì chắc chắn phải từ bỏ kinh doanh
hoặc phá sản.
Vậy khái niệm về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể đợc
hiểu nh sau : Năng lực cạnh tranh phản ánh mức độ đạt đợc lợi thế cạnh
tranh và các đặc trng kinh tế khác cuả doanh nghiệp nay so với doanh
nghiệp khác. Hay theo diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thì năng lực cạnh
tranh của một doanh nghiệp là khả năng đạt và duy trì đợc mức tăng trởng
cao trên cơ sở các chính sách, chiến lợc vững bền tơng đối và các đặc trng
kinh tế khác.
Nh vậy mặc dù thuật ngữ năng lực cạnh tranh đợc sử dụng phổ biến
nhng nội dung, cách thức nghiên cứu nó cho từng đối tợng khác nhau là
không giống nhau. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động cụ thể
của đối tợng nghiên cứu.
2. Những yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Thơng mại

Để đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp thì tiêu chí
chung cho các nhà phân tích sẽ định hớng vào năng suất lao động, chi phí
đơn vị bình quân, vốn, cấu trúc tổ chức quản lýgọi chung thành bốn nhóm
: sản phẩm, lao động, vốn, công nghệ. Với doanh nghiệp thơng mại chuyên
hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực lu thông hàng hoá, dịch vụ, bốn nhóm
nhân tố này sẽ đóng vai trò nhất định trong việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Sản phẩm : Nó nắm vai trò quan trọng vừa là đối tợng, vừa là công cụ
phơng tiện chính để thực hiện mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp. Sản
phẩm với doanh nghiệp thơng mại cũng có thể là hữu hình hoặc vô hình
thậm chí cùng lúc có cả hai. Có thể nói, sản phẩm là chiến sĩ tiên phong
của doanh nghiệp sản phẩm có tốt, có phù hợp với ngời tiêu dùng thì hàng
mới có cơ hội tìm kiếm lợi nhuận. Một doanh nghiệp có khả năng cạnh
tranh tốt phải thể hiện ở sản phẩm của doanh nghiệp đợc tiêu thụ nhiều,
mang lại lợi nhuận cao và ổn định.
Không phải tự nhiên mà yếu tố sản phẩm đợc xem xét khi phân tích
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Mà vì kinh doanh hiện đại doanh
nghiệp phải định kỳ vào khách hàng thoả mãn khách hàng bằng sản phẩm.
Nếu không thực hiện đợc điều này coi nh doanh nghiệp bị khách hàng bỏ
qua. Lúc đó, chẳng những lợi nhuận không có mà nguy cơ phá sản sẽ đến
gần hơn (ngay cả khi các nhân tố khác vẫn dồi dào).
Lao động : Các yếu tố và công nghệ đợc xem là rất quan trọng với
doanh nghiệp dù hoạt động trong sản xuất hay thơng mại. Song lao động
mới là yếu tố quyết định hoạt động và kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Bởi suy cho cùng hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra là do con
ngời và vì con ngời. Hơn thế học thuyết về giá trị thặng d của C.Mác đã làm
rõ và khẳng định giá trị thặng d có đợc là do lao động sống (con ngời) tạo
ra trong quá trình lao động.
Trong doanh nghiệp đánh giá khả năng cạnh tranh trên phơng diện lao
động, họ có thể xem xét đến trình độ, khả năng nghiệp vụ của nhân viên

với doanh nghiệp thơng mại thì tỷ lệ lao động trực tiếp và gián tiếp cũng đ-
ợc phân tích đánh giá. Nhng dù là loại hình doanh nghiệp nào đi nữa thì th-
ớc đo cuối cùng chuẩn xác hơn cả vẫn là năng suất lao động. Đó là khả
năng thực hiện khối lợng công việc trong một đơn vị thời gian, hay nói khác
đi trong cùng một thời gian lao động đó thực hiện đợc bao nhiêu công việc
(ở dạng hiện vật hoặc giá trị bằng tiền). Với doanh nghiệp Thơng mại thờng
đợc quy về dạng doanh số bán/ một lao động.
Thớc đo năng suất lao động của nhân công rất có ý nghĩa trong hoạt
động quản trị doanh nghiệp. Nó là cơ sở để thực hiện các chế độ đãi ngộ với
ngời làm công đồng thời là cách thức chủ yếu để hãng thực hiện giảm giá
thành nâng cao khả năng cạnh tranh với đối thủ, phục vụ tốt hơn cho khách
hàng.
Do vậy, lao động là một vấn đề quan trọng của doanh nghiệp nhng
cũng đầy phức tạp. Việc đánh giá phân tích nó không chỉ dừng ở mặt lợng
mà phải quan tâm, chú trọng vào mặt chất. Từ đó mới có đánh giá sát thực
để phục vụ cho lợi ích lâu dài của Công ty.
Vốn trong doanh nghiệp : Có lẽ từ rất lâu rồi, giới kinh doanh đã ý
thức đợc tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động kinh doanh : buôn tài
không bằng dài vốn hay T bản vẫn thờng nói : Vốn sinh ra lờigần ấy thôi
đã cho ta thấy vẫn ảnh hởng đến năng lực cạnh tranh nh thế nào?
Cũng nh lao động, đồng vốn trong doanh nghiệp đợc xem là cạnh
tranh cao chỉ khi nó đạt đợc hiệu suất cao (một đồng vốn đầu t sẽ mang lại
bao nhiêu đồng lợi nhuận) đồng thời quy mô vốn phải đủ mạnh với doanh
nghiệp. Các thớc đo này đều phải xem xét thực hiện trong thời kỳ chứ nhất
thiết không đợc xét thời điểm. Thậm chí phải đánh giá trong dài hạn để đảm
bảo tính chính xác, khách quan và tính lôgíc, biến chứng trong tiến trình
phát triển.
Yếu tố vốn đợc phân tích ở đây sẽ là vốn tài chính của doanh nghiệp
(vốn tiền mặt và hiện vật có khả năng chuyển đổi thành tiền). Trong doanh
nghiệp Thơng mại do đặc thù của lĩnh vực hoạt động nên ở phần sau chỉ d

đề cập đén vốn bằng tiền hoặc tài sản chuyển đổi nhanh thành tiền (vốn
hàng hoá, hoá đơn quyền thu)
Vốn thật là quan trọng, song không phải là tất cả. Để sản xuất kinh
doanh có kết quả tốt cần phải kết hợp với nhiều yếu tố khác. Trong đó phải
kể đến công nghệ : Là tập hợp các tri thức phơng pháp quy trình, quy tầm
kỹ năng và kỹ xảo đợc sử dụng trong quá trình tác động vào đối tợng lao
động nhằm tạo ra sản phẩm vật chất hay tinh thần phục vụ cho nhu cầu của
đời sống con ngời. Hay nó chính là tập hợp các phơng pháp nhằm tổ chức
hoạt động cung ứng sản phẩm cho khách hàng dựa trên kỹ năng kỹ xảo và
cơ sở hạ tầng, thiết bị đang có và sẽ có của một doanh nghiệp.
Yếu tố công nghệ thể hiện khả năng cạnh tranh của nó không chỉ nằm
ở mức độ tiên tiến hiện đại của dây truyền tổ chức mà còn ở tính hợp lý
thích ứng của nó với các yếu tố khác (nhất là con ngời). Bởi suy đến cùng
thì mọi hoạt động đầu t đều phải tính đến hiệu quả. Công nghệ kinh doanh
của DNTM ngoài cấu trúc tổ chức nhân sự ra còn phải kể tới phơng thức,
hình thức tổ chức sắp xếp giao dịch và bán sản phẩm. Nó chỉ có khả năng
cạnh tranh đợc với đối thủ khi công nghệ áp dụng phù hợp với hoạt động,
đối tợng của doanh nghiệp.
Sơ đồ : Mối quan hệ 4 nhân tố đến năng lực cạnh tranh một doanh
nghiệp
Lao động
Vốn Sản phẩm
Công nghệ
3. Các yếu tố ảnh hởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Ngoài bốn nhóm yếu tố đợc xem là nội sinh của năng lực cạnh tranh
trong doanh nghiệp đợc đề cập ở mục II
2
. Chúng thuộc về chiến lợc, cơ cấu
tổ chức của Công ty thì còn rất nhiều các tác động từ phía môi trờng bên
ngoài của Công ty. Chẳng hạn, chính sách, định hớng phát triển vĩ mô của

chính phủ nớc sở tại, văn hoá truyền thống của thị trờng, nhu cầu thị hiếu
của khách hàng và đặc biệt là chính sách chiến lợc cũng nh là số lợng đối
thủ cạnh tranh nhà cung ứng của Công ty sẽ ảnh hởng rất lớn đến sức cạnh
tranh của hãng, đến đầu t cho cạnh tranh để lôi kéo khách hàng, duy trì và
phát triển thị phần.
Về vấn đề này nhà kinh tế học M. Porter đã khẳng định rằng Năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện trên chỉ số năng suất. Còn chỉ số
này lại phụ thuộc vào trình độ phát triển và tính năng động của các Công ty.
Chính vì vậy, năng lực cạnh tranh của một quốc gia hay Công ty phụ thuộc
vào các yếu tố nào trong nền kinh tế quốc dân giữ vai trò quyết định cho
phép các Công ty sáng tạo và duy trì lợi thế cạnh tranh trên một lĩnh vực cụ
NLCT của DN
thể. Theo đó, M. Porter đã đa ra một khung khổ các yếu tố tạo nên lợi thế
cạnh tranh và duy trì năng lực cạnh tranh mà ông gọi là khối kim cơng các
lợi thế cạnh tranh. Trong đó các yếu tố này đợc ông phân chia một cách t-
ơng đối thành 4 nhóm :
Sơ đồ 2 : Khối kim cơng các lợi thế cạnh tranh
Nhóm các điều kiện về nhân tố sản xuất thể hiện vị thế của một quốc
gia (Công ty) về nguồn lao động có đào tạo, vốn, hạ tầng, tiềm năng khoa
học công nghệ
Nhóm các điều kiện về cầu phản ánh bản chất của nhu cầu thị trờng
đối với sản phẩm của doanh nghiệp.
Nhóm các yếu tố về các ngành phụ trợ và các ngành có liên quan có
khả năng cạnh tranh quốc tế.
Nhóm các yếu tố liên quan đến cơ cấu, chiến lợc của Công ty và các
đối thủ cạnh tranh.
Ngoài ra, Porter còn nhấn mạnh đến vai trò chất xúc tác của Chính phủ
trong việc tạo lập, thúc đẩy và phổ biến điều kiện thuận lợi trong khối Kim
cơng.
4. Sự cần thiết khách quan nâng cao năng lực cạnh tranh của

doanh nghiệp.
a. Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng
hoá.
Nó là đặc trng căn bản của sản xuất hàng hoá, chịu sự chi phối của
quan hệ cung cầu về hàng hoá. Khi cung lớn hơn cầu thì cạnh tranh càng
gay gắt. Cạnh tranh vận động theo sự biến đổi của quan hệ cung cầu, chịu
tác động bởi quy luật giá trị, quy luật hình thành giá cả và các quy luật kinh
Chiến lợc, cơ cấu của Công ty
và đối thủ cạnh tranh
Các điều kiện về
nhân tố sản xuất
Các điều kiện
về cầu
Các ngành bổ trợ và
các ngành liên quan
tế khách quan khác. Dới tác động của các quy luật đó sự cạnh tranh trên thị
trờng càng mang tính quy luật. Một mặt, quy luật cạnh tranh không lệ thuộc
vào ý muốn chủ quan của ngời kinh doanh. Cùng với quy luật kinh tế khác
quản lý cạnh tranh buộc những hãng kinh doanh phải cạnh tranh với nhau
trên thị trờng bằng chính tiềm lực thực có của mình để tồn tại và phát triển
trong nền kinh tế thị trờng.
Quy luật cạnh tranh có tác động trực tiếp vào sự thay đổi tiềm lực nội
tại và phơng thức cạnh tranh của những doanh nghiệp. Nó buộc họ phải
thay đổi công nghệ, giảm giá thành, nâng cao chất lợng sản phẩm, mở rộng
khả năng phạm vi tiếp thị, tăng năng suất, đổi mới phơng pháp và bí quyết
cạnh tranh để tạo thế cũng nh lực cạnh tranh tốt hơn các đối thủ.
Vì vậy, không chỉ các doanh nghiệp mà Nhà nớc cũng vận dụng quy
luật này trong việc hoạch định các chiến lợc, chính sách kinh tế - xã hội,
xây dựng pháp luật để điều tiết các quan hệ cạnh tranh trong nền kinh tế
nhằm đảm bảo lợi ích cho các bên tham gia cũng nh ngời tiêu dùng và toàn

xã hội dựa trên tính u việt của cạnh tranh. Việc bất chấp quy luật cạnh tranh
hoặc vận dụng không đúng từ phía chính phủ đều phải trả giá hoặc là thủ
tiêu cạnh tranh, mất động lực phát triển tạo xu thế độc quyền hoặc là tạo
môi trờng cho cạnh tranh lành mạnh.
Ngoài ra quy luật này còn gắn liền với quy luật phát triển các loại thị
trờng nội địa với mức độ gắn bó thị trờng nôị địa với thị trờng khu vực và
thế giới. Thị trờng phát triển đến đây thị trờng cạnh tranh phát triển đến đó.
Nó tùy vào điều kiện cạnh tranh do thị trờng tạo ra. Mức độ phát triển thực
tế trên của từng loại thị trờng và khả năng tiếp cận sức cạnh tranh của mỗi
doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện có của Việt Nam mức độ và phạm vi
phát triển của thị trờng vốn, công nghệ, sức lao động là khác nhau. Sức
cạnh tranh của hàng hoá, doanh nghiệp cũng không giống nhau do khả
năng tiếp cận thị trờng và năng lực nội tại của doanh nghiệp quy định.
b. Tính tất yếu của nền kinh tế quá độ nhiều thành phần ở nớc ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của ĐCSVN đã đề ra chủ trơng phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Điều này phù hợp với luận điểm cho rằng : Trong thời kỳ quá độ lên CNXH
tất yếu phải tồn tại nền kinh tế đa thành phần. Hơn thế trong tác phẩm Bàn
về thuế lơng thực, Lênin đã viết : Danh từ quá độ có nghĩa là gì ? Vận
dụng vào kinh tế có phải là trong chế độ hiện nay có những thành phần, bộ
phận, những mảnh của CNTB & CNXH không ? Bất cứ ai cũng đều thừa
nhận là có (VI. Lênin : toàn tập, NXB Tiến bộ Matxơcơva, t.43, trang 248)
.
Vấn đề trong thời kỳ quá độ là phải phát huy và tận dụng tối đa tiềm
năng sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế phi XHCN để phát
triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân và phục vụ bớc quá độ lên
CNXH. Chấp nhận xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần cũng có nghĩa
nhiều loại hình sở hữu khác nhau đợc thừa nhận đặc biệt là sở hữu cá thể.
Đây chính là ngọn nguồn của những nỗ lực cạnh tranh, giành giật về lợi ích
của mỗi chủ thể sở hữu khác nhau. Qua đó làm gia tăng mức độ cạnh tranh

của mọi chủ thể trong cuộc sống. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh doanh thơng
mại nó trở nên gay gắt và quyết liệt theo đúng bản chất kinh tế thị trờng :
mọi mối quan hệ kinh tế đều đợc tiền tệ hoá.
c. Trớc những hiện thực khách quan đó, việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp thơng mại Việt Nam nói
riêng là hết sức cần thiết. Nó trở thành điều kiện cần và đủ để doanh nghiệp
tồn tại, phát triển trong xu thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc cũng
nh tiến trình thơng mại hoá khu vực và thế giới. Bởi trên thế giới ngày nay,
kinh tế trở nên nổi trội, cuộc chiến để giành thắng lợi trong lĩnh vực kinh tế
đang diễn ra quyết liệt. Chiến trờng trong chiến tranh kinh tế là thơng trờng.
Chiến tranh thơng mại là trận chiến khách hàng. Ai muốn giành quyền kiểm
soát thị trờng phải thắng đối thủ về chất lợng, giá cả. Ai nắm đợc nhu cầu
khách hàng, sớm đa ra mặt hàng mới tốt hơn và sử dụng chiến lợc tiêu thụ
đúng đấn thì ngời đó sẽ chiến thắng đối thủ (V.I Lênin phần nói về chủ
nghĩa T bản). Do vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo lập sự thích ứng
linh hoạt có điều kiện cho doanh nghiệp để xây dựng vị thế tốt trên thị tr-
ờng mang ý nghĩa vô cùng to lớn.
Phần 2
Thực trạng cạnh tranh và năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp thơng mại
I. Chính sách cạnh tranh của Việt Nam
1. Quan điểm về cạnh tranh trong nền kinh tế
Cả thời kỳ dài trớc đây, điều kiện vận hành cơ chế quản lý trong bao
cấp ở Việt Nam tồn tại dai dẳng. Sự độc quyền tuyệt đối của khu vực kinh
tế quốc doanh, không có cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế. Việc sản
xuất lu thông hàng hoá đều đợc thực hiện theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nớc
và mệnh lệnh hành chính của cơ quan quản lý cấp trên. Hậu quả là nền kinh
tế không có động lực phát triển, chỉ chạy theo báo cáo h danh làm cho cơ
chế kinh tế thị trờng bị thủ tiêu môi trờng vận động.
Kể từ khi đổi mới Việt Nam từng bớc thừa nhận sự tồn tại của nhiều

thành phần kinh tế khác nhau. Đây đợc xem là động thái tích cực trong việc
chấp nhận sự cạnh tranh trong kinh tế của Nhà nớc và nhiều chủ thể kinh
doanh. Không dừng ở bớc khởi đầu đó, Chính phủ đang nỗ lực xây dựng
luật khuyến khích cạnh tranh và hạn chế độc quyền, dự định sẽ hoàn thành
và áp dụng trong năm 2002. Điều này cho thấy sự thống nhất giữa cơ quan
quản lý và chủ thể kinh doanh trong việc tôn trọng quy luật cạnh tranh
hay cụ thể hơn là cạnh tranh lành mạnh ở lĩnh vực kinh tế.
Theo đối, cạnh tranh đúng pháp luật đợc xem là động lực để phát triển
kinh tế xã hội. Các cá nhân, doanh nghiệp tham gia kinh doanh phải có
trách nhiệm xây dựng môi trờng cạnh tranh lành mạnh, ngăn chặn nguy cơ
độc quyền bất hợp pháp và giảm thiểu độc quyền hợp pháp. Qua đó tự hoàn
thiện mình trớc đối thủ cạnh tranh.
Để ủng hộ quan điểm trên phía Chính phủ đã và đang giảm dần lĩnh
vực mà Nhà nớc nắm giữ độc quyền (do yêu cầu chính trị) đồng thời giám
sát chặt chẽ các Công ty có vị thế khống chế thị trờng. Đây là việc làm cần
thiết trên phơng diện kinh tế. Bởi còn độc quyền theo kiểu đó thì sự phát
triển kinh tế tiếp tục bị kìm hãm (do không có sân chơi công bằng). Sở dĩ có
tiêu cực nh vậy là do độc quyền ở Việt Nam không theo quy luật phát triển
cơ bản - quá trình tích tụ và phát triển vợt bậc về tiềm lực, năng lực kinh
doanh thực sự mà lại theo con đờng chính trị thừa nhận, lập ra vì nhiều mục
tiêu khác nhau chứ không đơn thuần chỉ mục tiêu kinh tế.
Tuy vậy, ở khía cạnh tích cực thì độc quyền cũng tạo ra động lực nhất
định (nếu đó là độc quyền tự nhiên). Bởi hai trạng thái này có sự chuyển
hoá lẫn nhau khi đủ điều kiện. Sự độc quyền luôn triệt tiêu nguyên tắc cạnh
tranh tự do, công bằng. Song việc phát triển cạnh tranh mạnh mẽ bằng tiềm
lực và sức mạnh của mình hoặc do khả năng hạn chế buộc các đối thủ phải
hợp tác, liên kết với nhau để tạo u thế cạnh tranh đều dẫn đến xu thể độc
quyền. Quá trình này thực chất là phá bỏ những hãng độc quyền cũ và xây
dựng độc quyền mới bằng con đờng cạnh tranh liên kết. Đó cũng là hiện t-
ợng mang tính tất yếu khách quan của quá trình phát triển chinh phục.

Thực hiện chủ trơng trên cũng hàm ý chính phủ khuyến khích các chủ
thể kinh doanh tham gia cạnh tranh lành mạnh một cách tự do (trong giới
hạn pháp luật cho phép) lựa chọn cơ hội một cách bình đẳng trên thị trờng.
Mọi hoạt động cạnh tranh lành mạnh của họ sẽ đợc sự bảo trợ của luật
pháp. Trái lại họ sẽ phải trả giá không mấy dễ chịu.
Quan niệm cạnh tranh của Việt Nam cũng giống nh nhiều nớc phát
triển khác. Nó cũng hởng tới bảo vệ cả quyền lợi ngời tiêu dùng - quyền tự
do lựa chọn, quyền khiếu nại với sản phẩm doanh nghiệp thiếu trung thực
Mặc dù hiện tại Việt Nam cha có đợc luật bảo vệ ngời tiêu dùng song nhà
nớc cũng bớc đầu thực thi pháp lệnh bảo vệ ngời tiêu dùng. Đây là bớc tiến
quan trọng trong quá trình xây dựng môi trờng cạnh tranh lành mạnh. Bởi
muốn khuyến khích cạnh tranh đồng thời chống đợc độc quyền thì hành
động của phía ngời tiêu dùng sẽ đóng góp phần không nhỏ cùng sự nỗ lực
thực sự của nhà kinh doanh chân chính, cơ quan quản lý trong việc tạo lập
môi trờng (sân chơi) công bằng.
Nh vậy xây dựng môi trờng cạnh tranh lành mạnh, chống lại độc
quyền là trách nhiệm, quyền lợi không của riêng ai. Nó thành công đến
mức nào còn phụ thuộc vào tất cả các chủ thể tham gia hoạt động kinh
doanh cũng nh mọi ngời tiêu dùng trong nền kinh tế quốc dân.
2. Mục tiêu chính sách cạnh tranh Việt Nam
Trên cơ sở khuyến khích cạnh tranh lành mạnh chống lại độc quyền và
cạnh tranh bất hợp pháp tạo ra sân chơi bình đẳng trong kinh doanh Th-
ơng mại. Chính phủ cũng mong muốn thực hiện đợc các mục tiêu kinh tế -
chính trị - xã hội một cách tốt hơn.
Trớc tiên nhằm tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam có đợc thế và lực
đủ sức phát triển và nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của chúng trên
thị trờng nội địa cũng nh quốc tế. Thông qua hàng loạt các chính sách u đãi,
khuyến khích và làm quen với thách thức cạnh tranh gay gắt trớc khi thực
hiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Đồng thời thực hiện việc cung ứng thoả mãn tốt hơn cho nhu cầu tiêu

dùng sản phẩm dịch vụ trong xã hội. Một nền kinh tế muốn phát triển
không thể để tồn tại hiện tợng thiểu phát trong chỉ số tiêu dùng. Để GDP
gia tăng thì phải đẩy mạnh vòng luân chuyển của vốn hàng hoá và tiền tệ
trong quốc gia. Vậy nên chủ trơng kích cầu là động thái hớng vào tiêu
dùng nhằm nâng cao tỷ trọng thu nhập từ nội địa trong kết cấu GDP. Với tỷ
trọng 52% trong năm 2001 chúng ta cha thể nói chủ động cao trong nền
kinh tế do vẫn bị phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu, thị trờng xuất khẩu. Trong
khi chỉ số tiêu dùng tăng không đáng kể (cha loại trừ yếu tố phạm phát của
giá).
Dù mục đích là nâng cao năng lực cạnh tranh đơn vị hay cung ứng tốt
hơn cho ngời tiêu dùng thì suy cho cùng cũng nhằm nâng cao khả năng
cạnh tranh cho nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Trên cơ sở tạo dựng môi tr-
ờng cạnh tranh giúp qúa trình phân bổ các yếu tố của sản xuất hiệu quả hơn
đồng thời khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ tổ chức quản lý
để nâng cao khả năng cạnh tranh.
Trên cơ sở luật hoá các nội dung để thực thi sẽ tranh thủ đợc nguồn lực
bên ngoài quan trọng - vốn đầu t nớc ngoài. Nó sẽ hỗ trợ tích cực cho qúa
trình hội nhập kinh tế cũng nh cổ phần hoá của Việt Nam.
II. Năng lực cạnh tranh của DNTMVN trên một số ph-
ơng diện.
Theo bảng xếp thứ hạng cạnh tranh tổng thể các nền kinh tế của diễn
đàn kinh tế thế giới (WEF), năm 1999 Việt Nam đợc xếp vị trí 48 trong số
59 quốc gia đợc khảo sát. Nhng đến năm 2000 thì vị trí đó không còn nữa,
Việt Nam đã phải xếp thứ 53/59. Nh vậy, trớc ngỡng cửa hội nhập với sự
cạnh tranh gay gắt, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam hiện
còn rất yếu kém trong đó sự hiện diện các DNTM.
Hệ thống doanh nghiệp thơng mại Việt Nam mới ở giai đoạn đầu làm
quen với kinh tế thị trờng. Thời gian hình thành và phát triển cha phải là dài
nhng bản thân nó đã hứng chịu ảnh hởng không mấy tích cực từ những di
họa của cơ chế tập trung xin cho. Các doanh nghiệp (doanh nghiệp Nhà n-

ớc) có thói quen kinh doanh theo kiểu cấp - phát - giao - nộp dới chỉ tiêu,
định mức sẵn có nhng thiếu thực tế của cấp trên. Do vậy, đã mất đi tính linh
hoạt, năng động cần thiết của một doanh nghiệp thơng mại. Khi nền kinh tế
vận hành theo cơ chế thị trờng thực sự thì số doanh nghiệp này gặp rất
nhiều khó khăn do năng lực thực có yếu kém.
Hàng trục năm qua các doanh nghiệp thơng mại đã nỗ lực cao độ để
thích ứng với môi trờng kinh doanh có cạnh tranh mạnh mẽ. Song năng lực
cạnh tranh của họ mới đợc nâng lên từng bớc rất khiêm tốn và vẫn ở mức
thấp (so với đối thủ nớc ngoài). Điều này đợc thể hiện ở :
1. Sản phẩm kinh doanh của doanh nghiệp thơng mại :
Doanh nghiệp thơng mại (DNTM) với t cách là trung gian, nhịp cầu
nối giữa sản xuất và tiêu dùng. Bởi vậy, hầu hết các sản phẩm đến với ngời
tiêu dùng đều phải qua một số khâu trung gian. Nhờ đó, sản phẩm kinh
doanh của DNTM về lý thuyết là rất đa dạng, ở nhiều cấp độ giá trị, chủng
loại hác nhau. Nhng thực tế dễ nhận thấy rằng sản phẩm của DNTM Việt
Nam bị xem là nghèo nàn, đơn điệu thậm chí còn lạc hậu (doanh nghiệp
kinh doanh sản phẩm thời trang, điện tử, tin học). Và nữa, tính thiếu đồng
bộ cho sản phẩm (với một số sản phẩm yêu cầu các sản phẩm dùng kèm
hoặc dịch vụ song hành) đây là điều không nên mắc phải nhng vì nhiều lý
do nh nghiên cứu không kỹ, năng lực kinh doanh có hạn, nguồn vốn eo
hẹp mà các doanh nghiệp đã bỏ qua hoặc thờ ơ. Sự thiếu hiểu biết, quan
tâm này sẽ làm phơng hại đến lợi ích hiện tại cũng nh lâu dài của doanh
nghiệp do đòi hỏi của ngời tiêu dùng về tính đồng bộ trong sản phẩm dịch
vụ đợc cung ứng ngày một cao (trong đó tính thuận tiện sẽ đợc coi trọng
hơn cả).
Xét về tổng thể thì sản phẩm của các DNTM mới chỉ dừng ở những
loại hàng hoá dịch vụ có giá trị thấp và vừa, quy mô của chúng cũng tơng
tự. Các doanh nghiệp chủ yếu kinh doanh những sản phẩm hữu hình phục
vụ cho nhu cầu thiết yếu của cuộc sống (ăn, mặc, ở và đi lại) hoặc các dịch
vụ vui chơi giải trí mang tính phổ thông (du lịch, nhà hàng). Chỉ có rất ít

doanh nghiệp thơng mại của Việt Nam kinh doanh những loại sản phẩm
công nghệ, trí tuệ cao phục vụ cho sản xuất, phát triển kinh tế quốc dân
(dây truyền sản xuất, công nghệ viênc thông, viễn thám). Sự thiếu vắng
cộng với nhỏ lẻ của DNTM tham gia kinh doanh dịch vụ có quy mô lớn đã
làm lu mờ hình ảnh DNTM Việt Nam trong lĩnh vực này. Đó là lĩnh vực
kinh doanh tài chính, bảo hiểm, t vấn, bản quyền. Hiện tại nó đã bị các
Công ty liên doanh nớc ngoài chi phối. Trong các lĩnh vực này phái Việt
Nam cũng chỉ có một số ít Công ty độc quyền Nhà nớc nắm giữ nhng năng
lực cạnh tranh cũng không mấy khả quan và luôn bị các doanh nghiệp th-
ơng mại nớc ngoài lần lớt, cạnh tranh.
Dù sao thì nền kinh tế nớc ta mới trong giai đoạn đang phát triển nên
các DNTM của Việt Nam còn phải học hỏi nhiều nhiều hơn nữa. Do đó khả
năng kinh doanh các loại sản phẩm, dịch vụ cao cấp của chúng cha thể thực
hiện tốt đợc và càng không thể sánh đợc với những Công ty kinh doanh nớc
ngoài xuất thân từ nhiều nền kinh tế vợt ta cả thế kỷ phát triển.
Nếu vấn đề chỉ dừng ở đó thì có thể chấp nhận và hy vọng trong tơng
lai sản phẩm kinh doanh của các Công ty thơng mại sẽ phong phú về chủng
loại, đa dạng về kiểu dáng và thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng. Nhng
lại ngặt nỗi, ngay cả những yêu cầu tởng chừng nh đơn giản đó mà sản
phẩm thông dụng của đa số doanh nghiệp cũng cha có đọc và vẫn phải phấn
đấu. Những yếu kém đó phải chăng xuất phát từ việc kinh doanh thiếu bài
bản hay sự eo hẹp về nguồn lực mà các doanh nghiệp thơng mại phải co về
giải quyết vấn đề ngắn hạn có tính chất đối phó để rồi mắc kẹt trong vòng
luẩn quẩn của sự yếu kém. Hậu quả là cơ cấu sản phẩm đợc kinh doanh cha
phải là đa dạng nhng cũng chẳng đợc chuyên sâu. Bởi hầu hết các nhà kinh
doanh đều say mê với công việc song kiến thức kinh nghiệm lại thiếu hụt
nên khả năng dự báo gần nh không hiệu quả. Hạn chế này buộc họ phải
theo đuổi thị trờng và kinh doanh theo kiểu thơng vụ nên không hề sản
phẩm nào có chút lời đều là đối tợng đầu t của họ. Với cách thức kinh
doanh đó, việc thiếu đầu t tập trung là tất yếu nên tính chuyên hoá thấp.

Cơ cấu sản phẩm đã bị coi là kém hấp dẫn, vấn đề chất lợng sản phẩm
cũng chẳng khả quan hơn. Do nghiệp vụ kinh doanh thấp nên các chi phí
cho qúa trình kinh doanh nhiều đã đội giá bán lên cao không tơng xứng với
giá trị thực của sản phẩm. ấy là cha kể tới một số ít doanh nghiệp, cá nhân
kinh doanh theo lối chụp giật đã bán hàng giả cho ngời tiêu dùng. Hiện t-
ợng này dù không nhiều nhng nó ảnh hởng nghiêm trọng đến hình ảnh các
doanh nghiệp thơng mại và càng không có lợi cho qúa trình nâng cao năng
lực cạnh tranh về lâu dài.
DNTM tham gia vào qúa trình lu thông hàng hoá không chỉ đơn giản
là thực hiện các nghiệp vụ vận động vật lý và chuyển giao quyền sở hữu
hàng hoá, dịch vụ mà cần phải biết tiếp tục sản xuất trong qúa trình lu
thông để tạo ra giá trị gia tăng va giá trị khách hàng nâng cao khả năng sinh
lợi. Về điểm này các doanh nghiệp nớc ta đã làm nhng kết quả không cao.
Nó thể hiện ở sự khác nhau không đáng kể giữa sản phẩm kết thúc qúa trình
sản xuất và sản phẩm đến tay ngời tiêu dùng về mặt mẫu mã, bao bì đóng
gói. Có chăng cũng chỉ là những thao tác còn lại đợc bên sản xuất nhợng lại

×