Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu gạo của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.24 KB, 43 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
mở đầu
Trong xu hớng khu vực hoá, toàn cầu hoá, mỗi nớc đều chọn cho
mình một hớng đi thích hợp để cùng tiến tới một mục tiêu kinh tế là: ổn
định và phát triển lâu dài nền kinh tế. Một hớng đi mà nhiều nớc lựa
chọn là Công nghiệp hoá hớng về xuất khẩu. Xét về điều kiện kinh tế
Việt Nam hiện nay còn kém so với các nớc trong khu vực, do đó để
tránh nguy cơ tụt hậu thì Việt Nam cần phải hoàn thành công cuộc
CNH-HĐH đất nớc. Việt Nam là một nớc nông nghiệp, có tới hơn 80%
dân số làm việc trong ngành này, do đó hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam ngoài dầu mỏ và than thì chủ yếu là hàng nông sản trong đó mặt
hàng gạo chiếm tỷ trọng lớn nhất của Việt Nam. Và năm 1997 Việt
Nam đã đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Vì vậy, việc nghiên
cứu, tìm hiểu hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam để từ đó đề ra những
giải pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo ở Việt
Nam trong thời gian tới là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ thực tiễn đó tôi chọn đề tài Khoá Luận Tốt Nghiệp
của mình là: Một số vấn đề về xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khoá luận gồm 3 ch-
ơng:
Chơng 1: Lợi thế và điều kiện phát triển sản xuất và xuất khẩu
gạo ở Việt Nam.
Chơng 2: Thực trạng của xuất khẩu gạo của Việt Nam trong
những năm gần đây.
Chơng 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xuất
khẩu gạo của Việt Nam.
Do trình độ và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế nên Khoá luận tốt
nghiệp này không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong đợc sự quan
tâm và góp ý của các thầy giáo, cô giáo cùng các bạn.
Sinh viên: Phạm Thị Thanh Vân
Chơng 1


Lợi thế và điều kiện phát triển sản xuất
và xuất khẩu gạo ở Việt Nam.
1.1. Về tự nhiên.
1
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Việt Nam có lợi thế về nguồn tài nguyên và các điều kiện tự
nhiên, khí hậu u đãi và thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp đặc
biệt là cây lúa nớc. Những yếu tố đó đã tạo cho Việt Nam có một lợi thế
so sánh về mặt hàng gạo so với nhiều nớc trên thế giới.
1.1.1 Đất đai.
ở Việt Nam sản xuất lúa gạo là ngành sản xuất cổ truyền, có từ
lâu đời và gắn với lịch sử phát triển nông nghiệp. Đặc điểm của ngành
sản xuất nông nghiệp là sử dụng một diện tích lớn ruộng đất để gieo
trồng thì Việt Nam có một nguồn tài nguyên đất rất giàu có. Với diện
tích đất trồng lúa hiện có 4,4 triệu hecta chiếm 55% trong tổng số 8
triệu hecta đất trồng trọt nông nghiệp, 43% trong tổng diện tích 10,3
triệu hecta đất đang sử dụng (không kể đất rừng của cả nớc) và 13,3%
diện tích lãnh thổ, trong đó diện tích Đồng Bằng Sông Cửu Long
(ĐBSCL) là xấp xỉ 3954 triệu hecta, diện tích Đồng Bằng Sông Hồng
(ĐBSH) là 1251 triệu hecta và diện tích Đồng Bằng Nam Bộ (ĐBNB) là
2347 triệu hecta. Đặc biệt ĐBSCL và ĐBSH là hai đồng bằng rộng lớn,
hàng năm đợc hai sông lớn bù đắp phù sa, đợc đánh giá vào loại phì
nhiêu trên thế giới, rất thích hợp cho việc trồng cây lúa nớc. Độ màu
mỡ của đất đã giúp sản xuất lúa gạo của Việt Nam từ năm 1989 đến
nay, tăng cả về sản lợng, diện tích và năng suất, nhờ đó mà Việt Nam
không những đảm bảo lơng thực trong nớc mà còn d thừa để xuất khẩu.
2
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
1.1.2. Khí hậu và nguồn nớc.
Tài nguyên nớc dồi dào là một trong những lợi thế nổi bật trong

nghề trồng lúa ở Việt Nam. Số ngày ma lý tởng 120-140 ngày trong
một năm ở hai đồng bằng lớn, không chỉ cung cấp cho lúa nguồn nớc
trời phú quý giá mà còn bồi bổ cho lúa một nguồn đạm tự nhiên dễ hấp
thụ. Ngoài ra hệ thống thuỷ lợi nớc ta với 10% ngân sách nhà nớc đầu t
hằng năm đã đạt đợc những thành quả đáng mừng. Với trị giá tài sản
khoảng 25.800 tỷ đồng cơ sở vật chất kỹ thuật của hệ thống thuỷ lợi đã
tạo ra tổng năng lực tới cho 3 triệu hecta canh tác và năng lực tiêu cho
1,4 triệu hecta. Hơn nữa Việt Nam còn sở hữu một hệ thống sông, hồ,
kênh rạch phong phú phù hợp với cây lúa nớc, thuận lợi cho thu hoạch,
vận chuyển và thực hiện xuất khẩu gạo.
Sự u việt của tài nguyên nớc có ý nghĩa quyết định cho việc thâm
canh, tăng vụ thắng lợi và giảm giá thành sản phẩm nông sản. Lợi thế
của tài nguyên nớc còn có ý nghĩa đặc biệt cho tài nguyên đất phát huy
đợc đầy đủ trong quá trình sản xuất nông nghiệp và trồng lúa.
Thực tế gạo là một sản phẩm mà không phải nớc nàơ cũng có thể
sản xuất và cung cấp ra thị trờng thế giới. Ngoài lợi thế về đất đai và
nguồn nớc ra,Việt Nam còn có khí hậu nhiệt đới gió mùa rất phù hợp
cho hai vựa lúa của Việt Nam là ĐBSH và ĐBSCL có điều kiện lý tởng
trồng cây lúa nớc, cùng với sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố khí hậu nh:
nhiệt độ, độ ẩm, lợng ma cũng nh nắng gió. Điều kiện khí hậu u đãi
hiếm có này còn là lợi thế tuyệt vời cho phép ở ĐBSCL và ĐBSH sản
xuất lúa quanh năm (3 vụ) trên diện rộng và thích nghi với nhiều giống
lúa cao sản, lúa đặc chủng có năng suất cao. Lợi thế này tạo cho Việt
Nam những bớc đột phá trong sản xuất và xuất khẩu gạo.
1.2. Về lao động.
Trong điều kiện kinh tế Việt Nam, nông nghiệp và nông thôn là
khu vực tạo việc làm chủ yếu.Với dân số 78 triệu ngời, trong đó 75%
dân số sống ở nông thôn và 50% dân số ở trong độ tuổi lao động, Việt
Nam có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ . Đây là một lợi thế
đối với việc sản xuất và xuất khẩu gạo ở nớc ta. Lực lợng lao động ở

3
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
nông thôn tuy có kinh nghiệm về nghề trồng lúa của ông cha truyền lại
nhng lao động có trình độ ở khu vực này nhìn chung còn bất cập, về cơ
bản vẫn chỉ là lao động phổ thông. Hiểu biết của nông dân về khoa học
kỹ thuật (nhất là công nghệ sinh học) còn kém, về thị trờng còn rất hạn
chế vì vậy họ rất dè dặt trong việc thay đổi các giống lúa, áp dụng
những thành tựu mới vào sản xuất lúa gạo, để nâng cao chất lợng phù
hợp với thị trờng, điều đó làm ảnh hởng lớn đến hoạt động xuất khẩu
gạo. Do đó để phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất
lúa gạo nói riêng thì trong thời gian tới Việt Nam cần đầu t ngân sách
Nhà nớc vào phát triển nguồn nhân lực, xây dựng và củng cố các trờng
dạy nghề phục vụ phát triển nông nghiệp, bên cạnh đó cũng cần có các
chính sách thoả đáng đối với đội ngũ trí thức tình nguyện làm việc tại
nông thônNâng cao chất lợng lực lợng lao động trong nông nghiệp là
cơ sở để hạt gạo Việt Nam bay xa hơn.
1.3. Về kết cấu hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng của sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam luôn
đợc Nhà nớc ta quan tâm đầu t và nâng cấp nhằm nâng cao năng suất,
sản lợng lúa cũng nh hiệu quả và chất lợng xuất khẩu gạo của Việt
Nam.
Trớc hết, đối với sản xuất gạo, các công trình thuỷ lợi đợc đầu t
tu bổ và xây mới thuận lợi cho tới tiêu, nâng cao năng suất lúa. Bên
cạnh đó phải kể đến trình độ cơ giới hoá ngày càng nâng cao đã làm
giảm tổn thất tỷ lệ tổn thất trớc và sau thu hoạch lúa, và làm giảm chi
phí sản xuất gạo
Thứ hai là đối với gạo xuất khẩu, bấy lâu nay hầu hết khối lợng
gạo buôn bán quốc tế của Việt Nam thờng đợc vận tải bằng đờng biển.
So với phơng tiện vận tải đòng sắt, đòng hàng không , vận tải bằng đ-
òng biển quốc tế đảm bảo thuận lợi, thông dụng và giá rẻ hơn. Trong

thực tế chuyên chở gạo bằng đòng biển Việt Nam có nhiều lợi thế nổi
bật. Đòng biển nớc ta hình chữ S, dài trên 3000 km suốt từ Bắc
Trung - Nam, nớc ta có nhiều cảng thuận lợi nh: Cửa Ông, Hải phòng,
Đà Nẵng, Vũng Tàu, Sài Gòn Hệ thống hải cảng Việt Nam nói chung
đều nằm sát đờng hàng hải quốc tế và có thể hành trình theo tất cả các
tuyến đờng đi Đông Bắc á, Đông Nam á, Thái Bình Dơng, Trung Cận
Đông, Châu á, Châu Phi, Châu Mỹ. Vì vậy Việt Nam có cơ hội để đảm
4
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
bảo thời gian và giá cớc phí vận chuyển gạo xuất khẩu tơng đơng so
với nớc khác.
1.4. Về thể chế, chính sách.
Xuất khẩu của Việt Nam nói chung và xuất khẩu gạo nói riêng
phát triển một cách mạnh mẽ đó là nhờ nền chính trị ổn định và chính
sách kinh tế hợp lí. Chính sách mở cửa nền kinh tế đã mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế giữa Việt Nam và thế giới, với mọi quốc gia và tổ chức
kinh tế quốc tế. Điều đó tạo cơ hội cho hoạt động xuất khẩu gạo của
Việt Nam có thêm những bạn hàng mới. Nhà nớc luôn có những chính
sách khuyến nông, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất lơng thực và
xuất khẩu nh thởng kim ngạch xuất khẩu, hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng,
thởng thành tích xuất khẩu, hỗ trợ xúc tiến thơng mại nhằm nâng cao
hơn nữa giá trị kim ngạch xuất khẩu, khối lợng gạo xuất khẩu ra thị tr-
ờng quốc tế, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế
giới.
Năm 2001-2002, thực hiện chính sách thởng kim ngạch xuất
khẩu, hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng đã góp phần làm tăng số lợng gạo
xuất khẩu, giúp nông dân tiêu thụ đợc sản phẩm, giá gạo đã tăng khiến
cho ngời dân yên tâm hơn trong sản xuất. Bên cạnh đó nhờ các cơ chế,
chính sách khuyến khích xuất khẩu, các Doanh nghiệp xuất khẩu đã
giảm bớt khó khăn về tài chính. Trong năm 2001, Quỹ Hỗ trợ Xuất

khẩu đã thởng kim ngạch xuất khẩu cho mặt hàng gạo là 26,39 tỷ đồng,
tính riêng 5 tháng đầu năm 2002 cơ chế hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng
mua tạm trữ mặt hàng gạo là 43,7 tỷ đồng.
Ngoài ra Nhà Nớc còn khuyến khích các Doanh nghiệp hình
thành các tổ chức hiệp hội, hợp tác để thống nhất về quy cách, ký kết
hợp đồng dài hạn, bảo đảm thanh toán để giảm bớt rủi ro, tránh hiện t-
ợng ép cấp, ép giá trong buôn bán.
Tăng cờng các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu gạo nh: cung cấp miễn
phí các thông tin về thị trờng và các văn bản có liên quan đến xuất khẩu
cho các Doanh nghiệp.
Bên cạnh đó các thông lệ thơng mại luôn u tiên và đảm bảo
quyền lợi cho xuất khẩu gạo.
5
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Việc Nhà nớc đặt mục tiêu xuất khẩu hàng nông sản là mũi nhọn
trong hoạt động kinh tế đối ngoại và phát triển kinh tế đất nớc cũng đã
tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gạo mạnh mẽ
hơn.
1.5. Mức tiêu thụ gạo của thế giới.
Từ năm 1989 2001, sản lợng tăng 2%/năm, đạt mức 908 triệu
tấn vào năm 2001, trong đó 90% làm lơng thực cho ngời, số còn lại
phục vụ cho chăn nuôi và chế biến công nghiệp. Tuy nhiên nhu cầu gạo
ở mỗi quốc gia và mỗi vùng là khác nhau.
Châu Mỹ La Tinh, Châu Âu, Bắc Mỹ , Caribê: mức tiêu dùng cho
một ngời trong một năm là tăng, trong khi đó ở vùng Trung cận đông có
xu hớng giảm, ở khu vực viễn đông: Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia,
Thái Lan, Singapore, tuy thu nhập bình quân đầu ngời có tăng nhng nhu
cầu tiêu dùng gạo giảm do cơ cấu bữa ăn có sự thay đổi.
Châu Phi dự kiến tiêu dùng bình quân đầu ngời là 16 kg, tăng 2
kg/ngời so với thời kỳ trớc đây. Châu Phi đang ngày càng trở thành một

thị trờng gạo hấp dẫn. Nhập khẩu gạo Châu á vào Châu Phi ngày một
tăng và tiếp tục tăng hơn nữa. Châu á là nơi sản xuất lợng gạo nhiều
nhất, chiếm 79% trong đó Trung Quốc chiếm 34%, ấn Độ chiếm gần
20%, Inđônêsia chiếm 8 9%.
Nhu cầu nhập khẩu gạo thực chất còn phụ thuộc vào khả năng
thanh toán hạn hẹp của bản thân những nớc nghèo ở Trung Đông và
Châu Phi, vì đây là những nớc nhập khẩu gạo với số lợng lớn. Tính đến
cuối năm 1999 có 52 triệu dân ở 35 nớc bị thiếu lơng thực nghiêm trọng
do ảnh hởng của thiên tai và do các thảm hoạ do con ngời gây ra.
Năm 2000 nớc nhập khẩu gạo lớn nhất vẫn là Inđônêsia- khoảng
2 triệu tấn- mặc dù giảm còn một nửa so với năm trớc. Nhập khẩu gạo
của Philippin cũng giảm so với mức 1 triệu tấn năm 1999. Bănglađét là
nớc nhập khẩu gạo lớn. Năm 1998 nớc này đã nhập 2,5 triệu tấn sau khi
bị lũ lụt nặng nề. Iran là nớc 2 năm liên tiếp bị hạn hán đã phải nhập
khẩu gạo với khối lợng khá lớn- 1 triệu tấn.
Trong năm 2000, sản lợng tăng mạnh sau cải cách thị trờng nội
địa đã làm cho Việt Nam trở thành một trong số các nớc xuất khẩu gạo
lớn nhất thế giới.
6
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Sang năm 2001, theo số liệu thống kê nhu cầu nhập khẩu gạo thế
giới chỉ đạt 23,3 triệu tấn, thấp hơn chút ít so với năm 2000. Nhập khẩu
tăng mạnh ở Trung Đông, Châu Phi và vài nớc Châu á do thời tiết xấu,
điều này giúp cho giá gạo xuất khẩu ở các nớc Châu á đợc lợi. Những
nớc nhập khẩu lớn năm 2002 là Iran, Ni-giê- ria, ả-Rập-XêUt, Irắc,
Philippin, Nhật Bản. Bảy nớc này nhập khẩu tới 6,42 triệu tấn, chiếm
27,5% lợng gạo giao dịch thế giới. Điều khá ngạc nhiên là giá gạo tăng
trong khi nguồn cung lại khá dồi dào. Các nhà kinh doanh giải thích
rằng giá gạo đợc nâng đỡ bởi các thơng nhân đang tranh giành mua gạo
để thanh toán các hợp đồng đã ký trớc đó. Năm 2001 Việt Nam trúng

thầu hai đợt gạo xuất sang Philippin với tổng sản lợng 400 nghìn tấn,
ngoài ra Việt Nam còn tiếp tục thanh toán các hợp đồng xuất gạo sang
Châu Phi, Inđônêsia, CuBa. Các hợp đồng này đã nâng mức xuất khẩu
của Việt Nam trong 5 tháng đầu năm lên 1,792 triệu tấn, trị giá 280,2
triệu USD, giá bình quân bằng 81% so với cùng kỳ năm trớc.
Có thể nói 2002 là năm nhu cầu gạo của nhiều khu vực nhập
khẩu chính. Theo FAO, năm nay Trung Quốc tăng gấp 6 lần lợng gạo
nhập khẩu so với năm 2001 do sản xuất nội địa giảm và theo yêu cầu
của Tổ Chức Thơng Mại Thế Giới (WTO), khi gia nhập tổ chức này
Trung Quốc buộc phải mở rộng cửa nhập khẩu gạo từ năm 2002 và tăng
dần hạn ngạch qua mỗi năm để đến năm 2004 mở cửa cho 4 triệu tấn
gạo nhập vào đây với thuế suất rất thấp chỉ 1%. Cũng theo cam kết với
WTO, Đài Loan sẽ tăng nhập khẩu gạo 31 lần so với năm 2001. Cả khu
vực Châu á tăng lợng nhập 1,2 triệu tấn so với năm trớc. Các nớc tăng
nhập mạnh là: Inđônêsia 600 nghìn tấn, Iran 100 nghìn tấn, Trung Quốc
900 nghìn tấn, Yê-men 100 nghìn tấn, Đài Loan trên 100 nghìn tấn
Trên phạm vi toàn cầu, lợng gạo mậu dịch đạt tới 23,3 triệu tấn, tăng
mạnh so với năm 2001 và tăng 700 nghìn tấn so với dự báo trớc đây của
FAO. Điểm thuận lợi cho các nớc xuất khẩu gạo năm 2002 là ngoài
Trung Quốc, Đài Loan mở rộng cửa thị trờng, mới đây chính phủ
Inđônêsia lại tuyên bố không đánh thuế giá trị gia tăng đối với gạo nhập
khẩu. Tin này đợc nhiều hãng thông tấn của Châu á và Châu Âu cùng
đa vì Inđônêsia là nớc tiêu thụ gạo lớn thứ 3 thế giới, hơn nữa mức thuế
giá trị đối với gạo đang ở mức khá cao. Trong bối cảnh mậu dịch gạo
thế giới có nhiều diễn biến thuận lợi, xuất khẩu và giá gạo Việt Nam
mở ra nhiều triển vọng tơi sáng. Hầu nh các nớc tăng lợng nhập khẩu
7
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
cũng là những bạn hàng chính đã quen ăn gạo của Việt Nam. Ngay
trong tháng 1/2002 Bộ trởng thơng mại IRắc cho biết, theo kế hoặch

đổi dầu lấy lơng thực, Irắc sẽ nhập 900 nghìn tấn gạo, chủ yếu mua của
4 nớc: Thái Lan, Việt Nam, Ai Cập và Pakixtan. Trong đó riêng Việt
Nam chiếm tới 500 nghìn tấn.
Hiện nay trên thế giới, gạo xuất khẩu của Việt Nam chiếm 15 -
18% thị phần thế giới. Với xu thế phát triển của nền nông nghiệp, Việt
Nam sẽ đáp ứng đợc nhu cầu nhập khẩu gạo của các nớc trên thế giới.
Tuy nhiên trong bối cảnh cạnh tranh bám đuổi mạnh mẽ giữa các nớc
thì việc tăng thêm thị phần trong thời kỳ tới là một thách thức lớn đối
với Việt Nam.


Ch
Ch
ơng 2
ơng 2


Thực trạng xuất khẩu gạo của
Thực trạng xuất khẩu gạo của
Việt Nam trong những năm gần đây
Việt Nam trong những năm gần đây
2.1. Sản lợng và kim ngạch xuất khẩu gạo.
Lúa là cây lơng thực chính của Việt Nam, từ khi đổi mới (1986)
đến nay (2002) sản xuất lúa tăng trởng liên tục cả diện tích, năng suất
và sản lợng. Năm 1986, diện tích gieo trồng lúa chỉ có 5688,6 nghìn ha,
năng suất bình quân 28,1 tạ/ha/vụ và sản lợng là 16,9 triệu tấn thì đến
năm 2002 con số tơng ứng là: 7463 nghìn ha, 45,1ta/ha và 35,9 triệu
tấn. Xu hớng này còn tiếp tục tăng trong những năm tới vì tiềm năng
tăng năng suất vẫn còn. Tốc độ tăng sản lợng lơng thực luôn luôn cao
hơn tốc độ tăng dân số, nên lơng thực bình quân đầu ngời của Việt Nam

tăng dần. Nếu nh năm 1990 lơng thực bình quân đầu ngời mỗi năm là
8
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
324,4 kg thì đến năm 1995 là 372 kg và năm 2002 là 435 kg. Đây là xu
hớng ít thấy trong lịch sử sản xúât lúa gạo của các nớc Châu á, và lần
đầu tiên xuất hiện trong lịch sử nớc ta. Theo Tổ chức nông lơng Liên
hợp quốc (FAO), trong 17 năm qua (1986-2002) sản lợng lúa gạo thế
giới tăng thêm khoảng 70 triệu tấn, thì Việt Nam đã đóng góp 10 triệu
tấn. Chính sự tăng nhanh và ổn định của sản lợng lúa gạo Việt Nam đã
góp phần tích cực giảm sự căng thẳng về thiếu lơng thực trên thế giới.
Đối với nớc ta xu hớng này đã khắc phục một cách cơ bản tình trạng
thiếu đói giáp hạt kéo dài nhiều thập kỷ trớc đổi mới, tạo đà cho việc ổn
định an ninh lơng thực quốc gia, đẩy mạnh đợc hoạt động xuất khẩu
gạo với vị trí nớc xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới (chỉ sau Thái
Lan) và dẫn đầu thế giới về tăng sản lợng lơng thực. Điều này đợc thể
hiện ở bảng sau:
Bảng 1: Sản lợng gạo của một số nớc xuất khẩu chính trên thế giới.
( Đơn vị tính: triệu tấn)
Năm 1999-2000 2000-2001 2001-2002
Việt Nam 20,93 20,53 21,00
Thái Lan 16,50 16,83 16,83
ấn Độ 89,48 86,30 88,00
Pakistan 5,16 4,70 4,50
(Nguồn: Tạp chí ngoại thơng 21-2002)
Các con số ở bảng 1 cho ta thấy rằng trong khi sản lợng gạo của
các nớc xuất khẩu gạo nh: Thái Lan, ấn Độ, Pakistan giữ nguyên hoặc
giảm xuống thì sản lợng gạo của Việt Nam tính chung lại tăng lên qua
từng vụ thu hoạch, trong niên vụ 2001 2002 sản lợng gạo của Việt
Nam đạt 21 triệu tấn, tăng khoảng 1 triệu tấn so với niên vụ 2000
2001 và vơn lên dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng sản lợng gạo.

Do sản xuất tăng nhanh và ổn định, mức sản xuất lúa gạo liên tục
tăng nên trong 14 năm xuất khẩu gạo, sản lợng và kim ngạch xuất khẩu
gạo của Việt Nam ngày càng tăng nhanh hơn. Điều đó đợc thể hiện
trong bảng sau:
9
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân

Bảng 2: Sản lợng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam từ 1989-
2002.
Năm Sản lợng xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu
Sản lợng
( triệu tấn)
Thay đổi so
với năm tr-
ớc( %) .
Kim ngạch
(triệu USD)
Thay đổi so
vối năm tr-
ớc(%),
1989 1,420 __ 290,0 __
1996 3,003 +51,05 868,4 +63,82
1999 4,550 +19,74 1.012,0 - 1,84
2000 3,500 - 23,08 668,0 - 33,99
2001 3,729 +6,54 624,4 - 6,48
2002 3,24 - 13,11 725,5 +16,12
( Nguồn: Tổng cục thống kê - Bộ Thơng mại)
Năm 1989, Việt Nam chính thức tham gia vào thị trờng lúa gạo
thế giới với số lợng khá lớn là 1,4 triệu tấn, thu về 290 triệu USD, giá
bình quân 204 USD/tấn. Tuy sản lợng gạo xuất khẩu cha nhiều, giá còn

thấp, chất lợng cha phù hợp với thị hiếu thế giới, nhng đối với nớc ta kết
quả đó đánh dấu sự sang trang của sản xuất lúa gạo từ tự cấp tự túc sang
nền kinh tế hàng hoá, gắn với xuất khẩu. Các số liệu ở bảng 2 đã cho
thấy rằng xuất khẩu gạo tăng tơng đối qua các năm, với 1,6 triệu tấn
gạo xuất khẩu trong năm 1990 đã đa Việt Nam giành vị trí nứơc xuất
khẩu gạo lớn thứ 3 trên thế giới.
10
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Năm 1996, Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo với mức lớn hơn.
Lần đầu tiên kể từ năm 1989 khối lợng gạo xuất khẩu của Việt Nam vợt
mức 3 triệu tấn/năm, tăng 51% và đa kim ngạch xuất khẩu đạt 868 triệu
USD, tăng 63% so với năm 1995. Đặc biệt đến năm 1997 đã đánh dấu
bớc ngoặt lớn đối với nền kinh tế và ngoại thơng nớc ta, Việt Nam xuất
hiện trên thị trờng gạo với vị trí là nớc xuất khẩu gạo thứ 2 (sau Thái
Lan), với lợng gạo xuất khẩu là 3,6 triệu tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu
gạo 900triệu USD; lý do là trong năm 1997 Việt Nam ký kết đợc nhiều
Hiệp định thơng mại, điển hình là hiệp định với Iran về xuất khẩu gạo.
Bớc vào năm 1998, có thể nói cơ hội đang mở ra cho Việt Nam
khi hiện tợng El nino gây ảnh hởng nghiêm trọng đến mùa màng của
một số nớc Châu á mà đặc biệt là Inđônêsia và Philippin đã gây ra cơn
sốt gạo ở Châu á. Và chính trong năm 1998, kim ngạch xuất khẩu của
3,8 triệu tấn gạo đã đạt mức 1 tỉ USD. Tuy chỉ tăng 5,56% về lợng nhng
lại tăng 14,56% về giá trị. Điều này đã củng cố vững hơn vị trí thứ 2 về
xuất khẩu gạo của Việt Nam trên thế giới và tô đậm thêm hình ảnh một
nớc Việt Nam xuất khẩu gạo đối với các nhà kinh doanh, ngời tiêu dùng
gạo trên thế giới.
Điều đáng chú ý là năm 1999, mặc dù chịu thiệt hại nặng nề của
các đợt lũ lớn ở Miền Trung, sản xuất lơng thực vẫn đạt 31,4 triệu tấn
và xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo, kim ngạch trên 1 tỷ 10 triệu USD nh vậy
về số lợng so với năm 1998 tăng 20%, đây cũng là số lợng cao nhất từ

trớc đến nay, nhng xét về kim ngạch lại giảm 2%, xảy ra điều này là do
trong năm 1999 các nớc nhập khẩu gạo truyền thống hạn chế khối lợng
nhập khẩu, do đó làm cho giá gạo xuất khẩu trên thị trờng thế giới giảm
xuống thấp. Chính điều đó đã làm cho giá trị xuất khẩu gạo của Việt
Nam giảm.
Sang năm 2000, thời tiết diễn biến phức tạp, thiên tai lũ lụt xảy ra
ở nhiều nơi trên phạm vi cả nớc, đặc biệt là ĐBSCL nhng nhờ có sự chỉ
đạo và điều hành sát sao của Chính Phủ, của các cấp, các ngành cùng
với sự nỗ lực của nhân dân các địa phơng nên nhìn chung sản xuất nông
nghiệp nói chung và sản xuất lơng thực nói riêng nhanh chóng đợc khôi
phục và đạt kết quả khá, đời sống nhân dân sớm đi vào ổn định. Theo
đánh giá của Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, tổng sản lợng
lúa cả nớc năm 2000 vẫn đạt 32,6 triệu tấn, tăng gần 1,2 triệu tấn so với
11
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
năm 1999, điều này đa nguồn cung gạo cho xuất khẩu vẫn duy trì ở
mức cao 3,5 triệu tấn. Hơn nữa cuộc khủng hoảng tài chính trong khu
vực và cuộc khủng hoảng dầu lửa trong năm 2000 đã ảnh hởng phần
nào đến nhịp độ buôn bán các mặt hầng nguyên liệu thô trong đó có
gạo. Các tác động này đã làm giá gạo trên thị trờng thế giới bắt đầu
giảm xuống từ đầu năm, cho đến cuối năm xuất khẩu gạo của Việt Nam
so với năm 1999 đã bị giảm đi 16% về giá, hạ kim ngạch xuất khẩu gạo
2000 xuống còn 668 triệu USD (giảm 34% so với năm 1999). Tuy
nhiên cũng cần phải kể đến một nguyên nhân nữa làm giảm giá gạo trên
thế giới đó chính là ngành gạo của các nớc nhập khẩu gạo lớn nh:
Inđônêsia, Philippin, Trung Quốc đang dần dần phục hồi sau 2 năm
mất mùa vì biến động thời tiết, các nớc này đều tuyên bố có khả năng
tự cung cấp tự cấp gạo.
Năm 2001 xuất khẩu gạo đạt trên 3,7 triệu tấn, trợ giá hơn 600
triệu USD, măc dù tăng khoảng 7% về lợng song cũng là thành công vì

đã hoàn thành đợc những nhiệm vụ cơ bản: xuất khẩu vợt chỉ tiêu 3,5
triệu tấn do chính phủ đề ra, tiêu thụ hết thóc hàng hoá, chặn đà giảm
sút giảm sút của giá thóc, gạo trong nớc. Tuy vậy xét về kim ngạch thì
vẫn giảm 6%. Nguyên nhân là trong những tháng đầu năm 2001 giá gạo
vẫn giảm mạnh do ảnh hởng từ năm 2000, các Doanh nghiệp của Việt
Nam vẫn ký hợp đồng bán gạo với giá thấp, nhng bắt đầu từ tháng 6-
2001 giá gạo tăng cao dần thì ta lại không có gạo để xuất vì phải xuất
gạo theo hợp đồng đã ký. Đó chính là lý do làm cho lợng gạo xuất khẩu
tăng mà gía trị xuất khẩu gạo lại giảm trong năm 2001.
Sản xuất nông nghiệp trong năm 2002 gặp nhiều khó khăn to lớn,
có mặt gay gắt hơn 2001 đó là thiên tai diễn ra trên diện rộng, kéo dài
từ đầu năm dến cuối năm: hạn hán gay gắt ở Đông Nam Bộ,Tây
Nguyên và Miền Trung, lũ lớn kéo dài và ngập sâu ở vùng ĐBSCL,
ma lớn, lốc xoáy và lũ quét xảy ra gây thiệt hại nặng nề về tài sản, mùa
màng và sinh mạng ở nhiều vùng và địa phơng.Tuy vậy sản xuất nông
nghiệp vẫn đạt mức tăng trởng khá, năng xuất lúa cả năm đạt 45,1
tạ/hecta, sản lợng đạt 35,9 triệu tấn. Nhờ đó mà khối lợng gạo xuất
khẩu đạt 3,24 triệu tấn (giảm 13%) và đạt kim ngạch trên 700 triệu
USD (tăng 16%) so với năm 2001. Đó là vì chất lợng gạo xuất khẩu của
Việt Nam trong năm 2002 đã đợc nâng cao rõ rệt, do đó giá thành cũng
cao hơn những năm trớc.
12
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu gạo đã đóng một
vai trò quan trọng trong sản lợng tích luỹ vốn cho quá trình phát triển
đất nớc. Từ năm 1989 dến năm 2002, Việt Nam đã xuất khẩu trên 87
triệu tấn gạo đạt kim ngạch xuất khẩu gần 8 tỉ USD. Gạo đã trở thành
một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, kim ngạch
xuất khẩu gạo chiếm một tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam. Dới đây là bảng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu gạo của

Việt Nam :
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu gạo trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Năm
Năm

KNXK
KNXK
(triệu USD)
(triệu USD)
KNXK Gạo (triệu
KNXK Gạo (triệu
USD)
USD)
Tỷ trọng (%)
Tỷ trọng (%)
1990
2.404
2.404
304,6
304,6
13
13
1997
1997
9.185
9.185
900,0
900,0
9,8
9,8

1998
1998
9.360
9.360
1.031,0
1.031,0
11
11
1999
1999
11.540
11.540
1.012,0
1.012,0
8,8
8,8
2000
2000
14.308
14.308
668,0
668,0
4,6
4,6
2001
2001
15.027
15.027
624,4
624,4

4,2
4,2
2002
2002
16.530
16.530
725,5
725,5
4,4
4,4


(
(
n
n
guồn:
guồn:
b
b
ộ Th
ộ Th
ơng mại )
ơng mại )
Từ bảng 3 cho thấy, trong những năm 90 kim ngạch xuất khẩu
gạo luôn chiếm một tỷ trọng tơng đối (khoảng 8-12%) trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nớc. Có đợc kết quả đó là do Việt Nam đã xuất
khẩu gạo với số lợng tơng đối lớn cùng với giá cả khá cao. Nhng qua
bảng trên ta thấy rằng tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu gạo từ năm 2000
13

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
trở lại đây đã giảm trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nớc so với
những năm trớc. Đó là do thị trờng gạo thế giới có nhiều biến động, cầu
về gạo trên thế giới đã giảm, hiện nay thị hiếu về gạo chất lợng cao
ngày càng tăng mà gạo của Việt Nam thì vẫn cha đáp ứng đợc những
yêu cầu khắt khe của quốc tế về chất lợng, vì vậy giá gạo Việt Nam
thấp làm cho kim ngạch xuất khẩu gạo giảm. Những năm gần đây kim
ngạch xuất khẩu của cả nớc đang tăng dần, để nâng cao tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu gạo thì một trong những điều kiện cần là Việt Nam
phải chú trọng đến chất lợng gạo xuất khẩu, do đó dù gạo xuất khẩu của
Việt Nam khối lợng có giảm nhng giá trị xuất lại cao.
2.2. Thị trờng xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Việt Nam chỉ thực sự là nớc xuất khẩu gạo lớn từ năm 1989. Từ
đó việc xâm nhập và mở rộng thị trờng của Việt Nam trong những năm
đầu đã gặp không ít khó khăn vì thờng đụng đến những khu vực là thị
trờng quen thuộc của các nớc xuất khẩu truyền thống đặc biệt là Thái
Lan. Những năm qua Việt Nam đã tích cực mở rộng các mối quan hệ,
tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế. Trên thị trờng xuất khẩu hàng
hoá của Việt Nam đã có những thay đổi rõ rệt theo hớng đa dạng hơn.
Bảng 4: Quy mô và thị phần xuất khẩu gạo của Việt Nam
giai đoạn 1991- 2002.
Năm Lợng gạo xuất khẩu
của Việt Nam
( triệu tấn)
Lợng gạo mậu
dịch Thế Giới
( triệu tấn)
Thị phần của
Việt Nam (%)
1991 1,033 12,700 8,1

1995 1,988 21,000 9,4
1998 3,800 25,600 14,8
1999 4,550 25,100 18,2
2000 3,500 22,300 15,7
2001 3,729 24,453 15,2
2002 3,240 24,949 13,0
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Ngay từ những năm đầu xuất khẩu gạo, Việt Nam đã chiếm một
thị phần khá trong tổng lợng gạo mậu dịch thế giới, thị phần gạo xuất
khẩu của Việt Nam cũng tăng dần theo nhu cầu thế giới qua các năm.
Nhu cầu gạo trên thế giới ngày càng tăng do chịu ảnh hởng chính tác
14
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
động của yếu tố thời tiết, các điều kiện kinh tế và tốc độ tăng dân
số.Thị phần của Việt Nam tăng từ 8,1% năm 1991 tới 18% năm 1999
và năm 2002 là 13%. Trong thời gian đầu do gạo Việt Nam vẫn còn xa
lạ so với thị trờng quốc tế vì vậy thị phần cha cao. Những năm gần đây,
gạo Việt Nam đã tạo đợc tên tuổi bằng cách giữ vững vị trí nớc xuất
khẩu thứ 2 trên thị trờng thế giới, do đó thị phần tăng lên đáng kể. Đặc
biệt năm 1999 do hậu quả của hiện tợng El nino mà lợng gạo mậu dịch
trên thế giới đạt mức kỷ lục là 25 triệu tấn trong đó thị phần của Việt
Nam đạt mức cao nhất là 18%. Hiện nay lợng gạo giao dịch trên thế
giới vẫn duy trì ở mức cao (23 24 triệu tấn), trong đó thị phần của
Việt Nam vẫn chiếm một tỷ trọng khá, và ổn định qua các năm.
Thị trờng xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam vẫn là khu vực
Châu á, kế đến là Châu Phi và Châu Mỹ. Cơ cấu thị trờng gạo Việt
Nam đợc thể hiện qua bảng sau:
Bảng 5: Cơ cấu giá trị kim ngạch phân theo thị trờng.
( Đơn vị tính %)
Khu vực 1990 1995 1998 1999 2000 2001 2002

Châu á 45,0 51,0 52,2 78,0 76,0 55,0 70,0
Châu Phi 39,0 32,0 25,0 14,0 14,0 18,5 12,0
Châu Mỹ 9,6 12,0 16,8
1
5,0 6,0 16,5 3,0
Các thị trờng
khác
6,4 5,0 5,99 3,0 4,0 10,0 15,0
Tổng cộng 100 100 100 100 100 100 100
( Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số 95, 97-2001, số 75-2002).
Từ khi bắt đầu xuất khẩu gạo đến nay thì thị trờng chủ yếu của
Việt Nam vẫn là thị trờng Châu á (chiếm khoảng 50% tổng giá trị kim
ngạch). Thị trờng này luôn đợc Việt Nam theo dõi chặt chẽ, vì hầu hết
các nớc Châu á thờng có tập quán lâu đời tiêu dùng lúa gạo, đều coi lúa
gạo là lơng thực chủ yếu của mình. Từ đó Việt Nam chuẩn bị nguồn
cung, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu nhập bổ sung đột xuất của khu vực này
nhất là thị trờng Inđônêsia, Philippin, Iran, Irăc, Trung Quốc
Hiện nay các thị trờng khác của Việt Nam cũng đang có sự thay
đổi theo chiều hớng tích cực, nhất là thị trờng tiềm năng lớn nh Châu
Phi thì lợng gạo Việt Nam xuất khẩu vào tơng đối ổn định qua các năm.
Vì vậy đối với thị trờng này Việt Nam luôn quan tâm, giữ vững và phát
triển hơn nữa. Ngoài ra, các thị trờng nhập khẩu gạo Việt Nam thờng
15
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
xuyên nh: Nam Mỹ, Trung Đông và Bắc Mỹ, Việt Nam đang từng bớc
nghiên cứu để không chỉ xuất sang đây loại gạo phẩm cấp trung bình
mà là gạo phẩm cấp cao sẽ chiếm u thế hơn.
Qua nhiều năm xuất khẩu gạo, Việt Nam đã từng bớc củng cố và
giữ vững đợc thị trờng các nớc nh: Malaysia, Singapore, Hồng Kông,
Hàn Quốc, hiện nay Việt Nam đang từng bớc thâm nhập vào thị trờng

khó tính nhng lại đầy tiềm năng nh Nhật Bản.
Năm 1998 là năm thị trờng lúa gạo quốc tế biến động lớn do 2
nguyên nhân: Hiện tợng El nino và khủng hoảng tiền tệ Châu á. Trong
năm 1998 cũng một phần từ ảnh hởng của El nino làm cho nhu cầu
nhập khẩu gạo thế giới tăng, Việt Nam lần đầu tiên đã đạt kim ngạch
xuất khẩu gạo vợt ngỡng 1 tỉ USD. Sang năm 1999, thị trờng xuất khẩu
gạo của ta tiếp tục đợc mở rộng so với năm 1998, trong đó có thể kể
đến các thị trờng trớc đây và trong năm 1998 không nhập khẩu hoặc
nhập khẩu ít nh: BaLan, các Tiểu Vơng Quốc ả Rập thống nhất, Tây
Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Inđônêsia vẫn là thị trờng xuất khẩu chủ yếu cho
gạo Việt Nam, với lợng gạo xuất khẩu vào thị trờng này đạt gần 1,15
triệu tấn trong năm 1999, chiếm 42,5% lợng gạo nhập khẩu của nớc
này và một trong những nớc nhập khẩu gạo nhiều nhất thế giới. Cũng
trong năm này nớc ta xuất khẩu gạo vào Iran và Irắc khoảng 2,6%, vào
thị trờng Châu Phi chiếm 23,67% tổng lợng gạo nhập khẩu.
Trong năm 2000, cơ cấu thị trờng xuất khẩu gạo của Việt Nam
vẫn ổn định, các thị trờng lớn vẫn nhập khẩu gạo đó là: Philippin,
Inđônêsia, Malaysia và Hồng Kông. Trong đó thị trờng nhập khẩu gạo
lớn nhất là Irắc, riêng tháng 11 năm 2000 ta xuất sang Irắc 57,5 nghìn
tấn gạo. Cũng trong tháng này, thị trờng mới xuất khẩu gạo là Thổ Nhĩ
Kỳ (22 tấn).
Năm 2001, công việc tìm hiểu và mở rộng thị trờng đợc thực hiện
khá thành công, nhiều đoàn công tác cấp Chính Phủ, cấp Bộ đã đợc cử
đi các thị trờng Đông Nam á, Châu Phi, Trung Đông, Châu Mỹ Kết
quả là nhiều thoả thuận Chính phủ về xuất khẩu gạo đã đợc ký, các hiệp
định thơng mại đợc ký với một số nớc nhập khẩu gạo lớn ở Châu Phi.
Đây cũng chính là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh
nghiệp xuất khẩu của ta thâm nhập vào các thị trờng tiềm năng này, qua
đó đẩy mạnh việc xuất khẩu trực tiếp tới các nhà nhập khẩu của họ.
16

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Việc xuất khẩu gạo vào các thị trờng truyền thống nh Nga và một số n-
ớc Đông Âu đợc phục hồi và có mức tăng khá. Trong năm 2001 Việt
Nam trúng thầu 2 đợt gạo xuất sang Philippin với tổng sản lợng 400
nghìn tấn, thời hạn giao hàng từ tháng 4 đến tháng 7 năm 2001. Ngoài
ra, Việt Nam tiếp tục thanh toán các hợp đồng xuất khẩu gạo sang Châu
Phi, Inđônêsia, Cuba. Các hợp đồng này đã nâng mức xuất khẩu gạo
của Việt Nam 5 tháng đầu năm 2001 lên 1,8 triệu tấn, trị giá 280,2 triệu
USD, tăng gần 64,4% về lợng và 24,4% về giá trị so với cùng kỳ.
Với phơng châm lợng giảm- chất tăng, năm 2002 nớc ta đã xuất
khẩu 3,24 triệu tấn gạo thu về 725,500 triệu USD. Trong đó, thị trờng
Châu á là 1580 triệu USD; Trung Đông: 900 USD; Châu Phi: 287 triệu
USD; Châu Mỹ: 254 triệu USD; Châu Âu: 180 triệu USD. Thị trờng
xuất khẩu gạo năm nay của Việt Nam đợc mở rộng hơn, giá cả cũng đ-
ợc cải thiện hơn.
Đến nay tuy gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nớc thuộc tất cả các
Đại lục, nhng số lợng gạo do các tổ chức Việt Nam trực tiếp ký kết với
các thị trờng còn chiếm tỷ lệ thấp, số bán qua trung gian nớc ngoài vẫn
chiếm tỷ lệ lớn, đặc biệt là thị trờng Châu Phi nơi tiêu thụ khối lợng
lớn gạo Việt Nam thì hầu hết do các trung gian nớc ngoài đứng ra thực
hiện, vì vậy gạo của Việt Nam luôn bị ép bán với gía thấp hơn giá thực
tế, điều đó đã làm ảnh hởng tới kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Cho đến nay Việt Nam cha xây dựng đợc cho mình một hệ thống bạn
hàng trực tiếp tin cậy, có mối quan hệ chặt chẽ, cha có chính sách thích
hợp về bạn hàng và thị trờng quốc tế. Hiện nay thị trờng xuất khẩu gạo
của Việt Nam vẫn là vấn đề bức xúc đòi hỏi sự nỗ lực từ phía Nhà nớc
và các Doanh nghiệp. Thị trờng là yếu tố quan trọng quyết định sự phát
triển của sản xuất. Trong những năm tới nớc ta cần tiếp tục củng cố và
khai thác các thị trờng truyền thống đồng thời tìm kiếm thị trờng mới.
2.3. Khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trờng

thế giới .
2.3.1. Về chất lợng.
Mặc dù gạo xuất khẩu của Việt Nam đợc xếp vào hàng Top
ten một số mặt hàng nông sản nhng đó chỉ là về phơng diện sản lợng.
Thực tế giá trị xuất khẩu của mặt hàng gạo so với sản phẩm cùng loại
17
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
của nhiều nớc khác thì vẫn ở mức thấp. Có thể thấy rằng thách thức lớn
nhất đối với gạo xuất khẩu của Việt nam là chất lợng và công nghệ chế
biến. Chất lợng gạo đợc đánh giá theo tỷ lệ tấm trong gạo và kỹ thuật
đánh bóng. Hiện tại trong cơ cấu sản xuất gạo chất lợng cao của ta còn
ít chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong sản lợng, do đó mới chỉ đáp ứng đ-
ợc nhu cầu xuất khẩu. Trong cùng thời gian Thái Lan xuất khẩu gạo
phẩm cấp cao thờng chiếm tới 60 62% còn Việt Nam chỉ ở 40
45% tổng lợng gạo xuất khẩu. Chính vì hạn chế này mà gạo Việt Nam
cha vào đợc các thị trờng cao cấp mà gạo Mỹ, Thái Lan đang chiếm
lĩnh.
Bảng 6: Phân loại chất lợng gạo xuất khẩu của Việt Nam.(%)
Loại gạo
Năm
Phẩm cấp cao
(5-10% tấm)
Phẩm cấp
trung bình
(15-20% tấm)
Phẩm cấp
thấp
(>25% tấm)
Tổng
số

1993 27,3 21,5 51,2 100
1995 23,6 22,4 54,0 100
1997 39,2 8,4 52,4 100
1998 40 12 48 100
1999 47 15 44 100
2000 42 26 32 100
2001 41 17 42 100
2002 42 35 23 100
(Nguồn: Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Số 3/2003)
Trong những năm đầu xuất khẩu gạo Nam thờng ít xuất khẩu trực
tiếp mà xuất khẩu qua trung gian, bởi chất lợng gạo không cao. Chúng
ta bán gạo cho Thái Lan, Singapore, các nớc này làm trung gian thực
hiện chế biến lại và sau đó tái xuất khẩu cho các nớc khác. Năm 1989
là năm đầu tiên đất nớc ta trở lại xuất khẩu gạo chủ yếu là gạo cấp thấp
chiếm 97,42% (tỷ lệ tấm 25%). Trong thời kỳ này gạo xuất khẩu của ta
không có khả năng cạnh tranh với gạo Thái Lan và các nớc có truyền
thống xuất khẩu gạo. Từ các năm sau để đáp ứng nhu cầu cạnh tranh
18
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
gay gắt trên thị trờng quốc tế nớc ta đã tập trung lớn vào việc sản xuất
các loại gạo có phẩm cấp cao, về sản xuất ta thu thêm đợc giống mới,
cải tạo giống tăng thêm lợng gạo hạt dài có hơng vị đậm đà hơn, về chế
biến đã cải tiến đổi mới, tổ chức bảo quản tốt hơn từ năm 1998 đến
nay, chất lợng gạo đợc cải thiện rõ rệt, gạo cấp cao thờng xuyên chiếm
tỷ trọng khoảng 40% (năm 1999 đạt tới 47%) tỷ trọng gạo cấp thấp
giảm đáng kể, từ 51,2% năm 1993, xuống còn 44% năm 1999. Đến
năm 2002, sự thay đổi chất lợng gạo đợc thể hiện qua: tỷ trọng lợng gạo
cao cấp 42%, tỷ trọng gạo cấp thấp là 23%. Sở dĩ tỷ trọng gạo chất lợng
cao và gạo chất lợng thấp chiếm phần lớn trong khối lợng gạo xuất
khẩu của Việt Nam là do thị trờng gạo tập trung chủ yếu vào Châu Phi

và Châu á, nơi có nhu cầu gạo phẩm cấp thấp, còn gạo phẩm cấp cao là
thể hiện sự nhạy bén của Việt Nam theo nhu cầu thế giới. Từ những con
số trong bảng ta có thể thấy đợc những tiến bộ của ngành sản xuất lúa
gạo nói chung, lĩnh vực xuất khẩu gạo nói riêng, điều đó đợc chứng
minh qua chất lợng gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng đợc cải
thiện tốt hơn.
Chúng ta đều biết chất lợng gạo có liên quan đến hàng loạt các
yếu tố từ khâu sản xuất đến khâu bảo quản, vận chuyển và chế biến thì
ở Việt Nam đa số nông dân có tập quán phơi mớ và kéo dài thời gian
thu hoặch khiến hạt lúa dễ hút ẩm vào ban đêm, làm cho phân tử nớc
hấp thu mặt ngoài của tinh thể bột sẽ chịu một lực cản không đều, dẫn
đến hiện tợng nứt hạt gạo.
Ngoài ra trong quá trình tuốt lúa, lực va chạm của hạt gạo quá
khô vào khung máy tuốt cũng tạo điều kiện cho hiện tợng nứt hạt gạo
xảy ra ở tần suất lớn; tỷ lệ thóc thất thoát do không đợc làm khô và bảo
quản kịp thời vào khoảng 10 - 15% thậm chí tới 15 - 20% khi thu hoặch
vào vụ ma.
Thiết bị và công nghệ chế biến gạo thì phần lớn là lạc hậu, ít đầu
t cải tiến, chi phí sản xuất cao, chất lợng thành phẩm thấp; ở các tỉnh
phía Bắc hiện có 278 cơ sở xay xát gạo quốc doanh, trong đó có 4 nhà
máy công suất 60 tấn/ca, 46 nhà máy công suất 15 - 30 tấn/ca và 13000
cơ sở xay xát ngoài quốc doanh qui mô 3 - 5 tấn/ca. Còn ở các tỉnh phía
Nam hiện có khoảng 348 cơ sở xay xát gạo quốc doanh và trên 30.000
cơ sở t nhân. Trong khi đó, gạo xuất khẩu cần phải có các cơ sở xay xát
19
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
lớn nhất (các cơ sở này có khả năng làm từ khâu đầu đến khâu cuối gạo
xuất khẩu, tức là từ xay xát đến làm bóng) thì số lợng lại thật khiêm
tốn. Còn lại là các cơ sở nhỏ chỉ làm công việc xay xát lại chiếm đa
số.Có thể khẳng định, hiện nay, công nghệ thiết bị chế biến gạo của nớc

ta còn những bất cập so với các nớc tiên tiến trong khu vực, tỷ lệ thu hồi
sau quá trình xay xát chỉ đạt 60 - 62%, trong đó 40 - 42% gạo nguyên;
chỉ có một số ít nhà máy do Nhà Nớc quản lý có tỷ lệ thu hồi đạt 75 -
76% (52 - 55% gạo nguyên). Hơn nữa, các nhà máy xay xát có máy
phân hạt theo kích cỡ là không phổ biến ở Việt Nam, chỉ có số ít nhà
máy xay xát loại lớn có khả năng chọn màu và đảm bảo với nhà xuất
khẩu là loại gạo mất màu đã đợc loại. Vì vậy vấn đề đặt ra là nớc ta
không chỉ đầu t bổ sung cho sự nghiên cứu các loại giống thích hợp với
điều kiện Việt Nam mà còn cần đầu t máy móc, trang thiết bị và công
nghệ hiện đại.
Những thực tế bức xúc đó đã dẫn đến chất lợng gạo xuất khẩu
nớc ta chỉ đạt mức trung bình trong khu vực, thể hiện qua các mặt sau:
độ đồng nhất kém, độ trắng và hình dạng, kích thớc hạt không đồng
đều, độ bạc bụng cao, tỷ lệ hạt khác màu, hạt vàng, hạt hỏng, hạt đen,
độ ẩm, hạt vỡđều cao hơn gạo của các nớc khác.
Về chủng loại, gạo xuất khẩu Việt Nam chủ yếu vẫn là gạo tẻ hạt
dài đợc sản xuất hầu hết ở ĐBSCL. Còn loại gạo hạt trắng số 1 với
100% hạt nguyên, gạo đặc sản, gạo thơm còn rất ít. Việt Nam chỉ mới
bớc đầu xuất khẩu gạo tám thơm đợc trồng ở Miền Bắc, gạo Nàng H-
ơng, Chợ Đáo ở Miền Nam với số lợng nhỏ và không đều đặn qua các
năm.
Nhìn chung chất lợng và chủng loại gạo xuất khẩu của nớc ta
trong chừng mực nào đó còn thấp, nhất là so với gạo Thái Lan, cha đáp
ứng đợc đầy đủ nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Với những cố gắng
hiện nay của ngành trồng lúa trong việc cải tạo giống, công nghệ xay
xát, đánh bóng, chọn màu, chúng ta có thể hy vọng rằng phẩm cấp gạo
xuất khẩu của Việt Nam sẽ đợc cải thiện nhiều hơn trong vài năm tới.
2.3.2. Về giá.
Giá cả do chất lợng, điều kiện thơng mại, quan hệ cung cầu quyết
định. Hiện nay trên thị trờng thế giới có rất nhiều loại gạo, với mỗi loại

gạo, sự biến động về giá cũng khác nhau, giá cả biến động còn phụ
20
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
thuộc vào thời vụ. Giá gạo của thế giới trong những năm qua thờng
xuyên biến động, do đó giá gạo Việt Nam cũng có xu hớng dao động
theo giá cả của thị trờng thế giới. Mặc dù chúng ta đạt kết quả cao trong
xuất khẩu gạo nhng hiệu quả cha cao. Giá gạo của Việt Nam thờng thấp
hơn so với giá gạo xuất khẩu bình quân trên thế giới (FOB - Thái Lan).
Trong 5 năm qua giá gạo bình quân của Việt Nam là 262,6 USD/tấn,
còn của Thái Lan bán cùng kỳ là 295 USD/tấn. Nh vậy giá gạo của Thái
Lan luôn cao hơn giá gạo của Việt Nam 10 13%, nhng không phải
do Việt Nam tự động hạ giá mà buộc phải chấp nhận mức giá thấp,
cách biệt khá xa so với mặt hàng gạo quốc tế vì cha đáp ứng đợc các
tiêu chuẩn nghiêm ngặt của thị trờng nh: chất lợng sản phẩm còn thấp
và không đồng đều, cơ sở hạ tầng phụcvụ xuất khẩu gạo vừa thiếu vừa
kém, năng lực bốc xếp thấp, chi phí cao, thiếu ổn định trong việc cung
ứng hàng. Bảng dới đây cho thấy sự thua thiệt về gía gạo xuất khẩu của
Việt Nam so với Thái Lan.
Bảng7: Giá gạo của Việt Nam và Thái Lan trên thị trờng thế giới.
(Đơn vị: USD/tấn).
Năm Giá FOB Thái
Lan- loại 5%
tấm
Giá FOB Việt
Nam- loại 5%
tấm
Chênh lệch
1989 311 236 - 75
1997 265 245 - 20
1998 285 270 -15

1999 240 232 - 8
2000 190 174 -16
2001 181 198 +17
2002 200 197 - 3
(Nguồn: Ngoại thơng 1 2002)
Từ thập kỷ 60 trở lại đây ngời ta thờng dựa vào giá xuất khẩu gạo
của Thái Lan (điều kiện giao hàng FOB Băngkok) làm giá quốc tế
mặt hàng gạo, giá này đợc xem là giá chuẩn mực, phản ánh đợc thực
chất quan hệ cung cầu và quy luật vận động của giá cả trên thị trờng
gạo thế giới. Giá gạo thế giới trong những năm qua thờng xuyên thay
21
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
đổi và có xu hớng giảm. Trong thập kỷ 90, cuộc khủng hoảng tài chính
Đông á và yếu tố thời tiết đã làm giảm nhu cầu gạo trên thị trờng, gây
ra việc giảm giá gạo quốc tế. Có thể dẫn ra đây giá gạo FOB
Bangkok, loại gạo 5% tấm: năm 1989 là 311 USD/tấn, thì đến năm
1999 là 240 USD/tấn. Tuy nhiên từ năm 2000 trở lại đây, giá gạo trên
thị trờng thế giới đã khởi sắc hơn do các nớc Đông á nền kinh tế
đang đi vào giai đoạn phục hồi nên nhu cầu nhập khẩu gạo tăng lên,
cộng với tốc độ tăng thu nhập bình quân trên đầu ngời cao ở một số nớc
Châu á dẫn đến nhu cầu gạo tăng đặc biệt là gạo phẩm cấp cao.
Cho đến nay Việt Nam hầu nh chỉ xuất khẩu gạo theo điều kiện
FOB là chính, thêm vào đó xuất khẩu gạo của Việt Nam còn mang tính
chất từng chuyến, từng đợt nên khó tìm đợc bạn hàng và thị trờng ổn
định. Phần lớn gạo xuất khẩu của Việt Nam phải xuất sang Singapore
để tái xuất khẩu vì không tìm đợc thị trờng trực tiếp. Đây cũng là
nguyên nhân làm cho giá gạo Việt Nam thua thiệt rất nhiều. Mặt khác
nớc ta nằm trong khu vực Châu á, nơi có nhiều nớc cũng xuất khẩu gạo
nên thờng bị cạnh tranh, chèn ép giá trên thị trờng xuất khẩu. Việc
thiếu hụt thông tin thị trờng và kinh nghiệm kinh doanh đã làm cho giá

gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn các nớc láng giềng.
Một trong những nguyên nhân chính của sự chênh lệch giữa giá
gạo Thái Lan và giá gạoViệt Nam vẫn là yếu tố chất lợng. Giá gạo Việt
Nam cũng tăng dần cùng xu hớng tăng của chất lợng gạo và quan hệ
cung cầu với thị trờng lúa gạo thế giới. Khoảng cách giữa giá gạo Việt
Nam với giá gạo Thái Lan đã giảm dần: từ 40 - 55 USD/tấn những năm
1989 - 1994 xuống còn 20 - 25 USD/tấn những năm 1995 - 2000. Năm
1998 do đồng Batt Thái Lan mất giá, nên giá gạo Việt Nam đã tiếp cận
giá gạo Thái Lan. Do nhu cầu giảm so với cùng kỳ năm 1998 giá thị tr-
ờng thế giới năm 1999 luôn ở mức thấp, vì vậy nên giá gạo xuất khẩu
của Việt Nam không cao, giá xuất khẩu cả năm trung bình chỉ ở mức
xấp xỉ 221 USD/tấn. Đây là mức giá thấp nhất so với giá trung bình từ
năm 1995 trở lại đây.
Sang năm 2000 tổng lợng xuất khẩu đạt 3,5 triệu tấn, tổng kim
ngạch đạt 668 triệu USD, so với năm 1999 thì lợng giảm 1,17 triệu tấn
và giá trị giảm 360 triệu USD. Với kết quả xuất khẩu nh trên, tính toán
cho thấy giá xuất khẩu bình quân năm 2000 đạt 188 USD/tấn, thấp hơn
22
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
mức giá bình quân năm 1999 là 3USD/tấn và năm 1998 tới trên
87 USD/tấn. Nguyên nhân là do lợng gạo giao dịch trên thị trờng thế
giới giảm liên tục từ 25 triệu tấn năm 1999, xuống còn 22,3 triệu tấn
năm 2000. Sự sút giảm liên tục nh vậy đã làm cho giá thị trờng gạo thế
giới giảm mạnh và cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.
Cuối năm 2000 và đầu năm 2001 giá gạo thế giới liên tục giảm,
nhng bắt đầu tăng từ tháng 6 đến tháng 11 năm 2001. Cụ thể giá gạo
FOB tại Việt Nam vào tháng 5/2001, loại 5% tấm là 158 USD/tấn, loại
25% tấm là 137 USD/tấn. Song từ tháng 8/2001giá gạo Việt Nam đột
ngột tăng, lần đầu tiên kể từ nhiều năm nay giá gạo Việt Nam đắt hơn
giá gạo Thái Lan trên thị trờng quốc tế, giá gạo 5% tấm của Việt Nam

giá 175 USD/tấn trong khi đó giá gạo Thái Lan cùng loại là 169
USD/tấn. Tính đến cuối tháng 12/2001 giá gạo Việt Nam cao hơn trên
20 USD/tấn so với giá gạo xuất khẩu cùng loại của Thái Lan, trong khi
thông thờng giá gạo Việt Nam rẻ hơn 15 25 USD/tấn. Nguyên nhân
là do trong năm 2001 lũ lụt lại xảy ra ở ĐBSCL, mặc dù không gây
thiệt hại nhiều tới sản lợng nhng việc thu gom, phơi sấy và vận chuyển
gạo gặp nhiều khó khăn, đẩy chi phí lên cao. Cùng với chi phí cao là
việc Việt Nam khan hiếm nguồn cung gạo xuất khẩu do các nhà xuất
khẩu đã mua gạo bằng mọi giá để gấp rút hoàn thành những hợp đồng
đã ký với Irăc, Châu Phi, Philippin và Cuba, trong khi đó nông dân lại
không muốn bán thóc ra vì cha biết tiến triển lũ lụt và sản lợng vụ thu
hoạch sau thế nào.
Bớc sang 2002, chất lợng gạo đợc nâng cao, các loại gạo cao cấp,
gạo tám thơm, gạo đồ của DNTN khi đa mẫu chào hàng đã đợc các
công ty nớc ngoài đặt mua ngay với giá cao. Năm 2002, Việt Nam tuy
xuất khẩu gạo với khối lợng thấp hơn 2001 nhng lại thu về giá trị cao
hơn.
Nh vậy trong cạnh tranh xuất khẩu gạo thì vấn đề chất lợng và
giá cả có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Hiện trạng của gạo xuất khẩu
trên thị trờng thế giới là không khả quan, giá gạo không ổn định và bị
cạnh tranh khốc liệt thờng ở mức thấp so với các nớc khác đặc biệt là
Thái Lan. Điều này lý giải tại sao kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt
Nam cha tơng xứng với khối lợng xuất khẩu.
23
Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
Để xuất khẩu đạt hiệu quả cao chúng ta cần có đầy đủ thông tin,
nhu cầu khách hàng, xu hớng biến động giá cả trên thị trờng đồng thời
phải thay đổi chiến lợc phơng thức kinh doanh, cần phải tính toán nên
xuất khẩu một khối lợng nào mà tơng ứng với nó là quy mô đầu t tối u.
2.3.3.Phơng thức thanh toán.

Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nớc, Việt Nam
còn gặp nhiều khó khăn và thử thách vì vậy chơng trình xuất khẩu gạo
của ta chủ yếu là đổi hàng và trả nợ, còn bán theo phơng thức thanh
toán L/C chỉ ở mức độ nhỏ, do đó khả năng cạnh tranh trên thị trờng thế
giới của Việt Nam thời gian này rất kém.
Qua nhiều năm xuất khẩu gạo phơng thức thanh toán có nhiều
tiến bộ, phơng thức L/C dần chiếm tỷ trọng cao hơn và đã trở thành ph-
ơng thức thanh toán chủ yếu. Điều đó đã từng bớc nâng cao khả năng
cạnh tranh của gạo Việt Nam trên trờng quốc tế.
Do khó khăn về thị trờng, bạn hàng và giá cả nên trong những
năm đầu Việt Nam quay lại thị trờng xuất khẩu thì phơng thức đổi hàng
vẫn còn chiếm tỷ trọng không nhỏ. Tuy nhiên trong nhiều trờng hợp
hiện tợng này lại có tác dụng quan trọng đôí với Doanh nghiệp để có
chỗ đứng trên thị trờng gạo thế giới. Đến năm 1994 - 1995 thì hai ph-
ơng thức thanh toán trực tiếp và đổi hàng không còn nữa mà thay vào
đó là hình thức thanh toán qua L/C, gần nh chiếm tỷ trọng tuyệt đối.
Hiện nay trong phạm vi quy định chung của Nhà nớc, phơng thức
kinh doanh và thanh toán đợc vận dụng linh hoạt ở tầm Doanh nghiệp,
đảm bảo nguyên tác thu hồi vốn và kinh doanh có hiệu quả. Hiệp Hội
Xuất khẩu lơng thực Việt Nam cảnh báo, các Doanh nghiệp tham gia
vào thị trờng gạo thế giới muốn làm ăn có lãi và tránh thua thiệt thì cần
phải có phơng thức kinh doanh và thanh toán linh hoạt, đa dạng.
Phơng thức thanh toán của hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam
hiện nay khá đa dạng và linh hoạt cụ thể là: bán trả chậm, đại lý, gửi
bán, đổi hàng, tham gia đấu thầu bán lẻ cho các siêu thị, hợp tác liên
doanh với ngời tiêu thụ. Kết quả đó đã có tác động tích cực đến hoạt
động xuất khẩu gạo của nớc ta.
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt nh hiện nay trên thị trờng gạo
quốc tế, các Doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam đã luôn linh
24

Khoá luận tốt nghiệp Phạm Thị Thanh Vân
hoạt phơng thức thanh toán để chiếm đợc nhiều thị trờng khác nhau. Ví
dụ nh ở thị trờng Châu Phi, hiện nay khối lợng gạo Việt Nam đợc tiêu
thụ nhiều hơn gạo Thái Lan đó là do Việt Nam đã xác định rằng, thị tr-
ờng này tuy nhập khẩu nhiều gạo nhng lại có khả năng thanh toán kém,
do đó Việt Nam đã áp dụng phơng thức trả chậm, phơng thức trả sau và
phơng thức tuần hoàn cho thị trờng này, nhờ vậy mà gạo Việt Nam có u
thế hơn gạo Thái Lan. Hay với thị trờng Irắc, ngoài các hợp đồng mua
bán gạo thông thờng Việt Nam còn xuất khẩu gạo sang nớc này theo
chơng trình Đổi dầu lấy lơng thực, qua đó Việt Nam không chỉ bán đ-
ợc gạo mà còn giữ vững và mở rộng hơn thị trờng này.
Trong giai đoạn hiện nay Việt Nam đang nghiên cứu và mở rộng
phạm vi thanh toán nhằm đa dạng hoá phơng thức thanh toán. Đây cũng
là điều kiện để thu hút và giữ khách hàng, mở rộng thị trờng xuất khẩu,
giúp gạo của Việt Nam có khả năng bán đợc và phù hợp với những đặc
điểm mới của thanh toán quốc tế.
2.4. Hệ thống tổ chức xuất khẩu gạo.
Từ năm 1989 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo với số lợng lớn,
nhanh chóng chiếm đợc vị trí là một trong những nớc xuất khẩu gạo lớn
nhất trên thế giới. Xuất khẩu gạo tăng nhanh cả về số lợng và kim
ngạch, chất lợng gạo đã có những tiến bộ. Một trong những yếu tố dẫn
đến kết quả trên là chúng ta đã có cơ chế đièu hành xuất khẩu gạo. Cơ
chế này đợc hoàn thiện liên tục qua từng năm. Trong đó, Nhà nớc thực
hiện tổ chức thu mua gạo xuất khẩu thông qua các đầu mối xuất khẩu,
và hạn ngạch xuất khẩu gạo, nhằm điều tiết lợng gạo xuất khẩu.
Nhà Nớc phân bổ đầu mối cho các tỉnh vùng lúa, Nhà Nớc can
thiệp trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu gạo nhằm thực hiện nguyên tắc
u tiên hàng đầu cho mục tiêu an ninh lơng thực quốc gia. Ngoài ra
Chính Phủ còn phân bổ hạn ngạch cho các tỉnh vùng lúa, uỷ nhiệm cho
lãnh đạo các tỉnh điều hành và quản lý nhằm đảm bảo cơ chế xuất khẩu

gạo đợc linh hoạt hơn.
Nhiều năm qua đầu mối xuất khẩu gạo là một điểm nóng trong
hoạt động xuất khẩu gạo. Thời gian đầu, nhiều Doanh nghiệp nhà nớc
tìm mọi cách để đợc trực tiếp xuất khẩu gạo. Nhiều hoạt động tranh
mua tranh bán trong nớc thơng nhân nớc ngoài lợi dụng để ép giá, ép
cấp gây tổn hại lợi ích quốc gia trong xuất khẩu gạo. Nhằm khắc phục
25

×