Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.73 KB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ MỘNG LÀNH
LỚP DH5C2

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀNH NGỮ VĂN

SỰ THỂ HIỆN TÌNH YÊU TRONG MỘT SỐ BÀI
THƠ TIÊU BIỂU GIAI ĐOẠN 1945 – 1975

Giảng viên hướng dẫn
Thạc sĩ: LÊ HUỲNH DIỆU

Long Xuyên, 5 / 2008


MỤC LỤC
-o0oPHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài: ...................................................................................................1
II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: ..................................................................................2
III. Phạm vi nghiên cứu: ...........................................................................................4
IV. Mục đích nghiên cứu:..........................................................................................4
V. Đóng góp của đề tài: .............................................................................................4
VI. Phương pháp nghiên cứu: ..................................................................................4
VII. Kết cấu của luận văn: ........................................................................................5

PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ QUAN NIỆM
NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI


ĐOẠN 1945 – 1975
I. Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975: ..
1. Nền văn học đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
phục vụ các nhiệm vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu: ............................................6
2. Văn học hướng về đại chúng: .......................................................................7
3. Nền văn học chủ yếu sáng tác theo khuynh hướng sử thi: ...........................8
II. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học giai đoạn 1945 – 1975:
1. Quan niệm về con người trong văn học Việt Nam 1945 – 1954:...............10
2. Quan niệm về con người trong văn học Việt Nam 1955 – 1964:.............. 11
3. Quan niệm về con người trong văn học Việt Nam 1965- 1975: ................12
4. Quan niệm về tình yêu trong thơ kháng chiến 1945 – 1975:
4.1. Từ “cái tôi” lãng mạn trong Thơ mới đến “cái ta” lãng mạn
cách mạng trong thơ tình yêu thời kì kháng chiến: ............................13
4.2. Quan niệm về tình yêu trong thơ kháng chiến
(1945 – 1975): .....................................................................................14

CHƯƠNG II: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CÁI TƠI TRỮ TÌNH
LÃNG MẠN TRONG THƠ TÌNH U THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN
(1945-1975)
I. Tình u hồn nhiên, tươi trẻ, đằm thắm giữa đạn lửa chiến tranh:................17
II. Tình yêu và nỗi nhớ vượt không gian, thời gian: ............................................20


III. Tình u lí tưởng vượt qua những mất mát đau thương trong chiến tranh:
1. Tình u lí tưởng: .......................................................................................30
2. Niềm đau xót, sự vượt lên những mất mát đau thương
trong tình yêu:................................................................................................32

CHƯƠNG III: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC, NGHỆ THUẬT BIỂU
HIỆN

I. Mơtíp riêng – chung:............................................................................................40
II. Khơng gian nghệ thuật:......................................................................................44
III. Phương thức tự sự: ...........................................................................................46
IV. Vận dụng thể thơ tự do: ....................................................................................51

PHẦN III: KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Tình u là đề tài mn thuở của thi ca. Nhắc đến tình yêu, người
đọc thường nghĩ đến Thơ mới. Hầu như trong văn nghiệp của các nhà thơ
mới đều có thơ viết về tình u. Xuân Diệu được Hoài Thanh dành tặng
danh hiệu nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, lại cũng chính là người
viết nhiều về thơ tình yêu và được suy tơn là ơng hồng của thơ tình. Tuy
nhiên, vấn đề mà đề tài quan tâm khám phá là thơ tình yêu ra đời trong
những năm kháng chiến 1945 – 1975. Giai đoạn mà dân tộc, đất nước ta
đang trong cảnh dầu sôi lửa bỏng đối đầu với nhiều kẻ thù xâm lược. Nền
văn học giai đoạn này chủ yếu phản ánh cuộc chiến tranh thần thánh của
nhân dân ta. Cảm hứng chủ đạo của văn học là cảm hứng về quê hương, đất
nước về những tình cảm cộng đồng. Thơ tình u ra đời trong bối cảnh lịch
sử đó.
Mặc dù viết về tình yêu riêng tư, đời sống cá nhân nhưng thơ tình
u giai đoạn này đã thật sự góp phần làm đa dạng nền thơ Việt Nam hiện
đại. Qua cái riêng, số phận mỗi cá nhân, người đọc vẫn thấy được số phận,
hoàn cảnh chung của cả cộng đồng, dân tộc. Hiện thực của cuộc chiến được
tái hiện sống động trong thơ làm cho thơ tình yêu giai đoạn này có những

giá trị, đóng góp nhất định.
Nhà thơ Thụy Điển Nazim Hitmet từng phát ngôn: Đừng hi vọng
những câu thơ anh viết sẽ làm rung động trái tim người khác nếu trước tiên
nó khơng làm trái tim anh rung động. Quả thật, những cảm xúc nhớ thương
da diết, những khát vọng hạnh phúc sum vầy, tình yêu trong đời sống cá
nhân thời chiến tranh từng làm rung động trái tim người đọc. Sau những
cuộc hành quân chiến đấu, đôi mắt người yêu lại hiện về trong nỗi nhớ
mong khao khát, khắc khoải, đầy suy tư:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
( Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Và nỗi nhớ mong yêu thương vừa trừu tượng, vừa cụ thể như có dáng hình:
Rút sợi thương
Chằm mái lợp
Rút sợi nhớ
Đan vịm xanh
hay đó là nỗi đau li biệt cồn cào oặn thắt từ hình sơng, dáng núi:
Núi vẫn đôi mà anh mất em
- Trang 1 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

Tình yêu gắn liền với nỗi nhớ nhung và cả sự mất mát chính là những góc
khuất trong đời sống tinh thần của con người thời kháng chiến. Chính vì
vậy, tơi đã chọn cho mình đề tài: Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ
tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975. Đề tài xuất phát từ tình hình thực tế là
chưa có cơng trình nào nghiên cứu về thơ tình u trong giai đoạn này. Đề
tài Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 –
1975 sẽ cho chúng ta cái nhìn tổng hợp về thời đại, đất nước và con người,

giai đoạn văn học, những đặc điểm của thơ tình yêu. Qua đây, ta thấy được
lí tưởng sống và quan niệm về tình u thời kháng chiến của một thế hệ cha
anh. Để từ đó, người đọc thêm yêu, đồng cảm, trân trọng họ hơn. Bởi họ đã
góp cho thơ ca nói chung và thơ kháng chiến nói riêng những bản tình ca
bất diệt.

II. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:
Cho đến thời điểm này, tôi chưa thấy một cơng trình nghiên cứu
chun biệt nào về thơ tình yêu giai đoạn 1945 – 1975. Các nguồn tư liệu
chủ yếu là các giáo trình trình bày về giai đoạn, đặc điểm thời kì văn học,
hay các bài nghiên cứu đặc điểm thơ kháng chiến nói chung, hoặc đi sâu
phân tích, nghiên cứu về thơ của một tác giả tiêu biểu. Những kiến thức mà
tôi thu được qua quá trình tìm hiểu các nguồn tư liệu này đã góp phần định
hướng, giúp triển khai đề tài nghiên cứu.
Sau đây là một vài cơng trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan:
1. “Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại 1945 – 1975”
(NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội – 1998), nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Bắc
đã cung cấp cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về nền thơ ca Việt Nam trong 30
năm. Tác phẩm được trình bày gồm 3 chương:
Chương I: Những biểu trưng về Tổ quốc trong thơ ca Cách mạng
Việt Nam (1945 – 1975).
Chương II: Những biểu trưng về người anh hùng trong thơ ca Cách
mạng Việt Nam (1945 – 1975).
Chương III: Những biểu trưng về kẻ thù trong thơ ca Cách mạng
Việt Nam.
Ở chương II “Những biểu trưng về con người anh hùng trong thơ ca Cách
mạng Việt Nam 1945 – 1975”, tác giả đã trình bày “biểu trưng về con người
tình nghĩa”. Theo Nguyễn Duy Bắc, trong giai đoạn đất nước có chiến
tranh, “con người vì nghĩa, vì đại nghĩa” là lẽ sống cao nhất của người anh
hùng. Hạnh phúc lớn nhất của con người là hi sinh tình yêu cá nhân cho

tình yêu nước, yêu giai cấp, yêu nhân dân. Tình yêu quê hương, đất nước là
nền tảng để tôn thêm ý nghĩa và màu sắc mới mẻ cho tình u lứa đơi. Do
vậy, tình u lứa đơi được tác giả xác định trên quan điểm hòa cái riêng vào
cái chung, theo các tiêu chuẩn về lẽ sống của người anh hùng.
- Trang 2 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

2. Qua chuyên đề nghiên cứu “Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ
1955 đến 1975” (in trong tác phẩm: “Năm mươi năm văn học Việt Nam sau
Cách mạng tháng Tám” của nhiều tác giả, NXB đại học quốc gia, Hà Nội –
1996), giáo sư Trần Đăng Xuyền đã nêu lên một trong những đặc điểm cơ
bản nhất của thơ Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 là: “Sự hồi sinh của cái
tôi đời tư theo xu hướng hòa hợp với cái ta chung và sự đậm dần, mở rộng,
phát triển mạnh mẽ của cái tôi sử thi” [13; 258]. Như vậy, thơ tình u ra
đời trong giai đoạn này cũng khơng vượt ra ngồi đặc điểm đó, nhà nghiên
cứu Trần Đăng Xuyền khẳng định: “Ngay cả đến tình yêu, một thứ tình cảm
riêng tư nhất cũng được nhìn nhận theo chiều hướng hịa hợp với cái ta
chung,…” [13;260]. Cái “tơi” riêng tư được đặt trong mối quan hệ thống
nhất với xã hội với đời sống của đất nước, của nhân dân. Qua bài nghiên
cứu này, Trần Đăng Xuyền chú trọng khám phá đặc điểm thơ ca Việt Nam
chủ yếu về mặt thi pháp thể loại.
3. Với tác phẩm “Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 –
1975” (NXB Giáo dục, năm 1998), Vũ Duy Thơng tập trung khám phá vẻ
đẹp tính thẩm mỹ qua nghệ thuật xây dựng hình tượng về đất nước, hình
tượng về Bác Hồ, hình tượng về người lính. Bên cạnh những hình tượng đó,
tác giả cịn khám phá hình tượng về người phụ nữ trong thơ ca cách mạng.
Tác giả cho người đọc thấy sự hi sinh lớn lao của những người mẹ, người
vợ, người yêu trong thời kháng chiến. Tác giả cũng đã dẫn ra nhiều dẫn

chứng thơ của Nguyễn Mĩ, Hồng Nguyên, Hữu Loan, Trần Hữu Thung, Bùi
Minh Quốc,…Tuy nhiên, hình tượng người phụ nữ chủ yếu chỉ được nhìn
nhận trên cơ sở đại diện cho hình ảnh nhân dân anh hùng.
4. Với cơng trình “Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt
Nam” (NXB Giáo dục, năm 1998), nhà nghiên cứu Lê Đình Kỵ đã đề cập
đến thơ tình yêu ra đời trong giai đoạn 1945 – 1975 qua một bài viết ngắn
nói về “Tình nghĩa riêng chung”. Giáo sư chỉ ra rằng thơ tình u giai đoạn
này cũng có sự thống nhất riêng – chung.
Nhìn chung, các tư liệu vừa dẫn ở trên đều có sự thống nhất trong
nhìn nhận quan niệm về tình yêu biểu hiện trong văn học và thơ ca thời kì
kháng chiến là đặt cái tơi riêng tư, tình u đơi lứa hài hịa với cái ta chung,
tình yêu Tổ quốc. Qua đây, nó tạo điều kiện cho người viết nắm vững đặc
điểm biểu hiện của thơ tình yêu, vận dụng vào phân tích, khám phá triển
khai.
Bên cạnh những tài liệu nêu trên, người viết còn tiếp cận các giáo
trình như: “Văn học Việt Nam hiện đại tập II” (từ sau Cách mạng tháng
Tám 1945, NXB Đại học Sư phạm – 2007) do giáo sư Nguyễn Văn Long
chủ biên; “Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng
Tám”(NXB Giáo dục, năm 2001) cùng của giáo sư Nguyễn Văn Long
(NXB Giáo dục, năm 2001). Hai quyển giáo trình trên đã giúp người viết có
cái nhìn tổng hợp và hệ thống về giai đoạn phát triển 1945 – 1975 của nền
văn học Việt Nam hiện đại. Nền văn học Việt Nam thời kì này có những
- Trang 3 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

đặc điểm riêng, và quan niệm nghệ thuật về con người cũng có sự thay đổi
qua từng chặng đường văn học.
Tóm lại, nguồn tư liệu giúp cho việc nghiên cứu về thơ tình yêu giai

đoạn 1945 – 1975 còn rất hạn chế. Dù vậy, đây vẫn là những nguồn thông
tin cơ sở quý báu, làm tiền đề giúp người viết đi sâu khám phá sự thể hiện
về nội dung và nghệ thuật của thơ tình yêu giai đoạn 1945 – 1975.

III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Luận văn chủ yếu đi sâu nghiên cứu, phân tích một số bài thơ tiêu
biểu viết về tình yêu lứa đôi ra đời trong giai đoạn 1945 – 1975 như: Màu
tím hoa sim (Hữu Loan), Nhớ, Chia tay (Nguyễn Đình Thi), Mưa rơi (Tố
Hữu), Núi đôi (Vũ Cao), Vườn xưa (Tế Hanh), Quê hương (Giang Nam),
Hoa chanh (Nguyễn Bao), Em phương xa (Thi Hoàng), Hương thầm (Phan
Thị Thanh Nhàn), Đám cưới giữa mùa xuân (Viễn Phương), Cuộc chia li
màu đỏ (Nguyễn Mĩ), Bài thơ về hạnh phúc (Dương Hương Ly), Nhớ
(Hồng Thị Minh Khanh), Trường Sơn Đơng, Trường Sơn Tây (Phạm Tiến
Duật), Sợi nhớ sợi thương (Thúy Bắc), Những mùa trăng mong chờ (Lê
Thị Mây),…

IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Đề tài khám phá, phân tích một số biểu hiện về nội dung và hình
thức nghệ thuật để thấy được những đóng góp, giá trị của mảng thơ viết về
tình u ra đời trong thời kỳ kháng chiến.
Trọng tâm là khám phá tiếng nói của cái tơi cảm xúc cá nhân hịa
trong tình cảm cộng đồng - cái ta cách mạng.

V. ĐĨNG GĨP CỦA ĐỀ TÀI:
Đề tài cung cấp cái nhìn khái quát về thơ tình yêu giai đoạn 1945 –
1975. Đồng thời, thấy được những đóng góp về giá trị nội dung và nghệ
thuật của thơ tình yêu giai đoạn này vào nền văn học dân tộc. Bên cạnh đó,
đề tài còn giúp người đọc thấy được sự thể hiện cái tơi trữ tình của thơ viết
về tình u vừa mang những đặc điểm lịch sử, gắn với thời đại văn học, vừa
có tính độc đáo riêng gắn liền với từng hoàn cảnh, đời sống đấu tranh và tài

năng sáng tạo thơ ca của mỗi tác giả.

VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:

1. Phương pháp thống kê, hệ thống:
Trên cơ sở những tư liệu đã tìm được, người viết tiến hành phân loại,
thống kê để có cái nhìn bao qt về thơ tình u. Từ nền tảng đó, người viết
- Trang 4 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

hệ thống lại khái quát thành những biểu hiện khác nhau của thơ tình yêu về
cả hai mặt nội dung và hình thức nghệ thuật.

2. Phương pháp so sánh:
Luận văn có sự so sánh, đối chiếu những biểu hiện cảm xúc trữ tình
trong Thơ mới với cảm hứng trữ tình trong thơ tình yêu thời chiến để thấy
được những đặc điểm riêng của thơ tình yêu giai đoạn 1945 - 1975.

3. Phương pháp phân tích, tổng hợp:
Đây là hai phương pháp được sử dụng thường xuyên trong luận văn.
Phân tích những đoạn thơ hay, tiêu biểu để phục vụ cho việc làm sáng tỏ
vấn đề cần nghiên cứu, nhằm đưa ra những lí lẽ xác đáng làm cơ sở vững
chắc cho luận văn.
Các phương pháp trên đây được vận dụng, phối hợp với nhau trong
q trình phân tích, đánh giá các vấn đề trong nội dung của luận văn.


VII. KẾT CẤU CỦA KHÓA LUẬN :
Khóa luận được kết cấu thành ba phần chính:
Phần I: Mở đầu
Phần II: Nội dung
Chương I: Những đặc điểm cơ bản và quan niệm nghệ thuật
về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975.
Chương II: Những biểu hiện của cái tơi trữ tình lãng mạn
trong thơ tình yêu thời kì kháng chiến (1945 – 1975).
Chương III: Một số phương thức, nghệ thuật biểu hiện.
Phần III: Kết luận

- Trang 5 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 – 1975
I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1945 – 1975:
Để tìm hiểu sự thể hiện tình yêu qua thơ ca thời kháng chiến, trước
hết chúng ta cần có cái nhìn bao qt về những đặc điểm cơ bản của nền
văn học thời kì sau Cách mạng tháng Tám.
Tìm hiểu nhận định về giai đọan văn học này, thống nhất với ý kiến
của nhiều nhà nghiên cứu, có thể khái quát thành ba đặc điểm cơ bản sau
đây:

1. Nền văn học đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, phục vụ các

nhiệm vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu:
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỉ nguyên mới cho
đất nước, đồng thời cũng mở ra một thời đại mới cho nền văn học dân tộc.
Trong giai đoạn lịch sử từ năm 1945 – 1975, dân tộc ta phải đối đầu với hai
cường quốc xâm lược hùng mạnh: thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Do vậy,
nội dung bao trùm của văn học thời kì này là phản ánh cuộc chiến đấu cho
độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc, cho lí tưởng xã hội chủ nghĩa.
[10;15]. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: Cuộc đấu tranh ấy do đội
tiên phong của giai cấp công nhân và dân tộc là Đảng cộng sản Việt Nam
tổ chức, lãnh đạo. Vì thế, mọi bình diện của đời sống xã hội, từ chính trị,
quân sự, đến kinh tế, văn hóa đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. [10;15]
Văn học là một hình thái ý thức xã hội nên bao giờ văn học cũng
phản ánh cuộc sống. Từ xưa, cụ Đồ Chiểu đã ý thức dùng văn học làm vũ
khí chiến đấu.
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
(Đạo)
Đến chủ tịch Hồ Chí Minh, Người cũng đã khẳng định:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
(Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”)
Nhà thơ cũng là người chiến sĩ và thơ văn của họ là thứ vũ khí sắc
bén đánh gián tiếp vào quân thù. Văn học là một bộ phận của văn nghệ. Thế
nên, trong “Thư gởi các họa sĩ nhân triển lãm hội họa toàn quốc năm 1951
- Trang 6 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

ở Việt Bắc”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định trước các văn nghệ sĩ:

Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt
trận ấy. [10;15]
Thời kì này, Đảng lãnh đạo văn nghệ được thể hiện trên nhiều
phương diện: cả về tư tưởng và tổ chức. Đảng đã Nêu ra đường lối văn
nghệ và mục tiêu, nhiệm vụ của văn nghệ, tạo điều kiện cho họ thâm nhập
thực tế để sáng tác, chỉ đạo hoạt động phê bình và những cuộc đấu tranh tư
tưởng trong văn nghệ.... Sự lãnh đạo ấy nhằm đảm bảo cho văn nghệ đi
đúng đường lối, thực sự trở thành vũ khí tinh thần phục vụ có hiệu quả nhất
cho các mục tiêu của cuộc đấu tranh. [10;15]
Văn học giai đoạn 1945 – 1975 gắn bó mật thiết với vận mệnh của
dân tộc, trở thành một phần không thể tách rời của sự nghiệp đấu tranh. Các
nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng văn học hướng vào phục vụ cho những
nhiệm vụ chính trị, theo sát những yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng.
Điều này đã chi phối, quy định từ đề tài, các chủ đề chính, cảm hứng bao
trùm cho đến nhân vật trung tâm của văn học ở từng chặng đường. Trong
những năm kháng chiến chống Pháp rồi chống Mĩ, văn học luôn theo sát
các diễn biến của cuộc kháng chiến ở tiền tuyến và hậu phương, cổ vũ lịng
u nước và tinh thần kháng chiến của đơng đảo quần chúng nhân dân, ca
ngợi chủ nghiã anh hùng cách mạng và những tấm gương tiêu biểu trong
cuộc chiến đấu ở cả hai miền Nam, Bắc. Do vậy, nhân vật trung tâm của
giai đoạn văn học này chính là hình tượng về người chiến sĩ và quần chúng
cách mạng.
Những tình cảm được thể hiện phong phú và đa dạng trong văn học
giai đoạn này là những tình cảm trong các quan hệ cộng đồng: tình yêu quê
hương đất nước, tình đồng bào, đồng chí, tình qn dân, tình cảm giai cấp,
tình cảm với Đảng và với lãnh tụ,…Đây cũng là những nguồn cảm hứng
lớn, chủ đạo chi phối hầu hết các sáng tác thơ ca giai đoạn này.
Những tình cảm trong các quan hệ cộng đồng nói trên được xem là
nguồn cảm hứng chính của văn học và thơ viết về đề tài tình u trong hồn
cảnh chiến chinh của đất nước cũng có thể xem là một nguồn riêng khá đặc

biệt hịa vào giữa các nguồn chung đó. Tất nhiên, cảm hứng trữ tình lãng
mạn trong thơ tình yêu thời kháng chiến không tách rời mà luôn gắn liền
với vận mệnh chung, tình cảm của cộng đồng dân tộc, quê hương đất nước.
Thế nên, tình yêu trong văn học giai đoạn này vừa mới lạ, độc đáo mà cũng
rất gần gũi, thân quen. Chúng ta sẽ đi sâu khám phá điều này ở những phần
sau.

2. Văn học hướng về đại chúng:
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Viết cho ai? - Viết cho đại đa số: công
nông binh. Viết để làm gì? - Để giáo dục, giải thích, cổ động, phê bình. Để
phục vụ quần chúng.[6;52]. Như vậy, nền văn học phục vụ chính trị, cổ vũ
chiến đấu cũng phải là nền văn học hướng về đại chúng, phục vụ đại chúng.
- Trang 7 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

Đại chúng vừa là đối tượng phản ánh, vừa là công chúng văn học và
là lực lượng sáng tác.
Nhân dân, công – nông – binh là lực lượng chủ yếu gánh vác cả cuộc
Cách mạng tháng Tám và sau đó gánh cả cuộc kháng chiến trên đơi vai lực
lưỡng của mình. Cho nên, để hiểu đúng vai trò của quần chúng, văn học
giai đoạn này đã trực tiếp xây dựng những hình tượng đám đơng sơi nổi,
đầy khí thế và sức mạnh (Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu;
Đêm liên hoan của Hồng Cầm; Ta đi tới, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên của
Tố Hữu,…) hoặc xây dựng những nhân vật anh hùng kết tinh những phẩm
chất cao đẹp của giai cấp, của dân tộc (Đất nước đứng lên của Nguyên
Ngọc, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành; Hòn đất của Anh Đức; Sống
như anh của Trần Đình Vân; Người con gái Việt Nam, Mẹ Tơm, Mẹ Suốt
của Tố Hữu,…) Bên cạnh đó, văn học cũng phê phán cách nhìn định kiến,

sai lệch về vai trò của quần chúng. Các nhà văn đã cho ra đời nhiều tác
phẩm có những cặp nhân vật đối lập quan điểm, cách nhìn về quần chúng
và đề cao quan điểm đúng đắn (Đôi mắt của Nam Cao) hay có những tác
phẩm xây dựng những nhân vật có sự chuyển biến tư tưởng, cách nhìn quần
chúng đi từ chỗ hiểu sai đến chỗ hiểu đúng (Hoa và thép của Bùi Hiển, Mẫn
và tôi của Phan Tứ,…) Văn học lấy quần chúng làm đối tượng phản ánh
chính và quần chúng cũng chính là độc giả đơng đảo của văn học. Cho nên,
những tác phẩm ra đời phục vụ quần chúng phải dễ hiểu, gần gũi với lời ăn
tiếng nói của nhân dân, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của nhân dân. Trong quá
trình tiếp thu, thưởng thức văn học, nhân dân cũng là người đồng sáng tạo
với nhà văn, nhà thơ. Do vậy, cơng chúng cũng chính là nguồn bổ sung lực
lượng sáng tác.
Thơ viết về tình yêu ra đời trong giai đoạn 1945 – 1975 cũng được
đông đảo quần chúng đón nhận. Nhiều bài thơ ra đời đã được chép tay,
truyền đi và có sức sống lâu bền trong lịng nhân dân như: Màu tím hoa sim
– Hữu Loan, Núi đôi – Vũ Cao, Quê hương – Giang Nam,…Dù viết về đời
tư nhưng vẫn có những sợi dây liên lạc, gắn chặt với cái ta chung, như nhà
nghiên cứu Lê Đình Kỵ đã nhận xét: Đặt tập thể cá nhân vào một thế hài
hòa sinh động, thể hiện cái chung thông qua cái riêng, không gạt bỏ cái
riêng, cái chung và cái riêng chuyển hóa vào nhau…[3;136] Như vậy, qua
cái riêng người đọc vẫn cảm thấy cái chung.

3. Nền văn học chủ yếu sáng tác theo khuynh hướng sử
thi và cảm hứng lãng mạn:
Giai đoạn 1945 – 1975, dân tộc ta phải đối đầu với hai kẻ thù hùng
mạnh nhất thế giới. Do đó, vận mệnh của Tổ quốc đứng trước những thử
thách gay gắt, cả dân tộc mọi người như một đều sát cánh bên nhau để thực
hiện lí tưởng độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Thế nên, văn học giai
đoạn này không thể là tiếng nói của cá nhân mà phải là tiếng nói của cộng
đồng, nhân danh cộng đồng, dân tộc.

- Trang 8 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

Những chủ đề bao trùm văn học thời kì này khơng ra ngồi hiện thực
lịch sử và vận mệnh, hoàn cảnh của con người đang đối mặt thử thách với
chiến tranh. Do vậy, nhân vật trung tâm ln là những con người mang tính
tiêu biểu cho quần chúng nhân dân, cho dân tộc và thời đại cách mạng. Họ
là những người anh hùng đại diện cho sức mạnh dân tộc, giai cấp và kết
tinh một cách chói lọi những phẩm chất cao quý của cộng đồng,…và nhà
văn cũng trở thành người phát ngôn cho tư tưởng, lập trường, tình cảm,
quan niệm của cộng đồng, nhân danh cộng đồng mà ca ngợi, lên án, kêu gọi
hay cổ vũ…Đó là một nền văn học mang khuynh hướng sử thi, nó tiếp cận
và phản ánh hiện thực theo quan điểm sử thi. Văn học thời kì này mang
đậm tính sử thi với những tố chất riêng độc đáo: Nó tuyệt đối hóa, lí tưởng
hóa câu chuyện cùng thời, kể câu chuyện cùng thời bằng thái độ chiêm
ngưỡng từ xa. [2;52]
Nền văn học ấy đã sáng tạo một thế giới nghệ thuật, bao gồm cả bức
tranh đời sống và những hình tượng con người - mang một vẻ đẹp riêng,
đậm màu sắc sử thi và chất lãng mạn.
GS. Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận định về văn học giai đoạn 1945 –
1975 là một giai đoạn văn học chủ yếu sáng tác theo khuynh hướng sử thi
và cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn chính là chủ nghĩa lạc quan, là
lòng tin chắc chắn ở tương lai đầy ánh sáng. Chính niềm tin ở tương lai là
nguồn sức mạnh tinh thần to lớn khiến cho dân tộc ta có thể vượt lên trên
mọi thử thách, tạo nên những chiến công phi thường. Cảm hứng lãng mạn
kết hợp với khuynh hướng sử thi tạo nên một chủ nghĩa lãng mạn anh hùng.
Để phản ánh hiện thực theo quan điểm sử thi, văn học đã tìm đến những thể
loại, phương thức nghệ thuật như: Trường ca, tiểu thuyết, truyện ngắn, kí,

kịch bản sân khấu,…và giọng điệu chủ đạo lúc này là giọng ngợi ca, trang
trọng, đôi lúc vút cao thành giọng hùng ca, thành lời truyền lệnh.
Thơ viết về đề tài tình u trong giai đoạn này có sự kết hợp giữa
khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Dù chiến tranh có khốc liệt
vốn là kẻ thù số một của tình yêu thì những người yêu nhau vẫn luôn lạc
quan, tin tưởng, họ luôn hướng về nhau bởi họ có niềm tin vào tình u, vào
sự tất thắng của cách mạng. Chính niềm tin đó đã tiếp thêm sức mạnh cho
những chàng trai và các cô gái vượt qua đạn lửa chiến tranh.
Có thể mượn lời của GS. Nguyễn Đăng Mạnh để tổng kết lại, nêu
nhận định chung về những đặc điểm của nền văn học giai đoạn này như
sau: Văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu, tất nhiên trước hết phải
nhằm tác động vào đại chúng công nông binh. Và để phản ánh và ngợi ca
cuộc chiến đấu vì độc lập tự do của cộng đồng dân tộc thì một cách tự
nhiên phải tìm đến khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.[6;63]
Ba đặc điểm trên đây có mối quan hệ mật thiết với nhau, nó giúp
nhận diện, phân biệt giai đoạn văn học này với giai đoạn văn học trước năm
1945 và sau 1975.
- Trang 9 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

II. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG
VĂN HỌC GIAI ĐOẠN 1945 – 1975:
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một thời đại mới trong
lịch sử dân tộc đồng thời lại mở ra một thời đại mới trong lịch sử văn học
dân tộc. Trong “Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau Cách mạng
tháng Tám”, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long thì những đổi mới của
văn học Việt Nam giai đoạn này có thể nhận thấy trên rất nhiều bình diện
và ở những cấp độ khác nhau. Nhưng ở trung tâm và chiều sâu của những

biến đổi ấy là sự thay đổi trong quan niệm về con người, là sự hình thành và
vận động của quan niệm nghệ thuật mới về con người và theo ông quan
niệm này mang tính thống nhất của cả nền văn học và trong suốt giai đoạn
1945 – 1975, nhưng cũng mang những nét đặc trưng của từng thời kì nhỏ
trong sự phát triển của giai đoạn văn học này, cụ thể qua ba chặng đường:
1945 – 1954 ; 1954 – 1964 ; 1964 – 1975.

1. Quan niệm về con người trong văn học Việt Nam 1945 –
1954:
Cách mạng tháng Tám thành công rồi sau tiếp theo đó là chín năm
kháng chiến chống Pháp đã đem lại cho các nhà văn sự phát hiện lớn lao về
sức mạnh quật khởi của dân tộc và con người Việt Nam - vẻ đẹp mới lạ của
đời sống cộng đồng.
Cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ hai đã đặt dân tộc ta vào tình
thế mn người như một sát cánh bên nhau cùng chống lại kẻ thù. Trong
hồn cảnh đó, nền văn học giai đoạn 1945 – 1954 đã phát hiện ra con người
quần chúng. Nhà thơ và cũng là nhà hoạt động văn hóa của nước Đức Iohan
Bécher đã nhận xét: Nghệ thuật không bắt đầu bằng những hình thức mới.
Nền nghệ thuật mới ra đời cùng với con người mới. Như vậy, việc phát hiện
ra con người mới – con người quần chúng – đã thúc đẩy nền văn học phát
triển.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, các nhà văn đã phát hiện ra con
người quần chúng. Và tất nhiên nhân vật trung tâm của nền văn học giai
đoạn này chính là quần chúng mà cụ thể là công nông binh. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Long đã chỉ ra rằng: quần chúng đã trở thành nguyên tắc xây
dựng nghệ thuật và chuẩn mực đánh giá tác phẩm. Một tác phẩm thành
cơng và có giá trị nghệ thuật phải biểu hiện được tư tưởng, tình cảm, khát
vọng của quần chúng, phải học cách nói, cách thể hiện của quần chúng.
Con người quần chúng là một phát hiện nghệ thuật quan trọng bậc
nhất của nền văn học thời kháng chiến chống Pháp.


- Trang 10 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

2. Quan niệm về con người trong văn học Việt Nam 1955 –
1964:
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, một nửa đất nước ta từ
Vĩnh Linh ra Bắc tạm thời được hịa bình. Nhân dân ta bắt tay vào khôi
phục đất nước sau chiến tranh. Giai đoạn này, văn học đứng trước những
yêu cầu đa dạng của xã hội: một mặt là nhu cầu tất yếu của con người trong
cuộc sống hịa bình, mặt khác phải tiếp tục cuộc đấu tranh cho những mục
tiêu cách mạng: thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quan
niệm về con người trong văn học thời kì này trở nên đa dạng. Nhìn chung,
văn học giai đoạn này vẫn tiếp tục quan niệm về con người của văn học
1945 – 1954 và phát triển nó trong những điều kiện lịch sử mới và những
địi hỏi mới của cuộc cách mạng.
Trước những yêu cầu và đòi hỏi của lịch sử trong giai đoạn mới,
quan niệm con người trong văn học thời kì này là khái niệm con người mới.
Cũng theo giáo sư Nguyễn Văn Long: Văn học những năm kháng
chiến chống Pháp chưa xây dựng được những tính cách riêng mà chỉ dừng
lại ở quan niệm con người tập thể. Cá nhân hòa tan vào trong tập thể.
Nhưng đến giai đoạn 1954 – 1964, văn học đã chú ý đến tính cách cá nhân
và ngày càng coi trọng giá trị của điển hình. Như Tố Hữu xây dựng hình
tượng chị Trần Thị Lý kiên gan trước quân thù, trở thành hình tượng người
con gái Việt Nam, người phụ nữ anh hùng, hình tượng mang sức mạnh tiêu
biểu của toàn dân tộc trong đấu tranh:
Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
Không giết được em, người con gái anh hùng

(Người con gái Việt Nam)
Nét đặc trưng cơ bản trong quan niệm con người của văn học thời kì
này là con người trong sự thống nhất riêng – chung, đặt lợi ích tập thể lên
trên lợi ích cá nhân và nó đã chi phối các chủ đề cũng như nghệ thuật xây
dựng hình tượng các nhân vật chính. Đồng thời quan hệ về sự thống nhất
này cũng có tính biện chứng, cái riêng khơng phải là “hịa tan” trong cái
chung như văn học giai đoạn 1945 – 1954.
Liên quan đến mảng thơ trữ tình, vấn đề “riêng, chung” cũng được
đặt ra như một chủ đề nổi bật. Chẳng hạn, tập thơ “Riêng – Chung” của
Xuân Diệu, “Ánh sáng và phù sa” của Chế Lan Viên đều thể hiện niềm vui
của con người đi từ “thung lũng đau thương ra cánh đồng vui” (Chế Lan
Viên) hay nói như Paul Eluard là đi từ “chân trời của một người đến chân
trời của tất cả”. Đó là sự hài hịa giữa cái riêng và cái chung. Thơ tình yêu
giai đoạn này cũng thể hiện được mối quan hệ giữa đời sống cá nhân và tập
thể.

- Trang 11 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

3. Quan niệm về con người trong văn học Việt Nam 1965 –
1975:
Cuộc kháng chiến chống Mĩ giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc
và thống nhất Tổ quốc là một trong những nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả đối
với toàn dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn này, nền văn học có sự đổi mới
trong quan niệm nghệ thuật về con người.
Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học chống Mĩ là sự
tiếp tục của quan niệm con người trong văn học hai mươi năm trước đó,
nhưng được phát triển tập trung vào một hướng lớn và đi tới đỉnh cao của

nó là quan niệm con người sử thi.
Theo ơng Nguyễn Văn Long, con người sử thi là con người có lí
tưởng cao cả cho độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội, ý thức sâu sắc về tầm
vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại, là đại biểu tập trung của ý chí, khát vọng và
sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, thời đai, nhân loại.
Con người trong văn học chống Mĩ là con người của ý chí lớn, của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Lí tưởng và nhận thức đã hiện thành ý chí
và hành động, mỗi con người được thể hiện như là đại diện trọn vẹn cho sức
mạnh và quyết tâm của cả dân tộc, của đất nước. Người bạn đời, người
đồng chí, đồng nghiệp của Dương Hương Ly đã ngã xuống (được thể hiện
qua bài thơ Bài thơ về hạnh phúc), những cô gái thanh niên xung phong
trong thơ Phạm Tiến Duật đã hi sinh oanh liệt hay cô em gái mở đường
trong bài thơ “Khoảng trời - Hố bom” của Lâm Thị Mỹ Dạ đã nằm xuống
để cứu con đường… Từ đó, chúng ta thấy được dù hoàn cảnh thử thách
khác nhau, nhưng trước cái chết họ đều giống nhau trong sự dứt khoát,
thanh thản, trong sáng và cao cả chấp nhận sự hi sinh. Đó là những con
người sử thi, con người đại diện đầy đủ cho tầm vóc, sức mạnh, ý chí và
khát vọng của cộng đồng, của dân tộc, đất nước.
Con người của thời đại chống Mĩ là sự kết tinh của quê hương, đất
nước và gắn bó sâu nặng với quê hương, đất nước. Theo nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Long: Chưa bao giờ như ở văn học thời kì này, cảm hứng về
quê hương đất nước thể hiện đậm đặc và phong phú đến thế. [11; 43]. Có
thể thấy thế giới tình cảm của con người thời chống Mĩ đã được khai thác
nhiều mặt, nhưng tất nhiên nổi lên và bao trùm hơn cả vẫn là những tình
cảm cộng đồng: tình yêu quê hương, đất nước. Tuy nhiên, vẫn khơng thiếu
những tình cảm riêng: tình u đơi lứa, tình cảm gia đình, chồng vợ mẹ
con… nếu như trong văn học thời chống Pháp, phần đời cá nhân của con
người hầu như bị bỏ qua thì văn học thời chống Mĩ lại chú trọng khai thác
thế giới nội tâm và đời sống con người trong nhiều mối quan hệ tình cảm để
làm nổi bật lên những vẻ đẹp tâm hồn, sự thống nhất giữa cái riêng và cái

chung, lí tưởng và tình cảm.
Tóm lại, văn học của mỗi giai đoạn sẽ gắn liền với một quan niệm
nghệ thuật về con người. Trong giai đoạn 1945 – 1954, văn học gắn liền với
- Trang 12 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

quan điểm con người quần chúng, tập thể gạt tình riêng để hồn thành
nhiệm vụ đối với quê hương, đất nước. Còn sang giai đoạn 1954 – 1964,
quan niệm văn học về con người có sự đổi mới. Lúc này, khái niệm con
người mới xuất hiện; đó là con người có sự thống nhất riêng chung. Và sang
giai đoạn 1964 – 1975 thì quan niệm về con người sử thi lại chiếm địa vị
độc tơn – đó là con người của cộng đồng, mang tầm vóc dân tộc và trong họ
ln có sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung.
Như vậy, quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ tình yêu
trong giai đoạn 1945 – 1975 khơng ra ngồi sự thống nhất mối quan hệ giữa
cái riêng và cái chung nêu trên. Và tình yêu là một thứ tình cảm riêng tư
nhất cũng được nhìn nhận theo chiều hướng hịa hợp với cái ta chung, hịa
quyện vào lí tưởng chung, theo hệ quy chiếu nhiệm vụ chung của cả cộng
đồng.

4. Quan niệm về tình yêu trong thơ kháng chiến 1945 – 1975:
4.1. Từ “cái tôi” lãng mạn trong Thơ mới đến “cái ta” lãng mạn
cách mạng trong thơ tình yêu thời kì kháng chiến:
Biểu hiện của cái tôi lãng mạn trong Thơ mới là yêu hết mình, sống
hết mình cho tình yêu thế nhưng lại quan niệm tình yêu mà đi đến hơn nhân
trọn vẹn thì khơng cịn mang màu sắc lãng mạn, thi vị nữa.
Chẳng hạn, Nguyễn Nhược Pháp đã chú thích thêm sau phần kết
thúc của bài thơ “Em đi chùa Hương” vốn rất nổi tiếng của mình như sau:

“Thiên kí sự đến đây là hết. Tơi tin rằng rồi hai người sẽ lấy nhau vì khơng
lấy được nhau thì cơ bé cịn viết nhiều, lấy nhau rồi là hết chuyện”. Nhiều
cây bút thuộc phong trào Thơ mới cũng đồng tình với quan niệm tình yêu
của Hồ Dzếnh:
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề
Tình chỉ đẹp khi cịn dang dở
( Hồ Dzếnh )
với Lưu Trọng Lư đã yêu là phải sầu, phải khổ nếu khơng thì sẽ khơng cịn
thơ mộng, lãng mạn nữa:
Thuyền yêu không ghé bến sầu
Như đêm thiếu phụ bên lầu khơng trăng
Nhà nghiên cứu, phê bình văn học GS. nghiên cứu Lê Đình Kỵ nêu
nhận định: “…Tình yêu trong thơ mới trước hết là tình mộng. Hiếm hoi lắm
mới thấy có tình u cụ thể, như cùng đi dạo với trăng, cùng đi dạo trên
đường làng …Nhưng chạm vào cụ thể thì tình yêu bị “sốc” ngay”. [ 3 ;43]
Như vậy, thực chất tình yêu trong Thơ mới là lãng mạn, thơ mộng,
bay bổng, choáng ngợp, say men nhưng tình yêu chưa bắt nguồn từ thực tế
cho nên nó dễ dàng gặp trắc trở, éo le, ngang trái và dẫn đến chia li.
- Trang 13 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

Thơ tình yêu thời kháng chiến cũng lãng mạn, mơ mộng, thăng hoa
tâm hồn nhưng cịn có thêm sự hài hịa, kết hợp với hồn cảnh cụ thể của
đời sống. Tình u đậm chất lãng mạn nhưng lại rất thực, khơng mộng ảo.
Chính điều này đã làm nên chất lãng mạn cách mạng trong thơ viết về tình
yêu thời chiến.
Khuynh hướng lãng mạn cách mạng khác với khuynh hướng lãng
mạn trong Thơ mới bởi nó có cơ sở từ hiện thực là cuộc cách mạng giải

phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam. Ngồi ra, đội ngũ
sáng tác cũng có sự đổi mới về tư tưởng. Họ đứng về nhân dân chứ không
thuộc giai cấp tư sản, tiểu tư sản như trong phong trào Thơ mới.
Tình yêu là đề tài mn thuở của thi ca. Tình u ln ln mới và
thu hút mọi người ở mọi thời đại. Tình yêu ở bất kỳ thời đại nào, vẫn xuất
phát từ trái tim, nói chuyện của trái tim, vẫn có đủ những sắc thái tình cảm
u thương, song lí tưởng của tình yêu ở mỗi thời đại lại khác nhau.
Các nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới bất mãn với thời cuộc; họ đã
tìm đến tình yêu. Họ trốn trong tình yêu và tự ru cái tơi của mình ở đó.
Nhưng càng đi sâu vào chính bản ngã của mình thì họ càng thấy cơ đơn,
nhỏ bé, ích kỷ. Do vậy mà, tình yêu của họ cũng bơ vơ, lạc lõng. Đến giai
đoạn 1945 – 1975, mặc dù thơ viết về tình yêu chỉ là một mảng đề tài nhỏ
bên cạnh những đề tài lớn viết về quê hương, đất nước nhưng đã góp phần
làm nên sự đa dạng cho nền thơ ca thời kháng chiến. Do thơ tình yêu trong
thời kì này ln có sự hài hịa đan xen các tình cảm riêng – chung; trong cái
chung người ta dễ dàng tìm thấy cái riêng và trong cái riêng vẫn có sự hiện
hữu của cái chung
Như vậy, thơ viết về tình yêu trong giai đoạn 1945 – 1975 cũng có
đầy đủ những cung bậc tình cảm, những trạng thái rung cảm u thương
nhưng nó khơng xa rời hiện thực, khơng xa rời cuộc đấu tranh giữ nước của
dân tộc. Tình yêu của nam nữ thanh niên trong giai đoạn này luôn gắn liền
với nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của đất nước. Đây là nét đặc sắc làm nên
đặc điểm, màu sắc riêng của thơ tình yêu giai đoạn văn học 1945 – 1975.
4.2. Quan niệm về tình yêu trong thơ kháng chiến (1945 – 1975):
Bàn về chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam, giáo sư Lê
Đình Kỵ đã nêu lên thành vấn đề về hai mối quan hệ riêng và chung. Theo
ý kiến của giáo sư, giai đoạn đầu, âm hưởng của văn học là hướng về nhân
dân, Tổ quốc; cái riêng tự quên, tự hòa vào cái chung. Nhưng càng về sau,
cái riêng càng được chú ý và đặt vào mối quan hệ hài hòa thống nhất: Tập
thể cách mạng không phải là tập thể của thị tộc hay của công xã nguyên

thủy mà là tập thể cao của những con người có ý thức đầy đủ về bước đi
của lịch sử, về nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Sự hài hịa giữa tập thể và
cá nhân không thủ tiêu cái “đơn vị con người” ở mỗi thành viên mà bao
gồm sự đa dạng phong phú của những đặc điểm cá nhân. [ 3; 136]
- Trang 14 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

Giáo sư còn giải thích thêm: xét trong quan hệ riêng chung, khơng
thể bỏ qua thơ tình. Là tình yêu nên khi tiễn đưa thì lưu luyến, khi xa cách
thì thương nhớ, đợi chờ, khơng ai phủ nhận, nhưng tình u bao giờ cũng
gắn liền với xã hội, với quan niệm sống, với lí tưởng. Nếu tình u trong
Thơ mới khó tìm được sợi dây liên lạc với đời nên cảm thấy bơ vơ, lạc lõng
thì tình yêu trong bộ phận thơ ca cách mạng đã tìm thấy mối quan hệ mật
thiết giữa tình cảm riêng tư với tình yêu lớn của dân tộc, đất nước.
Qua thơ Huy Cận, tình u đơi lứa được ví như “cặp nhân vàng”
trong “trái đêm”, như “đơi hạt giữa nghìn đơi” của hoa trái cuộc đời to rộng
bát ngát:
Ngồi kia sao cũng từng đơi sáng
Từng cặp nhân vàng trong trái đêm
Bát ngát lòng anh giữa trái đời
Hai ta đơi hạt giữa nghìn đơi.
(Anh viết bài thơ – Huy Cận)
Hay tình yêu nỗi nhớ và lý tưởng cách mạng trong thơ Nguyễn Đình
Thi đã đạt đến sự hài hịa cao đẹp:
Anh yêu em như yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm, mỗi miếng anh ăn

Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt
Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời
(Nhớ)
Tình u, nỗi nhớ và lí tưởng cách mạng cùng hiện diện, quyện chặt
trong hành trang ra trận của người chiến sĩ. Tình u đã trở thành ngơi sao
sáng dẫn đường, thành ngọn lửa sưởi ấm trái tim. Tình u và lí tưởng đấu
tranh thấm sâu vào cuộc sống hằng ngày, từng miếng ăn, giấc ngủ, cả
nhiệm vụ đảm đương. Vì thế, tình yêu cứ mãi lớn lên, ngày càng sâu thêm,
trải dài theo thời gian kháng chiến chống kẻ thù xâm lược. Tình yêu đã hun
đúc cho anh một sức mạnh tinh thần cao quý, anh càng mạnh mẽ, tin tưởng,
sống xứng đáng hơn.
Giáo sư Nguyễn Văn Long và nhiều nhà nghiên cứu, phê bình cịn
chỉ ra những hạn chế của nền văn học 1945 – 1975. Trong những hạn chế
đó có đề cập đến: Hiện thực mà văn học quan tâm trước hết phải là những
vấn đề có ý nghĩa lịch sử, quan hệ tới vận mệnh của dân tộc, nhân dân. Đời
sống thế sự và riêng tư ít được quan tâm thể hiện, nếu có thì cũng phải
được nhìn và đánh giá trên quan điểm của cộng đồng. [10 ;21]. Điều đó đã
làm nên tính phiến diện trong việc phản ánh đời sống của văn học.
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã nêu lên quan niệm của mình về tình
yêu trong văn học thời kì kháng chiến: “Người Việt Nam yêu để thêm được
mạnh mẽ, yêu để được sống thêm hăng hái, tranh đấu thêm được vững bền,
- Trang 15 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

chứ không phải yêu để đắm đuối trong tình yêu và lãng quên cuộc sống
[7;130]. Chúng tơi hồn tồn đồng ý với nhận định của nhà thơ bởi yêu và
được yêu là nhu cầu chính đáng của con người. Trong chiến tranh, tình u
vẫn nở rộ, bom đạn khơng thể hủy diệt được tình u. Những bài thơ tình

chân chính đã góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của người lính,
giúp người chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn nơi chiến trường, hồn thành
nhiệm vụ mà Đảng và tổ chức giao phó. Chúng tơi xin được mượn lời của
giáo sư Lê Đình Kỵ thay cho lời tiểu kết về quan niệm cũng như khẳng định
giá trị những bài thơ tình yêu ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh: Trên thực
tế, một số bài thơ tình lãng mạn bao giờ cũng được quần chúng hoan
nghênh. Điều đó càng chứng tỏ văn học, đặc biệt là thơ ca trữ tình, nếu biết
thơng qua những cái riêng mà làm bật lên những vấn đề chung thì càng dễ
làm rung lên sợi dây tình cảm,…. [ 3 ; 130 ]
Thơ tình yêu giai đoạn này đã làm được điều đó.

- Trang 16 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

CHƯƠNG II: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CÁI TƠI
TRỮ TÌNH LÃNG MẠN TRONG THƠ TÌNH YÊU
THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN (1945-1975)
Văn học Việt Nam 1945 – 1975 ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt:
dân tộc ta phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mĩ. Thơ viết về đề tài tình yêu cũng ra đời trong trường hợp đặc biệt
như vậy. Nhưng dù chiến tranh có tàn khốc, khắc nghiệt thì những câu
chuyện tình u mn thuở vẫn nồng nàn, tha thiết, tươi trẻ, đầy chất lãng
mạn…vẫn thu hút những cây bút chủ lực. Những tưởng chỉ có trong thời
bình, tình u mới có điều kiện đơm hoa kết trái, mới thể hiện đầy đủ
những cung bậc yêu thương. Nhưng chính trong hồn cảnh chiến tranh, con
người phải đối mặt với sự sống cịn thì tình u của họ vẫn thăng hoa.
Có nhiều câu chuyện về tình u đã làm rung động người cùng thời
và lưu truyền muôn đời sau.


I. TÌNH YÊU HỒN NHIÊN, TƯƠI TRẺ, ĐẰM THẮM GIỮA
ĐẠN LỬA CHIẾN TRANH:
Máy bay giặc không ngừng thả bom, súng giặc đất rền, con người
luôn sống trong ranh giới giữa tồn tại và hủy diệt. Nhưng con người vẫn lạc
quan, ung dung, và các nhà thơ vẫn tìm thấy cảm hứng ngay trên mảnh đất
bị chiến tranh tàn phá. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã phát hiện ra một khung
cảnh tươi vui, ấm áp, tràn đầy tinh thần lạc quan. Ở nơi đó, ta bắt gặp
những rung động của tình u tuổi trẻ, những tình cảm đầu đời:
Trong ánh chớp nhống nhồng cây cối ngả nghiêng
Tổ cơng binh đứng ngồi trong trạm gác
Cái cậu trẻ măng cất lên tiếng hát
Khi biết trong hầm có cơ bé đang nghe.
(Vầng trăng và những quầng lửa)
Phạm Tiến Duật thuộc lớp các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ rời đèn
sách đi vào chiến trường. Giữa cuộc chiến tranh khốc liệt nhà thơ vẫn giữ
cái nhìn tươi xanh. Đó là con mắt trẻ trung yêu đời, tin tưởng vào sự thắng
lợi của cách mạng. Chính những rung động tình yêu, nỗi nhớ niềm thương
đã chấp cánh, làm thi vị hóa thêm cho cảnh vật, đó là cái đẹp trong trẻo của
tâm hồn, tình cảm:
Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây
(Trường Sơn Đơng, Trường Sơn Tây)
Khơng phải là đóa hoa chói ngời sắc đỏ, đóa hoa của Phan Thị
Thanh Nhàn trong bài thơ “Hương thầm” lại rất khiêm nhường, lặng lẽ,
- Trang 17 -



Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

đằm thắm trong nhiệm vụ làm sứ giả cho tình yêu. Hành động “giấu” một
chùm hoa, rồi “ngập ngừng” sang nhà hàng xóm vừa thể hiện tính chủ động
vừa thể hiện sự phân vân trong lịng cơ gái. Nhưng “Bên ấy có người ngày
mai ra trận” đã thôi thúc giục giã bước chân, xua đi mọi sự lo lắng, tạo
niềm tin cho cô vững bước đến với tình yêu:
Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay
Cơ bé ngập ngừng sang nhà hàng xóm
Bên ấy có người ngày mai ra trận
……
Cơ gái như chùm hoa lặng lẽ
Nhờ hương thơm nói hộ tình u
(Hương thầm)
Tình cảm thầm yêu trộm nhớ của tuổi học trò đành phải ngăn lại
trước nhiệm vụ thiêng liêng của đất nước. Chẳng ai nói với ai điều gì song
cả hai đều hiểu:
Họ chia tay vẫn chẳng ai nói điều gì
Mà hương thầm thơm mãi bước người đi
Tình yêu thầm lặng mà sâu sắc, nồng nàn, cứ ln dai dẳng, canh
cánh bên lịng.
Nếu nhân vật trữ tình trong thơ Phan Thị Thanh Nhàn nhờ hương
hoa bưởi để nói hộ tình u sâu kín của mình, thì nhân vật trữ tình trong bài
thơ “Núi đơi” của Vũ Cao lại dùng hình tượng “núi đơi” để biểu trưng cho
tình yêu sâu đậm nơi miền sơn cước. Một sự gắn kết vừa mộc mạc, vừa tình
tứ sâu xa:
Lối ta đi giữa hai sườn núi
Đôi ngọn nên làng gọi núi đôi
Em vẫn đùa anh: sao khéo thế
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi

(Núi đôi)
Quê hương là nơi gắn bó với những kỉ niệm tuổi thơ đáng yêu, đáng
nhớ trong trẻo, hồn nhiên. Nơi có “hoa trắng ngần thơm một góc chanh”,
có đơi bạn “thanh mai trúc mã” lớn lên rồi yêu bằng một tình yêu trong
sáng:
…Rửa chân hai buổi cầu ao
Em vội cúi đầu khỏa sóng
Đơi bóng người rung, khóm bèo chao động
Ánh mắt thẹn thùng lặn xuống đáy sâu
(Hoa chanh – Nguyễn Bao)
Đó là cái thẹn rất ư tình tứ, những cử chỉ tế nhị của tình yêu đầu đời
hồn nhiên, tươi trẻ, đằm thắm. Ta bắt gặp những rung cảm chân thành, khe
khẽ của những người mới yêu nhau. Họ có thể chưa thổ lộ, chưa từng bày
- Trang 18 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

tỏ tình yêu, nhưng cả hai đều hiểu, đều trân trọng những tình cảm tốt đẹp
đó.
Chiến tranh vệ quốc diễn ra, những cuộc gặp gỡ bất ngờ làm tình u
trong lịng của cả hai có cơ hội bày tỏ, dù chỉ là những ánh mắt lặng nhìn
nhau:
Cơ bé nhà bên ( có ai ngờ! )
Cũng vào du kích
Hơm gặp tơi vẫn cười khúc khích
Mắt đen trịn ( thương thương q đi thơi!)
Giữa cuộc hành qn khơng nói được một lời
Đơn vị đi qua tơi ngối đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lịng tơi ấm mãi

(Quê hương – Giang Nam)
Ngoại cảnh khắc nghiệt “mưa đầy trời” nhưng tâm hồn người chiến sĩ vẫn
ấm nóng một tình yêu nồng nàn. Sức mạnh của tình yêu đã giúp người lính
vượt qua những chơng gai, trở ngại mà thời tiết chiến trường đem lại.
Chiến tranh bùng lên, mọi người theo đuổi nhiệm vụ riêng của mình.
Chàng trai ra trận, cơ gái trở về ln trong tình trạng chờ đợi, nhớ thương,
trơng ngóng. Do vậy, khi được tin người yêu về, cảnh vật, thiên nhiên
“vầng trăng”, “hoa cau”, “mây” dường như xoắn xuýt chia sẻ niềm vui với
cô:
Thư anh tin ngày về
Cho vầng trăng hẹn mọc
Trong ngần hoa cau thơm
Mây chớm màu tha thiết
(Những mùa trăng mong chờ - Lê Thị Mây)
Cho nên, hạnh phúc được gặp người yêu là niềm vui bất tận.
Anh khốc ba lơ về
Đất trời dồn chật lại
Em tái nhợt niềm vui
Như trăng mọc ban ngày
(Những mùa trăng mong chờ - Lê Thị Mây)
ngòi bút của Lê Thị Mây miêu tả diễn biến tâm lí của cô gái thật tinh tế.
Người yêu về, khiến cho tâm hồn cô xáo động mạnh “Em tái nhợt niềm vui
như trăng mọc ban ngày”. Hạnh phúc bất ngờ làm cho cô ngây ngất như
trăng mọc ban ngày (bởi trăng có bao giờ mọc ban ngày) và tưởng chừng
đất trời dồn chật lại như chung hưởng niềm vui bất tuyệt của cô.
Mọi sự vật trên thế giới này điều vận động và phát triển. Tình u
khơng chỉ dừng lại ở những rung động, cử chỉ mà nó phát triển lên một
bước cao hơn: trạng thái của tình yêu. Tình yêu ln gắn liền với nỗi nhớ.
Đặc biệt, trong hồn cảnh chiến tranh, con người ít có điều kiện ở bên nhau
cho nên nỗi nhớ càng mãnh liệt, dữ dội, thắm thiết, sâu sắc.

- Trang 19 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

II. TÌNH YÊU VÀ NỖI NHỚ VƯỢT KHÔNG GIAN, THỜI
GIAN:
Cuộc chiến tranh vệ quốc đã thu hút hàng vạn, hàng triệu người ra đi vì
nghĩa lớn, tất nhiên có cả những người u nhau. Những người yêu nhau đi
vào chiến trường chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc đồng thời họ
cũng mang theo nỗi nhớ niềm thương về người yêu. Trong thơ viết về đề tài
tình yêu, tình cảm của nhân vật trữ tình ln bộc lộ tối đa với nhiều cung
bậc, trạng thái.
Những năm diễn ra cuộc kháng chiến chống Pháp, nền văn nghệ nói
chung và nền văn học nói riêng đã tìm cho mình một quan niệm nghệ thuật
mới về con người. Đó là quan niệm con người quần chúng. Đây là một phát
hiện nghệ thuật quan trọng của nền văn học. Chính quan niệm nghệ thuật
này đã chi phối việc lựa chọn các đề tài, chủ đề đến việc xây dựng hình
tượng nhân vật trung tâm. Và giai đoạn này, cái riêng hầu như ít xuất hiện,
ít được quan tâm.
Trình bày “Về một đặc điểm của thơ Việt Nam từ 1955 đến 1975”,
nhà nghiên cứu Trần Đăng Xuyền cho rằng: Cái tơi đời tư hầu như vắng
bóng trong thơ giai đoạn 1945 – 1954. Điều đó, một mặt bị qui định bởi
tâm lí chung của cả cộng đồng. Khi mới đến với một lý tưởng mới, con
người thường có xu hướng tuyệt đối hóa, cực đoan, muốn “gạt phăng
những tình riêng nhỏ nhặt” [14;258]. Tuy nhiên trên thực tế, những bài thơ
viết về tình yêu và nỗi nhớ, những khao khát hạnh phúc yêu thương, kể cả
những niềm đau mất mát của tình yêu thời kháng chiến vẫn xuất hiện như
một nhu cầu tất yếu phản ánh cuộc sống.
Nhà thơ Thúy Bắc đã tự hỏi:

Có thể nào quen nỗi nhớ lúc xa nhau
Bao kỉ niệm trong ta đằm thắm mãi
Như gió hút giữa ngàn lau trắng ấy
Thổi qua rồi bơng lá vẫn cịn rung.
(Khơng quen)
Hai người đang u có lẽ khơng ai muốn có chuyện chia cách. Người xưa
đã diễn tả nỗi nhớ bằng cách so sánh “Nhất nhật bất kiến như tam thu hề”
(Một ngày không gặp tựa hồ ba năm), cịn dịch giả Đồn Thị Điểm lại diễn
tả nỗi nhớ chồng của người chinh phụ được tính bằng giờ, bằng khắc “Khắc
giờ đằng đẵng như niên; mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa” một khắc chờ
mong như một năm dài. Với nhà thơ Thúy Bắc, cô tự hỏi rồi tự trả lời “Có
thể nào quen nỗi nhớ lúc xa nhau – Không quen”, tựa bài thơ đã đáp lời cho
tác giả. Thế nhưng, không gian chia cách lại là một thực tế hiện hữu thường
trực giữa các đôi lứa yêu nhau trong thời kháng chiến. Những Kim – Kiều
của thế kỉ XX thường cảm nhận sâu sắc: “Hai đầu nỗi nhớ yêu và thương
sâu hơn; giữa hai đầu nỗi nhớ nghĩa tình đằm thắm hơn”. Cho nên, nỗi nhớ
- Trang 20 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

chính là trạng thái yêu thương thường xuất hiện trong thơ tình yêu giai đoạn
này.
Tố Hữu được mệnh danh là nhà thơ trữ tình chính trị. Tố Hữu đã
rạch rịi phân chia tình u dành cho Đảng, tình yêu dành cho thơ và tình
yêu cho đơi lứa. Dù tình u được xếp vị trí thứ ba nhưng người yêu vẫn
vui chấp nhận và còn xem đó là điều diễm phúc:
…Trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ:
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

Phần cho thơ và phần để em yêu…
(Bài ca xuân 1961)
Song cũng có lúc nhà thơ đã cho trái tim nói lên rung cảm u
thương, nhung nhớ cháy lịng từ dáng hình đi đứng đến chiếc khăn, tấm
áo,…
Mưa rơi đầm lá cọ
Mái tóc em ướt rồi
Đơi má em bừng đỏ
Muốn hơn q… mà thơi
……
Em đi, anh nhớ dáng hình
Cái khăn mỏ quạ, cái mình áo nâu
Chiều nay heo hút rừng sâu
Mưa nguồn suối lũ biết đâu mà tìm?
Ước gì anh hóa thành chim
Bay theo em, hót cho tim đỡ buồn.
(Mưa rơi)
Khao khát yêu thương, mong nhớ là vậy, nhưng chiến tranh đã ngăn cách
tình yêu, ngăn trở đời thường. Vì thế, thời chiến tranh, thơ viết về tình yêu
lại càng mãnh liệt, cuốn hút. Và thơ ca xây dựng hình tượng về tình yêu –
nỗi nhớ trong sự chia xa ln thể hiện tính nhân văn sâu sắc.
Điều đáng nói là ở đây nỗi nhớ người u khơng làm cho trái tim
tuổi trẻ đang căng tràn lòng nhiệt huyết hiến dâng, trở nên ủy mị, mềm yếu.
Chính tình u đã tiếp thêm sức mạnh cho họ càng hăng say chiến đấu bảo
vệ Tổ quốc, bảo vệ hạnh phúc cá nhân. Tình u và nỗi nhớ như những
cánh tay ln vẫy gọi người chiến sĩ xốc tới, hướng về phía trước. Bài thơ
“Nhớ”của Nguyễn Đình Thi thể hiện quan niệm tình yêu cao cả, chân
thành, chấp nhận chia xa mà không bi lụy:
Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần

Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm mỗi bữa anh ăn
- Trang 21 -


Sự thể hiện tình yêu trong một số bài thơ tiêu biểu giai đoạn 1945 – 1975

Lần đầu tiên trong thơ ca tình u lứa đơi được sánh ngang với tình
yêu đất nước. Tình yêu trải qua những bước thăng trầm nhưng vẫn đẹp lung
linh như hình ảnh đất nước trong mưa bom đạn lửa vẫn “tươi thắm vô
ngần”. Và nỗi nhớ mong đầy tràn dường như xuất hiện mọi lúc mọi nơi,
trong mọi sinh hoạt của người chiến sĩ.
Tình yêu đã truyền thêm sức mạnh, giúp những đôi lứa vượt qua mọi
khó khăn nơi chiến trường. Vì nhiệm vụ, vì lý tưởng họ đành phải xa cách.
Đây khơng phải là sự xa cách của hai tâm hồn chưa cảm thông mà chỉ là sự
xa cách trong không gian. Mà chính có sự xa cách đó mới có thời gian bình
tĩnh để hiểu tình yêu một cách sâu lắng, đúng đắn hơn (Nguyễn Xn Nam)
[4 ; 45]
Cách nghìn sơng núi vẫn bên nhau
Em ơi đường chiến đấu dài lâu
Trong gian khổ vẫn chan hịa ánh sáng
Đời anh có em như ngày có nắng
Yêu em anh yêu cả mọi người.
(Chia tay – Nguyễn Đình Thi)
Quả thật, sức mạnh của ngọn lửa tình u đã giúp cả thế hệ cha ơng
vượt qua không gian núi sông cách trở, thời gian kháng chiến dài lâu thắp
sáng, tin yêu để đi tới thắng lợi cuối cùng.
Là nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới, khi được lí tưởng cách mạng
soi rọi, Nguyễn Bính đã hịa mình vào cuộc kháng chiến của tồn dân. Nếu
như trước kia, tình u trong thơ Nguyễn Bính là tình u của một chàng

trai quê rụt rè, thầm thương trộm nhớ, thu mình trong khơng gian nhỏ bé
của làng q thì nay trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình u đó đã hòa
vào biển lớn, nhớ thương khát vọng hạnh phúc, nhớ mong mà khơng lụy,
khơng buồn:
Trời cịn có bữa sao qn mọc
Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em
(Đêm sao sáng)
Mơtíp nỗi nhớ trong xa cách luôn trở đi trở lại trong thơ tình yêu thời
kháng chiến. Thơ tình yêu của Chế Lan Viên trầm lắng giàu chất triết lí, suy
gẫm nhưng khơng vì thế mà kém nồng nhiệt. Ở đó, có đủ cả các cung bậc
thương yêu, nhớ mong da diết trong xa cách. Hình ảnh “chăn chia làm hai
nửa” trong cái rét đầu mùa đã trở thành hình tượng thơ độc đáo viết về tình
yêu và nỗi nhớ:
Cái rét đầu mùa anh rét xa em
Đêm dài lạnh chăn chia làm hai nửa
Một đắp cho em ở vùng sóng bể
Một đắp cho mình ở phía khơng em
(Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể)
- Trang 22 -


×