Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển ngành công nghiệp điện tử việt nam từ năm 1988 đến nay - thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.3 KB, 30 trang )

Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
A. lời mở đầu
Sau hơn 13 năm tiến hành công cuộc đổi mới, coi phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trọng tâm, bằng nhiều chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc, nền kinh tế
nớc ta đã đạt đợc nhiều thành tựu to lớn với những bớc đi khá vững vàng, bộ mặt
của đất nớc từng bớc thay đổi, đời sống của nhân dân ngày càng đợc nâng cao cả về
vật chất và tinh thần Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, đặc biệt là từ sau
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, nền kinh tế nớc ta có dấu hiệu tăng trởng chậm
lại, sức mua xã hội giảm sút, thị trờng trong nớc thu hẹp, tổng cầu nền kinh tế giảm
sút mạnh.v.v. và đáng nói hơn cả đó là những khó khăn và yếu kém trong ngành
công nghiệp - ngành có phần đóng góp vài tổng sản phẩm quốc dân chiếm tỉ trọng
lớn nhất.
Có thể nói, công nghiệp là một ngành có qui mô, cơ cấu hoạt động cũng nh cơ
cấu tổ chức khá lớn và hết sức đa dạng, phức tạp, bao gồm rất nhiều lĩnh vực, phạm
vi khác nhau. Do đó trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ xin đề cập đến ngành
công nghiệp điện tử - ngành công nghiệp vừa cũ lại vừa mới đối với Việt Nam. Cũ
là bởi vì trên thế giới, các nớc đã tiếp cận và khai thác ngành này với một mức độ
ngày càng cao, với sự ra đời của các sản phẩm ngày một phong phú, ngày một hiện
đại và đáp ứng nhu cầu ngày một tăng lên của con ngời. Việt Nam là một trong rất
nhiều quốc gia cũng đã nhận thức đợc vấn đề này hết sức sâu sắc, thấy đợc tầm
quan trọng của ngành công nghiệp điện tử đối với sự phát triển của đất nớc thậm chí
cũng đã sử dụng các sản phẩm của ngành công nghiệp điện tử song rất đáng tiếc
Việt Nam lại cha thể đạt đợc trình độ và tốc độ phát triển nh vậy.
Chúng ta cha có những sản phẩm điện tử thật sự là của chúng ta, có chăng đó
cũng chỉ là những sản phẩm điện tử dân dụng đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hàng ngày
và trên thực tế chỉ là một ngành công nghiệp tơng đối nhỏ với sự tăng trởng đáng kể
chỉ diễn ra trong một số ít lĩnh vực sản phẩm trong khi ngành công nghiệp điện tử
đợc coi là một ngành chủ đạo trong nền kinh tế và phát triển ngành này sẽ đồng
thời tạo điều kiện cho phát triển các ngành khác có liên quan. Đó là lí do tại sao tôi
nói ngành này còn mới đối với Việt Nam và đó cũng chính là lí do mà tôi chọn đề
tài '' Đầu t trực tiếp nớc ngoài với phát triển ngành công nghiệp điện tử Việt


Nam từ năm 1988 đến nay - Thực trạng và giải pháp'' để nghiên cứu. Nội dung
bài viết này gồm
Phần I : Lý luận chung
Phần II : Tình hình FDI vào lĩnh vực CNĐT từ năm 1988 đến nay.
Phần III : Một số giải pháp thu hút và sử dụng FDI cho phát triển CNĐT
Việt Nam hiện nay.
B. Nội dung.
Phần I : Lý luận chung
I - Lý luận chung về điện tử:
1. Khái niêm, đặc điểm và vai trò đầu t phát triển.
1.1 Khái niệm:
1
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
Thuật ngữ Đầu t ( Investment ) có thể đợc tiếp cận từ nhiều góc độ
khác nhau. Chẳng hạn, đứng trên góc độ tài chính, đầu t là chuỗi hoạt động chi
tiêu để chủ đầu t thu về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.
Đứng trên góc độ tiêu dùng, đầu t đợc hiểu là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện
tại để thu đợc mức tiêu dùng nhiều hơn trong tơng lai.v.v.Tuy nhiên, chúng ta có
thể hiểu Đầu t theo nghĩa chung nhất nh sau:
Đầu t là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại có thể là tiền,tài nguyên thiên
nhiên,sức lao động và trí tuệ để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu về các
kết quả nhất định trong tơng lai lớn hơn nguồn lực bỏ ra để đạt đợc các kết quả
đó.
Có thể coi tất cả các hoạt động trên đều là đầu t nếu chỉ đứng trên giác độ
từng cá nhân hoặc đơn vị đã bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động này song nếu
xét trên toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hoạt động trên đây đều đem
lại lợi ích cho nền kinh tế và đợc coi là đầu t của nền kinh tế. Vì vậy đầu t phát
triển hay đầu t trên giác độ nền kinh tế là quá trình sử dụng vốn đầu t để tái sản
xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất - kĩ thuật thông qua
các hoạt động xây dựng nhà cửa, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc

thiết bị trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản khác và thực hiện
các chi phí phục vụ cho sự phát huy tác dụng trong một chu kì hoạt động của các
cơ sở vật chất kĩ thuật này.
1.2 Những đặc điểm của đầu t phát triển.
Xuất phát từ khái niệm và bản chất của đầu t phát triển, chúng ta có thể
thấy hoạt động này có những đặc điểm rất khác biệt với các loại hình đầu t khác.
Thứ nhất, do đây là hoạt động chủ yếu tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế
nên bao giờ cũng đòi hỏi một số vốn rất lớn, lao động vật lực lớn và nằm khê
đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu t. Đúng nh vậy, trên phạm vi nền kinh tế,
vốn đầu t cho bất kì một công trình nào cũng đòi hỏi một khoản chi phí rất lớn
ngay từ giai đoạn xuất hiện ý đồ về một dự án đầu t cho đến khi dự án đi vào
hoạt động. Song song với chi phí về vốn lại là một khoản chi phí về lao động.
Phải nói rằng đầu t cho phát triển cần một lợng lao động lớn và có nhiều kinh
nghiệm cũng nh trình độ chuyên môn và tất nhiên đáp ứng đợc yêu cầu đó phải
có chi phí. Đặc biệt là tất cả khoản chi phí và vốn này không vận động và nằm
khê đọng trong suốt thời gian đầu t. Do đó hậu quả sẽ là không thể tránh khỏi
nếu đầu t không hiêụ quả, kế hoạch đầu t không rõ ràng. Đây là cái giá phải trả
khá lớn của đầu t phát triển.
Thứ hai, thời gian để tiến hành một công cuộc đầu t cho đến khi thành
quả của nó phát huy tác dụng thờng kéo dài trong nhiều năm tháng có thể là 5
năm, 10 năm thậm chí vĩnh viễn và trong khoảng thời gian này việc thực hiện
đầu t sẽ chịu ảnh hởng của rất nhiều biến động. Một công trình đợc đầu t cho
nền kinh tế thờng có qui mô rất lớn và nh đã nói ở trên là đòi hỏi một lợng vốn
rất lớn. Vậy thì việc thực hiện đầu t cần một khối lợng thời gian lớn để nghiên
cứu, tìm hiểu, khai thác, tìm ra những yếu điểm của dự án để có thể khắc phục,
tối thiểu hoá chi phi, tránh thất thoát, lãng phí về mọi mặt và hơn cả là bảo đảm
chất lợng. Do đó, bất cứ một công trình nào đợc xây dựng cho xã hội đều cần có
thời gian ngay từ những khâu đơn giản đầu tiên.
Thứ ba, chúng ta vẫn biết sản phẩm của công cuộc đầu t phát triển thờng
là sản phẩm công cộng, phục vụ lợi ích chung cho toàn xã hội và ngay cả từ mục

đích xuất phát để có đợc sản phẩm đó không phải là mục đích lợi nhuận. Vì thế,
đầu t phát triển có thời gian hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các
cơ sở nghiên cứu kĩ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thờng kéo dài nhiều năm
tháng và do đó không thể tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của
các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế.v.v. và cũng do
thời gian vận hành các kết quả đầu t thờng dài nên yếu tố phát sinh ảnh hởng đến
kết quả của đầu t là không lờng trớc đợc, và sau đó, chính ảnh hởng này lại kéo
2
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
dài thêm thời gian thu hồi vốn của sản phẩm đầu t thậm chí làm giảm khả năng
thu hồi so với ban đầu khi mà thời gian làm mất đi giá trị sử dụng của công trình.
Điều này một phần đã lí giải tại sao có những công trình công cộng vĩnh viễn
không có khả năng thu hồi vốn hoặc thanh lý.
Thứ t, sản phẩm đầu t phát triển thờng là những công trình hoặc hạng mục
công trình phục vụ lợi ích cho toàn xã hội, là kết quả của cả một thời gian dài
nghiên cứu tìm hiểu, lập kế hoạch, lập bản thống kê, thi công.v.v. với một lợng
vốn là rất lớn nên đó phải là sản phẩm có chất lợng tốt nhất, phục vụ đợc lâu
nhất. Điều này đã tạo cho đầu t phát triển có thêm một đặc điểm nữa đó là các
thành quả của hoạt động đầu t phát triển có gía trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có
khi hàng trăm, hàng ngàn năm, có khi tồn tại vĩnh viễn nh các công trình kiến
trúc nổi tiếng thế giới.
Thứ năm, các thành quả của hoạt động đầu t là các công trình xây dựng sẽ
hoạt động ở ngay nơi mà nó đợc tạo dựng nên. Do đó các điều kiện địa lý địa
hình tại đó có ảnh hởng lớn đến quá trình thực hiện đầu t cũng nh tác động sau
này của các kết quả của đầu t. Công trình, sản phẩm của đầu t phát triển bao giờ
cũng đặt ở vị trí mà nó có thể phát huy tác động của mình là phục vụ tối đa nhu
cầu của toàn xã hội và tất nhiên sẽ phải chịu ảnh hởng của tất cả các yếu tố bất
định cả về thời gian, khí hậu, địa hình, môi trờng tập quán của ngời dân, các điều
kiện kinh tế xã hội.v.v,nó không chỉ ảnh hởng trong thời gian thực hiện đầu t mà
ngay cả sau này khi các thành quả của đầu t phát triển phát huy tác dụng cũng

vẫn chịu ảnh hởng của các yếu tố nh vậy.
Thứ sáu, do thời gian thực hiện đầu t và vận hành các kết quả đầu t thờng
kéo dài nên đầu t phát triển bao giờ cũng chịu một mức rủi ro cao.Những rủi ro
này là không thể tránh khỏi,có thể do chủ quan và khách quan.Và cũng chính vì
điều này mà các thành quả, kết quả của hoạt động đầu t do đó thờng có độ trễ về
mặt thời gian tức là đầu t tại thời điểm này song phải sau một thời gian nhất định
mới phát huy tác dụng, mang lại những ảnh hởng vừa tích cực, vừa tiêu cực với
dự án.
Trên đây là những đặc điểm đặc trng của đầu t phát triển, vừa là yếu điểm
cũng lại vừa là u điểm đối với các đối tợng sử dụng. Do vậy, để đảm bảo cho
công cuộc đầu t đạt đợc hiệu quả kinh tế xã hội cao cần làm tốt công tác chuẩn
bị đầu t, sự chuẩn bị này đợc thể hiện trong quá trình soạn thảo dự án đầu t. Điều
này có nghĩa là công cuộc đầu t phải tiến hành đầu t theo dự án mới có hiệu quả.
1.3 Vai trò của đầu t phát triển.
Từ việc xem xét bản chất của đầu t phát triển, các lý thuyết kinh tế,
các lý thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trờng đều coi
đầu t phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự
tăng trởng.
* Nếu xét trên phạm vi của toàn bộ nền kinh tế của đất nớc, vai trò của
đầu t phát triển đợc thể hiện thông qua năm vấn đề chính:
Một là, đầu t vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Có
thể thấy, đầu t là một yếu tố chiếm tỉ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền
kinh tế. Đối với tổng cầu, tác động của đầu t là ngắn hạn. Với tổng cung cha kịp
thay đổi, sự tăng lên của đầu t làm tổng cầu tăng lên làm sản lợng cân bằng và
giá cả đầu vào của đầu t tăng lên. Trong khi đó về phiá cung, khi các thành quả
của đầu t phát huy tác dụng thì kéo theo đờng tổng cung dài hạn tăng lên làm
cho sản lợng tiềm năng tăng nhng giá cả sản phẩm giảm. Điều này cho phép tăng
tiêu dùng và do đó lại kích thích sản xuất, tăng tích luỹ,tăng thu nhập,nâng cao
mức sống cho mọi thành viên trong xã hội.
3

Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
Hai là, đầu t có tác động hai mặt đến sự ổn định về kinh tế. Nh đã nói ở
trên thì đầu t tác động đến tổng cung và tổng cầu không đồng thời về mặt thời
gian. Mỗi một sự thay đổi dù rất nhỏ của đầu t, tăng hay giảm, đều cùng một lúc
vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của một quốc
gia. Chẳng hạn, tăng đầu t sẽ làm tăng cầu về các yếu tố của đầu t, làm giá của
các hàng hoá có liên quan tăng đến một mức độ nào đó dẫn đến lạm phát. Lạm
phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống lao động khó khăn, thâm hụt ngân sách,
kinh tế phát triển chậm.v.v, nhng mặt khác, tăng đầu t lại làm tăng nhu cầu của
các yếu tố có liên quan, thúc đẩy sản xuất ngành này phát triển, tạo điều kiện
cho sự phát triển kinh tế.
Ba là, Đầu t có tác động đến tốc độ tăng trởng và phát triển kinh tế.
4
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy:
vốn đầu t vốn đầu t
ICOR = => Mức tăng GDP =
mức tăng GDP ICOR
Nếu mức ICOR là không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào mức
vốn đầu t, theo quan hệ tỉ lệ thuận. Do đó tăng đầu t sẽ làm tăng mức GDP và
giảm vốn đầu t cũng kéo theo sự thay đổi ngợc lại với mức tăng GDP.
ở các nớc phát triển, thừa vốn thiếu lao động nên ICOR thờng lớn ( 5- 7 ) vốn
đợc sử dụng nhiều để thay thế cho lao động do sử dụng công nghệ hiện đại có
giá cao. Còn ở các nớc chậm phát triển, do thừa lao động thiếu vốn nên có thể
và cần sử dụng lao động để thay thế cho vốn, sử dụng công nghệ kém hiện đại sẽ
làm cho ICOR thấp (2-3 ).
Bốn là, đầu t có tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Điều này là
hoàn toàn đúng bởi lẽ khi tăng hay giảm đầu t trong một ngành, một lĩnh vực nào
đó tất yếu kéo theo việc tăng hay giảm tốc độ tăng trởng tơng ứng ở các ngành
hoặc lĩnh vực đó. Có thể thấy xu thế ngày nay là tăng đầu t vào các ngành công

nghiệp và dịch vụ.Còn với ngành nông, lâm, ng nghiệp do hạn chế về nhiều mặt
nên muốn đạt đợc tốc độ tăng trởng nh mong muốn ( 9- 10%) là hết sức khó
khăn. Nh vậy, chính sách đầu t quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
các quốc gia nhằm đạt đợc tốc độ tăng trởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Còn
cơ cấu lãnh thổ, đầu t có tác động cân đối về phát triển giữa các vùng, phát huy
tối đa có thể các lợi thế so sánh của vùng để phát triển với kết quả cao nhất.
Năm là, đầu t có tác dụng tăng cờng khoa học và công nghệ của đất nớc.
Khoa học và công nghệ là trung tâm của CNH và đầu t là điều kiện kiên quyết
của sự phát triển và tăng cờng khả năng công nghệ của mỗi quốc gia. Chúng ta
vẫn biết rằng, có hai con đờng cơ bản để có đợc công nghệ sử dụng là tự nghiên
cứu phát minh tìm ra công nghệ thích hợp hoặc nhập công nghệ từ nớc ngoài.
Song dù bằng cách nào, bằng con đờng nào cũng cần phải có chi phí và chi phí
lại là hệ quả tất yếu của đầu t. Mọi phơng án đổi mới, cải tạo công nghệ không
gắn với nguồn đầu t là phơng án không khả thi.
* Nếu xét trên phạm vi các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ :
Đầu t quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Để tạo lập cơ
sở ban đầu nh đất đai, máy móc, thiết bị cấu trúc hạ tầng, tiến hành các công tác
xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong
một chu kỳ của các cơ sở vật chất kĩ thuật tạo ra.v.v. cần có đầu t,để duy trì sự
hoạt động của toàn bộ cơ sở hạ tầng sau một thời gian vận hành cũng cần có đầu
t, để cải tiến qui mô, kết cấu hoạt động của toàn bộ cơ sở cho phù hợp với xu thế
hiện đại cũng cần có đầu t. Ngay cả các cơ sở vô vị lợi để tồn tại và duy trì sự
hoạt động cũng cần có các chi phí thờng xuyên, đó cũng là đầu t.
5
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
2. Khái niệm, vai trò của FDI.
Vốn cho đầu t phát triển có thể thu hút và huy động từ những nguồn: trong n-
ớc hoặc ngoài nớc. Nh chúng ta cũng đã biết là các công trình xây dựng công
cộng thì thờng đòi hỏi vốn lớn song khả năng thu hồi vốn rất chậm, thậm chí
không có. Do đó rất nhiều thành phần kinh tế trong nớc không có khả năng hoặc

không muốn tham gia. Vốn cho đầu t phát triển chủ yếu là của Nhà nớc và vốn
nớc ngoài. Có thể nói nguồn vốn chiếm tỉ trọng lớn nhất cho đầu t phát triển
chính là vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài.
Vậy đầu t trực tiếp nớc ngoài là gì ?
2.1 Khái niệm về FDI
Đầu t trực tiếp nớc ngoài ( Foriegn Direct Investment FDI ) là hoạt động
kinh doanh quốc tế dựa trên cơ sở của quá trình dịch chuyển t bản giữa các quốc
gia, chủ yếu do các pháp nhân hoặc thể nhân thực hiện theo những hình thức
nhất định trong đó ngời chủ đầu t tham gia trực tiếp vào quá trình điều hành,
quản lý và sử dụng vốn đầu t.
2.2 Vai trò của đầu t trực tiếp nớc ngoài.
Đầu t nớc ngoài nói chung và đầu t trực tiếp nớc ngoài nói riêng là một hoạt
động kinh tế đối ngoại có vị trí vai trò hết sức to lớn, nó đã, đang và tất yếu sẽ
trở thành xu hớng của thời đại. Đặc biệt với các nớc đang phát triển, ở giai đoạn
đầu gặp khó khăn rất lớn về vốn thì FDI có thể xem là cú hích để phát triển
kinh tế, đẩy các nớc ra khỏi quĩ đạo của vòng luẩn quẩn, từng bớc hội nhập vào
nền kinh tế thế giới. Nguy cơ tụt hậu không cho phép các nớc đang phát triển đ-
ợc châm trễ hay có sự lựa chọn nào khác. Thực tiễn và kinh nghiệm nhiều nớc
cho thấy, quốc gia nào thực hiện chiến lợc kinh tế với bên ngoài sẽ tạo đợc tốc độ
tăng trởng kinh tế cao. Vai trò của FDI đợc thể hiện cụ thể nh sau:
* FDI với chuyển giao công nghệ (CGCN).
Một trong những vai trò quan trọng của FDI là CGCN. Chuyển giao công
nghệ mang một ý riêng không chỉ là nhập khẩu công nghệ đơn thuần mà còn cả
phần kĩ năng vận hành công nghệ đó, sửa chữa, bảo hành, nắm vững các nguyên
lý, mô phỏng và phát triển nó. Thông qua các hình thức của FDI, giữa các nớc đã
có sự chuyển giao công nghệ và bổ sung công nghệ cho nhau. Các hình thức
chuyển giao công nghệ thờng có lợi cho cả hai bên chuyển giao và tiếp nhận
công nghệ. Qua đó các kinh nghiệm sản xuất tiên tiến, các bằng sáng chế, các bí
quyết về kĩ thuật, nhãn hiệu hàng hoá mới, kiểu dáng công nghiệp đã đợc chuyển
giao giữa các bên.

* FDI tác động đến cán cân thơng mại
FDI có tác động tích cực đến cán cân thơng mại của các nớc. Một đặc điểm
của các nớc Châu á là thông qua FDI để có các công nghệ mới cho sản xuất
hàng hoá có giá trị cao hơn cho xuất khẩu. Điều này hoàn toàn khác với các nớc
phát triển, ở đó sản xuất hàng hoá có giá trị cao cho xuất khẩu thu đợc bằng sử
dụng các yếu tố đầu t nớc ngoài. Các nớc công nghiệp mới ở Châu á ngày càng
gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu chủ yếu do lắp ráp các máy móc hoặc các
thiết bị từ phụ tùng, linh kiện nhập khẩu. Với các nớc phát triển thì thông qua
FDI có thể tạo ra ngành công nghiệp mới. Ví dụ công ty Motorola chấp nhận
chuyển giao công nghệ chất bán dẫn cho Toshiba và Toshiba giúp đỡ công ty này
thâm nhập vào thị trờng Nhật Bản.
* FDI cho phép chuyển giao kinh nghiệm và kĩ năng quản lý.
Có thể nói, thông qua các xí nghiệp liên doanh, FDI đã tạo ra môi trờng và
điều kiện tốt để tiếp thu những kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp. Và khi làm
6
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
việc trong các công ty có vốn đầu t nớc ngoài, đội ngũ cán bộ quản lý đã đợc dào
tạo bồi dỡng các khoá học ngắn hạn do các công ty nớc ngoài tổ chức, do đó, có
thể tiếp cận với những phơng pháp và kĩ năng quản lý mới, tiếp thu và nâng cao
trình độ quản lý, đáp ứng nhu cầu mới của nớc ngoài và làm việc có hiệu quả
hơn.
* FDI với tăng trởng và phát triển kinh tế.
Đối với tất cả các quốc gia kể cả các quốc gia phát triển cũng nh đang phát
triển thì đầu t đợc coi là chìa khoá của sự tăng trởng và phát triển. Mà lợng vốn
cần cho đầu t luôn là một yêu cầu đặt ra cho mỗi quốc gia và trong đó FDI đóng
một vai trò hết sức quan trọng với sự tăng trởng và phát triển kinh tế.
Vốn đâu t
ICOR =
Mức tăng GDP
Nếu ICOR không đổi thì mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vốn đầu t từ đó

càng khẳng định vai trò của FDI với tăng trởng và phát triển.
Ngoài các vai trò đã trình bày ở trên, FDI còn đóng góp vào việc xây dựng
cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế nh thông tin liên lạc, đờng xá, bến cảng.v.v, HĐH
các cơ sở sản xuất trong nớc. Sản phẩm của các hình thức đầu t trực tiếp nớc
ngoài thờng có chất lợng cao trên thị trờng nội địa và có thể thay thế hàng nhập
khẩu đáp ứng nhu cầu trong nớc. Mặt khác, FDI còn kích thích thị trờng nội địa
phát triển tạo môi trờng cạnh tranh trong nớc của các nhà kinh doanh đồng thời
đóng góp một phần ngân sách rất lớn thông qua thuế, tác động tới hai mặt cung
và cầu của nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
trong đó bao gồm khung luật pháp và chính sách phát triển kinh tế xã hội của
một nớc.
II. Điện tử - ngành công nghiệp mũi nhọn trong
phát triển kinh tế.
7
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
1.Vài nét về công nghiệp điện tử.
CNĐT là ngành đã đợc chú ý và phát triển từ lâu song hiện nay chỉ có một
số nớc là đứng đầu trong lĩnh vực này. Ngành điện tử tin học là ngành kỹ thuật
công nghệ cao hàng đầu trên thế giới, đây cũng là ngành đã góp phần mang lại
sự thần kỳ về phát triển kinh tế cho các nớc Đông Bắc á và những con rồng
Châu á trong thập kỷ 80 - 90. Ngành CNĐT trên thế giới và ngành công nghệ
thông tin liên quan đã đạt đợc sự phát triển mạnh mẽ trong 20 năm qua. Với tốc
độ tăng khoảng 10% năm, năm 1998 thị trờng điện tử thế giới ớc tính đạt khoảng
1000 tỷ USD.
Tuy nhiên trong thập kỷ 90, ngành điện tử sản xuất các sản phẩm gia dụng
nh đã chuyển sang thời kỳ khác, chững lại, trong khi tin học lại đang phát triển
nh vũ bão và nằm trong tay các công ty đa quốc gia của Mỹ. Ngày nay, ở hầu hết
các nớc công nghiệp hoá, ngành CNĐT đang phát triển nhanh và nó có tác dụng
không nhỏ tới các ngành công nghiệp khác và toàn bộ nền kinh tế. Điều này
không chỉ đúng với các nớc công nghiệp hoá mà còn đúng với các nớc đang phát

triển nh Việt Nam.
Ngành CNĐT là một trong những ngành " chủ đạo " trong nền kinh tế.
Một trong các nguyên nhân để nó đợc xem là ngành " chủ đạo " là do việc ứng
dụng công nghệ điện tử và các công nghệ liên quan vào các ngành khác sẽ giúp
cho việc tạo ra các sáng chế, tăng năng suất và tạo ra nhiều thị trờng mới, nhiều
việc làm mới. Do đó mà Chính phủ nhiều nớc đã tập trung vào ngành CNĐT và
ngành thông tin viễn thông hơn là bất cứ ngành nào khác trong những năm 80 -
90.
2.Vai trò của FDI đối với ngành CNĐT.
Để tạo đợc tốc độ tăng trởng, phát triển nhanh đối với tổng thể nền kinh
tế của một quốc gia nói chung cũng nh để có thể phát triển đợc ngành CNĐT -
ngành giữ vai trò " chủ đạo " của mỗi nớc nói riêng, từng bớc đuổi kịp và hội
nhập với các trong khu vực và trên thế giới, bên cạnh các nguồn vốn khác thì
FDI là một nhân tố quan trọng với các nớc đang phát triển và cả nớc phát triển.
Có thể thấy trong lĩnh vực CNĐT thì FĐI đóng một vai trò nhất định đem
lại những tác động tích cực cho cả nớc đầu t và nớc nhận đầu t.
Một trong những vai trò hết sức quan trọng của FDI với CNĐT là vấn đề
về CGCN. Ngành CNĐT là ngành đòi hỏi công nghệ cao, kỹ thuật cao, lao động
cần chuyên môn, cần độ chính xác và chất lợng cao.v.v.Để phát triển lĩnh vực
này một cách hiệu quả thì cần phải có những công nghệ hiện đại, đáp ứng nhu
cầu ngày một cao của xã hội loài ngời. Có hai con đờng để có đợc công nghệ cao
đó là : Tự nghiên cứu sáng tạo ra những công nghệ phù hợp hoặc là nhập khẩu
những công nghệ của nớc ngoài đáp ứng đợc nhu cầu và điều kiện sản xuất trong
nớc. Song dù là bằng con đờng nào cũng cần có vốn và thông qua FDI là lớn
nhất.
Có thể nói rằng, FDI thông qua CGCN đem lại lợi ích cho cả hai bên. Với
nớc đầu t (chủ yếu là các nớc phát triển) thì FDI thờng giúp họ bổ sung, hoàn
thiện công nghệ, họ có điều kiện để xuất khẩu những công nghệ trung gian và
viễn thông hoặc chuyển giao những công nghệ đã lạc hậu trong nớc.Với nớc
nhận đầu t (chủ yếu là các nớc đang phát triển)trình độ công nghệ lạc hậu thì

FDI lại đợc coi là phơng tiện để nhập công nghệ có trình độ cao hơn từ bên
ngoài, những công nghệ đã qua thử nghiệm, tránh rủi ro và tiết kiệm đợc thời
gian,chi phí nghiên cứu thị trờng, nhu cầu sản phẩm.
8
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
Thứ hai, đó là vai trò của FDI trong lĩnh vực xuất và nhập khẩu của
ngành CNĐT đặc biệt đối với nớc nhận đầu t.
FDI cho phép các nớc nhận đầu t tạo ra đợc những sản phẩm điện tử đáp
ứng ngày càng nhiều hơn nhu cầu của ngời sử dụng với chất lợng cao hơn, đa
dạng hơn về mẫu mã, chủng loại và còn hớng ra thị trờng nớc ngoài, tạo cho sản
phẩm có chỗ đứng mới trên thị trờng quốc tế. Không những thế FDI còn tạo điều
kiện cho các nớc nhận đầu t có thể nhập phụ tùng, linh kiện, dây chuyền sản xuất
của nớc ngoài mà không gặp trở ngại nào. Với điều kiện sản xuất mới thì những
sản phẩm điện tử có thể thay thế đợc hàng hoá nhập khẩu và trên hết là tạo ra
những khâu sản xuất mới và những lĩnh vực mới trong ngành CNĐT.
Thứ ba,CNĐT cũng nh sản phẩm điện tử luôn đòi hỏi một lợng chất xám
cao. Vì vậy cũng cần nhắc đến ở đây vai trò của FDI với việc phát triển nguồn
nhân lực và tạo thêm nhiều việc làm mới cho nớc nhận đầu t.
Do yêu cầu khách quan của công việc mà ngời lao động luôn đợc đào tạo
một cách có hệ thống và đồng thời bản thân họ cũng phải nâng cao trình độ nghề
nghiệp và các lĩnh vực khác có liên quan của mình. FDI cũng tạo ra điều kiện và
môi trờng tốt để ngời lao động có thể tiếp thu đợc những kiến thức cần thiết nh
bồi dỡng cho họ những kỹ năng quản lý tiên tiến, kinh nghiệm xây dựng đánh
gía dự án.v.v.Về phần các nhà đầu t, thông qua FDI họ có thể tiết kiệm đợc chi
phí thuê cán bộ quản lý và nhân viên nớc ngoài sang các nớc sở tại mà vẫn đảm
bảo hiệu quả.
Ngoài ra FDI còn có một số vai trò khác nh tạo thêm nguồn vốn hoạt động
cho ngành điện tử, cho phép khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên phong phú, đa
dạng ở các nớc khác v.v. Ngày nay, khi sự phát triển của thế giơí không ngừng
tăng lên thì phát huy lợng vốn đầu t FDI đối với CNĐT đã và đang trở thành xu

thế của thời đại hiện nay.
Phần II
Tình Hình FDI Vào Lĩnh Vực Công Nghiệp Điện tử
từ Năm 1988 Đến Nay.
I - Tổng quan về công nghiệp điện tử ở Việt Nam.
Cho đến nay, ngành CNĐT của Việt Nam vẫn còn là một ngành công nghiệp
tơng đối nhỏ với sự tăng trởng đáng kể chỉ diễn ra trong một số lĩnh vực sản
phẩm. Chẳng hạn, trong năm 1996, giá trị sản xuất của các ngành thiết bị điện và
điện tử, radio, ti vi và thiết bị truyền thông vào khoảng 300 triệu USD, chiếm
3% tổng giá trị sản xuất công nghiệp Việt Nam. Nhng giá trị sản xuất hàng năm
của ngành điện tử Việt Nam từ đó đến nay vẫn đang tăng nhanh hơn các ngành
công nghiệp khác. Các công ty chủ chốt trong ngành điện tử Việt Nam vẫn là
loại nhỏ và vẫn cha có khả năng cạnh tranh với các công ty điện tử ở các nớc
láng giềng.
1.1 Quyền sở hữu.
Có thể nói ngành CNĐT Việt Nam có hàm lợng lao động cao và hoạt động
công nghệ thấp nh lắp ráp điện tử và chế tác liên quan, đóng gói bán dẫn. Đại đa
số trong 157 công ty đợc liệt kê chính thức chủ yếu tham gia vào loại hình chế
9
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
tác lắp ráp tơng đối đơn giản.Trong số các công ty điện tử, khoảng 1/2 là thuộc
sở hữu của chính phủ TW và chính quyền cấp tỉnh trên nhiều vùng khác nhau
của đất nớc. Ngoài ra còn có 17 công ty là liên doanh, 14 công ty là hoàn toàn
thuộc sở hữu nớc ngoài, 50 doanh nghiệp ( chiếm khoảng 1/3 số công ty đầu t )
là thuộc sở hữu t nhân của ngời Việt Nam. Các công ty t nhân này chủ yếu vận
hành các trang thiết bị lắp ráp qui mô nhỏ hoặc cung cấp các dịch vụ kĩ thuật
khác nhau. So với phần lớn các nớc khác, thì các công ty t nhân trong nớc thuộc
ngành CNĐT là rất ít.
1.2. Việc làm.
Trong ngành CNĐT có khoảng 16.000 ngời đang làm việc và trong số đó

có khoảng 70% đang làm việc trong các công ty nhà nớc, 18% làm việc trong
các công ty nớc ngoài và 12% làm việc trong khu vực t nhân trong nớc.
1.3 Về vốn đầu t.
Tổng vốn đầu t vào ngành CNĐT Việt Nam vào khoảng 700 triệu USD.
Các doanh nghiệp lớn thuộc sở hữu của Chính phủ TW và chính quyền tỉnh có
lợng vốn ít nhất với vốn đầu t đợc ớc lợng vào khoảng 30 triệu USD,chỉ chiếm 4-
5% tổng vốn đầu t trong CNĐT. Lợng vốn đầu t của các doanh nghiệp thuộc sở
hữu t nhân gấp 3-4 lần so với các doanh nghiệp nhà nớc. 92% vốn đầu t vào
ngành điện tử Việt Nam là do các công ty 100% vốn nớc ngoài hoặc các công ty
có một phần vốn nớc ngoài đầu t vào.
1.4. Về sản phẩm.
Tại Việt Nam, có thể nói, hàng điện tử tiêu dùng ( đồ gia dụng ) chiếm u
thế trong chủng loại sản phẩm của ngành điện tử với khoảng 40% tổng giá trị sản
xuất của ngành điện tử. Trong đó, sản lợng thiết bị thông tin liên lạc chiếm
khoảng 1/3 tổng sản lợng và máy tính ( bao gồm cả phần mềm và dịch vụ liên
quan ) chiếm khoảng 15% tổng sản lợng, hàng điện tử công nghiệp ( bao gồm cả
linh kiện và nguyên liệu liên quan ) chiếm khoảng 13% tổng sản lợng.
Đến năm 95, hàng điện tử gia dụng đã tăng với tốc độ nhanh, lên tới 30%
mỗi năm trong vài năm trở lại đây. Tuy nhiên, cũng từ năm 1995, sản lợng ti vi
và đồ điện gia dụng khác sản xuất tại Việt Nam có nhịp độ giảm hàng năm
bằng mức tăng hàng năm trớc đây. Năng lực sản xuất ti vi của Việt Nam ớc tính
hiện nay là trên 2 triệu cái/ năm, song thị trờng trong nớc chỉ tiêu thụ đợc 0,7
triệu cái / năm. Hiện nay có khoảng 6 triệu ti vi đang đợc sử dụng tại Việt Nam.
Xuất khẩu đang tăng lên nhng ở mức thấp và không đạt tới mức có thể giúp các
công ty hiện có tận dụng công suất. Ngoài ti vi, các công ty điện tử Việt Nam
cũng lắp ráp một khối lợng đồ gia dụng nh radio cassette, stereo và VCRs. Trong
lĩnh vực này, năng lực sản xuất trong nớc cũng vợt quá nhu cầu hiện tại.
1.5. Về lĩnh vực sản xuất hàng điện tử.
Cho đến nay, loại hình lắp ráp đang chiếm u thế:
- Ti vi màu các loại : 2000000 chiếc/năm

- Ti vi đen trẵng : 1600000 chiếc/năm
- Radio, cassette các loại : 700000 chiếc/năm
- Đèn hình : 1600000 chiếc/năm
- Linh kiện điện tử các loại : 804000000 sản phẩm/ năm
Phần lớn hoạt động chế tác đợc thực hiện trên cơ sở hợp đồng dới dạng mua
bản quyền của đối tác nớc ngoài, bao gồm thiết kế nguyên bản sản phẩm, cách
trang bị và tổ chức dây chuyền sản xuất. Hiện nay, Việt nam không có phát triển
thiết kế gốc và chế tác mang tính thơng mại, cũng vẫn cha hề có nhãn mang tính
thơng mại đáng kể cho các mặt hàng điện tử gia dụng lẫn điện tử công nghiệp.
Các công ty thuộc sở hữu Nhà nớc đang cố gắng chuyển sang chế tác thiết bị
gốc ( OEM ) và chế tác thiết kế gốc chứ không phải là chế tác hợp đồng nữa, nh-
ng cha có nỗ lực thực tế phát triển các thiết kế nh thế trong giai đoạn này.Trong
10
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
bốn năm qua, mô hình sản xuất này hầu nh không thay đổi. Khoảng 70% tổng số
radio,cassette và ti vi bán tại Việt Nam là sản xuất trong nớc, chủ yếu sử dụng
linh kiện và các đầu vào khác của nớc ngoài. Khoảng 80% hàng điện tử gia dụng
khác sản xuất trong nớc đợc lắp ráp trên cơ sở mua bản quyền ở cấp độ CKD
( Complete knock down), các mặt hàng điện tử trong nớc còn lại khác đợc lắp
ráp ở cấp độ SKD ( Semi knock down ) hoặc IKD ( Incomplete knock down ).
Đứng đầu trong lĩnh vực lắp ráp sản phẩm là lắp ráp bảng vi mạch ( chủ yếu
cho hàng điện tử gia dụng ) và loại hình này trở thành một hoạt động kinh doanh
đang phát triển tại Việt Nam bao gồm hàn lên khung các linh kiện điện nh điốt
bán dẫn ( Transistor diodes ), biến áp, trấn lu và có thể tạo ra những năng lực chế
tác mới. Thêm vào đó, chi phí lao động ở Việt Nam tơng đối thấp cũng tạo điều
kiện cho các công ty chế tạo của đất nớc có lợi thế hơn so với các nớc trong khu
vực.
Ngoài ra còn có một ngành công nghiệp hỗ trợ nhỏ nhng mạnh mẽ là đóng
gói và vận chuyển sản phẩm cuối cùng đã bắt đầu hình thành. Tuy nhiên, các
ngành công nghiệp hỗ trợ khác chỉ chủ yếu là chế tác những sản phẩm có giá trị

thấp và dịch vụ liên quan ( ăng ten đơn giản đợc sản xuất ở Việt Nam và ngành
công nghiệp chất dẻo đợc hình thành để sản xuất hộp cho ti vi và cho thiết bị
viễn thông di động ).
1.6. Về vấn đề thơng mại và thị trờng tiêu thụ sản phẩm điện tử.
Trớc năm 1993, các công ty điện tử Việt Nam đã xuất khẩu sang các nớc
thuộc Liên Xô và Đông Âu. Tuy nhiên, trong vài năm qua, các công ty điện tử
nhà nớc và các công ty điện tử t nhân thuộc sở hữu của ngời Việt Nam không có
mặt hàng xuất khẩu.
Các công ty liên doanh và các công ty 100% vốn nớc ngoài xuất khẩu một l-
ợng hạn chế hàng điện tử với 2 loại chủ yếu hiện nay: Thứ nhất là điện tử gia
dụng với mặt hàng chính là ti vi. Liên doanh Daewoo Hanel đã xuất khẩu đợc tất
cả trên 100.000 ti vi màu sang Đông á và Trung Đông. Tuy nhiên, một số trong
những mặt hàng xuất khẩu này nhằm phục vụ chiến lợc tiếp thị trong nớc: khách
hàng Việt Nam đợc thuyết phục rằng những sản phẩm do các công ty trong nớc
sản xuất đạt tiêu chuẩn quốc tế và có khả năng xuất khẩu. Chẳng hạn nh ti vi giá
thấp ''sản xuất tại Việt Nam'' đợc phân phối với số lợng hạn chế trên thị trờng
Nhật Bản.Loại thứ hai mang tính thơng mại lớn hơn,đợc mở rộng cả ở thị trờng
trong nớc và khu vực. Việt Nam không xuất khẩu các thiết bị bán dẫn, thiết bị
viễn thông, máy văn phòng, đồ dân dụng và các sản phẩm điện tử tiêu dùng
khác. Việt Nam không có khả năng chiếm lĩnh đợc dù chỉ một phần nhỏ trọng l-
ợng linh kiện điện tử đợc bán ra trong khu vực. Còn ở Philipin, các thiết bị bán
dẫn đợc sản xuất từ nhiên liệu nhập khẩu, là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu
hàng đầu trong năm 96 với tổng giá trị là 4 tỉ USD (chiếm 40% tổng giá trị xuất
khẩu của ngành điện tử và 20% tổng giá trị xuất khẩu cả nớc).
Còn thị trờng tiêu thụ trong nớc của Việt Nam vẫn còn thấp bởi ngời tiêu
dùng vẫn cha thể xoá bỏ hẳn t tởng thích đồ ngoại. Họ sẵn sàng trả giá cao hơn
để sử dụng đợc đồ nhập khẩu.
Các chuyên gia về điện tử - tin học có nhận xét nh sau:
+Điện tử - tiêu dùng chỉ là một dạng tơng tự nh gia công chế biến bao
gồm các công đoạn chính, nhập linh kiện lắp ráp, tiêu thụ. Thị trờng chủ yếu là

trong nớc nên đến nay khả năng cung ứng đã vợt quá cầu ( hơn 30% khả năng
tiêu thụ ) và phân ngành này không hấp dẫn điện tử nớc ngoài nh trớc.
+Với sản xuất linh phụ kiện hiện nay cũng đã có một số linh phụ kiện đợc
sản xuất ( chủ yếu ở dạng lắp ráp ) tại Việt Nam: đèn hình TV, tụ điện, điện
trở.v.v nhng lại bị cạnh tranh gay gắt vì giá hàng nhập giảm mạnh trong bối cảnh
khủng hoảng khu vực. Bên cạnh đó, chính sách bảo hộ lại mâu thuẫn với xu thế
11
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
hội nhập nên một số doanh nghiệp phải giảm số lợng để tồn tại tạm thời. Thực tế
này cũng khiến các nhà đầu t không muốn đầu t vào lĩnh vực này.
Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay cần phát triển thêm u đãi và không hạn
chế phân ngành với điện tử nớc ngoài trong ngành CNĐT.
II - Tình hình đầu t trực tiếp nớc ngoài vào ngành
CNĐT ở Việt Nam trong thời gian qua.
Ngành CNĐT của Việt Nam nói chung từ những năm đầu của thập kỉ 80
đến nay cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, ngành điện tử nớc ta đã có
những bớc phát triển hết sức nhanh chóng. Từ chỗ nớc ta cha có đợc một dự án
sản xuất sản phẩm điện tử đến nay chúng ta đã có đợc nhiều dự án điện tử với
dây chuyên công nghệ tơng đối hiện đại, sản phẩm điện tử bớc đầu đã đáp ứng đ-
ợc nhu cầu trong nớc và một phần đem xuất khẩu. Đạt đợc những thành qủa trên
là nhờ sự đóng góp rất lớn của FDI trong lĩnh vực CNĐT. Để đánh giá đợc vai trò
của FDI với CNĐT nói riêng và nền kinh tế nói chung, đặc biệt là đề ra đợc các
giải pháp trong thời gian tới, chúng ta sẽ xem xét cụ thể thực trạng các dự án FDI
trong ngành CNĐT thời gian qua.
1.Qui mô cơ cấu
Từ năm 1988 đến năm 1997, nớc ta đã có 22 dự án đầu t nớc ngoài vào
ngành CNĐT ( kể cả trong và ngoài khu Công nghiệp ) đợc cấp giấy phép
( chiếm 9% tổng số dự án đã đầu t vào nớc ta trong thời gian qua, với tổng số
vốn đầu t đăng kí là 334,5 triệu USD. Riêng trong lĩnh vực CNĐT, nhìn chung
các dự án triển khai đúng tiến độ cam kết, không có dự án nào bị rút giấy phép

đầu t và hầu hết phía nớc ngoài là các tập đoàn và các công ty lớn có tiếng trên
thế giới về điện- điện tử nh : Mitsubishi,Sony,Toshiba, JVC,Philip, Samsung,LG,
Singer ,có tiềm năng rất lớn về tài chính, công nghệ và buộc phải giữ chữ tín
trong kinh doanh. Cho đến nay,ta đã có 39 dự án đang hoạt động trong lĩnh vực
này (trong đó có 17 liên doanh và 22 doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài)với tổng
vốn đăng ký 740,5 triệu USD,vốn pháp định là 276,8 triệu USD.
12
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
Tình hình thực hiện vốn đầu t từ năm 1988 đến năm 1998
của ngành Công nghiệp Điện tử
Năm Số dự
án
Vốn đầu t Tốc độ tăng vốn
cố định (%)
Vốn bình quân
một dự án
Vốn thực
hiện
Tỉ lệ %
1990 1 8.000.000 100 8.000.000 8.000.000 1
1991 1 18.386.584 229,6 18.368.584 17.368.000 94,6
1993 2 180.084.000 2.251 90.042.000 167.660.114 93
1994 6 93.940.000 1.174 15.656.667 73.700.000 78,5
1995 7 265.893.183 3.323,7 37.984.740 56.600.000 21,3
1996 4 16.549.320 206,9 4.137.330 13.883.320 83,9
1997 1 10.000.000 125 10.000.000 3.700.000 37
1998 0 - - - - -
Tổng 22 615.000.000 370.000.000
Qua bảng trên ta thấy tốc độ thu hút vốn đầu t nớc ngoài vào ngành CNĐT
của nớc ta phát triển với tốc độ rất nhanh qua các năm: bình quân tăng 298,5%.

Đây có thể nói là tốc độ thu hút vốn cao nhất so với các ngành khác. Năm 1993
có dự án của công ty điển hình Orien Hanel với vốn đầu t 178.584.000 USD,
năm 1994 thì vốn đầu t có giảm 49% và các năm 1996-1997, vốn đầu t vào
các dự án này giảm một cách đáng kể so với các năm trớc năm 1996 giảm 94%
so với năm 1995, năm 1997 giảm 40% so vói năm 1996. Đây là do tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á. Trong các năm 1996, 1997,1998,
không chỉ giảm về tổng số vốn đầu t mà còn giảm vả về số dự án đợc cấp giấy
phép đâu t.Năm 1996, có 4 dự án đợc cấp giấy phép, năm 1997 còn 1 dự án, năm
1998 đầu 1999 không có dự án nào đợc cấp giấy phép. Trong quy mô vốn đầu t
này thì tỉ lệ vốn đầu t thực hiện trong giai đoạn 1990-1997 trung bình 54,87%.
Đây là một tỉ lệ cao đối với việc thực hiện một dự án ĐTNN ở nớc ta.
Quy mô vốn bình quân một dự án là 18.987.586 USD, nh vậy đây là
ngành có vốn đầu t rất lớn so với các ngành khác vì các dự án đầu t có hàm lợng
công nghệ cao. Nhìn chung, các dự án điện tử có quy mô trung bình và lớn trừ
một số sự án năm 1996 do bắt đầu chịu ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài
chính và dự án năm 1990 do mới bắt đầu chủ trơng mở cửa thu hút vốn đầu t nớc
ngoài, các chủ đầu t còn e dè. Nhng thời gian qua, các chủ đầu t ngày càng tin t-
ởng vào thị trờng Việt Nam, số lợng các dự án đầu t ngày càng tăng lên và quy
mô dự án cũng gia tăng. Và trong thời gian tới, quy mô vốn đầu t chắc chắn sẽ
còn tăng lên.
2. Về đối tác đầu t
* Đối tác trong n ớc
Thời gian qua, trong các doanh nghiệp liên doanh của ngành CNĐT, đối
tác trong nớc chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nớc (chiếm 94% số dự án và 96%
trong tổng số vốn đầu t của phía Việt Nam trong liên doanh). Các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh nh các công ty trách nhiệm hữu hạn, các tổ chức đoàn
thể, các công ty t nhân chỉ khoảng 6% số dự án và khoảng 4% tổng số vốn đầu
t của phía Việt Nam. Có thực tế này là do chủ trơng của Nhà nớc muốn tham gia
vào ngành điện tử - ngành mũi nhọn, then chốt trong chiến lợc phát triển kinh tế
của quốc gia. Tuy nhiên đây là điều cha hợp lý trong cơ cấu công nghiệp Việt

nam bởi vì Nhà nớc cha đa ra đợc một chính sách khuyến khích hợp lý với các tổ
chức kinh tế ngoài quốc doanh trong việc liên doanh với các đối tác nớc ngoài,
cha tập trung, khai thác đợc tiềm năng trong nớc.
* Đối tác n ớc ngoài.
Ngành CNĐT ở nớc ta, nguồn FDI đợc huy động chủ yếu từ các nứoc
Châu á nh Nhật, Nics, các nớc ASEAN ( chiếm tới 93,76 % trong tổng số vốn
đầu t của nớc ngoài vào Việt Nam ),trong khi đó, từ các nớc Châu Âu, Châu Mĩ
13
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ. Thực tế trên chứng tỏ môi trờng đầu t của ngành
CNĐT ở nớc ta cha đủ sức hấp dẫn với các nhà đầu t đặc biệt là Mĩ - quốc gia
tập trung khối lợng lớn công nghệ điện tử, có trình độ phát triển vợt bậc, trình độ
quản lý tốt.
Vốn đầu t phân theo quốc gia
Quốc gia Số dự
án
Vốn đầu t Tỉ lệ vốn
đầu t
Tỉ lệ số dự án
Hàn Quốc 7 283.808.320 47,12% 31,82%
Nhật 5 240.150.719 39,05% 22,73%
HồngKông 4 17.000.000 28,3% 18,18%
Đài loan 2 2.360.000 0,38% 9,09%
Singapore 2 126.346.400 0,26% 9,09%
Malaixia 1 18.368.584 2,99% 4,55%
Thuỵ Sỹ 1 1.500.000 0,18% 4,55%
Hàn Quốc với 7 dự án, có tổng vốn đầu t vào ngành CNĐT chiếm 42,12%
và chiếm 31,82% tổng số dự án là một yếu tố thuận lợi vì Hàn Quốc là một trong
bốn con rồng Châu á, lại là quốc gia có trình độ công nghệ tiên tiến trong lĩnh
vực CNĐT với những tập đoàn điện tử lớn và tiềm năng về tài chính cũng nh

khoa học công nghệ lớn. Nớc đứng thứ hai về vốn đầu t vào Việt Nam là Nhật
Bản (chiếm 39,05% tổng vốn đầu t, 22,73% tổng số dự án). Tuy nhiên, việc xếp
loại danh sách các nớc đầu t vào Việt Nam trong lĩnh vực CNĐT chỉ mang tính
tơng đối vì qua các năm, vị trí hàng đầu cũng có thay đổi.
Một trong những đối tác nớc ngoài quan trọng đối với ngành CNĐT Việt
Nam là các nớc thuộc khối Nics, đây là các nớc công nghiệp mới tuy xét về kinh
nghiệm quản lý và trình độ công nghệ hơn ta rất nhiều nhng so với các nớc công
nghiệp phát triển(idcs)còn kém xa.Hiện nay theo ớc tính trên thế giới có
khoảng 98% vốn đẩu t raa nớc ngoài là của các nớc idcs và chỉ có 2% là của
các nớc nics. Đây là một điều khó khăn với Việt Nam trong việc cạnh tranhvề
xuất khẩu với các công ty khác.
3. Hình thức đầu t nớc ngoài.
Các loại hình thức đầu t vào lĩnh vực CNĐT Việt Nam
Hình thức đầu t Số dự án Vốn đầu t Tỉ lệ vốn
đầu t
Tỉ lệ số dự
án
- Xí nghiệp liên doanh
- Xí nghiệp 100% vốn
nớc ngoài
17
22
322.783.961
417.726.890
43,58%
56,42%
43,584%
54,416%
FDI vào ngành CNĐT của nớc ta không chỉ thay đổi về số vốn đầu t qua
các năm mà nó còn tác động đến cả các hình thức đầu t. Trong tổng số 39 dự án

trong thời gian qua có 22 dự án là của các xí nghiệp 100% vốn nớc ngoài, 17 là
các xí nghiệp liên doanh. Có thực tế này do Việt nam là nớc đang phát triển, cơ
sở hạ tầng còn thấp kém, các khu công nghiệp, khu chế xuất cha phát triển. Mặt
khác trong quan hệ với các cơ quan chức năng, bên nớc ngoài cha có những
thông tin rõ ràng. Do đó, trong thời gian đầu họ rất a chuộng hình thức liên
doanh(từ năm 88 đến năm 97 chiếm tới 61% tổng số dự án FDI vào ngành
CNĐT ). Tuy nhiên về lâu dài, sau một thời gian hoạt động tại Việt nam, họ sẽ
chuyển sang hình thức 100% vốn đầu t nớc ngoài(chiếm 56,42% tổng số dự àn
của ngành).
Qua hình thức liên doanh,Việt nam có thể học hỏi đợc kinh nghiệm quản
lý, nâng cao trình độ lao động, nắm bắt đợc các công nghệ cần thiết mà tự mình
14
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
không thể có đợc, đồng thời có thể phân chia lợi nhuận theo tỉ lệ vốn góp, chiễm
lĩnh đợc thị trờng thông qua đối tác nớc ngoài. Thời gian tới, xu hớng các dự án
theo hình thức 100% vốn nớc ngoài sẽ gia tăng, điều này là tất yếu bởi vì các chủ
đầu t nớc ngoài muốn điều hành xí nghiệp một cách độc lập, có quyền tự quyết
trong các hoạt động của công ty và một phần là doViệt Nam không có đủ năng
lực tài chính để tham gia vốn góp. Tuy nhiên, chính phủ cần phải có chủ trơng đa
dạng hoá các hình thức đầu t để nhằm thu hút và huy động nhiều vốn đầu t hơn
từ phía nớc ngoài.
4. Tình hình hoạt động của một số công ty điện tử hàng đầu ở Việt nam.
4.1 Công ty Fujitsu.
Nhà máy sản xuất của Fujutsu nằm tại miền nam Việt nam là một
doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài sản xuất bảng vi mạch (PCB ) và bảng mạch
in nhiều lớp. Máy móc lắp ráp bảng mạch sử dụng Công nghệ lắp ráp trên bề
mặt
(SMT) hoàn toàn tự động. Tổng vốn đầu t cho nhà máy là 200 triệu USD. Nhà
máy đợc tổ chức theo phơng pháp và nguyên tắc quản lý của Nhật bản. Đội ngũ
nhân viên sản xuất và giám sát sau khi đợc tuyển dụng thì đợc đi đào tạo ở trong

nớc hoặc ở các nớc Đông á. Sản phẩm của nhà máy đều đợc sử dụng cho mục
đích hoạt động của bản thân Fujitsu trên toàn thế giới. Nó là hoạt động kinh
doanh có tính chất ''nội bộ'' chứ không mang tính ''buôn bán''. Vì thế, tác động
của nhà máy này đối với nguồn cung cấp cho ngành điện tử Việt nàm là rất hạn
chế, thậm chí bằng không. Sản phâm của nhà máy đợc chuyển tới các nhà máy
khác trong khu vực và đầu vào cho nhà máy tại Việt nam đợc đa từ nớc ngoài
vào.
Có thể nói rằng, bằng cách trở thành một ''nhà chế tác hợp đồng'' tại địa
phơng cho các doanh nghiệp điện tử Việt nam, nhà máy của Fujitsu có thể thực
hiện đợc một mục tiêu quan trọng để phát triển ngành điện tử trong tơng lai và
các doanh nghiệp Việt nam có thể thu đợc lợi nhuận nhờ các dịch vụ sản xuất đ-
ợc chuyên môn hoá cao của Fujitsu.Nếu có thể dễ dàng tiếp cận đợc với các đầu
vào có công nghệ tiên tiến, các doanh nghiệp Việt nam sẽ có khả năng cạnh
tranh cao hơn trên thị trờng khu vực và quốc tế.
4.2 Viettronics Biên Hoà
Một trong số những doanh nghiệp điện tử trong nớc vừa có thể là ngời
mua các dịch vụ sản xuất theo hợp đồng của các công ty nớc ngoài, vừa là nhà
cung cấp các dịch vụ sản xuất nhất định chính là Viettronics Biên hoà. Đây là
một doanh nghiệp nhà nớc lắp ráp hàng điện tử dân dụng khá hiện đại phục vụ
thị trờng nội địa và có một phần cho thị trờng quốc tế. Vietronics Biên Hoà còn
là một nhà sản xuất linh kiện điện tử. Hiện tại công ty này hoạt động kiểu một
nhà máy sản xuất theo hình thức '' gửi hàng'',có nghĩa là việc phát triển sản phẩm
và thiết kế kỹ thuật là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện: phần lớn máy
móc thiết bị và hầu nh toàn bộ linh kiện đều do các công ty này cung cấp. Khi
hợp đồng kết thúc và không còn hợp đồng nào khác đang đợc triển khai thì Biên
Hoà phải trả lại toàn bộ máy móc thiết bị.
Nếu nhu cầu về sản lợng mạch và lắp ráp sản phẩm cuối cùng trong ngành
CNĐT tăng lên thì một công ty nh Viettonics Biên Hoà có thể trở thành một nhà
chế tác hợp đồng của Việt Nam, có lĩnh vực hoạt động riêng cạnh tranh đợc với
các nhà sản xuất có công nghệ hiện đại hơn thậm chí có thể trở thành một công

ty có nhãn hiệu riêng .Hiện tại Biên Hoà cha có máy móc hiện đại của
chính mình.
Giai đoạn này, Chính Phủ cần tạo điều kiện để phát triển một số ít nhà sản
xuất nhằm phục vụ trớc tiên cho nhu cầu trong nớc về bảng mạch.Với Biên Hoà,
liên kết với một công ty nớc ngoài có thể đem lại máy móc, công nghệ và bí
quyết kỹ thuật liên quan, vốn để mua linh liện và một số nguồn khác nữa.
5. Kết quả đầu t của khu vực FDI trong CNĐT Việt Nam
15
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
Kết quả đầu t FDI vào ngành CNĐT của Việt Nam từ năm 1988 đến nay.
Chỉ tiêu
Giá trị toàn ngành
CN (Tr USD)
Giá trị ngành ĐT-
TH (Tr USD)
Tỉ lệ % so với
ngành ĐT_TH
Tỉ lệ % so với
toàn ngành CN
Doanh thu 8.101,35 1,353,891 99,7 16,65
Xuất khẩu 3.457,57 934,972 99,9 26,97
Nộp NS 282,075 28,015 99,9 9,89
Lao động 190,869 8,057 95,4 4,01
(Theo số liệu tổng hợp công nghiệp từ năm 1988 đến nay- Bộ KH&ĐT )
Ta có thể thấy lĩnh vực CNĐT đã đem lại những kết quả cao hơn hẳn so
với các ngành khác,không chỉ tạo ra một nguồn doanh thu luỹ kế lớn,tăng kim
ngạch xuất nhập khẩu mà còn tạo thêm công ăn việc làm cho ngời lao động
Ngoài kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh thì ngành CNĐT của khu
vực FDI cũng đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao trình độ khoa học công
nghệ nh: áp dụng công nghệ lắp ráp bề mặt.v.v. Tuy nhiên chỉ mới dừng lại ở

mức độ ứng dụng mà cha thực sự làm chủ để có thể cải tiến, phát triển. Đồng
thời, hoạt động của ngành này cũng đã góp phần nâng cao trình độ cán bộ quản
lý, cán bộ kĩ thuật và đào tạo đợc một lực lợng công nhân kĩ thuật cho ngành
công nghiệp công nghệ cao của nớc ta.
6. Một số lợi thế và khó khăn đối với hoạt động đầu t của khu vực FDI
trong công nghiệp điện tử ở Việt Nam.
Ta dễ dàng có thể thấy CNĐT ở Việt Nam cũng đã ra đời từ lâu song chúng
ta vẫn cha thể bắt kịp trình độ phát triển vợt bậc trên thế giới. Ngành CNĐT của
Việt Nam cho đến nay vẫn còn non trẻ với một số lợi thế và rất nhiều khó khăn
trớc mắt.
6.1 Một số lợi thế và khó khăn của ngành CNĐT đối với việc tiếp nhận và
thu hút FDI trong thời gian qua
* Lợi thế của CNĐT.
Lợi thế đầu tiên đó là Việt Nam là một nớc đông dân, lực lợng lao động của
chúng ta vừa dồi dào lại rẻ, do đó chi phí về nhân công chính là một lợi thế so
sánh mà Việt Nam nói chung cũng nh CNĐT nói riêng có đợc. Vì vậy, công
nhân đợc đào tạo tốt sẽ vận hành một cách có hiệu quả với năng suất và chất l-
ợng cao. Bên cạnh đó, lao động của Việt Nam lại thông minh và nhanh nhạy
(theo nh một số nhận xét của các chuyên gia kinh tế hoạt động tại Việt Nam), l-
ợng lao động này tiếp thu rất nhanh những kiến thức mới đợc truyền đạt, công
tác quản lý cũng nh vận hành công nghệ tiên tiến nên việc đào tạo bổ xung cho
công nhân Việt Nam thờng ngắn hơn so với các nớc láng giềng. Đây cũng là một
trong những lợi thế khá lớn và cần thiết đối với ngành CNĐT ở Việt Nam, nó cho
phép giảm chi phí nhân công và tiết kiệm thời gian cho mỗi chu kì sản phẩm.
Một lợi thế riêng có thứ ba đó là hầu hết những nhà máy sản xuất sản phẩm
điện tử có đội ngũ quản lý tơng đối lành nghề. Có thể nói đây là một u điểm mà
các nhà đầu t nớc ngoài đánh giá cao vì với đội ngũ này họ vừa tốn ít chi phí
đào tạo lại vừa an tâm với công tác quản lý mà không cần trực tiếp tham gia.
Mặt khác, hiện nay Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển mạnh và đồng
đều trên mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề và mọi thành phần kinh tế với xu hớng

khu vực hoá, toàn cầu hoá. Điều này không chỉ kích thích ngành CNĐT mà còn
tạo thuận lợi cho ngành này phát triển.
16
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
Trên đây là một số lợi thế trớc mắt mà ngành CNĐT có đợc song cũng phải
nói thêm rằng ngành CNĐT của nớc ta cũng đã và đang vấp phải rất nhiều khó
khăn nôỉ bật.
*Những khó khăn:
Mức độ đầu t vào năng lực chế tác thấp, ít có lợi thế cạnh tranh về
trang thiết bị và điều khiển. Chỉ có một số ít các phòng có môi trờng
sạch
( phòng sạch ).
Năng lực thiết kế và hậu cần ở các công ty trong nớc còn hạn hẹp. Đầu
t vào nghiên cứu, triển khai, phát triển sản phẩm và thiết kế kĩ thuật ở
cấp công ty hầu nh rất thấp hoặc không có.
Đặc biệt, sản xuất linh kiện kém phát triển, chủ yếu phải nhập của nớc
ngoài.
ít công nhân có đa kĩ năng và nói đợc tiếng Anh, không có kỹ năng
theo dõi để giám sát và đánh giá xu hớng mới nhất trong phát triển chế
tác và kỹ thuật.
Các công ty trong nớc không có khả năng tiếp cận rõ ràng với các chi
tiết kĩ thuật cập nhật về tiêu chuẩn điện tử thế giới, không có công ty
trong nớc nào đạt đợc sự phê duyệt về ISO 9000. Có ít ( nếu có ) phần
thởng do khách hàng hoặc đối tác quốc tế thởng cho các chế tác xuất
sắc và có chất lợng.
Mặc dù không nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề năng suất
trong CNĐT nhng từ các cuộc phỏng vấn cho thấy rằng phần lớn công
ty điện tử nội địa năng suất đang bị giảm chủ yếu do chi phí vốn linh
kiện và các đầu vào khác tăng lên và cùng với đó là tỉ lệ huy động công
suất trung bình thấp.

Qui mô cũng nh số lợng các dự án điện tử nớc ngoài trong lĩnh vực
điện tử giảm một cách đáng kể trong 2 năm: 1996 có 4 dự án với qui
mô trung bình là 4,137 triệu USD / dự án,đến năm 1997 có 1 dự án với
vốn đầu t là 10 triệu USD. Đến năm 1998 đầu 1999 không có dự án
nào trong lĩnh vực điện tử đợc cấp giấy phép.
Thời gian qua chúng ta đã nhập khẩu nhiều công nghệ lạc hậu, thiếu
đồng bộ với giá quá cao gây ô nhiễm môi trờng sinh thái và việc làm
này không những không đạt đợc mục tiêu phát triển của ngành điện tử
cũng nh mục tiêu phát triển đất nớc mà còn làm gia tăng khoảng cách
giữa ngành CNĐT ở nớc ta với các nớc khác trên thế giới.
Tài nguyên thiên nhiên thì ngày càng bị cạn kiệt do sự khai thác tối
đa của bên nớc ngoài, còn lao động bị trả chi phí thấp để đợc tham gia
vào các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài.
Hệ thống CSHT của chúng ta yếu kém: điện nớc thiếu và không ổn
định, đờng xá xuống cấp, hệ thống cảng biển sân bay cha đạt tính chất
quốc tế.Gần đây, nhờ sự phát triển của ngành CNĐT và công nghệ
thông tin nên hệ thống thông tin liên lạc và viễn thông đã có nhiều cải
thiện.
Đặc thù của các nhà máy lắp ráp và sản xuất sản phẩm điện tử là dây
chuyền công nghệ hiện đại, chỉ sau 4-6 năm đã trở nên lạc hậu. Trong
khi đó dây chuyền thiết bị giá cao, không dễ thay đổi và lại hết khấu
hao trong thời gian ngắn.
Gần đây Bộ tài chính ban hành biểu thuế nhập khẩu linh kiện điện tử b-
ớc đầu đã tạo nhiều thuận lợi với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn
17
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
có nhiều điểm cha thoả đáng đối với các nhà sản xuất và lắp ráp trong
nớc.
6.2. Nguyên nhân:
Trớc hết là cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong nớc và khu vực đã

tác động rất lớn tới dòng FDI vào lĩnh vực CNĐT của nớc ta. Hiện tợng này
không chỉ làm giảm nhịp độ đầu t của nớc ngoài vào lĩnh vực CNĐT (đa số các
nớc đầu t ở Châu á) mà còn giảm tiến độ thực hiện dự án trong lĩnh vực này.
Thứ hai, việc Việt Nam gia nhập khối AFTA cũng tác động tới dòng FDI
vào Việt Nam nói chung và lĩnh vực CNĐT nói riêng vì nếu môi trờng đầu t của
Việt Nam không hấp dẫn hơn một nớc nào đó trong khối thì chủ đầu t sẽ đầu t
vào nớc đó chứ không đầu t vào Việt Nam.
Thứ ba, chúng ta cha xây dựng đợc một chiến lợc phát triển ngành CNĐT
của quốc gia và của từng vùng một cách rõ ràng, thiếu một qui hoạch dài hạn để
gọi vốn do đó cơ cấu vốn trong các lĩnh vực khác nhau của ngành cha hợp lý.
Thứ t, hệ thống luật đặc biệt là Luật đầu t nớc ngoài tại Việt Nam thì cha
hoàn chỉnh, không ổn định, không rõ ràng gây tâm lý bất ổn cho cả các nhà đầu
t và nhà quản lý bởi vì thời gian qua các văn bản dới luật sửa đổi quá nhiều. Mặt
khác, quản lý hoạt động Đầu t nớc ngoài thiếu khoa học, thiếu chặt chẽ, số cán
bộ đủ trình độ chuyên môn, kinh nghiệm quan hệ với nớc ngoài còn ít.
Thứ năm, trong khi khung thuế suất Việt Nam quá nhiều mức lại không ổn
định thì môi trờng đầu t vào Việt Nam lại có quá nhiều rủi ro, các sự việc phát
sinh không giải quyết kịp thời gây khó khăn với các nhà đầu t.
Thứ sáu, chúng ta đã thấy đợc những lợi thế của Việt Nam về nguồn lao
động song trong ngành điện tử đòi hỏi lao động phải có trình độ chuyên môn
cho các dự án thuộc lĩnh vực này chủ yếu là công nghệ tiên tiến.
Thứ bảy, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các xí nghiệp có vốn đầu t
nớc ngoài trong ngành CNĐT thờng xuyên phải xuất nhập khẩu hàng hoá, linh
kiện, phụ kiện,thiết bị. Do đó các chủ đầu t thờng xuyên phải tiếp xúc với hải
quan và họ thờng kêu ca về các phiền hà trong thủ tục hiện nay.
Có thể nói, mặc dù môi trờng đầu t Việt Nam tuy có nhiều chuyên gia
đánh giá là một môi trờng đầu t hấp dẫn tuy nhiên do những hạn chế trên đã làm
cho môi trờng đầu t của Việt Nam có độ rủi ro cao. Điều này làm giảm lợng các
nhà đầu t nớc ngoài ở Việt Nam đặc biệt là trong ngành CNĐT.
Vì vậy trong thời gian tới chúng ta cần tìm ra các giải pháp để có thể thu

hút và sử dụng hiệu quả hơn nữa vốn đầu t từ nớc ngoài vào Việt Nam.Một mặt
vừa tăng tiềm lực phát triển kinh tế của đất nớc nói chung một mặt lại có thể tạo
điều kiện phát triển ngành CNĐT theo kịp với nhịp độ tăng trởng của thế giới và
khu vực nói riêng.
PHần III
Một Số giải pháp thu hút & sử dụng FDI cho CNĐT
Việt Nam
I - Chiến lợc của ngành CNĐT Việt Nam hiện nay.
Trong suốt hơn một thập kỉ qua, Việt Nam đã duy trì một số các công ty
nớc ngoài sản xuất hàng điện tử dân dụng. Chính phủ đã đóng một vai trò chủ
chốt qua việc cung cấp cho các công ty này nhiều loại bảo hộ khác nhau đối với
cạnh tranh nớc ngoài. Chính phủ đã hỗ trợ nhiều cho các công ty này về tài chính
và giúp tổ chức một Liên đoàn các công ty điện tử nhà nớc mà sau này đã trở
thành tổng công ty điện tử và tin học ( bao gồm gần 20 doanh nghiệp nhà nớc và
liên doanh đã liên kết thành,hiện nay đợc gọi là VIEC hoặc Viettonics ) thuộc bộ
công nghiệp. Tuy vậy ngành công nghiệp này vẫn cha có khả năng cạnh tranh
quốc tế. Có thể thấy một số hớng phát triển nh sau:
18
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
+ Hoạt động chủ yếu đằng sau chơng trình hỗ trợ của Chính phủ cho các
nhà sản xuất điện tử dân dụng trong nớc là '' thay thế nhập khẩu '' đi đôi với '' bảo
hộ ngành công nghiệp non trẻ ''. Cùng với quá trình đổi mới toàn bộ nền kinh tế,
trong hơn 10 năm qua, chiến lợc phát triển và HĐH ngành điện tử quốc gia của
Chính phủ đã vài lần thay đôỉ. Với chính sách đổi mới và '' mở cửa '' đối với
ngoại thơng và điện tử nớc ngoài, trọng tâm đã đợc chuyển từ chính sách thay
thế nhập khẩu tơng đối nghiêm ngặt sang mô hình hớng về xuất khẩu. Trong thời
gian này, ngành cũng đã có những sự hợp tác với nớc ngoài bằng cách liên doanh
với các công ty điện tử hàng đầu của Đông á, Tây Âu và Bắc Mĩ. Vào năm
1994 xuất hiện việc bãi bỏ cấm vận thơng mại thì một số thành tố mới đã đợc đa
vào trong chất lợng. Tuy nhiên '' thay thế nhập khẩu '' vẫn là một nguyên tắc chủ

đạo trong chiến lợc hiện tại của ngành điện tử tại Việt Nam.
Các hình thức trợ cấp và qui chế sử dụng để thực hiện chiến lợc
thay thế nhập khẩu bao gồm:
Sử dụng có chọn lọc các loại giấy phép xuất và nhập khẩu.
Bảo hộ biên giới ( hạn ngạch xuất nhập khẩu, thuế quan ) cho từng
mảng cụ thể của thông tin điện tử - những lĩnh vực mà sản xuất trong
nớc có thể đáp ứng đợc nhu cầu nội địa.
Khuyến khích về thuế để các nhà đầu t chuyển giao công nghệ sản
xuất sang Việt Nam và sử dụng nguồn cung cấp nguyên liệu, linh kiện
điện tử tại địa phơng.
Sẵn sàng cung cấp vốn đầu t dài hạn với mức lãi xuất u đãi cho các
doanh nghiệp nớc ngoài hoạt động trong các lĩnh vực lựa chọn bao
gồm cả lĩnh vực điện tử.
Trợ cấp hoặc các loại hỗ trợ tài chính trực tiếp khác để duy trì hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nớc trong bối cảnh phải
cạnh tranh quyết liệt với hàng nhập khẩu.
Đối với các lĩnh vực có qui mô kinh tế quan trọng, hớng nguồn vốn vào
các công ty lớn các doanh nghiệp lớn và vào doanh nghiệp Việt Nam
khi họ tham gia vào các liên doanh có hàm lợng vốn cao với các công
ty điện tử nớc ngoài.
Chẳng hạn để hỗ trợ cho việc thực hiện kế hoạch 1998, các chuyên gia của
Viettronics đã yêu cầu nớc ngoài can thiệp nhiều hơn nữa nh : Ban hành các
biện pháp chính sách nhằm tạm dừng nhập khẩu loại ti vi từ 14 - 25 inch vào
Việt Nam; áp dụng cơ sở u đãi về thuế với các loại linh kiện sản xuất tại Việt
Nam phục vụ cho ngành điện tử ; kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các liên
doanh trong ngành điện tử Việt Nam; phát động các chiến dịch chống buôn lậu
& gian lận thơng mại liên quan đến các sản phẩm của ngành điện tử.v.v.
+ ý tởng cho rằng các doanh nghiệp trong nớc sản xuất các sản phẩm điện
tử dân dụng thay thế nhập khẩu cần đợc bảo hộ trớc sự cạnh tranh của bên ngoài
đã tồn tại khi nền kinh tế còn tơng đối khép kín. Khi nền kinh tế Việt Nam mở

cửa cho điện tử nớc ngoài và cho hàng nhập khẩu thì sự cạnh tranh trở nên rất
mạnh với các doanh nghiệp đợc Chính phủ bảo hộ và càng gay gắt hơn khi cấm
vận thơng mại đợc gỡ bỏ. Các doanh nghiệp trong nớc không thể cạnh tranh nổi
với quốc tế và muốn mở rộng thị trờng ra các nớc khác càng khó khăn hơn.
Phần lớn các doanh nghiệp điện tử Việt Nam không muốn phát triển và
thiết kế các sản phẩm với nhãn thơng mại của riêng mình. Họ thích lắp ráp các
sản phẩm theo thiết kế của nớc ngoài vì nh vậy sẽ ít rủi ro hơn, bớt phức tạp hơn
và hiệu quả kinh tế lại cao cho doanh nghiệp cũng nh cho ngân sách nhà nớc.
Các doanh nghiệp điện tử thực hiện chủ yếu chiến lợc thay thế nhập khẩu là các
doanh nghiệp nhà nớc TW và địa phơng. Chính phủ muốn họ liên kết với nớc
ngoài để tiếp cận đợc công nghệ mới nhất và các bí quyết ( know-how) liên
quan.
19
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
Sự yếu kém của các doanh nghiệp điện tử quốc doanh, những thành phần
chủ lực của ngành điện tử đang đợc cải tiến và HĐH nhằm duy trì và phát triển
ngành điện tử Việt Nam.
+ Gần đây, khuyến khích xuất khẩu trở nên hết sức quan trọng với các nhà
hoạch định chiến lợc trong ngành Điện tử Việt Nam theo mô hình công nghiệp
hớng xuất khẩu của Hàn Quốc và Đài Loan trong đó không chỉ tập trung khuyến
khích xuất khẩu mà còn nhấn mạnh thay thế nhập khẩu trong giai đoạn đầu.
Song Việt Nam không thể có đợc mô hình tăng trởng nh vậy vì CNĐT ngày nay
trên toàn thế giới đã phát triển toàn diện hơn, sản phẩm đợc chuẩn hoá hơn và
vốn đầu t cũng lớn hơn nhiều. Việt Nam phải đi theo một con đờng khác là vừa
duy trì các nội dụng của chiến lợc thay thế nhập khẩu vừa tiến hành CNH hớng
về xuất khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh nhất thể hoá nền kinh tế quốc tế ngày
càng phát triển, thực hiện điều nàylà hết sức khó khăn.
Sự cạnh tranh trên toàn cầu ngày càng gay gắt, việc cung cấp các linh
kiện, thiết bị sản xuất, các kĩ s CMH, các dịch vụ hỗ trợ hậu cần càng vợt ra
khỏi biên giới quốc gia và trở thành một phần của hoạt động cung cấp trong khu

vực và trên toàn cầu. Vì vậy, nếu những chiến lợc quốc gia về ngành điện tử
không xem xét đến mối quan hệ liên quốc gia giữa các ngành thì không có khả
năng thành công. Các doanh nghiệp trong nớc và các công ty xuyên quốc gia
ngày càng bị ảnh hởng bởi cơ cấu cung cấp mang tính quốc tế này.
II- Triển vọng của ngành CNĐT Việt Nam
Chính phủ đang cam kết giúp đỡ tạo khuôn khổ để CNĐT Việt Nam có
thể tồn tại và phát triển. Với cam kết sẽ thay đổi chính sách và với tình trạng lạc
hậu mà ngành CNĐT Việt Nam từ đó đi lên thì phải bắt đầu từ đâu? Phải đi theo
hớng nào? Theo chiến lợc nào?
Ngành điện tử Việt Nam có thể tiến hành HĐH theo hai chiến lợc chính
sau đây:
1. Chiến lợc '' Từ bên trong ra ''
Chiến lợc này là đổi mới các doanh nghiệp điện tử thuộc sở hữu Nhà nớc
hiện có và cho phép họ hợp tác với các công ty nớc ngoài để khai thác lợi thế về
công nghệ sản xuất, tạo điều kiện cho họ tiếp cận với các sản phẩm mới và năng
lực kĩ thuật mới, đặt họ vào mối quan hệ chặt chẽ hơn với thị trờng khu vực và
quốc tế.
Để thực hiện chiến lợc này, chủ yếu là các doanh nghiệp điện tử quốc
doanh đang hoạt động cho dù họ đợc tổ chức thành tập đoàn hay hoạt động riêng
rẽ. Các doanh nghiệp này cần đợc tiếp cận một cách có hệ thống hơn với các
quy trình sản xuất và sản phẩm mới, cần tiếp xúc chặt chẽ hơn với thị trờng khu
vực và quốc tế để linh hoạt và nhạy cảm hơn đối với những thay đổi về nhu cầu
trên thị trờng. Tóm lại, các doanh nghiệp này cần đợc khuyến khích đơng đầu
với các đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp điện tử Việt Nam hiện nay cũng có
thể trở thành phơng tiện để thực hiện thành công chiến lợc này.
ở Việt Nam hiện nay có ba doanh nghiệp điện tử trong đó hai doanh nghiệp
nớc ngoài và một doanh nghiệp trong nớc là các thành phần trong chiến lợc xây
dựng một ngành CNĐT có tính cạnh tranh hơn tại Việt Nam: Fujitsu của Nhật
Bản, Alcatel của Pháp và Viettronics Biên Hoà của Việt Nam.
Trong ngắn hạn, chiến lợc ''từ bên trong ra''đối với sự phát triển của ngành

cho phép
- Phát triển năng lực sản xuất theo hợp đồng'' chìa khoá trao tay'' tại Việt
Nam, phục vụ cho các công ty điện tử trên toàn thế giới. Do đó, tạo cho Việt
Nam khả năng tiếp cận với mạng lới sản xuất quốc tế.
20
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
- Các nhà sản xuất theo hợp đồng tại Việt Nam có thể tạo ra nền móng để
từ đó các doanh nghiệp trong nớc sản xuất ra các sản phẩm mang nhãn hiệu của
riêng mình.
- Các nhà sản xuất theo hợp đồng tại Việt Nam có thể trở thành công cụ
hữu ích để tạo ra năng lực xuất khẩu mới và qua đó tạo ra cơ hội việt làm mới.
Vấn đề quan trọng đối với chiến lợc này là cần phải có một qui mô tối thiểu
để hình thành và duy trì một nhà máy sản xuất có tính cạnh tranh tại Việt Nam.
Viettronics Biên Hoà hiện nay không thể trở thành một nhà máy sản xuất theo
hợp đồng trừ phi công ty tìm kiếm đợc thêm khách hàng tại Việt Nam cũng nh ở
nớc ngoài và vì thế cần có một nhóm khách hàng mới có mối quan tâm tới năng
lực sản xuất theo hợp đồng. Những khách hàng mới này tất nhiên sẽ vẫn duy trì
năng lực thiết kế và phát triển sản phẩm của họ nhng lại không muốn mất thời
gian vào việc sản xuất sản phẩm ngoại trừ khâu lắp ráp cuối cùng.
Vậy điều kiện trên quyết để việc thực hiện chiến lợc này có hiệu quả là gì ?
Một chiến lợc từ bên trong ra có hiệu quả làm cho ngành điện tử ở Việt
Nam có thể tồn tại phụ thuộc vào các điều kiện sau đây:
Cải tổ các khu vực doanh nghiệp điện tử quốc doanh, bao gồm việc đánh
giá chính xác công ty Viettronics Biên Hoà, nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động đạt tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao năng lực quản lý, mở rộng kỹ
năng về tiếp thị, phát triển sản phẩm và phân phối dịch vụ.
Xác lập các cơ chế giản đơn, hiệu quả về chi phí đối với việc phân nhánh
có hệ thống trong mạng lới sản xuất của CNĐT tại Việt Nam và trên thế
giới.
Đánh giá tất cả các chính sách hiện hành của Chính Phủ về thơng mại và

thuế quan đối với hàng điện tử và các sản phẩm công nghệ tin học có liên
quan.
Mở rộng cơ sở cung cấp các linh kiện và các đầu vào khác cho CNĐT.
Yếu tố chi phí thấp kéo dài và một môi trờng kinh doanh thuận lợi là nền
tảng trong chiến lợc, cho phép thu hút nhiều nhà cung cấp linh kiện hơn
nữa vào kinh doanh tại Việt Nam mà không vào các nớc khác trong khu
vực. Song, trên thực tế, nhiều doanh nghiệp Việt Nam có vẻ không quan
tâm tới sản xuất linh kiện, bộ phận phụ.v.v.ít doanh nghiệp Việt Nam có
mặt tại các cuộc gặp gỡ khu vực về trao đổi thông tin công nghiệp, qua đó
có thể hình thành ý thức về các cơ hội, trở thành nhà cung cấp cho ngành
CNĐT quốc tế.
Nhân tố chủ chốt trong chiến lợc cải tiến CNĐT trong nớc là chơng trình
của Chính phủ nhằm nắm bắt kịp thời các tiến bộ công nghệ quốc tế và
các bí quyết liên quan. Một số nỗ lực trên phơng diện chính sách đang đ-
ợc định hình nh chiến lợc quốc gia về khoa học, công nghệ và đổi mới,
các khu công nghệ cao, các chơng trình kinh tế kĩ thuật nhằm xúc tiến các
hoạt động khoa học và công nghệ. Các chơng trình này có tầm quan trọng
lớn với CNĐT: Thứ nhất, các hoạt động của Chính phủ phải tạo mối
quan hệ có hiệu quả hơn với các hãng và tổ chức nớc ngoài nhằm tận
dụng hơn nữa các công nghệ sẵn có trên thế giới. Thứ hai, Việt Nam
phải sử dụng tốt hơn các nhà khoa học và chuyên gia tơng đối lớn của
mình. Hiện nay, phần lớn các chuyên gia này làm việc tại các viện, bộ và
các cơ quan Chính phủ với hiệu suất thấp.
2.Chiến lợc '' từ bên ngoài vào''
Chiến lợc ''từ bên ngoài vào'' là chiến lợc khuyến khích các dự án đầu t
mới, qui mô lớn vào ngành sản xuất hàng điện tử, trớc hết là các dự án của các
công ty hàng đầu về công nghệ trong ngành điện tử quốc tế, trong khi đó, vẫn
21
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
xây dựng năng lực trong nớc cho các doanh nghiệp nhà nớc nh là mục tiêu

chính.
Chiến lợc này nhằm HĐH ngành CNĐT thông qua liên kết một cách hiệu
quả với ngành CNĐT toàn cầu bằng việc đa các công ty hàng đầu về công nghệ,
vốn và những nguồn khác vào Việt Nam. Các công ty xuyên quốc gia cần coi
Việt Nam nh một cơ sở cho sản xuất và là một thị trờng đầy tiềm năng. Bằng
việc đặt chân vào Việt Nam và tìm đối tác trong các công ty và các tổ chức ở
Việt Nam, các công ty có hàm lợng vốn cao sẽ cung ứng công nghệ và mở thị tr-
ờng mới cho sản phẩm của Việt Nam. Khi đó, các công ty này có thể giúp đỡ cơ
cấu lại các công ty hiện có tại Việt Nam theo yêu cầu cần thiết về năng lợng sản
xuất ở Đông Nam á và trên toàn thế giới. Mạng lới cung ứng đa dạng '' từ bên
ngoài vào '' cũng có thể chuyển giao cho cơ sở sản xuất của Việt Nam.
Hiện nay đã có sự cơ cấu lại ngành sản xuất điện tử toàn cầu. Những nhà
chế tác hợp đồng với việc cung ứng dây chuyền lắp ráp hàng đầu và các dịch vụ
sản xuất khác, đã nổi lên ở Nam Mĩ, Tây Âu và Đông á. Họ đang tạo ra một
mạng lới mang tính toàn cầu về khả năng sản xuất tiên tiến để cho thuê. Chế tác
hàng điện tử hiện đại đang chuyển thành ''mạng lới sản xuất chìa khoá trao tay''
do các nhà sản xuất và cung ứng theo dạng hợp đồng thực hiện. Các công ty lớn
có nhãn hàng có thể sử dụng mạng lới sản xuất theo phơng thức linh hoạt và
năng động, họ không cần sở hữu hoặc điều hành các cơ sở sản xuất ở mỗi nớc
lớn và vùng chính và có thể dựa vào những nhà chế tác hợp đồng cung ứng linh
kiện, vận hành các cơ sở lắp ráp, phân phối một khối lợng lớn sản phẩm cuối
cùng và chịu toàn bộ rủi ro trong quá trình sản xuất.
Đối với Việt Nam, sự xuất hiện của mạng lới sản xuất chìa khoá trao tay
quốc tế là một vấn đề đáng quan tâm vì nó ảnh hởng đến chính sách phát triển
CNĐT. Việc thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài trong sản xuất hàng điện tử, có
nghĩa là tìm kiếm đầu t của các nhà chế tác theo hợp đồng chứ không phải từ các
công ty có nhãn hàng nh IBM, Compaq, Ericsson.v.v. Các nhà chế tác hợp đồng
có dịch vụ chìa khoá trao tay bao gồm tất cả các công đoạn sản xuất và mua sắm
linh kiện nên các công ty lớn có nhãn hiệu ở Nam Mĩ và Tây Âu đã đa đợc một tỉ
trọng sản xuất lớn cho một số nhà chế tác theo hợp đồng, chủ yếu là ở gần thị tr-

ờng đối với sản phẩm cuối cùng của mình, ở hầu hết các vùng kinh tế trên thế
giới. Do đó, điện tử Việt Nam cần có cơ hội để phát triển. Bằng việc sử dụng
mạng lới này một cách năng động, các công ty đó đã dành đợc khả năng sắp xếp
lại hoạt động sản xuất mà không có tốn kém, rủi ro và thời hạn liên quan đến
việc thiết lập nhà máy mới của mình.
Hiện nay, phần lớn các hoạt động sản xuất điện tử ở Việt Nam là lắp ráp
công đoạn cuối cùng hàng điện tử gia dụng. Đây là một sự khởi đầu tốt đẹp. Các
nhà hoạch định chiến lợc cần tập trung vào ''dây chuyền giá trị'' của ngành điện
tử toàn cầu. Các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam cần xác định rõ những
công đoạn hoặc những nơi trong ngành CNĐT mà họ có thể lắp ráp những sản
phẩm có gía trị tăng cao hơn, thu đợc nhiều lợi nhuận hơn trong ngành điện tử
toàn thế giới. Việt Nam cần xây dựng đợc năng lực lắp ráp bảng vi mạch và sản
phẩm cuối cùng trong CNĐT của đất nớc,tạo ra đợc quan hệ qua lại giữa ngời sử
dụng và nhà sản xuất, điều này sẽ mở ra thị trờng mới, đa ra thiết kế mới và thích
hợp hơn với các sản phẩm hiện có. Khả năng sản xuất theo hợp đồng ''chìa khoá
trao tay'' trong nớc cần đảm bảo rằng các công ty Việt nam và ngời sử dụng tiên
tiến có những ý tởng về sản phẩm đầu t mới, có khả năng đến với thị trờng nhanh
chóng và hiệu quả mà không cần chính phủ, rủi ro cho việc xây dựng các nhà
máy sản xuất các sản phẩm đó.
Những điều này đòi hỏi Việt nam cần học hỏi kinh nghiệm của các nớc
bạn, cần tìm ra cách của riêng mình trong việc thuyết phục các nhà chế tác hoạt
động đầu t vào các cơ sở sản xuất ở Việt nàm. Việt nam cần cố gắng thu hút và
xây dựng năng lực sản xuất bảng vi mạch, và khả năng sản xuất hàng điện tử
22
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
trong nớc càng sớm càng tốt. Chúng ta hiện nay có hai cách để đạt đợc mục tiêu
này:
Một là, các nhà sản xuất theo hợp đồng ''chìa khoá trao tay '' hoạt động
trên toàn cầu cần đựoc khuyến khích để đa các cơ sở mới vào Việt nam. Do số l-
ợng nhà thầu ngày càng tăng nên chúng ta cần phải có thêm năng lực sản xuất.

Các công ty có nhãn hàng đầu trong ngành điện tử yêu cầu rằng hầu hết các nhà
thầu quan trọng của họ phải có nhà máy sản xuất ở một trong ba khu vực thị tr-
ờng chính là Bắc Mĩ, Châu á, Châu âu. Vì vậy một chiến thuật đầy hứa hẹn là
tiếp cận với các nhà thầu hiện nay đang thiếu một cơ sở ở Châu á.
Hai là, các nhà sản xuất theo hợp đồng trong nớc cần đợc khuyến khích
cải tiến nâng cao năng lực của họ theo mô hình ''chìa khóa trao tay'' và tiếp thị
các dịch vụ của họ qua báo chí thơng mại, phân phối danh mục mặt hàng và các
phơng tiện điện tử khác.
Song hiện nay, vấn đề đặt ra là làm thế nào để một ngành công nghiệp đến
muộn nh CNĐT Việt nam có thể khai thác đợc cơ hội của ngành CNĐT toàn
cầu? Làm thế nào để thực hiện chiến lợc '' từ bên ngoài vào '' để giúp cho ngành
điện tử Việt nàm có khả năng cạnh tranh quốc tế ? Làm thế nào để không chỉ đa
thêm các công ty điện tử hàng đầu mà còn đa cả công nghệ, vốn và các nguồn
khác của họ vào Việt nàm ?
Với ngành CNĐT còn cha phát triển, Việt nam có cơ hội khá tốt để thâm
nhập vào mô hình phát triển ''theo định hớng mạng''. Trong mô hình này, ngành
CNĐT tìm biện pháp cải tiến mạng lới cung ứng ở cấp địa phơng, cấp vùng và
cấp quốc gia nhằm thu hút thêm các chức năng sản xuất chuyên môn hoá khi
chúng đang đợc các tập đoàn xuyên quốc gia đa ra ngoài,
Ngoài việc tạo ra các dịch vụ sản xuất mới có giá trị gia tăng và việc làm
có chất lợng cao, việc chuyển sang mua linh kiện trên chìa khoá trao tay giúp
các nhà sản xuất theo hợp đồng trong nớc có khả năng tiếp cận với các kênh
nguyên liệu và linh kiện thế giới.
Chiến lợc công nghiệp này phụ thuộc vào đầu t trực tiếp nớc ngoài để có
thể đạt đợc công nghệ sản xuất tiên tiến. Do đầu t vào ngành điện tử dựa vào
nguồn bên ngoài tăng lên, các nhà đầu t nớc ngoài cho sản xuất hàng điện tử
chắc sẽ đạt đợc nhiều hơn nhờ dựa vào các hãng có hợp đồng toàn cầu nổi tiếng
thế giới.
Mô hình phát triển công nghiệp theo định hớng mạng nhằm khuyến khích
phát triển cụm CNĐT, chứ không phải xây dựng ngành công nghiệp quốc gia

toàn diện từ cơ sở đi lên. Kết quả cuối cùng của sự thành công sẽ cao và thị trờng
tiên tiến, cho phép tiếp tục nâng cấp năng lực sản xuất để đạt đợc trình độ hiện
nay của ngành CNĐT toàn cầu.
III - Một số kiến nghị và giải pháp:

1. Hai giai đoạn xây dựng và phát triển CNĐT Việt nam từ nay đến năm
2010
1.1 Giai đoạn một ( từ nay đến 2005 )
- Tổ chức sắp xếp lại lực lợng sản xuất quốc doanh TW và địa ph-
ơng theo hớng hình thành tập đoàn kinh tế mạnh và phát huy năng lực nội sinh
để phát triển trên tinh thần '' vốn và công nghệ nớc ngoài con ngời Việt nam ''.
- Đầu t phát triển các dự án mới vừa bằng vốn bổ sung của Nhà nớc
vừa bằng vốn thu hút do chi phí hoá một số bộ phận.
- Thu hút đầu t nớc ngoài vào phát triển sản xuất linh kiện, phụ kiện
điện tử và công nghiệp phụ trợ.
- Xây dựng các trung tâm nghiên cứu và phát triển ( R & D ).
- Xây dựng các trung tâm thiết kế sản phẩm điện tử tin học.
23
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
- Xây dựng các trung tâm đào tạo đội ngũ chuyên ngành điện tử
tin học.
1.2 Giai đoạn hai ( Từ 2006-2010)
- Tiếp tục đầu t công nghệ mới có lựa chọn bổ sung cơ sở hạ tầng
cho phát triển công nghiệp điện tử Việt nam.
- Phát triển mạnh các sản phẩm mang thơng hiệu Việt nam, đa ra thị
trờng trong nớc và quốc tế.
- Hình thành tơng đối đồng bộ các cơ sở hạ tầng chuyên ngành để
tạo đà phát triển cho đến năm 2020, ngành CNĐT và công nghệ thông tin thực tế
trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
2. Một số giải pháp thu hút và sử dụng hệu quả FDI trong lĩnh vực CNĐT.

2.1 Trong ngắn hạn
- Chính phủ cần chỉ thị cho các cấp bộ ngành có liên quan, nhanh
chóng hoàn chỉnh qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của các vùng
đến năm 2010 và qui hoạch chi tiết cho các khu vực chủ chốt. Và đặc biệt riêng
ngành CNĐT cần phải hoàn chỉnh chiến lợc tổng thể phát triển ngành. Điều này
cho phép thu hút các nguồn đầu t nớc ngoài rất lớn không chỉ với ngành CNĐT
mà còn với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Mở rộng thị trờng tiêu thụ sản phẩm CNĐT. Đây là một vấn đề mà
các nhà đầu t vào thị trờng Việt nam hết sức quan tâm. Vẫn biết rằng ngành điện
tử là quan trọng, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế song hiện nay thị trờng
tiêu thụ của sản phẩm điện tử Việt nam chỉ đáp ứng đợc một số nhỏ nhu cầu
trong nớc còn thị trờng nớc ngoài thì hầu nh không đáng kể. Do đó nhà nớc cần
phải hỗ trợ trong việc tìm kiếm thị trờng và cung cấp nguồn thông tin cần thiết
cho các nhà đầu t.
- Hoàn thiện các danh mục dự án đợc u tiên, chú trọng vào các
trọng điểm sản xuất khác và thay thế nhập khẩu, xây dựng các khu công nghiệp,
khu chế xuất và nâng cấp hạ tầng kĩ thuật.
- Ban hành chính sách và những qui định cụ thể về quản lý các dự
án đầu t nớc ngoài của ngành CNĐT phù hơp với qui hoạch tổng thể kinh tế xã
hội. Tạo một môi trờng thuận lợi hấp dẫn các nhà đầu t nớc ngoài.
- Để sử dụng nguồn đầu t nớc ngoài có hiệu quả chúng ta cần phải
chuẩn bị một nguồn vốn đối ứng hợp lý trong nớc.
- Lợi thế của ngành CNĐT Việt nam nh đã nói ở trên là chúng ta có
một lực lợng lao động hùng hậu, thông minh, sáng tạo.v v. Do đó, để thu hút và
đặc biệt là sử dụng có hiệu quả vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài, chúng ta cần xây
dựng một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm trong làm ăn
với nớc ngoài, hiểu rõ đợc luật lệ quốc tế, có trình độ về ngoại ngữ và vi tính.v v.
2.2 Trong dài hạn
- Hoàn thiện môi trờng pháp lý. Muốn thu hút đợc FDI thì hệ thống
luật pháp nói chung và Luật đầu t nớc ngoài nói riêng phải tuân thủ nguyên tắc

cơ bản là tôn trọng bình đẳng, độc lập, chủ quyền, đôi bên cùng có lợi và phải
tuân theo thông lệ quốc tế. Hệ thống văn bản dới luật ( nh các qui định về: vốn
góp, thuế đất, xuất nhập khẩu, thuế, lao động.v v.) phải khoa học, đồng bộ, đầy
đủ và có hiệu lực pháp lý cao. Chỉ khi đó nó mới tạo nên một môi trờng kinh
doanh toàn diện, đảm nhận đợc chức năng định hớng và hỗ trợ cho các nhà đầu t
nớc ngoài. Môi trờng pháp lý bao gồm: hoàn thiện hệ thống pháp lý về thuế ( đặc
biệt là thuế xuất, nhập khẩu đánh vào linh kiện, phụ tùng, phụ kiện, nguyên vật
liệu để tiến hành sản xuất trong nớc ) ; cải cách thủ tục hành chính thành cơ chế,
chính sách đồng bộ nhằm phát huy tiềm năng hỗ trợ và khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia thu hút vốn đầu t nớc ngoài ; cải cách thủ tục đầu t nớc
ngoài vì điều này không chỉ quyết định đến tiến độ thực hiện dự án mà nó còn
24
Nguyễn Thị Bích Ngọc- KTĐT 39B
biểu hiện về tính lành mạnh của môi trờng đầu t từ đó có tác động mạnh mẽ đến
thái độ của các nhà đầu t. Do đó, cần tránh rờm rà, chồng chéo.
- Vấn đề về lao động cũng cần đợc quan tâm trong một thời gian
dài. Đối với các nhà đầu t trong lĩnh vực có hàm lợng công nghệ cao nh ngành
điện tử thì lao động sẽ không còn là sự hấp dẫn nhất đối với họ bởi vì chi phí lao
động ngành này chiếm tỉ lệ thấp và cũng có xu hớng giảm theo sự tiến bộ của
khoa học công nghệ. Do đó, việc đào tạo ra một đội ngũ cán bộ có tay nghề cao,
cần cù, chịu khó, có ý thức tổ chức kỹ thuật mới thu hút đầu t nớc ngoài.
Nhà nớc cần tăng độ hấp dẫn trên cả hai mặt: qui định tiền lơng tối thiểu
hợp lý của doanh nghiệp phù hợp với mặt bằng trong khu vực. Thứ hai, cần phải
cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo ý thức làm việc. Đào tạo lại, trớc mắt là đội
ngũ lao động trực tiếp làm trong xí nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài để lao động
của ta có trình độ ngang bằng quốc tế và khu vực, nhằm nâng cao trình độ cạnh
tranh trớc mắt và lâu dài và Nhà Nớc cũng cần có quy định về điều kiện lao
động, an toàn lao động, các quyền lợi về bảo hiểm,y tế, sinh hoạt trong các tổ
chức quần chúng và xã hội.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật. Trong điều kiện phát

triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thì kết cấu kỹ thuật hạ
tầng vật chất hiện đại là điều kiện tiên quyết vì kỹ thuật cao chỉ phát huy đợc
trong một CSHT thích hợp.Tuy nhiên so với yêu cầu của giai đoạn phát triển hiện
nay,CSHT của chúng ta còn nhiều yếu kém, cần phải có các giải pháp kinh tế
phù hợp, nhanh chóng kiến tạo đợc một cơ sở thích hợp để thu hút vốn,kỹ thuật
của nớc ngoài.
- Giải quyết tốt các mối quan hệ về chính trị với các quốc gia, các tổ
chức phi chính phủ và các tổ chức kinh tế để có đợc các khoản hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA), đầu t để xây dựng hạ tầng vật chất. Ngoài ra, phải có kế
hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để huy động các tiềm năng của toàn dân, đa
vào giải quyết những công trình trọng điểm.
- Tìm ra những vị trí địa lý KTXH thuận lợi để xây dựng các đặc
khu kinh tế(KCX, Khu thơng mại tự do, Khu công nghệ kỹ thuật cao) với qui mô
thích hợp để tiếp nhận các nguồn vốn và kỹ thuật cao của nớc ngoài.
3. Một số kiến nghị
3.1- Về cơ sở hạ tầng
Tạo lập và duy trì một cơ sở dữ liệu về ngành CNĐT trong nớc và thế
giới.
Hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao công tác đảm bảo chất lợng và các
hoạt động liên quan đến tiêu chuẩn ISO-9000.
Duy trì tiêu chuẩn đối với CNĐT và các yêu cầu khác đối với các
doanh nghiệp hợp đồng phụ.
Nâng cấp và duy trì một hạ tầng viễn thông mạnh và thông suốt trên cơ
sở hoạt động cao của các mạng máy tính.
Chọn lựa một vài khu công nghiệp hiện có và dành u tiên cho việc tìm
kiếm các nguồn lực nhằm nâng cấp hạ tầng CNĐT.

3.2- Về phát triển nguồn nhân lực
Tạo lập một quỹ hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp, với nguồn kinh phí ban
đầu từ phía Chính phủ và các đóng góp từ các doanh nghiệp.

Nâng cao nội dung về mặt thực tiễn trong các chơng trình giáo dục và
đào tạo cũng nh trong giáo trình.
25

×