Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, thị trường Việt Nam được chứng kiến nhiều thành công
phát triển rực rỡ của các sản phẩm trong nước và việc đẩy mạnh xúc tiến xuất khẩu
nhiều loại hàng hoá như : dầu thô, dệt may, nông sản, thuỷ hải sản, da giày, thủ
công mỹ nghệ…sang thị trường Hoa Kỳ, các nước Châu Âu, …đã đem lại những
nguồn lợi to lớn.Một trong những mặt hàng xuất khẩu mang lại những đóng góp rất
lớn trong kim ngạch xuất khẩu chính là mặt hàng dệt may. Hiện nay, ngành này có
kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 2 sau dầu thô. Đồng thời đây cũng là mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của nước ta giai đoạn 2001 – 2010.
Tuy nhiên, bên cạnh việc hoàn thiện và thúc đẩy thì xuất khẩu dệt may còn
gặp rất nhiều những khó khăn, thách thức do các rào cản thương mại phía chính
phủ Hoa Kỳ đưa ra mà chúng ta còn phải tìm hiểu, nghiên cứu và tìm ra những giải
pháp nhằm hạn chế, khắc phục và giảm thiểu những khó khăn đó.
Chính vì lẽ đó mà em quyết định lựa chọn đề tài : “Tác động của luật Hải
quan Hoa Kỳ đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ:
Thực trạng và giải pháp”
Em lựa chọn đề tài này với mong muốn được hiểu biết thêm về tình hình xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam nói chung và tình hình xuất khẩu hàng dệt may
Việt Nam sang Hoa Kỳ nói riêng. Mặc dù em được rất cố gắng hoàn thành đề án
này, nhưng do hạn chế về trình độ và thông tin cùng với thời gian có hạn nên không
tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của các thầy cô.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo hướng dẫn TS . Tạ Văn Lợi đã
tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề án này.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG I: TÌNH HUỐNG
TÁC ĐỘNG CỦA LUẬT HẢI QUAN HOA KỲ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM SANG HOA KỲ
I. Các rào cản Hoa Kỳ áp dụng nhằm hạn chế xuất khẩu đối với hàng dệt may
Việt Nam
1. Hạn ngạch và thuế quan nhập khẩu
Mới đây Bộ thương mại Mỹ được dựng lên “rào cản” kỹ thuật mới, đó chính là
cơ chế giám sát nhập khẩu hàng dệt may vào nước này. Trước đây khi nói đến rào
cản thương mại các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết đến thuế quan và hạn ngạch.
Quá trình tự do hoá thương mại mang đến thành quả là việc dỡ bỏ những biện pháp
bảo hộ truyền thống, đặc biệt là khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO
và hưởng quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn thì hàng hoá Việt Nam xuất
khẩu sang Mỹ, trong đó có dệt may, sẽ có cơ hội tăng trưởng cao hơn.
Về tính pháp lý của cơ chế này, ông Lê Quốc Ân, chủ tịch hiệp hội dệt may
Việt Nam, chủ tịch tập đoàn dệt may(Vinatex) cho rằng cơ chế này không phù hợp
với WTO. Bởi vì, cơ chế này chỉ nhằm giám sát riêng hàng dệt may Việt Nam, điều
này trái với tinh thần chống phân biệt đối xử của WTO dành cho tất cả các thành
viên của mình.
2. Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barrier)
Trong xu thế hội nhập cạnh tranh gay gắt khi đưa hàng ra các thị trường
lớn,đặc biệt la Hoa Kỳ,dệt may Việt Nam cũng đang gặp phải không ít khó khăn
trước những rào cản thương mại, những tiêu chuẩn mà đối tác đặt ra. Trong số hàng
loạt các tiêu chuẩn bắt buộc đặt ra đối với hàng dệt may, các nhà nhập khẩu hiện
quan tâm nhiều đến tiêu chuẩn xanh, sạch đối với sản phẩm ngay từ khâu nguyên
liệu đến thành phẩm...
3. Áp đặt thuế chống bán phá giá
Trong bối cảnh tranh chấp thương mại đang trở nên một “đặc trưng” của hội
nhập,việc Hoa Kỳ đưa ra các cơ chế giám sát chống bán phá giá các mặt hàng nhập
khẩu vào nước này trong đó có hàng dệt may của Việt Nam là một điều dễ hiểu.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nhưng để đảm bảo cạnh tranh thật công bằng, trong suốt 8 tháng qua, hầu hết
đối với các mã hàng nhạy cảm, sản phẩm Dệt may của Việt Nam vào Mỹ không
những không tăng về số lượng, không hạ giá bán mà còn duy trì như trước thời
điểm quốc gia này áp dụng cơ chế giám sát.
4. Các quy định khác cuả hải quan Hoa Kỳ
4.1. Những quy định về các sản phẩm dệt
Tem, mark, mã theo quy định tại "Texxtile Fiber Products Identification Act",
trừ khi được miễn trừ.
4.2.Quy định về thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền
Hàng hoá mang nhãn hiệu gi hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng
ký bản quyền của một công ty Mỹ hoặc nước ngoài, sẽ bị cấm nhập khẩu vào Mỹ.
Một bản sao đăng ký nhãn hiệu ở Mỹ sẽ phải nộp cho Uỷ ban Hải quan và được lưu
giữ theo quy định.
4.3. Quy chế nhập khẩu đối với vải dệt kim,vải đan,quần áo và phụ kiện dệt kim,
đan
Đó là các qui định cụ thể của Hải quan Hoa Kỳ đối với các loại vải dệt kim,
vải đan, quần áo và phụ kiện dệt kim, đan được nhập khẩu vào nước này, trong đó
có hàng dệt may của Việt Nam.
II. Tác động của luật Hải quan Hoa Kỳ tới tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may
sang thị trường này
Tuy hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chiếm tới 50% tổng số hàng
dệt may của Việt Nam xuất đi các nước, nhưng so với tổng khối lượng mà Mỹ nhập
khẩu từ các nước khác trên thế giới thì hàng dệt may Việt Nam chỉ chiếm khoảng
3%. Đặc biệt, các nước này lại chưa bị áp đặt cơ chế này. Rõ ràng đây là 1 điều
không hợp lý.
Mặc dù phải đến đầu tháng 8, phía Mỹ mới công bố những kết quả đầu tiên về
việc giám sát hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, nhưng từ mấy tháng
trước đó, ngành dệt may Việt Nam được phải hứng chịu nhiều tác động tiêu cực
của cơ chế này. Các đơn đặt hàng cho quý 3 và những tháng cuối năm 2007 sụt
giảm đáng kể. Theo ông Lê Hồng Phoa, Giám đốc công ty may mặc Bình Dương,
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đơn hàng xuất khẩu sang Mỹ hiện được giảm 50% với cùng kỳ năm trước, do các
đối tác lo ngại khả năng hàng dệt may của Việt Nam sẽ bị đánh thuế cổ phần hoá.
Theo Vinatex, do ảnh hưởng của việc giám sát tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt
may của Việt Nam từ phía Chính phủ Mỹ, mục tiêu xuất khẩu 7,35 tỷ USD hàng
dệt may trong năm 2007 sẽ khó có thể hoàn thành bởi trong 5 tháng đầu năm, kim
ngạch chỉ tăng có 24,3%, giá trị bình quân tháng khoảng 537 triệu USD/tháng.
Với mức bình quân như vậy, kim ngạch cả năm chỉ có thể đạt khoảng 6,5 tỷ
USD. Hiện, khách hàng Mỹ chưa ký hợp đồng cho quý III do còn theo dõi diễn
biến của Chính phủ Mỹ. Nếu trong tháng 8 tới có những nhận xét bất lợi từ Bộ
Thương mại Mỹ thì các nhà nhập khẩu có thể sẽ rút Việt Nam khỏi danh sách các
nước xuất khẩu. Trong khi chờ đợi kết quả chính thức của đợt đánh giá đầu tiên,
các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn phải nỗ lực để duy trì và tăng trưởng xuất
khẩu trên thị trường Mỹ bởi đây là 1 thị trường lớn đầy tiềm năng. Thêm vào đó
hàng hoá được thị trường Mỹ chấp nhận sẽ như được cấp 1 tấm giấy thông hành để
hàng hoá đi vào các thị trường khác 1 cách dễ dàng hơn.
Với những nỗ lực không ngừng đó, thời gian gần đây đơn hàng được trở lại
với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp của Agtek cũng được
nhận được đơn hàng của các nhà nhập khẩu Mỹ cho quý 4 năm nay và những tháng
đầu năm 2008. Riêng công ty cổ phần may Sài Gòn 3 của ông Hồng được nhận
được số lượng đơn hàng khá lớn.
“ Bình thường chúng tôi nhận được đơn đặt hàng khoảng 150.000 sản phẩm
mỗi tháng, những tháng bị ảnh hưởng số lượng giảm xuống còn 120.000 sản phẩm,
còn từ tháng 9 trở đi số lượng tăng khoảng 200.000 sản phẩm/tháng” - ông Hồng nói.
Tuy nhiên, cơ chế giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam của Bộ
thương mại Mỹ chưa được gỡ bỏ, do vậy dù hợp đồng đang có xu hướng tăng lên
nhưng các nhà xuất khẩu luôn phải dặn dò nhau vừa làm vừa…đếm.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
I. Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu là động lực tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát
triển cơ sở hạ tầng. Xét 1 cách cụ thể, xuất khẩu có vai trò rất lớn trong nền kinh tế.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước…
Do đó việc xuất khẩu được càng nhiều hàng hoá sẽ tạo điều kiện thu được nhiều
nguồn vốn nhằm phát triển đất nước. Đồng thời, xuất khẩu quyết định quy mô và
tốc độ tăng của nhập khẩu.
Xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng
ngoại. Sự tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế có
thể được nhìn nhận theo các hướng sau : Xuất khẩu các sản phẩm của nước ta ra
nước ngoài, xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho những ngành liên quan phát triển,
xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, khai thác tối đa sản xuất
trong nước, cung cấp đầu vào cho sản xuất.
Xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới
bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế nước ta.
Thông qua xuất khẩu, hành hoá của Việt Nam sẽ được tiếp xúc và tăng được
khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới cả về giá cả, chất lượng.
Xuất khẩu còn giúp các doanh nghiệp có động lực tự phấn đấu vươn lên hoàn
thiện chất lượng và hạ giá thành cho các sản phẩm của mình. Từ đó, sản phẩm của
họ có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế đầy khốc liệt, với sức đào thải lớn đối
với những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của
nước ta.
II. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ thời gian qua
dưới sức ép của luật hải quan nước này
1. Đặc điểm và vai trò của ngành dệt may Việt Nam
1.1. Đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Ngày nay, khi đời sống con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu thẩm
mỹ ăn mặc cũng được nâng cao theo đó. Và các sản phẩm hàng dệt may chính là
biểu tượng của trình độ và tình trạng tiêu dùng của xã hội.
1.2. Vai trò của ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam cũng như nhiều ngành kinh tế khác đã có những
đóng góp to lớn trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, góp phần tạo công ăn
việc làm, tăng thu ngoại tệ…thông qua đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước có nền
kinh tế phát triển. Hiện nay, dệt may đứng ở vị trí thứ 2 sau dầu thô về giá trị xuất
khẩu.
Sau Hiệp định thương mại Việt Mỹ, việc xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam
sang thị trường Mỹ gặp nhiều thuận lợi hơn. Do đó, hoạt động xuất khẩu mặt hàng
này được thu hút được nhiều ngoại tệ đẩy mạnh phát triển kinh tế xược hội.
Có thể nói thông qua việc xuất khẩu dệt may sang thị trường thế giới được và
đang đem lại cho chúng ta cơ hội phát triển nền kinh tế, giảm thiểu tỷ lệ thất
nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân.
2. Phân tích các tác động của luật Hải quan Hoa Kỳ áp dụng đối với hoạt động
xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
2.1. Hạn ngạch nhập khẩu
Theo quy định của hải quan Hoa Kỳ,phần lớn các quota nhập khẩu do Cục hải
quan Mỹ(US Customs Service) quản lý. Hội đồng hải quan (Commissioner of
Customs) kiểm soát việc nhập khẩu hàng theo quota nhưng không có quyền cấp,
hay thay đổi quota.
Quota nhập khẩu của Mỹ có thể chia thành 2 loại:
- Hạn ngạch giảm thuế (Tariff - rate quota): quy định số lượng của mặt hàng
đó được nhập vào với mức thuế giảm trong một thời gian nhất định. Không có hạn
chế về số lượng nhập vào đối với mặt hàng này, nhưng số lượng nhiều hơn mức
quota cho thời gian đó sẽ bị đánh thuế nhập khẩu cao hơn.
- Hạn ngạch tuyệt đối (Absolute quota) là hạn ngạch về số lượng, tức là số
lượng vượt quá hạn ngạch cho phép sẽ không được nhập vào Mỹ trong thời hạn của
quota. Một số quota là áp dụng chung, còn một số thì chỉ áp dụng riêng đối với một
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
số nước. Hàng nhập quá số lượng theo quota sẽ phải tái xuất hoặc lưu kho trong
suốt thời hạn của quota.
Các điều khoản vi phạm luật lệ trong thương mại:
- Người vi phạm luật pháp về nhập khẩu hàng hoá, kể cả hàng giả sẽ bị phạt tù
hoặc phạt tiền. Hàng hoá của người vi phạm có thể bị tịch thu, hoặc bị tạm giữ để
đảm bảo việc nộp phạt.
- Luật Mỹ quy định các vi phạm việc kê khai sai lệch với Hải quan Mỹ có thể
bị tù tối đa 2 năm, hoặc 5000 USD hoặc cả hai loại cho mỗi lần vi phạm hoặc cố
tìm cách vi phạm.
-Các vi phạm về nhập khẩu hàng hoá trái phép có thể bị xử tù đến 20 năm
hoặc phạt tiền đến 500.000 USD hoặc cả hai, cho mỗi lần vi phạm.
Chính điều này đã gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam khi muốn xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ.Rất nhiều doanh nghiệp dệt may
vừa và nhỏ Việt Nam mới chỉ chân ướt chân ráo làm quen với thị trường Hoa Kỳ
đã vấp phải những cú sốc về hạn ngạch nhập khẩu và thuế của nước này.Chính cú
sốc đó đã khiến nhiều doanh nghiệp đang hăm hở với dự định xâm nhập vào thị
trường tiềm năng này đành phải rút lui trong luyến tiếc.Có hiện tượng này là do,các
doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ của Việt Nam có lượng vốn thấp,ít kinh nghiệm
cạnh tranh trên thị trường quốc tế,nên chưa kịp thu lợi nhuận từ hoạt động xuất
khẩu sang thị trường Hoa Kỳ thì đã bị những khó khăn về thuế nhập khẩu quá
cao,hạn ngạch nhập khẩu thì quá chặt chẽ đánh gục.
2.2. Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barrier)
Từ trước những năm 1980, cách tiếp cận và ứng phó với các vấn đề ô nhiễm
theo hướng chính “kiểm soát ô nhiễm" hay còn gọi là “phản ứng và xử lý”. Trên
thực tế mọi giải pháp xử lý chất thải trên được thực hiện sau khi đã có chất thải, là
hình thức chuyển trạng thái ô nhiễm từ dạng này sang dạng khác sao cho giảm về
lượng cũng như mức độ ô nhiễm và độc hại. Các công nghệ kiểm soát ô nhiễm (các
nhà máy xử lý nước thải, thiết bị xử lý khí thải như lọc ướt, cyclon lọc bụi, lò đốt,
bãi chôn lấp) được triển khai ở các nhà máy.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong vòng những năm 80 trở lại đây, “sản xuất sạch hơn” được áp dụng rộng
rãi ở các nước trên thế giới với mục đích giảm phát thải vào môi trường tại nguồn
trong các quá trình sản xuất, sản xuất sạch hơn là cách tiếp cận chủ động, theo
hướng “dự đoán và phòng ngừa” ô nhiễm từ chất thải phát sinh trong các hoạt động
sản xuất công nghiệp.
Ở nước ta, sản xuất sạch hơn được đưa vào áp dụng từ năm 1996 và triển khai
từ năm 1998 tập trung ở một số ngành công nghiệp như giấy, dệt - nhuộm, thực
phẩm (chế biến thuỷ sản và bia), vật liệu xây dựng và gia công kim loại với trên
130 doanh nghiệp thuộc 28 tỉnh và thành phố và bước đầu mang lại những lợi ích
kinh tế và môi trường thông qua tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, hoá chất, nước,
giảm thiểu chất thải trong sản xuất
Thực chất, tiêu chuẩn Greentrade Barrier - tiêu chuẩn thương mại “xanh”,
cũng chính là một rào cản thương mại xanh. Rào cản thương mại xanh được áp
dụng đối với hàng may mặc là đòi hỏi các sản phẩm phải đáp ứng được các tiêu
chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khỏe đối với người sử dụng, không gây ô
nhiễm môi trường trong sản xuất, bắt buộc các nhà xuất khẩu phải tuân thủ. Một
liên hệ thực tế, tình trạng trên đã xảy ra đối với hàng dệt may của Trung Quốc, thì
tất yếu sẽ xảy ra đối với ngành Dệt May của Việt Nam và các nước châu Á khác.
Như vậy là, trong cuộc cạnh tranh quyết liệt sau khi hạn ngạch dệt may được rỡ bỏ
và một số tiêu chuẩn được các thị trường EU, Mỹ, Nhật... áp dụng, thì rào cản
thương mại “xanh” là một thách thức, trở ngại lớn đối với tất cả các nước xuất khẩu
hàng dệt may vào các thị trường nói trên.
Đối với quá trình sản xuất, sản xuất sạch hơn bao gồm giảm tiêu thụ nguyên
liệu, năng lượng cho 1 đơn vị sản phẩm, loại bỏ tối đa các vật liệu độc hại, giảm
lượng và mức độ độc hại của tất cả các dòng thải trước khi ra khỏi quá trình. Đối
với sản phẩm, sản xuất sạch hơn tập trung làm giảm các tác động tới môi trường
trong suốt vòng đời của sản phẩm kể từ khi khai thác nguyên liệu thô đến khi thải
bỏ cuối cùng. sản xuất sạch hơn yêu cầu từng bước cải tiến công nghệ hiện có và
dần thay thế bằng những công nghệ tốt và công nghệ sạch.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong ngành dệt nhuộm, 12 doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn với
khoản đầu tư 2 tỷ đồng đã tiết kiệm 12 tỷ đồng/năm thông qua việc giảm tiêu thụ
tài nguyên và nhiên liệu hàng năm như điện 7.750 Mwh; dầu FO 7.327 tấn; nước
971.000m3, hoá chất và chất trợ 380 tấn và thuốc nhuộm giảm 45 tấn; lượng nước
thải giảm 971.000m3.
Có thể nói con số 130 doanh nghiệp triển khai sản xuất sạch hơn là quá nhỏ so
với số doanh nghiệp hiện có trong cả nước.Trong khi ấy, tiềm năng sản xuất sạch
hơn trong công nghiệp Việt Nam là rất lớn và tiềm năng giảm lượng chất thải và
chất ô nhiễm môi trường cũng rất cao: tiết kiệm điện năng 20 – 50%, tiết kiệm
nước 40 – 70%, giảm hiệu ứng nhà kính 20 – 25%, giảm các chất độc hại tạo thành
chất thải nguy hiểm 50 – 100%…
Một thực tế đặt ra đối với ngành Dệt May Việt Nam là cho đến nay, việc sản
xuất các sản phẩm “xanh” chưa được quan tâm áp dụng đúng mức. Một số nhà
quản lý, điều hành doanh nghiệp còn chưa được trang bị kiến thức hoặc hiểu biết
còn hạn chế về những yêu cầu “xanh” đối với các sản phẩm dệt may xuất khẩu.
Ngoài ra, phần lớn các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm-hoàn tất vẫn
còn sử dụng một số hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm và các hóa chất gây ảnh
hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, sức khỏe người lao động và thậm chí
đến cả người sử dụng sản phẩm. Có thể nêu lên vài ví dụ nổi bật sau. Trong hồ sợi,
ngày càng sử dụng nhiều hóa chất độc hại đến nguồn nước, làm tăng tải lượng
COD (nhu cầu oxy hóa học) trong nước thải khó xử lý vi sinh. Nước thải rũ hồ
thông thường chứa 4000-8000 mg/l COD. Kỹ thuật “giảm trọng” polieste bông
kiềm được áp dụng phổ biến làm sản sinh một lượng lớn terephtalat và glycol trong
nước thải sau sử dụng 5-6 lần, đưa COD có thể lên tới 80.000 mg/l. Trong thành
phần nước thải của các công ty, nhà máy dệt-nhuộm hiện nay, có khoảng 300-400
mg/l COD (đã vượt tiêu chuẩn nước thải loại B 3-4 lần) dự đoán sẽ tăng lên mức
700-800 mg/l và có thể còn tăng hơn nữa trong tương lai.
Nếu như tình hình ô nhiễm môi trường, trước hết là “nhiễm nước thải không
được kiểm soát, thì các doanh nghiệp dệt-nhuộm phải đương đầu với nhiều vấn đề
nghiêm trọng, phải tốn rất nhiều kinh phí cho việc xử lý môi trường, mới đáp ứng
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
được các tiêu chuẩn quy định về môi trường, cũng như để phát triển sản xuất, xuất
khẩu bền vững, đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn thân thiện về môi trường.
Để giải quyết được tình trạng trên, đòi hỏi trước tiên vẫn là ý thức của nhà sản
xuất trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về vệ sinh xanh sạch trong sản xuất. Các
doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu cần rà soát một cách kỹ lưỡng, cẩn thận những
hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm đang sử dụng (bao gồm cả hàng nhập khẩu và
sản xuất trong nước), phải biết rõ nguồn gốc, xuất xứ của chúng và cần có “hồ sơ”
của từng loại hóa chất, chất trợ, từng mẫu thuốc nhuộm. Đó là “Phiếu các số liệu an
toàn” (safety data sheets) mà các hãng sản xuất hóa chất, thuốc nhuộm đều có.
Thay thế vào đó là những hóa chất , chất phụ trợ thân thiện với môi trường, các
thuốc nhuộm biết rõ nguồn gốc xuất xứ, chất lượng tốt, loại mới, không độc hại và
ít ô nhiễm môi trường. Song song với hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm (dùng cả
trong nhuộm và in hoa) là công nghệ áp dụng và máy móc thiết bị tương ứng.
Mặc dù, trong một vài năm gần đây, trong chiến lược tăng tốc, nâng cao chất
lượng hàng dệt may, tạo vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, ngành dệt may
nước ta đã chú trọng đáng kể đầu tư vào khâu nhuộm-hoàn tất. Nhiều loại máy
móc, thiết bị tốt, mới, hiện đại đã được đầu tư có chiều sâu, như các máy văng sấy
Monforts, máy nhuộm liên tục Monforts ở Công ty Dệt Việt Thắng; các máy in lưới
quay Stork, máy in lưới phẳng Buser ở hai Công ty Dệt May Thắng Lợi và Dệt 8/3;
các máy nhuộm khí động lực” (Air-Jet) do được chế tạo ở Dệt kim Đông Xuân và
Dệt 8/3; máy làm bóng trục mới của Công ty Dệt Nam Định, hệ thống máy xử lý
trước - xử lý hoàn tất vải pha len của Công ty Dệt lụa Nam Định và Công ty 28 (Bộ
Quốc phòng).
Song nhìn một cách tổng thể, phần lớn ngành nhuộm-in hoa-xử lý hoàn tất của
các sản phẩm dệt may Việt Nam vẫn còn đang áp dụng các công nghệ và máy móc
thiết bị cũ, lạc hậu, theo lối thủ công -“truyền thống”. Do đó, năng suất chưa cao,
chất lượng chưa thật tốt và sử dụng nhiều hóa chất, thuốc nhuộm, tốn nhiều nước
và năng lượng, giá thành cao đã làm giảm tính cạnh tranh trên thương trường. Đồng
thời, còn để lại hậu quả là lượng nước thải nhiều và bị ô nhiễm nặng nề đến môi
trường, gây rất tốn kém về tiền của khi phải xử lý nước thải.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Để phát triển bền vững, tăng trưởng mạnh, tạo sức mạnh cạnh tranh với các
nước xuất khẩu hàng dệt may trên thị trường rộng lớn và “khó tính” như: Mỹ,đã
đến lúc ngành dệt may Việt Nam cần chuyển mạnh từ các công nghệ và thiết bị
truyền thống sang loại hình sản xuất “thân thiện với môi trường”, sản xuất sạch
hơn, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả cao các hóa chất – chất phụ trợ,
thuốc nhuộm, hơi, điện, nước với các máy móc thiết bị phù hợp, nhất là các loại
mới tiên tiến, hiện đại...
Ngoài ra, các vấn đề tiêu chuẩn hàng hóa và môi trường cũng cần được ưu
tiên lên hàng đầu trong chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh không chỉ của
doanh nghiệp mà phải phát động ra toàn ngành, trong tất cả các công đoạn của quá
trình sản xuất. Căn cứ vào các tiêu chuẩn và các yêu cầu sinh thái của hàng dệt may
nhập khẩu vào các thị trường EU, Nhật Bản và Bắc Mỹ, ngành Dệt May Việt Nam
cần xây dựng ngay những tiêu chuẩn cấp nhà nước, cấp Bộ, cấp ngành để làm cơ sở
phấn đấu cho các doanh nghiệp xuất khẩu, để nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của
hàng hóa. Những tiêu chuẩn như thế sẽ tạo ra những sức ép “bên trong” nhằm tạo
ra các sản phẩm “xanh” phù hợp. Việc làm này, nước láng giềng Trung Quốc bắt
đầu đặc biệt quan tâm đến đầu tư chuyển hướng sản xuất gắn với bảo vệ môi
trường sau hàng loạt các đơn hàng bị từ chối và phải bồi thường gây tốn kém. Đối
với ngành Dệt May Việt Nam, cho đến nay vấn đề này vẫn còn coi nhẹ, các doanh
nghiệp vẫn còn thờ ơ với các tiêu chuẩn mà đối tác nhập khẩu đặt ra.
2.3. Áp đặt thuế chống bán phá giá
Trong những ngày gần đây, các doanh nghiệp và cơ quan quản lý đang đau
đầu trước quyết định mới của phía Mỹ về việc sẽ theo dõi lượng hàng dệt may nhập
khẩu từ VN và tiến hành điều tra nếu thấy có dấu hiệu bán phá giá.
Động thái này nhằm dỡ bỏ đề nghị ngừng đưa ra dự luật về Quy chế thương
mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với VN ra xem xét của hai Thượng Nghị sỹ Mỹ
Elizabeth Dole và Lindsey Graham.Theo bình luận của Hiệp hội Dệt may thì “quy
định này còn tệ hơn là áp dụng hạn ngạch”.
Nhưng theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS)
cho biết: Số liệu 6 tháng do phía Hoa Kỳ ghi nhận cho thấy, hàng dệt may Việt
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ không có đột biến về số lượng và giá bán. Đây là cơ sở
để khẳng định: hàng dệt may không bán phá giá vào thị trường Hoa Kỳ.
Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành
ước đạt 3.488 triệu USD, tăng 26,3% so với cùng kỳ, trong đó, theo số liệu của hải
quan Mỹ, hàng dệt may Việt Nam nhập vào nước này đạt trị giá 1.973 triệu USD,
tăng 20,7% so với cùng kỳ. Đơn giá bình quân của sản phẩm (giá 1m2 quy đổi khi
nhập khẩu vào Mỹ) của 6 tháng qua cũng chỉ đạt 3 USD/m2, cao gấp 2 lần so với
mức 1,5 USD/m2 từ Trung Quốc và mức 1,8 USD/m2 từ các thị trường còn lại trên
thế giới nhập khẩu vào Mỹ. Điều này phản ánh rằng, doanh nghiệp Việt Nam
không giảm giá để bán phá giá.
Vừa qua, Bộ Công thương Việt Nam đã có quyết định không cho tạm nhập
tái xuất hàng để hạn chế tiêu cực về chuyển tải bất hợp pháp. Điều này chứng tỏ
với phía Mỹ rằng, Việt Nam quản lý chặt và đúng đắn, để họ có thể yên tâm. Bộ
Công thương cũng cho biết sẽ cùng với VITAS tăng cường tiếp cận mạnh hơn nữa
với các giới chức Mỹ, với Bộ Thương mại Mỹ, nhất là trong chuyến thăm của Bộ
trưởng Bộ Thương mại Mỹ dự kiến vào tháng 10 đây để tiếp tục vận động họ bỏ cơ
chế giám sát, hoặc giảm số lượng nhóm giám sát… đối với hàng dệt may Việt
Nam.
2.4. Các quy định khác của hải quan Mỹ
2.4.1. Những quy định về những sản phẩm là hàng dệt
Các sản phẩm sợi dệt nhập khẩu phi có tem, mark, mã theo quy định tại
"Texxtile Fiber Products Identification Act", trừ khi được miễn trừ theo như điều
khoản 12 của luật này:
- Tên và tỷ lệ trọng lượng của các thành phần sợi lớn hơn 5% trong sản phẩm,
các thành phần sợi nhỏ hơn 5% được ghi là "các sợi khác".
- Tên hãng sản xuất và tên hoặc số đăng ký do Federal Trade Commission
(FTC) cấp, của một hoặc nhiều người bán các sản phẩm sợi này. Tên nhãn hiệu đã
được đăng ký tại Mỹ có thể được ghi trên nhãn mark, nếu nhãn mark này được gửi
đến FTC.
- Tên của nước nơi đã gia công hoặc sản xuất.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chính vì những quy định khắt khe này nên các doanh nghiệp Việt Nam đôi
khi vì thiếu hiểu biết,hay ít cập nhật thông tin,hoặc do đơn đặt hàng của các đối tác
Hoa Kỳ không yêu cầu rõ ràng về mẫu mã,bao gói của sản phẩm,dẫn đến hàng loạt
các sản phẩm dệt may của Việt Nam bị hải quan Mỹ trả về.Và người chịu mọi thiệt
thòi ở đây không ai khác chính là các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.Đây cũng là
những hiện tượng thường thấy,khi các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu các sản
phẩm nói chung và hàng dệt may nói riêng sang thị trường Hoa Kỳ.
2.4.2. Quy định về thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền
Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã
đăng ký bản quyền của một công ty Mỹ hoặc nước ngoài, sẽ bị cấm nhập khẩu vào
Mỹ. Một bản sao đăng ký nhãn hiệu ở Mỹ sẽ phảii nộp cho Uỷ ban Hải quan và
được lưu giữ theo quy định.
Cục Hải quan Mỹ cũng có những quy định tương tự đối với các chuyến hàng
mang các tên thương mại trái phép. Các thương hiệu phải được đăng ký tại Hải
quan theo quy định.
Việc nhập khẩu hàng hoá có nhãn hiệu thương mại gốc thuộc sở hữu của một
công dân hoặc một công ty Mỹ bị coi là trái phép nếu không được sự đồng ý của
người chủ sở hữu nhãn hiệu đó. Hoặc không phải là công ty chính hay chi nhánh
của công ty đó, hoặc có chung quyền sở hữu nhãn hiệu đó, tuy nhiên nhãn hiệu này,
phải được đăng ký với Hải quan.
"Nhãn hiệu giả" là một nhãn hiệu giống hệt hoặc gần giống hệt với một nhãn
hiệu đã đăng ký. Hàng nhập khẩu có nhãn hiệu giả sẽ bị tịch thu sung công quỹ liên
bang hoặc chính quyền địa phương, hoặc chuyển cho các cơ quan từ thiện, hoặc
bán đấu giá nếu trong vòng một năm không có cơ quan nào cần sử dụng. Tuy
nhiên, luật pháp cũng châm chước cho một số mặt hàng nhất định đi theo người
vào Mỹ là hàng cá nhân sử dụng, không phải hàng để bán.
Phần 602 (a) thuộc Copyright Act năm 1976 quy định rằng nhập khẩu vào Mỹ
các bản sao chép từ nước ngoài mà không được phép của người có bản quyền và vi
phạm luật bản quyền sẽ bị bắt giữ và tịch thu,các bản sao sẽ bị huỷ.Tuy nhiên các
hàng hoá này có thể được trả lại nước xuất khẩu nếu chứng minh thích đáng cho cơ
Website: Email : Tel (: 0918.775.368