Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán và những điều kiện để thành lập một thị trường chứng khoán ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.64 KB, 30 trang )

Mục lục

Trang
Lời nói đầu 2
Ch ơng I : Những vấn đề cơ bản về TTCK 3
I- TTCK và vai trò của nó. 3
II - Các công cụ của TTCK 5
III- Sở giao dịch chứng khoán 10
Ch ơng II : Điều kiện hình thành TTCK ở Việt Nam 12
thực trạng vài giải pháp.
1. Về
yếu tố con ngời và bộ máy quản lý TTCK. 12
2. Về
hàng hoá của TTCK 13
3. Đổ
i mới công nghệ quản lí và phát triển các dịch vụ 16
4. Tri
ển khai công tác kiểm toán, kế toán theo thông lệ quốc tế 17
5. Việ
c trang bị hệ thống thông tin kinh tế 18
6. Về
hệ thống pháp luật 19
7. Về
tổ chức quản lý của Nhà nớc đối với TTCK 20
8. Th
ành lập các quỹ đầu t và cải cách hệ thống thanh toán 22
9. ổn
định nền kinh tế vĩ mô và xã hội. 22
10. Tổ
chức hệ thống quản lý và môi giới chứng khoán 24
Kết luận 26


Lời nói đầu

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua những
thời điểm thử thách gay go nhng vẫn đứng vững và đạt đợc những kết quả
đáng khích lệ: Tốc độ tăng trởng trung bình đạt khá cao và đang đi vào thế
ổn định, đời sống các tầng lớp nhân dân đợc cải thiện đáng kể; hoạt động sản
xuất kinh doanh đợc chấn chỉnh và đi vào nề nếp; các nguồn tiền tệ tích tụ
trong nền kinh tế đã đợc động viên, khai thác bằng nhiều hình thức khác
nhau để đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho tăng trởng và phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, sự phát triển của thị trờng vốn ở Việt Nam cho tới nay còn có
nhiều hạn chế cần phải khắc phục và đòi hỏi phải có một công cụ quan trọng
để nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trờng vốn là thị trờng chứng khoán.
Vậy thị trờng chứng khoán là gì? Hoạt động của nó nh thế nào? Những điều
kiện gì để có thể thành lập đợc một thị trờng chứng khoán ở Việt Nam? Đó
là những câu hỏi sẽ đợc giải đáp trong đề án mang tên gọi:
Những vấn đề cơ bản về thị trờng chứng khoán và những điều kiện để
thành lập một thị trờng chứng khoán ở Việt Nam.
Lần đầu tiên đợc nghiên cứu và viết đề án của một môn học có tính kinh tế
và logíc cao; đồng thời chủ đề lại là một vấn đề khá mới mẻ với đại bộ phận
công chúng Việt Nam, do vậy đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót
cần bổ sung. Em rất mong có sự đóng góp ý kiến của thầy giáo và các bạn để
bài viết đợc hoàn chỉnh hơn.
Em xin gửi tới thầy giáo hớng dẫn Nguyễn Hữu Tài lời cảm ơn chân thành
nhất vì đã tạo điều kiện cho em hoàn thành đề án này.
Sinh viên thực hiện

Chơng i
Những vấn đề cơ bản về
thị trờng chứng khoán
I- thị trờng chứng khoán (TTCK) và vai trò của nó.

1. Thị trờng chứng khoán là gì?
Thị trờng chứng khoán là thị trờng cao cấp, phức tạp mà hàng hoá giao dịch
là những chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu )
Cổ phiếu là chứng chỉ đầu t vốn, nó chứng nhận ngời sở hữu cổ phiếu đã góp
một số vốn nhất định (ghi trên cổ phần) vào việc đầu t của công ty cổ phần.
Ngời sở hữu cổ phiếu có quyền tham gia vào hoạt động của công ty với t
cách là đồng sở hữu vốn và phải chịu trách nhiệm hữu hạn đối với số vốn
góp.
Trái phiếu là chứng chỉ cho vay vốn, nó chứng nhận cho việc ngời sở hữu trái
phiếu đã cho ngời phát hành vay một số tiền nhất định trong một thời hạn
nhất định và với một tỷ lệ lãi nhất định.
Các nguyên tắc về qui luật cung - cầu cũng đợc áp dụng tơng tự đối với thị
trờng này và điều này tạo nên sự biến động về giá cả các chứng khoán. Khi
mức cầu vợt quá mức cung, nghĩa là số ngời mua nhiều hơn số ngời bán thì
giá cả của các chứng khoán sẽ cao hơn thị giá bình quân và ngợc lại. Song,
quan hệ cung - cầu về chứng khoán phần lớn lại phụ thuộc vào tình hình hoạt
động của cơ quan phát hành ra nó. Nếu nh công ty phát hành đang làm ăn có
hiệu quả cao thì giá chứng khoán của họ sẽ tăng lên và ngợc lại sẽ làm cho
giá chứng khoán của họ giảm xuống. Chẳng hạn nh việc chạy đua vũ trang
làm tăng thêm các đơn đặt hàng quân sự sẽ đem lại những món lợi nhuận
khổng lồ cho các tập đoàn công nghiệp quân sự, đồng thời cũng làm cho giá
cổ phiếu của những công ty này tăng vọt. Ngoài ra, diễn biến chính trị cũng
ảnh hởng đế giá cả của các chứng khoán. Nếu nh tình hình chính trị của nơi
nào đó không ổn định thì chắc chắn giá cả các chứng khoán nơi đó sẽ hạ
mạnh.
Bên cạnh ba nhân tố cơ bản nêu trên thì giá chứng khoán còn bị ảnh hởng bởi
các nhân tố khác nh: biến động giá cả của những mặt hàng chiến lợc, sức
mua đồng tiền trong nớc và ngoại tệ, tỷ lệ lam phát, chính sách tiền tệ và tín
dụng của Nhà nớc.
Thị trờng chứng khoán đợc các nhà kinh tế học gọi là phong vũ biểu của

nền kinh tế (The berometer of the economic); việc dự đoán nền kinh tế có
chiều hớng tăng trởng sẽ thu hút các nhà đầu t tăng cờng đầu t hơn nữa và
khi nền kinh tế có xu hớng suy thoái sẽ làm giảm bớt ý định đầu t của các
nhà đầu t.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của các loại chứng khoán mà dẫn tới
việc phân chia thị trờng chứng khoán thành hai loại thị trờng là thị trờng sơ
cấp (thị trờng cấp I - primary market) và thị trờng thứ cấp (thị trờng cấp II -
secondary market).
Tại thị trờng sơ cấp, các chứng khoán đợc phát hành ra lần đầu và nó liên
quan trực tiếp đến ngời phát hành, ngời đầu t trực tiếp và các tổ chức đại lý
phát hành. Vốn đầu t trực tiếp thực sự tăng lên ở thị trờng này.
Thị trờng thứ cấp là thị trờng lu thông các loại chứng khoán đợc phát hành
tại thị trờng sơ cấp. Thị trờng này có chức năng quan trọng là thực hiện việc
di chuyển vốn đầu t của các nhà đầu t nhng nó lại không làm tăng vốn đầu t
trực tiếp.
2. Vai trò và những hạn chế của thị trờng chứng khoán.
TTCK đóng vai trò quan trọng trong quá trình huy động vốn dành cho sản
xuất và kinh doanh, đồng thời cũng là nhân tố có tác động mạnh đến nền
kinh tế của bất kỳ quốc gia nào có nó hoạt động. Vai trò của thị trờng chứng
khoán thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
- TTCK cho phép các tổ chức kinh doanh huy động thêm vốn một cách dễ
dàng hơn so với nhiều hình thức huy động vốn khác.
- Thông qua thị trờng chứng khoán, Chính phủ có thể phát hành trái khoán
huy động vốn trong và ngoài nớc để xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc bù đắp
thiếu hụt trong ngân sách việc phát hành chứng khoán của Chính phủ cùng
với sự tơng trợ của hệ thống tài chính quốc gia sẽ giúp Chính phủ điều chỉnh
đợc những biến động mạnh của thị trờng tiền tệ và thị trờng vốn.
- TTCK tạo ra một thị trờng cấp II mà có thể cho phép các tổ chức tài chính
và ngời tiết kiệm di chuyển vốn qua lại một cách dễ dàng. Với sự đa dạng
của các công cụ trên TTCK sẽ cho phép các nhà đầu t có nhiều khả năng lựa

chọn các hình thức đầu t thích hợp và phân tán đợc rủi ro.
- TTCK có thể thu hút một lợng vốn lớn từ nớc ngoài với các dự án đầu t trên
các lĩnh vực khác nhau.
Tuy vậy, bên cạnh vai trò tích cực, TTCK cũng bộc lộ một số những nhợc
điểm mà có khả năng tác động xấu đến nền kinh tế:
- TTCK khuyến khích t tởng đầu t đối với cá nhân cũng nh tổ chức Kinh tế,
do vậy nó sẽ làm huỷ hoại những thông tin kinh tế chính xác và thay vào đó
là những thông tin không chuẩn xác do các cá nhân hoặc tổ chức đó đa ra
nhằm thu lợi cho mình nhiều nhất.
- TTCK rất dễ dàng trở thành môi trờng cho việc phân phối mất cân bằng
giữa các tầng lớp dân c và ngày càng làm khoảng cách thu nhập lớn dần.
- TTCK nếu không có sự kiểm soát của Nhà nớc sẽ làm tổn hại đến các quyết
định đầu t, làm rối loạn các thị trờng khác mà đặc biệt là thị trờng hạn chế
của TTCK sẽ giúp cho chúng ta trong việc chủ động xây dựng và điều hành
TTCK, tạo điều kiện phát triển đất nớc.
II- Các công cụ của thị trờng chứng khoán.
Công cụ của TTCK là các chứng khoán. Chứng khoán là những giấy tờ
có giá, xác định số vốn đầu t và xác nhận quyền đòi nợ hoặc quyền tham gia
sở hữu, bao gồm những điều kiện về thu nhập trong một thời gian nào đó và
có khả năng chuyển nhợng.
Tuỳ theo mỗi loại chứng khoán mà các nhà đầu t sẽ có hình thức đầu t
phù hợp và cũng có rất nhiều tiêu thức để phân chia các công cụ trên TTCK.
Để dễ phân biệt, ngời ta chia các công cụ của TTCK theo hai tiêu thức:
Chứng khoán theo khả năng chuyển nhợng và chứng khoán theo khả năng
thu nhập.
1. Chứng khoán theo khả năng chuyển nhợng:
Bao gồm 2 loại:
- Chứng khoán vô danh: Là giấy xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi
nợ không ghi tên. Loại này chuyển nhợng dễ dàng, giá cả tuỳ thuộc vào sự
thoả thuận của ngời mua và ngời bán.

- Chứng khoán ghi danh: Là giấy xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền
đòi nợ có ghi tên. Loại này chuyển nhợng đợc nhng phải tuân theo các qui
định cụ thể về mặt pháp lí. Nếu muốn chuyển nhợng thì ngời sở hữu phải
chứng minh mình là ngời đợc phép và có quyền chuyển nhợng thông qua các
hình thức nh: Xác nhận chữ ký, chứng minh th, có tên trên danh sách các cổ
đông của công ty
2. Chứng khoán theo khả năng thu nhập:
Bao gồm có 3 loại:
- Chứng khoán có lãi suất cố định.
- Chứng khoán có thu nhập biến đổi.
- Chứng khoán hỗn hợp.
a. Chứng khoán có lãi suất cố định.
Chứng khoán có lãi suất cố định cung cấp một mức lãi suất đợc ấn định
trớc với cam kết hoàn trả trong khoảng thời gian quy định nào đó (hay là
ngày quy định) với giá đã định trớc (thờng là mệnh giá của chứng khoán).
Ngoài cổ phiếu u đãi (sẽ đợc trình bày ở phần sau) thì mọi chứng khoán có
lãi suất cố định đều là các khoản vay và ngời sử hữu nó là chủ nợ của đơn vị
phát hành, cho dù đó là chính phủ hay bất kỳ công ty, tổ chức nào.
Chứng khoán có lãi suất cố định bao gồm các loại sau:
- Trái khoán Nhà nớc hay công trái:
Trái khoán Nhà nớc là một loại của trái khoán đợc chỉ số hoá. Chính
phủ phát hành trái khoán Nhà nớc nhằm mục đích là bù đắp sự thiếu hụt
Ngân sách Nhà nớc, khó khăn về tài chính hoặc tạo nguồn vốn để xây dựng
các công trình công cộng.
Nếu trái khoán Nhà nớc phát hành trong nớc và đợc mua bán bằng đồng
nội tệ thì trái khoán Nhà nớc là một trong các bộ phận hình thành nên khoản
nợ của Nhà nớc. Nếu phát hành ở nớc ngoài và đợc mua bán bằng ngoại tệ
thì tạo nên khoản nợ nớc ngoài.Trái khoán Nhà nớc đợc bảo hộ chắc chắn, có
khả năng cầm cố hoặc chuyển nhợng. Ngân hàng Nhà nớc là nơi phát hành
các trái khoán Nhà nớc. Thời hạn lu thông trái khoán Nhà nớc là do Chính

phủ quy định (có thể là 5 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm).
-Trái khoán ngắn hạn của Nhà nớc
Trái khoán ngắn hạn của Nhà nớc khi đợc phát hành thờng áp dụng
hình thức bán với giá thấp hơn mệnh giá của trái khoán để khi hết hạn thì ng-
ời sở hữu sẽ nhận lại số tiền đúng bằng mệnh giá của trái khoán.
Ví dụ: Một trái khoán ngắn hạn của Nhà nớc có mệnh giá là 100USD,
thời hạn là 1 năm. Khi đợc bán ra thị trờng thì giá của nó là 92,5 USD và sau
1 năm thì ngời mua trái khoán này sẽ nhận đợc 100 USD (nghĩa là lãi của
trái khoán này là 7,5USD).
- Trái khoán của chính quyền địa phơng.
Chính quyền địa phơng (tỉnh, thành phố, vùng ) phát hành trái khoán
địa phơng với mục đích là vay vốn. Trái khoán địa phơng là khoản vay của
chính quyền địa phơng đối với các tổ chức, cá nhân mua chúng. Việc phát
hành trái khoán địa phơng phải đợc sự cho phép của Nhà nớc hoặc Uỷ ban
chứng khoán Quốc gia. Số tiền thu đợc do bán trái khoán sẽ đợc chính quyền
địa phơng sử dụng để nâng cấp, đầu t cho các công trình công cộng ở địa ph-
ơng.
- Trái khoán công ty (hay còn gọi là trái khoán công nghiệp)
Trái khoán công ty do các công ty cổ phần và các xí nghiệp có quy mô
lớn phát hành đa vào thị trờng vốn dới dạng phiếu nợ tầng phần và đợc đảm
bảo bằng tài sản của công ty hoặc xí nghiệp. Các công ty muốn phát hành
trái khoán phải đợc sự cho phép của Uỷ ban chứng khoán Quốc gia.
- Trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm.
Việc phát hành này nhằm tạo nguồn vốn cho các tổ chức ngân hàng
hoặc tổ chức tín dụng có liên quan. Trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ
tiết kiệm đợc phát hành với thời hạn và lãi suất khác nhau. Việc mua trái
phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm không phải trả lệ phí và đợc bảo
hiểm. Các ngân hàng và các quỹ tiết kiệm khi muốn phát hành trái phiếu
hoặc tín phiếu đều phải có sự cho phép của Uỷ ban chứng khoán quốc gia.
Bên cạnh đó, ngời ta còn sử dụng hình thức trái phiếu ngân hàng. ở

Việt Nam tín phiếu ngân hàng đợc gọi là tín phiếu ngân hàng hoặc chứng
chỉ tiền gửi.
Đây thực chất là công cụ vay nợ của ngân hàng bán cho ngời gửi tiền và
khi đến hạn thanh toán thì ngân hàng hoàn trả lại giá mua ban đầu cùng với
số tiền lãi.
Kỳ phiếu ngắn hạn của ngân hàng là món tiền mà chủ tài khoản trả cho
ngời thứ 3 thông qua ngân hàng. Đặc trng của nó là thay thế cho phơng tiện
lu thông tiền mặt trong một thời gian có kỳ hạn. Nó liên quan đến Ngân hàng
Trung ơng, lợng cung ứng tiền mặt; nó vừa là công cụ vay nợ, vừa là công cụ
thanh toán (ở nớc ta, kỳ phiếu ngắn hạn ngân hàng còn tồn tại dới dạng sổ
tiết kiệm)
- Tín phiếu kho bạc Nhà nớc.
Tín phiếu kho bạc Nhà nớc là những chứng khoán có lãi suất cố định,
có thời hạn ngắn (thờng từ 6 tháng đến 5 năm) do hệ thống kho bạc Nhà nớc
phát hành. Thông thờng thì tỷ lệ lợi tức của tín phiếu kho bạc Nhà nớc thấp
hơn tỷ lệ lợi tức trên thị trờng vốn trong cùng một thời điểm. Tín phiếu kho
bạc Nhà nớc đợc hệ thống kho bạc Nhà nớc và Ngân hàng Nhà nớc mua vào,
bán ra trong thị trờng nhằm điều chỉnh hoạt động của thị trờng tiền tệ.
b. Chứng khoán có thu nhập biến đổi.
Trong các loại chứng khoán có thu nhập biến đổi thì cổ phiếu mang tính
chất đặc trng nhất. Thu nhập do việc sở hữu cổ phiếu gọi là lãi cổ phần hay
còn gọi là cổ tức và thu nhập này biến động tuỳ theo kết quả hoạt động kinh
doanh của công ty phát hàng cổ phiếu. Ngời sở hữu cổ phiếu là các cổ đông
và những ngời này có cổ phần trong công ty, vì thế họ có quyền đòi đợc chia
phần trong thu nhập ròng và tài sản của hãng kinh doanh. Cổ phiếu đợc coi là
một chứng khoán dài hạn.
Trong tất cả các hình thức cổ phiếu, ngời ta thờng sử dụng các loại cổ
phiếu sau.
- Cổ phiếu u đãi.
Cổ phiếu u đãi là loại cổ phiếu đợc hởng quyền u tiên đặc biệt, đợc h-

ởng một mức lãi suất cố định hàng năm cho dù tình hình hoạt động kinh
doanh của công ty nh thế nào và vì thế nó cũng đợc xem xét nh một loại
chứng khoán có lãi suất cố định. Cổ phiếu này đợc u tiên nhận lãi cổ phần tr-
ớc và nhận phần tài sản còn lại trớc theo tỷ lệ khi công ty phá sản.
Cổ tức của loại cổ phiếu này bị giới hạn ở tỷ lệ cố định, do vậy thị giá
của các cổ phiếu này thờng có khuynh hớng phản ảnh những biến động của
mức lãi suất bởi vì thị giá bình quân của các cổ phiếu đợc tính theo công
thức sau:
Thị giá bình Mệnh giá x suất lợi tức cổ phiếu
quân của =
cổ phiếu Suất lợi tức tiền gửi ngân hàng
Những cổ tức thờng gộp lãi, nghĩa là nếu công ty gặp một năm hoạt
động kinh doanh khó khăn và không thể chi trả cổ tức cho cổ phiếu u đãi thì
số tiền thiếu sẽ phải đợc trả từ lợi nhuận của năm sau đó trớc khi các cổ đông
có các loại cổ phiếu khác nhận đợc cổ tức.
Trong trờng hợp cổ phiếu u đãi không gộp lãi thì công ty phát hành
không bị ràng buộc là phải trả bất kỳ khoản cổ tức đã qua nào mà cha trả.
Bên cạnh hình thức cổ phiếu u đãi, ngời ta còn sử dụng loại giấy tờ có
giá trị có thể mang lại cổ tức là phiếu tham gia góp vốn. Phiếu tham gia góp
vốn xác nhận sự tham gia đóng góp vào công ty cổ phần nhng không đợc
công nhận là thành viên (hay cổ đông) của công ty. Số vốn của những ngời
sở hữu phiếu tham gia góp vốn vào công ty đợc nằm riêng rẽ bên cạnh vốn
cổ phần. Ngời sở hữu phiếu tham gia góp vốn cũng có quyền nhận thu nhập
theo mức thu nhập dao động của các cổ phiếu thông thờng. Đối với các công
ty cổ phần thì việc phát hành phiếu tham gia góp vốn có u điểm là nhận đợc
khoản vốn bù đắp mà không cần phải thay đổi quan hệ sở hữu và quyền biểu
quyết. Về nguyên tắc thì ngời sở hữu phiếu tham gia góp vốn thờng nhận đợc
lợi tức cao hơn so với các cổ đông.
- Cổ phiếu thờng:
Cổ phiếu thờng là loại cổ phiếu do các công ty cổ phần phát hành để

thu hút vốn cho đầu t và sản xuất kinh doanh. Cổ đông thờng đợc hởng cổ
tức và tất cả các quyền đợc quy định đối với việc quản lý công ty.
- Bên cạnh đó còn có trái phiếu đợc chỉ số hoá:
Thông thờng trái phiếu đợc chỉ số hoá là các công trái của Nhà nớc đợc
phát hành khi chính phủ cần vay tiền trong dân. Loại trái phiếu này đợc quy
đổi giá trị và tính lãi suất theo vàng, bạc hoặc theo ngoại tệ mạnh.
c. Chứng khoán hỗn hợp .
Chứng khoán hỗn hợp là chứng khoán vừa mang tính chất có lãi suất cố
định, vừa mang tính chất có thu nhập thay đổi. Loại chứng khoán này chỉ đợc
phát hành khi đáp ứng những yêu cầu đặc biệt của thị trờng vốn.
Chứng khoán hỗn hợp bao gồm ba loại.
- Trái khoán công ty có khả năng chuyển đổi.
Loại trái khoán này cũng có một mức lãi suất cố định; nó bảo đảm cho
ngời sở hữu quyền đổi nó thành cổ phiếu với những điều kiện đã xác định.
Giá của loại trái khoán này có liên quan đến giá của cổ phiếu, nghĩa là phụ
thuộc vào chất lợng cổ phiếu của công ty. Ưu thế của loại trái khoán này là
ngời sở hữu nó đợc sự an toàn về đầu t nhờ vào sự chuyển đổi của dạng vốn,
còn đối với công ty phát hành là chỉ phải trả lãi suất thấp hơn so với trái
phiếu thông thờng và khi chuyển đổi trái phiếu thì công ty không phải hoàn
lại tiền vay.
- Trái khoán công ty có quyền mua cổ phiếu.
Loại này giống nh trái khoán công ty nói chung, nhng ngoài khoản lợi
tức cố định nhận đợc, nó còn có quyền mua một số lợng cổ phiếu nhất định
của công ty đang phát hành.
- Trái khoán công ty có thu nhập bổ sung.
Loại chứng khoán này đảm bảo một khoản lợi tức cố định nhng ngời sở
hữu có thể nhận đợc một khoản thu nhập bổ sung theo dao động tăng của cổ
tức mà các cổ đông đợc hởng.
3. Các kiểu phát hành cổ phiếu:
Có ba kiểu phát hành cổ phiếu:

- Phát hành khi mới thành lập công ty:
Việc phát hành này nói chung không dễ dàng bởi vì vấn đề chính
không phải là các thủ tục mà do công ty mới nói chung cha đủ uy tín để thu
hút cổ đông.
- Phát hành để tăng vốn:
Đây là hình thức phổ biến nhất trên thị trờng phát hành cổ phiếu. Điểm
cần lu ý nhất là khi đa ra các cổ phiếu mới sẽ ảnh hởng đến thị giá của các cổ
phiếu cũ. Giải pháp này ở đây là cần phải bù đắp chênh lệch giá cho các cổ
đông thông qua các phiếu lợi tức chia thêm có thể chuyển nhợng đợc tỷ lệ
thuận với số cổ phiếu họ nắm giữ. Thờng thì giá của các cổ phiếu mới là thấp
hơn giá thị trờng.
- Phát hành khống:
Đây là kiểu phát hành không làm tăng thêm vốn mà công ty thông qua
hình thức phiếu lợi tức chia thêm cấp không cho các cổ đông của mình các
cổ phiếu mới tỷ lệ với số lợng cổ phiếu họ nắm giữ. Các cổ phần mới này đợc
tạo ra từ khoản dự trữ vốn của công ty. Thực chất đây là chuyển đổi bản chất
vốn trong tài khoản nợ của công ty theo hớng có lợi cho các cổ đông.
III- Sở giao dịch chứng khoán (trung tâm dịch vụ chứng khoán).
Hoạt động của sở giao dịch chứng khoán gắn liền với hoạt động của các
trung tâm giao dịch khác nh giao dịch tiền tệ, giao dịch hàng hoá Sở giao
dịch chứng khoán chịu sự giám sát của Chính phủ mà trực tiếp nhất là Uỷ
ban chứng khoán quốc gia. Mỗi Sở giao dịch đều phải có một qui định giao
dịch và đợc Uỷ ban chứng khoán quốc gia chấp nhận.
Cơ cấu của sở giao dịch bao gồm:
- Hội đồng quản trị
- Trung tâm tiếp nhận chứng khoán
- Hội đồng môi giới.
- Uỷ ban giao dịch và hội đồng trọng tài
1. Hội đồng quản trị:
Hội đồng quản trị của Sở giao dịch chứng khoán là do các thành viên

chính thức của sở bầu ra trên nguyên tắc bỏ phiếu kín hoặc do Chính phủ cử
ra. Số thành viên của hội đồng quản trị tuỳ thuộc vào quy mô của sở giao
dịch và ghi trong điều lệ của Sở.
Nhiệm vụ của hội đồng quản trị là:
- Hớng dẫn của sở giao dịch.
- Ban hành quy chế giao dịch.
- Ban hành quy chế lệ phí giao dịch.
- Chuẩn y tiếp nhận thành viên của Sở.
- Xác nhận giá trị giao dịch công khai.
- Tiếp nhận chứng khoán và kinh doanh.
2. Trung tâm tiếp nhận chứng khoán:
Trung tâm tiếp nhận chứng khoán là nơi quyết định việc thu nhận
chứng khoán vào kinh doanh, giao dịch. Trung tâm sẽ xem xét các khía cạnh
về mặt pháp lý cũng nh kinh tế của các loại chứng khoán nhằm mục đích đa
các loại chứng khoán đó vào danh sách chính thức hay không chính thức
hoặc không đợc phép lu hành taị Sở giao dịch.
3. Hội đồng môi giới.
Hội đồng môi giới có nhiệm vụ đa ra những quy định về môi giới giá
chứng khoán, giám sát hoạt động của những ngời môi giới chứng khoán,
kiểm soát việc định giá công khai và dàn xếp các vụ tranh chấp giữa những
ngời mối giới giá.
Có hai loại môi giới là môi giới chính thức và môi giới tự do.
- Những ngời môi giới chính thức thờng do Chính phủ chỉ định, những
ngời có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính. Họ có
nhiệm vụ xác định giá chứng khoán cho ngày giao dịch.
- Những ngời môi giới tự do thờng là các thơng gia. Họ xác định giá và
kinh doanh chứng khoán theo cách tính toán riêng ngời môi giới tự do có
nhiệm vụ xác định giá cho những loại chứng khoán không đợc tiếp nhận vào
sở giao dịch nhng vẫn đợc lu thông tại đó.
Ngời môi giới là ngời bảo vệ quyền lợi cho khách hàng và là chất xúc

tác giúp cho quá trình mua bán diễn ra một cách trôi chảy.
4. Uỷ ban giao dịch và Hội đồng trọng tài.
Uỷ ban giao dịch của sở có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của các thành
viên tham gia Sở giao dịch. Uỷ ban có thể xử lý bằng nhiều hình thức tuỳ
theo mức độ vi phạm của các thành viên nh phạt tiền, ngừng tham gia một
thời gian
Hội đồng trọng tài do hội đồng quản trị của Sở lập ra, có nhiệm vụ giải
quyết những tranh chấp trong kinh doanh.

Chơng II
Điều kiện hình thành thị trờng chứng khoán
ở việt nam - thực trạng và giải pháp.
Sau gần 10 năm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ chế độ quản lí kinh tế
quan liêu báo cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trờng có sự điều tiết của Nhà nớc theo định hớng XHCN, Việt
Nam đã đạt đợc những thành tựu đáng kể trên mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, đặc biệt là về kinh tế. Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự
nghèo đói nh một số nớc đang phát triển khác gặp phải, chúng ta đang cố
gắng hết sức mình để tìm ra đờng lối phát triển kinh tế đúng đắn tránh sa lầy
vào vết xe đổnh những nớc đó. Là một nớc nghèo nàn, lạc hậu với nguồn
vốn đầu t quá ít ỏi, chúng ta phải làm gì để tạo đợc nguồn vốn đủ để cung
cấp cho việc phát triển kinh tế? Làm thế nào để hệ thống quản lý vốn hoạt
động có hiệu quả? Sự ra đời của thị trờng chứng khoán sẽ trả lời những câu
hỏi đó.
Thị trờng chứng khoán ra đời ở Việt Nam sẽ là một nhân tố quan trọng
để hoàn chỉnh cấu trúc của hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trờng, nó
tạo cơ hội thuận lợi cho mọi đối tợng trong nền kinh tế thực hiện ý định biến
tiết kiệm thành đầu t. Sự ra đời của TTCK nh một chất xúc tác tạo nên mối
liên hệ chặt chẽ hơn nữa giữa các trung gian tài chính ở Việt Nam hiện nay
và tạo nên những dòng dẫn vốn trực tiếp cũng nh gián tiếp không chỉ ở trong

nớc mà còn mở rộng ra thế giới.
Dới góc độ của một ngời sinh viên, qua quá trình tìm hiểu những vấn đề
về TTCK và những yếu tố mà Việt Nam đang chuẩn bị cho việc hình thành
TTCK, em xin nêu thực trạng và các giải pháp nhằm tăng cờng hơn nữa cho
việc chuẩn bị đó.
1. Về yếu tố con ngời và bộ máy quản lý TTCK.
Để điều hành hoạt động của TTCK mà trực tiếp là tại Trung tâm giao
dịch chứng khoán cũng nh các tổ chức tham gia phát hành, quản lý và môi
giới mua bán chứng khoán thì cần phải có một đội ngũ cán bộ thật thông
thạo về nghiệp vụ quản lý kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực ngân hàng - tài
chính. Muốn vậy, chúng ta cần phải xây dựng một kế hoạch đào tạo cụ thể d-
ới sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ mà trực tiếp là Uỷ ban phụ trách về
TTCK do Chính phủ lập ra. Chúng ta cần phải phân loại cụ thể nhiệm vụ,
công việc của các cán bộ cũng nh nhân viên tại trung tâm giao dịch chứng
khoán hoặc tại các cơ quan quản lý TTCK, tại các ngân hàng và các tổ chức
kinh tế khác. Các tiêu chuẩn về trình độ nghiệp vụ, khả năng nắm bắt và xử
lý thông tin của những ngời quản lý phải cụ thể, rõ ràng và phù hợp với yêu
cầu. Bên cạnh đó cũng cần phải đào tạo các nhân viên cho TTCK thông qua
các trờng đại học với công việc ban đầu là trang bị các kiến thức sơ đẳng
nhất và sau đó là mở rộng và chuyên sâu,đồng thời sử dụng lực lợng này để
phổ biến sâu rộng đến các tầng lớp dân c trong xã hội.
Việc đào tạo cán bộ phải tuỳ thuộc vào công việc mà có những hình
thức đào tạo cụ thể, tránh việc đào tạo với số lợng quá lớn trong khi chất lợng
nghiệp vụ lại non kém. Chúng ta cũng cần phải đào tạo thông qua hình thức
gửi đi học tập, huấn luyện ở nớc ngoài và mời các chuyên gia kinh tế của nớc
ngoài tới nớc ta để tổ chức các buổi toạ đàm, hội thảo về TTCK và thông qua
đó bồi dỡng đội ngũ cán bộ thành những chuyên gia lành nghề quản lý và
điều hành TTCK có hiệu quả.
Thực tế trong thời gian qua cho thấy rằng Nhà nớc ta cũng rất quan tâm
tới vấn đề chuẩn bị một đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực để điều hành

TTCK khi nó đợc thành lập. Tháng 7 năm 1995, Thủ tớng Chính phủ đã ra
quyết định thành lậpBan chuẩn bị tổ chứcTTCK (gọi tắt là Ban chứng
khoán). Ban này có nhiệm vụ soạn thảo nghị định trình lên Chính phủ để phê
duyệt việc thành lập Uỷ ban chứng khoán quốc gia và qui chế hoạt động của
Uỷ ban đó. Đồng thời, đợc sự tài trợ của một số các tổ chức quốc tế, một số
cán bộ của ngành ngân hàng - tài chính và các cơ quan quản lý của Chính
phủ đã đợc gửi đi học tập, nghiên cứu, khảo sát về TTCK ở các nớc phát
triển. Song thực tế cho thấy việc tạo cán bộ trong lĩnh vực này vẫn còn mang
tính chắp vá, cha thực sự chủ động trong việc chuẩn bị các kiến thức sơ đẳng
về TTCK, do vậy cha đạt đợc kết quả cao trong việc nắm vững các nội dung
và qui định về TTCK. Chính vì vậy, ngay từ bây giờ chúng ta cần phải chọn
đúng đối tợng có trình độ nghiệp vụ tốt, phân công một cách cụ thể, có kế
hoạch các công việc cần nghiên cứu và chuyên sâu thì mới đảm bảo đợc yếu
tố con ngời trong việc thành lập TTCK. TTCK ra đời và hoạt động có hiệu
quả hay không cũng tuỳ thuộc rất nhiều vào những con ngời - yếu tố chủ thể
- tham gia điều hành nó.
2. Về hàng hoá của TTCK
Bất kỳ thị trờng nào cũng phải có loại hàng hoá để phục vụ cho hoạt
động của thị trờng đó, do vậy việc chuẩn bị hàng hoá cho TTCK là nội dung
cơ bản có tính chất quyết định đối với việc thành lập TTCK.
Quá trình hình thành TTCK đòi hỏi phải song song với nó là quá trình
tạo lập và đa dạng hoá các loại chứng khoán để đáp ứng ý định đầu t và phân
tán rủi ro cho các nhà đầu t, đồng thời cũng là để đáp ứng nhu cầu của thị tr-
ờng vốn và thị trờng tiền tệ. Việc đa dạng hoá các loại hàng hoá của TTCK
cũng đòi hỏi phải có nhiều công ty cổ phần đợc hình thành và từng bớc đa
chứng khoán của các công ty này vào lu thông ở những phạm vi và qui mô
khác nhau. TTCK sẽ hoạt động có hiệu quả hơn khi các chứng khoán đợc
mua bán tự do theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và đợc phổ biến rộng
rãi trong quần chúng nhân dân.
Trớc đây, ở nớc ta đã phát hành các loại tín phiếu kho bạc Nhà nớc, kỳ

phiếu ngân hàng, cổ phiếu công ty, nhng các loại chứng khoán này đều là
chứng khoán ghi danh và cha có khả năng chuyển nhợng. Đó là một hạn chế
rất lớn.
Thời gian gần đây, do nhu cầu cấp bách về việc huy động vốn để phát
triển kinh tế, chúng ta đã phát hành chứng khoán với các chủng loại phong
phú và đa dạng hơn. Cụ thể là:
- Cổ phiếu các doanh nghiệp:
Bao gồm cổ phiếu của trên 100 doanh nghiệp cổ phần, trong đó có 52
ngân hàng thơng mại cổ phần và 2 công ty tài chính cổ phần với tổng giá trị
là 914 tỷ đồng; 2 công ty bảo hiểm và các công ty kinh doanh thơng nghiệp
với tổng trị giá lên tới 1.000 tỷ đồng.
Năm 1994, có 3 doanh nghiệp đợc cổ phần hoá là: Công ty liên hiệp vận
chuyển với tổng giá trị tài sản là 6,2 tỷ đồng; Xí nghiệp cơ điện lạnh Thành
phố Hồ Chí Minh với tổng trị giá tài sản là 16 tỷ đồng và nhà máy giấy An
Hiệp với tổng trị giá tài sản là 4,7 tỷ đồng.
- Các loại trái phiếu:
Chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nớc theo
chơng trình cổ phần hoá của Nghị định 388/HĐBT, Quyết định 315/HĐBT
và Quyết định 202/CP với chính thức đa dạng hoá các loại chứng khoán của
các doanh nghiệp này, chúng ta đã đạt đợc một số kết quả sau:
Trái phiếu nhà máy xi măng Hoàng Thạch phát hành đạt 44,4 tỷ đồng;
trái phiếu xây dựng đô thị đờng Nguyễn Tất Thành (TP. HCM) phát hành đạt
24,7 tỷ đồng; trái phiếu của ngân hàng đầu t và phát triển phát hành đạt 200
tỷ đồng và 1 triệu USD; Trái phiếu Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đạt
500 tỷ đồng; trái phiếu Ngân hàng Công thơng đạt 200 tỷ đồng. Ngoài ra còn
có trái phiếu KBNN với lãi suất cao và trái phiếu tài trợ cho đờng dây 500KV
đợc bảo đảm bằng vàng đạt hơn 100 tỷ đồng. Ngân hàng Thơng mại cũng
phát hành trái phiếu quốc tế ra nớc ngoài theo Nghị định của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nớc số 139/QĐ-NH ngày 18/05/1995. Bên cạnh đó, hình
thức tín dụng nhân dân vẫn đợc duy trì và có chiều hớng phát triển mạnh lên

và đặc biệt những năm gần đây đã xuất hiện việc mua bán các loại công trái
Nhà nớc để hởng chênh lệch giá.
Tuy nhiên, các loại chứng khoán ở nớc ta hiện nay cũng bộc lộ rất nhiều
điểm hạn chế:
- Công trái Nhà nớc cho phép chuyển nhợng nhng lại rất phiền hà bởi
các thủ tục pháp lý.
- Các loại trái phiếu KBNN, kỳ phiếu ngân hàng mới chỉ là các khoản
vay với số lợng có hạn và mức huy động thấp.
- Cha có các tổ chức đứng ra môi giới và kinh doanh chứng khoán,
thông tin về giá cả cha chuẩn xác, môi trờng kinh doanh và thủ tục pháp lý
cha đảm bảo.
Hơn nữa, một số công cụ có khả năng phổ biến sâu rộng về việc kinh
doanh chứng khoán trong quần chúng nhân dân vẫn cha đợc phát hành.
Sự hình thành và phát triển của TTCK phải đợc đi từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp, từ những hàng hoá ban đầu cho đến nhiều chủng loại
hàng hoá phong phú theo sự phát triển khách quan và đòi hỏi của thị trờng.
Để có đợc những hàng hoá phục vụ tốt cho sự ra đời của TTCK ở Việt Nam,
theo em chúng ta cần phải làm những việc sau đây:
- Thúc đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà
nớc đã đủ điều kiện theo chỉ thị 204/TTCK. Không thực hiện đợc quyền Nhà
nớc và không thành lập các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có quy mô quá
nhỏ.
- Hàng hoá của thị trờng chứng khoán trong thời gian đầu thì chủ yếu
phải là trái phiếu Nhà nớc, bao gồm cả trái phiếu của Chính phủ trung ơng và
trái phiếu của chính quyền địa phơng bởi vì các loại trái phiếu này ít rủi ro,
có khả năng khuyến khích đầu t.
- Trong các chứng khoán thì trái phiếu ngắn hạn cần phải phát hành sao
cho chiếm đợc một tỷ trọng. Đề nghị này đợc xuất phát từ ba lý do sau:
+ Nền kinh tế nớc ta cha phát triển, năng suất lao động còn thấp, thu
nhập của dân c cha cao nên vốn tích luỹ trong nền kinh tế nói chung và của

dân c nói riêng còn hạn hẹp; vốn d thừa ít và cũng chỉ là tạm thời cho nên
không thể đầu t dài hạn đợc.
+ Dân c chủ yếu cho vay và vay vốn thông qua thị trờng ngầm tức là
cho vay và vay trực tiếp mà cha có thói quen thông qua việc mua bán chứng
khoán.
+ Tình trạng làm phát đã đợc kiềm chế và đẩy lùi nhng nguy cơ tái lạm
phát vẫn còn, vì thế ảnh hởng rất lớn đến tâm lý của ngời đầu t là đầu t dài
hạn sẽ gặp nhiều rủi ro.
- Các chứng khoán phải đợc mua bán tự do dới sự bảo đảm của pháp
luật. Các doanh nghiệp có đủ điều kiện có thể phát hành trái phiếu nh công
ty TNHH chỉ có thể phát hành trái phiếu thế chấp; công ty quốc doanh có thể
phát hành trái phiếu thông thờng nhng có sự bảo trợ của Bộ Tài chính và
ngân hàng Đầu t.
- Các loại chứng khoán đều phải đợc giao cho các tổ chức của Nhà nớc
in ấn để tránh hiện tợng làm giả, đảm bảo an toàn cho ngời có vốn đầu t và
chống rối loạn trên thị trờng.
3. Đổi mới công nghệ quản lý và phát triển các dịch vụ của ngân
hàng và các trung gian tài chính khác:
Các tổ chức tài chính bao gồm: Ngân hàng Nhà nớc, Ngân hàng thơng
mại quốc doanh, Ngân hàng Cổ phần, Hợp tác xã tín dụng, các công ty tài
chính, các tổ chức tài chính nớc ngoài hoạt động trên nớc ta đây là các chủ
thể chủ yếu tham gia vào thị trờng và mang tính cạnh tranh rất cao. Xây
dựng và phát triển các loại hình tổ chức tài chính là tạo điều kiện làm cho
TTCK hoạt đồng nhộn nhịp, đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn và nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong các chủ thể tài chính thì ngân hàng Nhà nớc
và các ngân hàng Thơng mại phải là các đơn vị tham gia chính trên TTCK, là
trung tâm môi giới và điều tiết các nguồn vốn.
Việc hiện đại hoá công nghệ quản lý và phát triển các dịch vụ của hệ
thống ngân hàng - tài chính sẽ đảm bảo hiệu lực vững chắc về quản lý theo
một chính sách tiền tệ và tín dụng đúng đắn, nâng cao tính năng động và

hiệu quả của việc kinh doanh tiền tệ, tín dụng, hoàn thiện công tác thanh
toán, phân tích kinh tế, giám sát và phòng ngừa rủi ro,ổn định thu chi ngân
sách và cán cân thanh toán quốc tế, chấm dứt đợc phát hành bù đắp nhu cầu
chi ngân sách bằng các biện pháp khơi tăng nguồn thu từ thuế, bảo hiểm, tín
dụng trong nớc và quốc tế. Hệ thống ngân hàng - tài chính là công cụ vững
chắc của Nhà nớc pháp quyền trong việc quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh
tế theo cơ chế thị trờng. Nếu nh ngời ta ví TTCK là khía cạnh sắc bén của thị
trờng tài chính quốc gia thì ngân hàng và các tổ chức tài chính khác sẽ vừa là
nền móng, vừa là chất kết dính tạo nên TTCK. Một chính sách tiền tệ đúng
đắn đợc thực thi bởi một hệ thống ngân hàng mạnh dới sự chỉ đạo của Ngân
hàng trung ơng với vai trò là ngời quản lý, giám sát mọi hoạt động tiền tệ -
tín dụng và thanh toán bằng nhiều công cụ hữu hiệu chắc chắn sẽ tạo nên
một môi trờng cực kỳ thuận lợi cho các hoạt động của TTCK; nó sẽ tạo ra
mảnh đất lý tởng đối với việc thực hiện các ý định tìm kiếm lợi nhuận cao
và ít rủi ro cho các nhà đầu t chứng khoán.
Trong thời gian qua, hệ thống tổ chức các ngân hàng và các trung gian
tài chính khác ở nớc ta đã có những bớc biến chuyển căn bản mà thể hiện rõ
nét nhất là sự hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp (từ tháng 5 năm 1988),
hệ thống KBNN, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân và sự xuất hiện của các chi
nhánh hoặc văn phòng đại diện của các ngân hàng nớc ngoài. Bên cạnh các
ngân hàng thơng mại quốc doanh đã xuất hiện 52 ngân hàng cổ phần và 2
công ty tài chính cổ phần đã tạo nên một mạng lới hệ thống các trung gian
tài chính khá đa dạng ở nớc ta. Ngân hàng trung ơng đang từng bớc thực hiện
tốt vai trò điều tiết vĩ mô trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng, đồng thời các
ngân hàng cũng nh các trung gian tài chính khác đang tích cực đổi mới công
nghệ quản lý và phát triển các dịch vụ để đáp ứng tốt các nhu cầu của xã hội.
Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia IFC (tổ chức tài chính
quốc tế - The International Finance Corporation) thì hệ thống các tổ chức tài
chính ở Việt Nam mới chỉ kiểm soát đợc 10% nguồn vốn của nền kinh tế,
phần còn lại thuộc các cơ cấu tài chính không chính thức. Các hình thức huy

động vốn thông qua các chứng khoán nh trái phiếu KBNN, kỳ phiếu ngân
hàng đến nay mới chỉ đạt khoảng 5,8% GDP, trong khi đó ở các nớc phát
triển thì tỷ lệ này là 40 - 50% (ví dụ nh ở Mỹ, trong năm 1991 thì nguồn vốn
vay của chính phủ thông qua các hình thức chứng khoán là 3.200 tỷ USD,
chiếm 52% GDP). Bên cạnh đó, nghiệp vụ đang áp dụng tại các ngân hàng ở
Việt Nam vẫn còn rất đơn giản, kỹ thuật còn hạn chế; việc trang bị máy móc
mới chỉ dừng lại ở mức thay thế cho các công việc thủ công và sự đổi mới
công nghệ quản lý, phát triển dịch vụ ở một số ngân hàng cũng chỉ là hình
thức, cha thực sự có hiệu quả.
Trớc những thực tại đó, để tạo đợc một hệ thống các trung gian tài
chính mà đặc biệt là hệ thống các ngân hàng nhằm phục vụ đắc lực cho hoạt
động của TTCK khi nó ra đời, em cho rằng ngay từ bây giờ chúng ta cần
phải thực hiện các công việc sau:
- Các ngân hàng và các tổ chức trung gian tài chính khác phải tiếp tục
nghiên cứu và đa ra các nghiệp vụ mới nhằm phục vụ trực tiếp cho đơn vị
phát hành chứng khoán và những ngời đầu t có điều kiện cần thiết để tham
gia TTCK.
- Các tổ chức tài chính mà trớc hết là các ngân hàng thơng mại, dới sự
chỉ đạo của NHTW cần phải có kế hoạch triển khai nghiên cứu cơ bản và
nghiên cứu ứng dụng các nghiệp vụ của TTCK gắn liền với các nghiệp vụ
của ngân hàng thơng mại.
- Đào tạo cho cán bộ và nhân viên những kiến thức cơ bản và chuyên
sâu theo chơng trình của quốc tế; đồng thời Nhà nớc cũng nên hỗ trợ để
trang bị những phơng tiện cần thiết cho các hoạt động nghiệp vụ, thông tin
của các tổ chức này nh hệ thống máy vi tính hiện đại, máy fax
4. Triển khai công tác kiểm toán, kế toán theo thông lệ quốc tế.
Bất kỳ nhà đầu t chứng khoán nào trớc khi ra quyết định đầu t trong nớc
cũng nh ở nớc ngoài đều phải thu thập các thông tin cần thiết và các loại
chứng khoán, đặt biệt là về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty mà mình có ý định đầu t. Nhà đầu t cũng nh các chuyên gia về chứng

khoán phải phân tích tình hình tài chính của công ty đó thông qua các con số
báo cáo trong thời gian gần nhất. Báo cáo tài chính của công ty phát hành
chứng khoán phải đợc xây dựng trên một cơ sở của một chế độ hoạch toán
thống nhất và tuân theo các thông lệ quốc tế. Các báo cáo này không phải chỉ
do công ty tự kê khai hoặc do một công ty kiểm toán nào đó cung cấp mà
phải có sự xác nhận của hai công ty kiểm toán độc lập. Vì vậy, công tác
kiểm toán, kế toán đóng một vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin
một cách chính xác, đầy đủ, trung thực về các công ty phát hành chứng
khoán. Trên cơ sở của các số liệu kế toán, kiểm toán đó mà Uỷ ban chứng
khoán quốc gia có thể đa ra quyết định là các chứng khoán của doanh nghiệp
nào sẽ đợc phép đa ra phát hành, mua bán trên TTCK và các cơ quan quản lý
và điều hành TTCK cũng có đợc con số chính thức để công bố cho nhà đầu t
tại TTCK.
Hiện nay ở Việt Nam đã có 3 công ty kiểm toán là: Công ty kiểm toán
Việt Nam (viết tắt là VACO) đợc thành lập năm 1991; Công ty dịch vụ t vấn
tài chính kiểm toán và kế toán (AASS) đợc thành lập năm 1993; Công ty
kiểm toán và dịch vụ tin học đợc thành lập năm 1994. Ngoài ra còn có một
số các công ty kiểm toán với 100% vốn nớc ngoài nh: E&Y; KPMG; Price
Water House; Deloit Touche Tohmatsu; Copper và các văn phòng đại diện
khác của các công ty kiểm toán quốc tế.
Thời gian trớc đây, hệ thống kiểm toán cũng nh kế toán của chúng ta
hoạt động cha thực sự có hiệu quả vì một số điều khoản cha phù hợp với quy
định kiểm toán, kế toán quốc tế. Trớc tình hình đó và các yêu cầu của quá
trình đổi mới nền kinh tế theo hớng đa dạng hóa, ngày 01/11/1995 Bộ trởng
Bộ Tài chính đã ban hành văn bản Hệ thống tài khoản kế toán áp dụng cho
các doanh nghiệp theo Quyết định số 1141 TC/CĐKT. Sau khi văn bản này
đợc ban hành, nó đã đợc áp dụng ngay trong năm 1995 và tỏ ra là một văn
bản có tính khoa học, chính xác.
Tuy vậy, để tạo điều kiện tốt hơn nữa cho việc thành lập một TTCK ở
Việt Nam thì chúng ta cần phải:

- Nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ cũng nh nhân
viên ngành kiểm toán, kế toán để bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, kịp
thời.
- Các công ty kiểm toán, kế toán phải trang bị một hệ thống xử lý thông
tin hiện đại, phải thờng xuyên cập nhật các báo cáo tài chính của các công ty
phát hành chứng khoán. Cần phải công khai các báo cáo cân đối tài chính,
kết quả kinh doanh và các tài liệu có liên quan tới việc phát hành chứng
khoán.
5. Về việc trang bị các hệ thống thông tin kinh tế.
Thông tin kinh tế không phải là một bộ phận của các cơ quan tổ chức,
điều hành và quản lý TTCK nhng lại là một công tác rất cần thiết và quan
trọng cho các công tác của TTCK, bởi vì các nhà đầu t và các chuyên gia về
chứng khoán đều phải dựa vào các thông tin về tình hình hoạt động, kinh
doanh và khả năng phát triển của doanh nghiệp mới dám đầu t mua cổ phiếu
hoặc trái phiếu. Ngay cả UBCKQG khi quyết định cho phép hay đình chỉ
việc phát hành chứng khoán đối với một doanh nghiệp cũng phải dựa vào các
nguồn thông tin. Bên cạnh đó, TTCK cũng bị tác động mạnh mẽ bởi các yếu
tố khác nh tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn, từng
thời kỳ, do vậy cũng cần phải cập nhật và xử lý thông tin một cách liên tục
mới có đợc các quyết định đúng đắn khi tham gia vào TTCK.
Ngời ta ví trung tâm giao dịch chứng khoán nh một cái kho xuất và
nhập thông tin. Hệ thống máy tính ở đây đợc nối mạng với nhau và với các
trung tâm tài chính khác. Việc giao dịch mua bán các chứng khoán đợc diễn
ra trực tiếp bằng máy tính và bên cạnh đó thì hệ thống xử lý và cập nhật
thông tin khác nh điện thoại, máy nhắn tin, máy fax cũng đợc sử dụng rất có
hiệu quả.
ở Việt Nam hiện nay, theo con số thống kê mới nhất thì cả nớc mới chỉ
có khoảng 29.000 máy vi tính, trong đó 75% dành cho các cơ quan thuộc
khối hành chính, 20% dành cho các xí nghiệp sản xuất và chỉ có 5% là của
các hộ gia đình. Đây là con số rất nhỏ so với tổng số dân nớc ta là hơn 78

triệu ngời. Theo nhận xét của ông Tổng th ký Hội tin học Việt Nam thì máy
tính ở ta cha có nhiều máy hiện đại mà vẫn chủ yếu là những máy đã lạc hậu
so với các máy đang sử dụng trên thế giới và hệ thống máy này cũng vẫn cha
đợc nối mạng quốc tế nên nhiều nguồn thông tin cha đợc thu thập và xử lý
nhanh đợc.
Về hệ thống quản lý thông tin ngân hàng, nhiều ngân hàng ở nớc ta đã
có các chơng trình phần mềm khác nhau mà có khả năng xử lý nhanh, chính
xác các thông tin trong phạm vi nội bộ nhng lại thiếu khả năng thích ứng,
hoà nhập với mạng thanh toán của các ngân hàng khác cho nên cha có sự nối
kết, thông suất bình thờng giữa các ngân hàng và kết quả là tạo nên sự phiền
phức, chậm trễ trong việc xử lý thông tin và việc thanh toán giữa các ngân
hàng. Bên cạnh đó, các phơng tiện thông tin khác nh điện thoại vẫn cha đợc
phổ biến trong dân c mặc dù có rất nhiều hãng thông tin nổi tiếng thế giới
đầu t và lắp đặt nh NTT (Nhật Bản), Motorola (Mỹ)
Để thông tin trở thành cánh tay đắc lực phục vụ cho sự ra đời của một
TTCK, ngay từ bây giờ chúng ta cần phải:
- Xây dựng mạng lới thông tin rộng, chất lợng cao.
- Trang bị hệ thống máy tính hiện đại với các chơng trình xử lý đa
dạng, có khả năng đáp ứng đợc tất cả các nghiệp vụ của TTCK.
- Nhà nớc cần lập kế hoạch trang bị kỹ thuật đồng bộ, hiện đại, đảm bảo
các thiết bị có khả năng sử dụng lâu dài, mở rộng nghiệp vụ và hoà nhập vào
hoạt động của TTCK trên phạm vi quốc tế.
- Thực hiện chiến lợc phát triển thông tin quốc gia mà vai trò tích cực là
của ngành bu điện và ngân hàng.
6. Về mặt hệ thống pháp luật.
Hoạt động của TTCK là hoạt động của một thị trờng cao cấp, phức tạp
vì vậy nó có liên quan tới nhiều đối tợng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
nó đòi hỏi một trình độ nghiệp vụ cao và chịu nhiều ảnh hởng của các yếu tố
khác nh đã nêu ở trên. Chính vì vậy cho nên để đảm bảo cho hoạt động của
TTCK đạt hiệu quả cao, tránh đợc các tiêu cực thì cần phải có một hệ thống

pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh.
Hiện nay chúng ta đã ban hành một số luật đơn hành nằm trong Bộ luật
Thơng mại (nh Luật công ty, Luật phá sản ); Pháp lệnh tài chính - Ngân
hàng. Các luật này đợc hình thành và bổ sung dựa trên những yêu cầu hết sức
khách quan của xã hội và mang tính logíc, khoa học.
Tuy nhiên, một đặc điểm hạn chế rất lớn của văn bản luật ở nớc ta là
luôn luôn có sự thay đổi hoặc rất chậm đợc sửa đổi và đây cũng là điều lo
ngại lớn nhất của các nhà đầu t trong nớc cũng nh nớc ngoài. Theo nhận xét
của ông John Douglas - cao uỷ thơng mại của Australia- thì nhiều doanh
nghiệp của chúng tôi rất lo lắng vì luật lệ của Việt Nam cha đợc ổn định.
Việc hiểu đợc mối quan hệ về mối quan hệ quản lí giữa cấp trung ơng và địa
phơng thật khó khăn. Còn ông Patrich. J. Delahurt- giám đốc phát triển thị
trờng Việt Nam của tập đoàn Hugtres (Mỹ)- thì lại nhận xét: Việc bổ sung
kịp thời các chính sách cho phù hợp với sự phát triển kinh tế của Việt Nam
hiện nay còn rất chậm chạp.
Bên cạnh đó, ở nớc ta vẫn còn tồn tại một thực tế là các nhà làm luật
còn hạn chế về kiến thức kinh tế, còn các nhà kinh tế thì lại hạn chế kiến
thức về luật; đồng thời một số trung tâm nghiên cứu khoa học và cơ quan của
Chính phủ nghiên cứu về luật TTCK vẫn cha có sự phối hợp đồng bộ trên
tinh thần cộng tác thực sự nên cha đạt đợc những kết quả mong muốn và khi
ban hành một số luật lệ thì cha có khả năng áp dụng hoặc đợc áp dụng với
các cách hiểu khác nhau.
Chính vì vậy, để tạo lập đợc một môi trờng pháp lý đồng bộ, hoàn
chỉnh, theo em chúng ta cần phải làm một số các công việc sau đây:
- Giao trách nhiệm chính cho một tổ chức dới sự chỉ đạo của hội đồng
Chính phủ để tổ chức nghiên cứu và đa ra luật về TTCK.
- Mở rộng phạm vi nghiên cứu, không nên nghiên cứu trong phạm vi
hẹp và phải tập hợp đợc các nhà làm luật, các nhà kinh tế và các chuyên gia
thực sự hiểu biết về lĩnh vực này.
- Ban hành các Nghị định của Chính phủ về phát hành chứng khoán để

đáp ứng nhu cầu trớc mắt là sự ra đời của một thị trờng sơ cấp hoàn chỉnh;
các Nghị định về thành lập cơ quan quản lí TTCK và UBCKQG, trong đó có
quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của nó; các qui chế về giao dịch
chứng khoán, trong đó có qui định về xử lí các quan hệ phát sinh trong quá
trình mua bán chứng khoán nhằm tạo điều kiện cho sự ra đời của thị trờng
thứ cấp.
7. Về việc tổ chức và quản lí của Nhà nớc đối với TTCK
Trong nền kinh tế thị trờng, quy luật giá trị có tác động điều chỉnh sản
xuất và lu thông mà một trong những biểu hiện đầu tiên là việc di chuyển
vốn đến những lĩnh vực có lợi nhuận cao. Khi thành lập TTCK thì các vấn đề
này cũng xảy ra tơng tự, vì vậy nếu Nhà nớc không chủ động tổ chức quản lí
để cho các hoạt động diễn ra một cách dễ dàng, thuận tiện, có trật tự thì sẽ
dấn đến tình trạng rối loạn, có tác động xấu đến tiến trình hoạt động của nền
kinh tế, đặc biệt là đối với nền kinh tế theo cơ chế thị trờng.
Thực tế trong những năm qua cho thấy việc quản lí của Nhà nớc đối với
thị trờng vốn là cha có hiệu quả. Việc đổ vỡ của hàng loạt các quĩ tín dụng;
việc nợ nần dây da, vòng vèo giữa các đơn vị kinh tế và hoạt động mạnh mẽ
của thị trờng ngầm với tệ cho vay nặng lãi là những bằng chứng về hậu quả
của việc không chủ động của Nhà nớc trong quản lí đối với thị trờng vốn. Sở
dĩ có những hiện tợng nh vậy là vì hệ thống lãi suất vay và cho vay rất kém
linh hoạt (do bị khống chế bởi mức lãi suất trần và mức lãi suất sàn) nên cha
tạo ra đợc một môi trờng cạnh tranh lành mạnh, thuận lợi giữa các ngân hàng
và các tổ chức tài chính, kinh tế. Nguồn vốn tiền gửi giữ các tổ chức kinh tế
và các ngân hàng cha đợc đặt đùng vị trí. Mức lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền
tiết kiệm còn chênh lệch nhau một khoảng khá lớn, do vậy khả năng thu hút
tiền gửi của các tổ chức kinh tế không cao mà chủ yếu là tiền gửi của các
doanh nghiệp Nhà nớc (loại này chiến 30% tổng vốn huy động). Nguồn quỹ
khấu hao và tiền gửi của t nhân chỉ chiếm khoảng 10%. Chính vì vậy các
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân c đợc gửi vào thị trờng ngầm nhằm mục đích
kiếm lời cao hơn là gửi vào các quỹ, các ngân hàng của Nhà nớc là điều

không thể tránh khỏi.
TTCK là biểu hiện cao nhất, là công cụ đắc lực nhất của thị trờng vốn.
Để việc quản lí của Nhà nớc đối với TTCK có hiệu quả cao thì ngay từ bớc
ban đầu chuẩn bị thành lập TTCK, chúng ta cần phải có sự quản lí tốt của
Nhà nớc về thị trờng vốn. Muốn vậy thì phải làm những việc sau đây.
- Điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi cũng nh tiền tiết kiệm cho phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế song cũng tránh gây ra lạm phát
cao.
- Mở rộng hình thức thu hút vốn trong các doanh nghiệp cũng nh trong
các tầng lớp dân c mà vai trò chủ đạo là của chính phủ và các bộ máy trực
thuộc Chính phủ.
- Xem xét và đánh giá chính xác các dự án đầu t kinh doanh của các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế để góp phần sử dụng vốn có hiệu quả rót
vốn đúng chỗ.
Bên cạnh đó, song song với việc quản lí và chuẩn bị cho việc thành lập
TTCK, chúng ta cũng cần phải tiến hành việc hoàn thiện cơ cấu, bộ máy tổ
chức cho Uỷ ban chứng khoán quốc gia và đặc biệt quan trọng là tổ chức đợc
một trung tâm giao dịch chứng khoán là tiền thân của Sở giao dịch chứng
khoán bởi vì nó đóng một vai trò hạt nhân trong TTCK, cha có nó cũng có
nghĩa là cha có TTCK. Về mặt lí thuyết cũng nh thực tế thì Sở giao dịch
chứng khoán là một loại định chế tài chính phức tạp nhất, do vậy nó không
thể đợc hình thành một cách tự phát mà phải có sự giám sát chặt chẽ của
chính phủ.
8. Thành lập các quỹ đầu t và cải cách hệ thống thanh toán.
Quỹ đầu t là định chế tài nằm trong khái niệm của TTCK và là cơ quan
trung gian cho các nhà đầu t, các nhà doanh nghiệp góp vốn hoặc do Nhà n-
ớc thành lập. Thông qua TTCK, quỹ đầu t sẽ sử dụng vốn của mình để mua
các chứng khoán. Trong trờng hợp thiếu vốn, quỹ đầu t sẽ huy động thêm
vốn của các nhà đầu t, nhà doanh nghiệp thân chủ. Hình thức đầu t của các
quỹ đầu t thông qua TTCK là hình thức đầu t gián tiếp. Song song với việc

thiết lập nên TTCK, Nhà nớc cần phải thành lập ngay các quỹ đầu t cùng với
các quy chế hoạt động của chúng. Các quỹ này có thể đợc tổ chức dới hình
thức các quỹ đầu t trong nớc hoặc các quỹ đầu t liên doanh với nớc ngoài.
Hiện nay ở nớc ta đang có 5 quỹ đầu t của nớc ngoài đăng ký hoạt
động; trong nớc có quỹ ngoại tệ và nội tệ liên ngân hàng do ngân hàng trung
ơng quản lí. Các quĩ này đang góp phần không nhỏ vào việc huy động và sử
dụng vốn phục vụ phát triển kinh tế. Quỹ đầu t là yếu tố cần thiết để giúp
chúng ta học hỏi kinh nghiệm quản lí nguồn vốn đầu t và giúp cho các đối
tác nớc ngoài mạnh dạn hơn trong việc đầu t vốn kinh doanh ở Việt Nam.
Bên cạnh việc thành lập các quỹ đầu t thì việc cải cách hệ thống thanh
toán cũng không kém phần quan trọng. Hệ thống thanh toán có hoạt động tốt
mới đảm bảo việc huy động và cung cấp vốn kịp thời và nhanh gọn. Thời
gian vừa qua cho thấy, hệ thống thanh toán của các ngân hàng ở nớc ta cũng
đã cso những thay đổi lớn, đặc biệt là sau khi hình thành hệ thống ngân hàng
hai cấp (từ tháng 5/1998).
Tuy nhiên, việc thanh toán giữa các ngân hàng với nhau cũng nh với các
tổ chức tài chính khác vẫn cha có sự nối kết và thông suốt bình thờng, nhiều
lúc còn rất chậm trễ và phiền phức. Vì vậy, để cải thiện hơn nữa hệ thống
thanh toán ở nớc ta hiện nay nhằm tạo một môi trờng tốt cho việc thành lập
một TTCK, chúng ta cần phải sớm triển khai nối mạng thanh toán nhanh trên
toàn quốc, tạo điều kiện cho các ngân hàng mà đặc biệt là ngân hàng thơng
mại trong nớc và nhập vào mạng thanh toán của thế giới, trớc hết là các nớc
trong khu vực ASEAN.
9. ổn định nền kinh tế vĩ mô và xã hội.
Sự ra đời của TTCK là một trong các yếu tố góp phần tạo nên sự tăng tr-
ởng của nền kinh tế thông qua các hình thức huy động vốn để phát triển sản
xuất. Nhng cũng chính sự tăng trởng kinh tế và ổn định nền kinh tế vĩ mô
có vai trò lớn trong việc tạo ra các điều kiện cần thiết để thành lập TTCK và
đa nó vào hoạt động, bởi vì chỉ có sự tăng trởng và ổn định sẽ tạo ra thu nhập
ngày càng cao hơn hay tăng đợc tiết kiệm và yếu tố này khi thông qua TTCK

sẽ thành một trong các yếu tố quan trọng của nền kinh tế - yếu tố đầu t. Nền
kinh tế có tăng trởng khi mà vốn đầu t đợc huy động chủ yếu ở trong nội tại
nền kinh tế và bên cạnh đó là từ các nguồn đầu t nớc ngoài. Sự ổn định nền
kinh tế vĩ mô sẽ tạo lòng tin đối với các nhà đầu t trong nớc cũng nh nớc
ngoài, cho phép chúng ta có thể thu hút vốn từ nhiều nguồn khác nhau.
Bên cạnh đó thì yếu xã hội cũng đóng vai trò không kém phần quan
trọng. TTCK hoạt động không phải là chỉ để phục vụ riêng cho một giai cấp,
từng lớp nào trong xã hội mà nó phục vụ cho tất cả các tầng lớp dân c; nó
cũng không hạn chế phạm vi hoạt động trong một quốc gia mà nó mang tính
chất quốc tế. TTCK hoạt động thực sự có hiệu quả khi những vấn đề cơ bản
về nó đợc phổ biến rộng rãi cho các tâng lớp dân c. Mọi ngời khi tham gia
vào hoạt động của TTCK cần phải co những hiểu biết cụ thể về quyền lợi và
nghĩa vụ của họ khi mua hoặc bán các chứng khoán, biết sử dụng các chứng
khoán mà họ sở hữu trong các tình huống khác nhau. Khi nâng cao đợc tầm
hiểu biết về TTCK cho toàn xã hội thì hoạt động của TTCK sẽ càng trôi chảy
vì các nguồn vốn nhàn rỗi ngày càng đợc huy động nhiều thông qua các công
cụ của nó.

×