Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

doanh nghiệp nhà nước việt nam và thực trạng cổ phân hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.44 KB, 37 trang )

phần A Lời mở đầu

Lịch sử phát triển của nhân loại đã trải qua những bớc thăng trầm khác
nhau song có thể nói cổ phần hoá (CPH) doanh nghiệp Nhà nớc là một nấc
thang tất yếu lịch sử trên con đờng trở thành nớc phát triển của bất cứ quốc
gia nào. Chính vì vậy cổ phần hoá là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
đặc biệt quan trọng đối với nớc ta, một nớc có nền kinh tế chậm phát triển
so với thế giới. Trong công cuộc đổi mới ở nớc ta, vấn đề đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế đặc biệt đợc coi trọng nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ
chế thị trờng có sự quản lý vĩ mô của Nhà nớc. Có hiểu rõ nguồn gốc và bản
chất của cổ phần hoá cũng nh vai trò của cổ phần hoá trong nền kinh tế thị
trờng chúng ta mới khắc phục đợc tình trạng tụt hậu về kinh tế của đất nớc,
nâng cao không ngừng đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vì mục
tiêu dân giầu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bớc đi lên chủ
nghia xa hoi
Vấn đề cổ phần hoá không phải đến bây giờ mới đợc đề cập mà đã đ-
ợc Đảng đề ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Và luôn coi trọng
đó là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song chỉ
mới vài năm gần đây vấn đề CPH mới đợc đa lên tầm cao mới, chiều sâu
mới nhằm từng bớc tạo ra thế và lực mới cho đất nớc. Chính vì hiểu đợc tầm
quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề CPH mà em đã chọn đề tài này với
hy vọng phản ánh đợc phần nào thực tế sôi động và bức xúc của công cuộc
CPH hiện nay.
Em xin chân thành cảm ơn sự hớng dẫn tận tình của thầy giáo Trần
quang huy - giáo viên khoa quản trị kinh doanh trờng Đại học
Kinh tế Quốc dân để em hoàn thành tốt đề án này. Vì đây là lần đầu tiên
em viết một bài đề án có tính chất quan trọng và do thời gian có hạn nên
1
không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định, rất mong đợc sự đóng
góp ý kiến của thầy giáo cùng các bạn để đề án đợc hoàn chỉnh hơn.


Xin chân thành cảm ơn!
2
B- Nội dung
I- Các chủ trơng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc
1- khái niệm về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nớc và quy định về
công ty cổ phần
CPH là loại Công ty đợc thành lập do nhiều ngời bỏ vốn ra (cổ đông)
tiền vốn đợc chia thành các cổ phần bằng nhau, ngời hùn vốn với t cách là
cổ đông sẽ mua đợc một số cổ phần đó.
Theo luật Công ty ở nớc ta, Công ty cổ phần là Công ty trong đó:
- Số thành viên gọi là cổ đông mà Công ty phải có trong suốt thời
gian hoạt động ít nhất là bẩy.
Vốn điều lệ của Công ty đợc chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là
cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể
mua một hoặc nhiều cổ phiếu.
- Cổ phiếu đợc phát hành có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu
của sáng lập viên, của thành viên hội đồng quản trị phải là những cổ phiếu
có ghi tên.
- Cổ phiếu không ghi tên đợc tự do chuyển nhợng. Cổ phiếu có ghi
tên chỉ đợc chuyển nhợng nếu đợc sự đồng ý của hội đồng quản trị. Công ty
cổ phần đợc tự do đặt tên. Trên bảng hiệu, hoá đơn quảng cáo, báo cáo, tài
liệu, giấy tờ giao dịc khác của Công ty đều phải ghi tên Công ty kèm theo
các chữ "Công ty cổ phần" và vốn điều lệ.

2. Một số quan điểm cơ bản trong quá trình tiến trình cổ phần hoá
Doanh nghiệp Nhà nớc
- Quan điểm thứ nhất: Việc lựa chọn những doanh nghiệp để chuyển
thành công ty cổ phần phải đợc đặt trong chơng trình tổng thể đổi mới khu
vực kinh tế Nhà nớc và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nớc.
3

Hiện nay chơng trình này đang đợc soạn thảo với những quan điểm cơ
bản dựa trên các Nghị quyết của Đảng ở HNTW 2 và Hội nghị đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng (khoá VII), các Nghị quyết của quốc hội
(khoá IX), Nghị định 388/HĐBT, Nghị quyết 315/HĐBT của Chính phủ.
Xét theo những yêu cầu cấu trúc lại khu vực kinh tế Nhà nớc để duy trì đợc
vai trò chủ đạo và định hớng sự phát triển nền kinh tế thị trờng ở nớc ta nh
đã nêu ra ở trên, có thể chia làm 3 nhóm doanh nghiệp Nhà nớc với những
giải pháp đổi mới khác nhau.
Nhóm thứ nhất: là các doanh nghiệp mà trong điều kiện hiện nay cần
phải giữ lại hình thức doanh nghiệp Nhà nớc 100% vốn. Thuộc vào nhóm
này là những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực sau:
+ Các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực an ninh và quốc phòng nh sản xuất
vũ khí, thuốc nổ, các phơng tiện thu phát sóng. Tuy nhiên, trong lĩnh vực
này có rất nhiều doanh nghiệp đợc thành lập theo quyết định 268/HĐBT thì
không nằm trong diện nêu trên và phải đợc xử lý theo tinh thần quyết định
315/HĐBT và quyết định 196/CôNG TY.
+ Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế mà Nhà nớc
cần phải nắm để thực hiện các chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế nh các
lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, ngân hàng, ngoại thơng, năng lợng, dầu khí,
khai khoáng.
+ Các doanh nghiệp thuộc về cơ sở hạ tầng có tính chất nền tảng giúp
cho các ngành khác phát triển. Đó là những ngành đòi hỏi vốn đầu t lớn,
thời gian thu hồi vốn chậm, tỷ suất lợi nhuận thấp nh đờng sá, cầu cống,
bến cảng, sây bay, các ngành văn hóa giáo dục, y tế, thuỷ lợi Nói chung
là những ngành không hấp dẫn và cũng cha đủ sức đối với t nhân.
+ Các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực cần thiết cho quốc kế
dân sinh nhng các thành phần kinh tế khác không đầu t vì không có lãi và
Nhà nớc phải đứng ra tổ chức và tài trợ cho các hoạt động này.
4
Các doanh nghiệp Nhà nớc thuộc các lĩnh vực nêu trên thực hiện các giải

pháp đổi mới tổ chức và cán bộ quản lý, áp dụng kỷ luật của thị trờng vào
trong doanh nghiệp, thực hành trao quyền tự chủ trong việc bảo toàn vốn đ-
ợc giao đồng thời kiểm soát chặt chẽ theo Luật doanh nghiệp Nhà nớc. Đối
với các doanh nghiệp này trong một số trờng hợp và trong những điều kiện
nhất định có thể đợc Nhà nớc trợ cấp hoặc bù lỗ.
Với việc ban hành Luật doanh nghiệp Nhà nớc cần áp dụng một số giải
pháp đối với nhóm này nh sau:
- Thực hiện quy chế Hội đồng quản trị để tách biệt rõ ràng quyền sở hữu
và quyền quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp.
- Thực hiện chế độ bảo toàn và phát triển vốn đợc giao.
- Bỏ chế độ trích lập ba quỹ, chỉ khống chế tỷ lệ quỹ tích luỹ và quỹ dự
phòng, còn phần lợi nhuận sau khi đã làm đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân
sách Nhà nớc thì Hội đồng quản trị và tập thể lao động doanh nghiệp quyết
định mục đích và mức độ sử dụng cho khen thởng, phúc lợi.
- áp dụng hệ thống định mức về chi phí và tiền lơng, chịu sự kiểm toán
thống nhất của Nhà nớc.
Nhóm thứ hai: là các doanh nghiệp thuộc các ngành, các lĩnh vực xét
thấy không cần thiết phải duy trì hình thức sở hữu Nhà nớc thì nên thu hẹp
dần bằng quá trình đa dạng hoá và cổ phần hoá để khuyến khích cạnh tranh
và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này.
Có thể nêu ra một số giải pháp phù hợp áp dụng cho các doanh nghiệp
thuộc nhóm này:
- Cho t nhân hoặc tập thể lao động tại doanh nghiệp thuê, nhận khoán
hoặc đấu thầu kinh doanh bằng các hợp đồng quản lý, Nhà nớc vẫn giữ
quyền sở hữu.
- Cổ phần hoá từng phần hay toàn bộ doanh nghiệp để chuyển thành
công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty cổ phần.
5
- Bán toàn bộ cổ phần doanh nghiệp Nhà nớc cho tập thể cán bộ quản lý
và công nhân viên trong doanh nghiệp.

- Bán toàn bộ cổ phần doanh nghiệp Nhà nớc cho các nhà đầu t t nhân
trong và ngoài nớc.
- Thanh lý tài sản từng doanh nghiệp Nhà nớc để giảm phần vốn cố định
không hiệu quả.
- Phát hành cổ phiếu nhằm huy động nguồn vốn mới của t nhân vào
doanh nghiệp Nhà nớc để từng bớc chuyển thành công ty cổ phần.
Nhóm thứ ba: là các doanh nghiệp Nhà nớc thua lỗ kéo dài, mất khả
năng thanh toán, không thuộc diện Nhà nớc trợ cấp nh nhóm thứ nhất, và
không thể tiến hành cổ phần hoá nh ở nhóm thứ hai thì đợc xử lý theo Luật
phá sản doanh nghiệp hoặc theo quyết định 315/HĐBT với bốn giải pháp:
sát nhập, cho thuê, nhợng bán và giải thể. Kiên quyết không duy trì trợ cấp
dới mọi hình thức làm tăng thêm gánh nặng cho ngân sách và cho xã hội.
Nh vậy, Nhà nớc phải tiến hành đồng thời ba hệ thống giải pháp với ba
nhóm doanh nghiệp khác nhau để đổi mới khu vực kinh tế Nhà nớc. Tuy
vậy, nhóm doanh nghiệp thứ hai với khoảng 60- 70% tổng số doanh nghiệp
Nhà nớc hiện nay, chiếm vị trí hàng đầu trong các giải pháp vì khối lợng
công việc to lớn và thời gian lâu dài đòi hỏi. Giải pháp cơ bản cho nhóm
này chủ yếu là tiến hành cổ phần hoá để từng bớc tạo ra loại hình doanh
nghiệp công ty cổ phần trong cơ chế thị trờng ngày càng đợc xác lập và
củng cố.
- Quan điểm thứ hai. Việc lựa chọn các doanh nghiệp để tiến hành cổ
phần hoá thuộc thẩm quyền và chức năng của Nhà nớc với t cách là ngời sở
hữu chứ không tuỳ thuộc vào ý kiến của giám đốc và tập thể lao động trong
doanh nghiệp. Nguyên tắc này đợc nêu ra để làm cơ sở cho các cơ quan chủ
quản của Nhà nớc phân loại các doanh nghiệp do mình quản lý để thực hiện
cổ phần hoá. Về cơ bản, có thể sắp xếp các doanh nghiệp thành 3 loại:
6
a) Loại doanh nghiệp không chuyển thành công ty cổ phần vì ở những
ngành , những lĩnh vực Nhà nớc cần có sự kiểm soát và độc quyền nh đã
nêu trong quan điểm thứ nhất.

b) Loại doanh nghiệp có thể chuyển thành công ty cổ phần nhng trong
vài năm tới các điều kiện chủ quan và khách quan cha thuận lợi. Chẳng hạn
những doanh nghiệp quy mô quá lớn, lợi nhuận cha đủ hấp dẫn để có thể
bán đợc cổ phiếu hoặc những doanh nghiệp đang là nguồn thu ngân sách
chủ yếu của Nhà nớc.
c) Loại doanh nghiệp u tiên chuyển thành công ty cổ phần. Loại này đợc
sắp xếp theo thứ tự u tiên trong vòng một vài năm tới. Về đại thể, trong giai
đoạn đầu của thử nghiệm, các doanh nghiệp đợc tiến hành cổ phần hoá cần
phải thoả mãn một số yêu cầu sau:
- Trớc hết, nên thực hiện ở những doanh nghiệp có quy mô vừa phải, vì
phần lớn các doanh nghiệp Nhà nớc ở nớc ta có quy mô vừa và nhỏ. Nếu
làm ở những doanh nghiệp có quy mô nhỏ thì chi phí để làm thí điểm quá
tốn kém so với khả năng thu hồi vốn, nếu làm ở những doanh nghiệp quy
mô lớn thì không rút ra đợc những bài học có tính phổ biến cho việc tiếp tục
triển khai chơng trình vì những doanh nghiệp lớn thờng sống trong môi tr-
ờng độc quyền đợc Nhà nớc bảo hộ hơn là trong môi trờng cạnh tranh bình
đẳng với các doanh nghiệp khác.
Theo cách phân loại trên, vốn pháp định đợc ban hành cùng với Nghị
định 222/HĐBT ngày 23-7-1991 để cụ thể hoá một số điều quy định trong
Luật công ty thì doanh nghiệp quy mô lớn có số vốn pháp định tối thiểu:
1000- 1500 triệu đồng, quy mô vừa: 500- 1000 triệu đồng, quy mô nhỏ: 50-
500 triệu đồng. Nh vậy, việc lựa chọn các doanh nghiệp làm thí điểm cổ
phần hoá nên lấy các doanh nghiệp có quy mô vốn pháp định từ 500 triệu
trở lên là thích hợp.
- Các doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi hay tuy
trớc mắt gặp khó khăn nhng có triển vọng về thị trờng và lợi nhuận. Yêu
7
cầu này là cần thiết để thực hiện thành công các mục tiêu đặt ra trong ch-
ơng trình thí điểm, vì nếu lựa chọn các doanh nghiệp có thành tích hoạt
động kinh doanh thua lỗ thì không thể bán đợc cổ phiếu, vì vậy không thực

hiện đợc sự đa dạng hoá sở hữu và thu hút các nguồn vốn trong xã hội. Tỷ
suất lợi nhuận bình quân ở các doanh nghiệp này phải có mức đủ sức hấp
dẫn cho ngời đầu t chấp nhận rủi ro. Thờng mức này phải cao hơn lãi suất
tiền gửi ngân hàng và trong điều kiện lạm phát đợc duy trì ở mức dới 10%.
- Quan điểm thứ ba: Dựa trên bảng cân đối tài sản và kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần xác định các mục tiêu chủ yếu
và cụ thể đối với từng doanh nghiệp đợc lựa chọn cổ phần hoá. Dựa trên ba
mục tiêu đợc nêu ra ở trên có thể xác định từng loại doanh nghiệp cụ thể
sau đây:
- Thứ nhất. Nếu nhằm mục đích thu hồi vốn để đầu t vào lĩnh vực khác
thì điều kiện doanh lợi ít đợc chú ý hơn là bảng cân đối tài sản. Thực chất
cổ phần hoá loại doanh nghiệp này là Nhà nớc không hớng vào mục tiêu
huy động vốn để tiếp tục kinh doanh mà là bán doanh nghiệp với tình trạng
pháp lý đầy đủ để nhiều t nhân muốn kinh doanh hùn vốn "mua lại pháp
nhân" để hoạt động. Nói chung, cách này phù hợp đối với những ngời mua
t nhân vì họ không thể mua một doanh nghiệp cha đầy đủ về mặt pháp lý.
Đây là một hớng chuyển các doanh nghiệp Nhà nớc sang công ty cổ phần t
nhân.
- Thứ hai. Nếu nhằm mục tiêu huy động vốn để Nhà nớc tiếp tục kinh
doanh thì điều kiện về doanh lợi và nhất là điều kiện kinh doanh cần đợc
nhấn mạnh hơn. Nh vậy sẽ có những trờng hợp sau đây:
+ Doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình thờng bảng cân đối
tài sản thực dơng. Việc phát hành thêm cổ phiếu sẽ tạo cơ hội mở rộng sản
xuất kinh doanh.
+ Doanh nghiệp bị thâm hụt nặng cán cân thanh toán tài chính nhng cha
đến mức phát mại, tuy nhiên sản phẩm đã có thị trờng ổn định và có khả
8
năng mở rộng ở trong và ngoài nớc. Việc cổ phần hoá sẽ góp phần huy
động thêm vốn hoặc chuyển nợ thành vốn góp để khai thác thế mạnh về thị
trờng.

+ Doanh nghiệp mới xây dựng trong vài năm lại đây có công nghệ và
trang thiết bị tơng đối hiện đại, nhng thiếu vốn lu động, bộ máy quản lý yếu
kém, kinh doanh kém hiệu quả thì nên tiến hành cổ phần hoá để thay đổi
hình thức tổ chức và nhân sự cũng nh huy động thêm vốn lu động cho hoạt
động của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp đã có những hợp đồng lớn với nớc ngoài, có những quan
hệ bạn hàng chặt chẽ với thị trờng nớc ngoài, đang thiếu vốn để tăng thêm
quy mô sản xuất hoặc để đối tác. Việc cổ phần hoá sẽ tạo thêm điều kiện
thuận lợi để liên kết, liên doanh với các nhà đầu t nớc ngoài về công nghệ,
quản lý kinh doanh và khai thác thị trờng.
- Doanh nghiệp có mức lợi nhuận cao, nếu đầu t thêm công nghệ mới sẽ
thu đợc lợi nhuận siêu ngạch. Việc cổ phần hoá sẽ tạo điều kiện tận dụng
các lợi thế này.
Nh vậy, dựa vào những điều kiện cụ thể của từng loại doanh nghiệp nêu
trên thì tiến hành cổ phần hoá là để chuyển sang một mô hình doanh nghiệp
huy động, quản lý và sử dụng vốn đạt hiệu quả cao.
- Thứ ba, nếu nhằm mục tiêu hữu sản hoá công nhân, tạo điều kiện để
ngời lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp thì Nhà nớc cần chú ý đến điều
kiện mức thu nhập của công nhân có khả năng mua cổ phần dới dạng trả
góp cũng nh tỷ trọng "vốn tự có" trong tổng số vốn pháp định của doanh
nghiệp. Về vấn đề này, Nhà nớc đã có chỉ thị 84-TTg của Thủ tớng chính
phủ cụ thể hoá thêm về các biện pháp nhằm đẩy mnạh chơng trình thí điểm
cổ phần hoá, trong đó hỗ trợ cho cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp
vay để mua cổ phiếu với điều kiện u đãi nh: vay không phải trả lãi thời gian
5 năm với mức bình quân không quá 3 triệu đồng và mức cao nhất 5 triệu
đồng/ngời tuỳ theo mức lơng và thâm niên công tác. Để giải quyết khó
9
khăn ban đầu về tài chính đối với cán bộ công nhân trong doanh nghiệp,
Nhà nớc đã cho hép doanh nghiệp có thể dùng số d quỹ phúc lợi và khen th-
ởng chia cho cán bộ công nhân viên để mua cổ phiếu. Ngoài ra, Nhà nớc

cũng nên dùng một phần nguồn "vốn tự có" để trợ giúp thêm với phơng
châm không lấy lãi và thời gian hoàn trả lâu dài.
- Quan điểm thứ t. Mọi tài sản của doanh nghiệp đều thuộc sở hữu Nhà
nớc, trừ quỹ phúc lợi xã hội của tập thể là phần tiền lơng không chia để lại
cho mọi cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cùng hởng. Phần "vốn
tự có" của các doanh nghiệp Nhà nớc hiện nay thực chất là phần lợi nhuận
và quỹ khấu hao đợc Nhà nớc cho phép giữ lại để tái sản xuất mở rộng, nên
đơng nhiên là thuộc về Nhà nớc và trở thành vốn cổ phần của Nhà nớc trong
công ty cổ phần sẽ đợc hình thành. Điều này là hợp lý khi xét về mặt pháp
lý trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp khi tất cả các
khoản có và nợ cuả doanh nghiệp đều thuộc về Nhà nớc. Không thể quy kết
các khoản nợ của doanh nghiệp cho tập thể. Vì vậy, lẽ đơng nhiên khi tiến
hành lập bảng cân đối tài sản trong doanh nghiệp, xác lập giá trị tải sản còn
lại để cổ phần hoá thì cũng không thể đa "vốn tự có" ra ngoài bảng cân đối
vì nó là của tập thể. Xác định quan điểm này để bảo đảm việc chốngl ại sự
phân tán tài sản của Nhà nớc và phân phối không công bằng trong quá trình
chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận vấn đề này có tính lịch sử và đặc thù
trong cơ chế quản lý các doanh nghiệp trớc đây của Nhà nớc. Cơ chế trích
lập "ba quỹ" hết sức đặc thù của Việt Nam là nguồn gốc hình thành "vốn tự
có" của doanh nghiệp. Và có không ít doanh nghiệp đã huy động vốn đầu t
vào sản xuất bổ sung lấy từ quỹ khen thởng và quỹ phúc lợi, mà lẽ ra ngời
lao động trong doanh nghiệp đợc quyền sử dụng hết. Vì vậy, khi tiến hành
cổ phần hoá đối với từng doanh nghiệp cụ thể, cần xem xét kỹ lỡng để tránh
sự đánh động những doanh nghiệp làm ăn tốt do có đầu t thêm nhiều với
những doanh nghiệp chỉ dựa vào đầu t của Nhà nớc. Cách xử lý về nguồn
10
vốn này có rất nhiều ý kiến với nhiều phơng án khác nhau. Cách khả thi
nhất có lẽ Nhà nớc nên dành một số "cổ phần sáng lập" lấy từ nguồn vốn
này, vận dụng theo điều 30 khoản 3 của Luật công ty, để tập thể lao động

của doanh nghiệp đợc hởng chung cổ tức và không chia bình quân cho mọi
ngời. Số cổ phần này không chuyển nhợng và về lâu dài có thể thuộc về
phần phúc lợi của công ty cổ phần sau này (36, 31).
- Quan điểm thứ năm. Việc xác định giá trị của doanh nghiệp Nhà nớc
để cổ phần hoá phải chú ý đến cả hai yếu tố cấu thành: giá trị hữu hình và
giá trị vô hình. Trong yếu tố giá trị hữu hình về cơ bản có hai bộ phận giá
trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp và giá trị đất đai mà doanh
nghiệp đang sử dụng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh. Trong yếu tố giá
trị vô hình nh uy tín và nhãn hiệu sản phẩm của doanh nghiệp, u thế về thị
trờng và khả năng cạnh tranh, các điều kiện về địa điểm, quảng cáo, bạn
hàng tựu chung lại, đều biểu thị ở khả năng sinh lợi hay tỷ suất lợi nhuận
của doanh nghiệp.
Nh vậy, xem xét đầy đủ hai yếu tố cấu thành này của giá trị doanh
nghiệp để có sự kết hợp hai phơng pháp xác định giá trị của doanh nghiệp.
- Phơng pháp tính giá trị doanh nghiệp dựa trên cơ sở hệ thống kế toán
hiện hành (theo số liệu kiểm kê 1-1-1990 hoặc theo văn bản giao vốn cho
các doanh nghiệp). Phơng pháp này là cách khả thi để có đợc một hình
dung về đại lợng giá trị tài sản hữu hình của doanh nghiệp.
- Phơng pháp tính giá trị doanh nghiệp dựa trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận
bình quân. Đây là phơng pháp cần thiết để bổ sung thêm phần giá trị tài sản
vô hình của doanh nghiệp.
Trên thực tế sự kết hợp của hai phơng pháp tính giá trị nêu trên hết sức
linh hoạt, tuỳ thuộc vào những điều kiện thực tế và quan hệ cung cầu cụ thể
đối với từng doanh nghiệp. Về cơ bản, các phơng pháp và công thức để tính
giá trị doanh nghiệp đã đợc nêu trong Đề án ban hành kèm theo Quyết định
11
202- HĐBT và đợc cụ thể hoá đầy đủ, chi tiết trong các tài liệu hớng dẫn
của Bộ tài chính và một số sách, báo đã công bố (70).
Do điều kiện đặc thù của nớc ta cha có thị trờng chứng khoán, nên công
việc này cần tranh thủ sự trợ giúp của các công ty kiểm toán, các tổ chức tài

chính quốc tế. Và điều quan trọng hơn là cần thành lập một cơ quan chuyên
trách về vấn đề này để theo dõi, hớng dẫn, điều chỉnh và rút kinh nghiệm
trong quá trình làm thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nớc ở
giai đoạn này. Công việc xác định giá trị của doanh nghiệp là một vấn đề
khó khăn và phức tạp. Tuy nhiên, cũng không nên quá câu nệ vào trở ngại
này mà làm chậm trễ quá trình chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nớc sang
các hình thức công ty cổ phần để thích ứng kịp với quá trình phát triển nền
kinh tế thị trờng mở cửa ở nớc ta.
- Quan điểm thứ sáu. Phơng pháp bán cổ phiếu ở những doanh nghiệp đ-
ợc chọn cổ phần hoá cần thực hiện công khai, rõ ràng, thủ tục đơn giản, dễ
hiểu đối với mọi ngời. Về cơ bản có thể vận dụng một hoặc kết hợp ba ph-
ơng pháp cổ phần hoá sau:
+ Bán cho các đối tợng xác định trớc, áp dụng cho các doanh nghiệp có
bộ máy quản lý yếu kém. Các đối tợng đợc lựa chọn thờng đóng vai trò
những cổ đông chủ lực để tạo lập cơ sở cho việc tiếp tục cổ phần hoá rộng
rãi sau này. Vì vậy, thờng là những ngời có vốn, có trình độ kỹ thuật hoặc
có kinh nghiệm về quản lý. áp dụng phơng pháp này, thờng thích hợp cho
loại doanh nghiệp Nhà nớc sẽ đợc chuyển thành công ty cổ phần t nhân.
+ Bán rộng rãi cho mọi đối tợng, áp dụng cho các doanh nghiệp có thành
tích kinh doanh khả quan, mức độ lợi nhuận bảo đảm. Đối với những doanh
nghiệp này, mức giá cổ phiếu cần phải đợc nghiên cứu cụ thể theo quan hệ
cung cầu của thị trờng những ngời mua tiềm năng.
+ Bán cho nội bộ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, áp dụng
cho các doanh nghiệp quy mô nhỏ và họ có khả năng mua đại bộ phận cổ
phiếu của doanh nghiệp.
12
Việc bán cổ phiếu có thể đợc bán trực tiếp tại trụ sở chính và các chi
nhánh của doanh nghiệp hoặc uỷ thác cho các ngân hàng, các công ty tài
chính làm đại lý.
- Quan điểm thứ bảy. Để thực hiện thành công chơng trình cổ phần hoá.

Nhà nớc không chỉ chú ý đến thu hồi vốn mà cần phải biết chấp nhận một
khoản phí tổn nhất định. Đó là những khoản phí tổn cần thiết mà ở nớc nào
cũng có nh những chi phí bảo hiểm, trợ cấp cho ngời lao động bị mất việc
làm và tìm kiếm nghề mới, những chi phí do bán giá thấp nhằm u đãi những
tầng lớp dân c nhất định theo những mục tiêu chính trị, xã hội của Chính
phủ, những chi phí cho bộ máy thực hiện và các cơ quan môi giới, t vấn,
quảng cáo. ngoài ra, với điều kiện đặc thù ở nớc ta cần có thêm những phí
tổn khác nh vì hiệu quả và lợi ích lâu dài của việc chuyển đổi mô hình kinh
doanh có thể chấp nhận bán các doanh nghiệp thấp hơn giá thị trờng chút ít
để khuyến khích mọi ngời, mọi thành phần tham gia, hoặc vì các mục tiêu
đa dạng hoá sở hữu và tạo điều kiện cho ngời lao động làm chủ doanh
nghiệp. Nhà nớc có thể chấp nhận những chi phí về trợ cấp, cho vay với
những điều kiện u đãi đặc biệt, bán giá thấp cho một số tầng lớp nhân dân
và cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Thực tiễn của việc làm thí
điểm cho thấy khoản phí tổn này là cần thiết cho sự nghiệp cổ phần hoá để
mu cầu lợi ích cơ bản và lâu dài hơn là lợi ích trớc mắt của việc thu hồi vốn
đối với Nhà nớc.
- Quan điểm thứ tám. Theo tinh thần Quyết định 202- HĐBT thì các
doanh nghiệp đã đợc cổ phần hoá đơng nhiên sẽ hoạt động trong khuôn khổ
luật công ty (có hiệu lực từ ngày 15-4-1991) cả về hình thức tổ chức quản lý
lẫn hoạt động tài chính. Vì vậy, cần phải có điều lệ và quy chế hoạt động
tuân thủ theo các quy định của Luật công ty. Một vấn đề đặt ra: ai sẽ là ng-
ời thay mặt cho sở hữu Nhà nớc trong các công ty này? Vì theo những quy
định bổ sung của Luật công ty thì viên chức Nhà nớc không đợc làm sáng
lập viên hoặc quản trị viên trong công ty . Điều này đòi hỏi cùng với việc
13
chuyển doanh nghiệp Nhà nớc sang công ty cổ phần, Nhà nớc phải gấp rút
xây dựng một đội ngũ các nhà sáng lập viên độc lập không phụ thuộc hàng
ngũ công chức ỏ các Bộ chủ quản và địa phơng để thay mặt Nhà nớc quản
lý các nguồn vốn trong các công ty cổ phần có sự tham gia của Nhà nớc.

Xét về mặt tổ chức, đội ngũ này sẽ thuộc một cơ quan của Nhà nớc hoạt
động nh một công ty tài chính quốc gia, chuyên trách quản lý và thực hiện
các hoạt động đầu t thông qua hình thức các công ty cổ phần nhằm bảo toàn
và phát triển sở hữu Nhà nớc theo các yêu cầu điều tiết định hớng nền kinh
tế. Bên cạnh đó, Nhà nớc cũng cần xây dựng đội ngũ các nhà quản trị kinh
doanh đủ năng lực hoạt động trong điều kiện mới, không phân biệt thuộc
khu vực Nhà nớc hay t nhân. Trong nhiều trờng hợp, có thể thuê các nhà
quản trị kinh doanh nớc ngoài để học tập kinh nghiệm và kiến thức cũng
nh kêu gọi các nhà đầu t nớc ngoài mua cổ phiếu của các doanh nghiệp Việt
Nam.
- Quan điểm thứ chín. Các doanh nghiệp đợc lựa chọn để cổ phần hoá
cần phải có sự giải quyết rõ ràng, dứt điểm các vấn đề tồn đọng về tài chính
và lao động trớc khi chuyển sang công ty cổ phần.
Các vấn đề tài chính có thể gồm:
+ Các tài sản đang chờ thanh lý. Cần phải cố gắng giải quyết nhanh theo
các quy định của Thông t 34 TC/CN ngày 31/7/1990 của Bộ tài chính. Nếu
xử lý không kịp thì phải để riêng để Bộ chủ quản và cơ quan tài chính tiếp
tục xử lý.
+ Các tài sản mất mát, thiếu hụt, cần phải truy cứu trách nhiệm rõ ràng
và kết luận dứt khoát về cách giải quyết.
+ Các khoản nợ phải đòi, phải trả. Cần phải xử lý các khoản này theo h-
ớng dẫn của Ban thanh toán nợ Trung ơng (giai đoạn 2). Nếu cha xong thì
phải báo cáo đầy đủ để Bộ chủ quản và cơ quan tài chính có biện pháp cụ
thể để xử lý trớc khi tiến hành cổ phần hoá.
14
+ Các nguồn vốn liên doanh, liên kết. Cần phải đợc thống kê và báo cáo
đầy đủ để Bộ chủ quản và cơ quan tài chính xử lý. Hoặc là chuyển thành
vốn góp trong công ty cổ phần, hoặc là sẽ chuyển thành phần nợ để Nhà n-
ớc chịu trách nhiệm thanh toán sau. Đối với các liên doanh với nớc ngoài
cũng có thể giải quyết theo hớng này.

+ Các vấn đề về lao động thì đã có sự hớng dẫn trong Thông t
09/LĐTBXH-TT ngày 27/7/1992 của Bộ Lao động thơng binh và xã hội.
Về cơ bản cần phải giải quyết tốt các v ấn đề về chính sách và chế độ cho
những ngời lao động nghỉ hu, mất sức, thôi việc, tuyển dụng lại, tìm việc
mới, các chế độ bảo hiểm xã hội. Trong quá trình xử lý nếu có vấn đề gì vợt
khỏi thẩm quyền của doanh nghiệp thì báo cáo lên Bộ chủ quản giải quyết.
3. các kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nớc
3.1- Kinh nghiệm CPH ở Liên Xô (cũ)
Thờng "chơng trình đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách kinh tế
của Chính phủ liên bang Nga", những nhiệm vụ cơ bản của việc t nhân hoá
cần phải thực hiện trong vòng 3 - 4 năm. Hiện nay các vấn đề về tổ chức,
lập pháp, thể chế liên quan đến t nhân hoá đã đợc hoàn thành. Thời gian
tiếp theo, t nhân hoá sẽ đợc thực hiện theo "luật về t nhân hoá các xí nghiệp
quốc doanh và công cộng", đồng thời Liên bang Nga cũng tiến hành hoàn
thiện các văn bản dới luật, cũng nh hoàn thiện thêm bản thân luật t nhân
hoá này.
Có phần giống nh Ba Lan, liên bang Nga tiến hành t nhân hoá theo 2
hớng đó là t nhân hoá "nhỏ": T nhân háo ngành thơng nghiệp và dịch vụ,
các xí nghiệp công nghiệp lớn và những xí nghiệp quốc doanh lớn thuộc
các ngành khác.
Hiện nay Liên bang Nga đang bắt đầu tiến hành 2 hớng này với tên
gọi là giai đoạn t nhân hoá hàng loạt. Nhiệm vụ của giai đoạn này là tạo ra
một khu vực t nhân theo tiến trình sau: đến cuối 1993 sẽ chuyển sang khu
vực t nhân trên 30% toàn bộ giá trị tài sản sản xuất của đất nớc, đến cuối
năm 1994 thêm 20% nữa, và đến cuối năm 1995 phải đạt đợc 60%. Trong
15
số đó 80 - 85% là chuyển cho không (sử dụng phiếu t nhân hoá và các u đãi
cho tập thể lao động).
Năm 1992 thực hiện bớc 1 là CPH các xí nghiệp lớn. Các cổ phiếu
của chúng hoặc do Nhà nớc nắm hoặc do tập thể lao động nắm. Với việc

CPH này sẽ này sinh một xu hớng ngợc lại, xu hớng đã hình thành trớc đây.
Đó là xu hớng giảm cơ cấu độc quyền, thiết lập các xí nghiệp nhỏ và vừa
để thực hiện có hiệu quả t nhân hoá "nhỏ" ngời ta dự kiến cho phép thuê
thâu mặt bằng và đất canh tác của các xí nghiệp đợc t nhân hoá, mở rộng
khả năng cấp tín dụng bằng cách đánh thuế bất động sản, tăng kích thích để
mua các xí nggiệp cho thuê thầu, không cho phép các cơ quan quản lý tài
sản t nhân hoá có quyền thu nhập nào khác ngoài một phần trích từ thu
nhập do bán tài sản, chuyển phần lớn tiền thu đợc do t nhân hoá cho ngân
sách địa phơng.
Quá trình CPH phần lớn các xí nghiệp lớn của Liên bang Nga đợc
tiến hành vào tháng 7 đến tháng 10 năm 1992. Các xí nghiệp này sẽ đợc cải
tạo thành xí nghiệp cổ phần mở. Cổ phiếu của các xí nghiệp này đợc bán
rộng rãi để thu lại phiếu t nhân hoá đã phát cho nhân dân.
ở cấp xí nghiệp, để thực hiện CPH, ban giám đốc cùng với tập thể
công nhân sẽ soạn thảo ra một kế hoạch t nhân hoá, phơng án phân chia
quyền lợi cho ngời lao động, cách thức và tiến trình bán cổ phiếu, có thể
bán đấu giá cổ phiếu khống chế hoặc các nhóm cổ phiếu khác.
ở cấp Nhà nớc, chơng trình t nhân hoá có nêu một số phơng án phân
chia quyền lợi cho ngời lao động nh sau:
- Ngời lao động đợc chia 25% cổ phiếu u đãi không mất tiền mà có
quyền mua 10% cỏ phiếu, có quyền biểu quyết với giá giảm 30% so với
danh nghĩa. lãnh đạo xí nghiệp có thể mua theo tiêu chuẩn đến 5% tổng số
cổ phiếu có quyền biểu quyết.
- Công nhân có thể mua 51% cổ phiếu có quyền biểu quyết theo
những điều kiện do Nhà nớc quy định.
16
- Công nhân có quyền mua 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết giảm
giá 30%, và một nhóm công nhân có quyền mua 20% cổ phiếu có quyền
biẻu quyết theo những điều kiện đặc biệt, không giảm giá, nếu họ chịu
trách nhiệm không để cho xí nghiệp phá sản và thực hiện đúng kế hoạch t

nhân hoá. Phơng án này chỉ áp dụng những xí nghiệp có quy mô trung bình
không phải CPH bắt buộc.
Việc phát huy không hay bán theo những điều kiện u đãi một phần
cổ phiếu của xí nghiệp cho các thành viên tập thể lao động theo những ph-
ơng án mà họ lựa chọn sẽ đợc thực hiện ngay trong tiến trình biến xí nghiệp
thanh Công ty cổ phần. ở các xí nghiệp sẽ thành một hội đồng giám sát bao
gồm đại diện của ban giám đốc, tập thể lao động, cơ quan t nhân hoá và
chính quyền địa phơng. Hội đồng giám sát tiến trình t nhân hoá theo kế
hoạch đã định ở xí nghiệp, kể cả việc thực hiện những u đãi đối với công
nhân viên.
Vừa qua liên bang Nga không kể tuổi tác, địa vị xã hội, mức trhu
nhập.v.v điều đợc phát phiếu t nhân hoá nh nhau. Với phiếu này họ có
quyền đổi lấy cổ phiếu của xí nghiệp t nhân hoá với giá trị nhất định (do
Liên Xô tối cao quyết định). Dự định đến năm 1993 - 1994 sẽ phát bổ sung
một đợt mới phiếu t nhân hoá.
Phiếu t nhân hoá có thể đợc sử dụng theo những cách sau:
1- Đổi trực tiếp giấy cổ phiếu của xí nghiệp công nhân của các xí
nghiệp có thể đổi lấy cổ phiếu với những điều kiện u đãi, cũng nh đợc tham
gia giá các cuọc bán đấu giá đặc biệt để mua cổ phiếu nh mọi công dân
khác ngoài xí nghiệp.
2- Đổi lấy cổ phần của các quỹ đầu t t nhân hoặc quốc doanh. Các
quỹ đầu t sẽ thu phiếu t nhân hoá và và dùng chúng để mua cổ phần của các
xí nghiệp. Nh vậy mỗi quỹ đầu t sẽ có nhiều cổ phần trong nhiều xí nghiệp
khác nhau. Họ sẽ dùng lãi cổ phần thu đợc từ các xí ngiệp để trả lãi cho
những ngời mua cổ phiếu của mình.
3- Cách thứ ba là bán phiếu t nhân hoá để lấy tiền.
17
Để tránh mất giá hoặc thiếu lòng tin vào phiếu t nhân hoá, Nhà nớc
quy định rằng tổng số cổ phiếu phát hành trên thị trờng sẽ nhiều hơn phiếu
t nhân hoá phát cho nhân dân (nghĩa là tạo chênh lệch cung vợt cầu để

phiếu t nhân hoá không bị mất giá: các xí nghiệp cần t nhân hoá phải bán
trên 35% cổ phiếu của mình để lấy phiếu t nhân hoá. Đồng thời Nhà nớc lập
ra các cơ quan tài chính đặc biệt để t vấn cho t nhân xử dụng phiếu có hiệu
quả. Nhà nớc cũng bảo đảm mọi mặt về thông tin để nhân dân có thể lựa
chọn theo ý mình.
Triển vọng t nhân hoá đến năm 1995
Với tiến trình mở của nền kinh tế của liên bang Nga và với quyết tâm
thúc đẩy t nhân hoá, xây dựng kinh tế thị trờng, Chính phủ cho rằng chơng
trình t nhân hoá có thể đạt đợc kết quả khả quan. Tuy nhiên, thực tế sẽ khó
đạt đợc kết quả nh vậy, vì nh các nớc Đông Âu. Nhân dân liên bang Nga
không thể lấy đâu ra tiền để mua khối lợng tài sản khổng lồ thuộc sở hữu
Nhà nớc ớc tính khoảng 2500 tỷ rúp vốn cố định và 1100 tỷ rúp vốn lu
động. Việc bán rộng rãi cổ phiếu bao bồ 3 giai đoạn:
- Bán u đãi những ngời đầu t lớn mua cổ phần khống chế của xí
nghiệp. Nếu chọn phơng án đâu đãi thứ hai, thì chính tập thể công nhân
viên xí nghiệp đó sẽ là những ngời nắm cổ phần khống chế. Nếu chọn ph-
ơng án ba, thì chủ một nhóm công nhân của xí nghiệp mới có khả năng
khống chế xí nghiệp trong tay. Ngoài ra, khi có đợc một lợng phiếu t nhân
hoá nhất định, các quỹ đầu t cũng có thể trở thành ngời đầu t chính của xí
nghiệp.
- Bán số cổ phiếu phần còn lại thông qua đấu thầu.
Trong năm 1993 sẽ kết thúc về cơ bản quá trình t nhân hoá nhỏ. Để
đẩy nhanh t nhân hoá, Chính phủ sẽ thực hiện phân phối loạt phiếu t nhân
hoá mới, tiến hành t nhân hoá nhà ở, điều chỉnh mức lãi cổ phân, tăng trợ
cấp ngân sách và tín dụng u tiên cho những nơi thực hiện tốt nhiệm vụ t
nhân hoá.
18
Nhà nớc khuyến khích hình thức đấu giá cạnh tranh để tuyển chọn
mua xí nghiệp, đồng thời sẽ chú ý giải quyết những hậu quả về mặt xã hội
nh công ăn việc làm. Nhà nớc hứa sẽ mở rộng danh sách các xí nghiệp t

nhân hoá đối với khách hàng nớc ngoài, và dựa vào luật đàu t sẽ có những u
đãi nhằm thu hút đầu t nớc ngoài nhiều hơn.
Đến cuối năm 1995 giá trị tài sản sản xuất của đất nớc thuộc khu vực
quốc doanh sẽ còn khoảng 40%. Đây là một bớc đi khá lớn, những tiến
mạnh vào kinh tế thị trờng thì kết quả t nhân hoá đó cha đạt tới giới hạn
cuối cùng.
3.2- Kinh nghiệm CPH ở Trung Quốc
Trung Quốc bắt đầu thí điểm CPH các doanh nghiệp Nhà nớc của họ
vào đầu những năm 1980, họ đã gặt hái đợc những kinh nghiệm đáng chú ý.
Từ ngày 22 đến ngày 25/8/1987 tại Hàn Châu (Sơn Tây) Chính phủ tổ chức
hội nghị thảo luận về 3 năm thực hiện về CPH.
Chỉ tính riêng trong 5 tỉnh thành phố (Thẩm Dơng, Thợng Hải, Bắc
Kinh, Quảng Châu, Thiển Tây) đã có trên 1500 xí nghiệp quốc doanh cổ
phần hoá với tổng số vốn lên tới hàng chục tỷ nhân dân tệ. Ngày 15/7/1984
thành lập Công ty cổ phần đầu tiên của cả nớc với số vốn cổ phần của bên
ngoài Công ty lên tới 5318000 nhân dân tệ chiếm 73,6% tổng giá trị doanh
nghiệp.
3.3- Những bài học kinh nghiệm có thể rút ra từ việc cổ phần
hoá, t nhân hoá ở các nớc trên thế giới
- Cổ phần hoá phải đợc nghiên cứu toàn diện.
Nó không phải là mục đích tự thân, mà là một bộ phận trong một ch-
ơng trình cải cách rộng lớn hơn nhằm thúc đẩy bố trí tốt hơn các nguồn lực,
khuyến khích cạnh tranh, tạo môi trờng thuận lợi cho phát triển kinh tế,
phát triển thị trờng vốn.
- Việc nghiên cứu thiếu thận trọng các phơng án lựa chọn trớc khi
hành động có thể dẫn đến những sai lầm tốn kém.
19
Nhiều chơng trình các xí nghiệp mới chỉ chủ trọng đến hiệu quả thu
hồi trớc mắt, nhng lại cha quan tâm đến tìm cách bảo đảm lợi nhuận tài
chính lâu dài.

- Trong trờng hợp thị trờng vốn cha phát triển thậm chí còn yếu
kém thì việc cổ phần hoá cần phải thận trọng và phải đợc cụ thể hoá
trong chủ trơng bán một phần tài sản.
Điều kiện tài chính là kiên quyết, nếu không trong nên kinh tế sẽ
xuất hiện những tình trạng bất thờng. Nhiều nớc đã thu hẹp thị trờng tài sản
của mình băng cách giới hạn hoặc loại trừ sự tham gia của ngời nớc ngoài.
+ Xây dựng một chiến lợc cổ phần hoá và phân loại xí nghiệp quốc
doanh là bớc cần thiết để làm sáng tỏ mục tiêu và quan điểm của Nhà nớc.
+ Việc cổ phần hoá yêu cầu phải có các cán bộ phải có trình độ, quản
lý một chơng trình CPH là công việc phức tạp trong khi nhiều quan chức
Chính phủ cha có đầy đủ năng lực cần thiết. Mặt khác Nhà nớc thờng ở thế
yếu trong thơng lợng: nhiều xí nghiệp không hấp dẫn, lại thiếu thông tin,
thiếu kinh nghiệm trong việc bán tài sản. Trong những trờng hợp nh vậy,
kết cục chung thờng thấy là tài sản bị đánh giá thấp hơn giá trị thực của nó,
và cuối cùng, điều cần phải có là công khai và lòng tin tởng của quần chúng
đối với chơng trình cổ phần hoá.
II- Doanh nghiệp Nhà nớc Việt Nam và thực trạng cổ phân hoá
1- Thực trạng của doanh nghiệp Việt Nam và tiến trình cổ phân
hoá
Thực tiễn không những năm vừa qua đã khẳng định đờng lối đổi mới
ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, nhiều nhà kinh tế trên thế giới đánh giá
cao thành tự đổi mới của Việt Nam, coi đó là "hiện tợng Việt Nam". Tuy
nhiên quá trình cải cách cũng đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, trong đó có vấn
đề nâng cao vai trò, hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nớc và quá trình CPH
và quá trình CPH loại hình doanh nghiệp này. Trớc kia chúng ta có hơn
20
12000 doanh nghiệp Nhà nớc. Sau quyết định 388 cảu Chính phủ, sắp xếp
lại khu vực kinh tế Nhà nớc, vừa giải thế các doanh nghiệp thua lỗ nhiều
năm, vừa sát nhập, đến nay chúng ta còn gần 6000 doanh nghiệp nữa. Bên
cạnh những mặt đợc, hoạt động doanh nghiệp Nhà nớc bộ lộ nhiều hạn

chế.
- Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nớc có quy mô nhỏ, vốn ít, kỹ thuật
lạc hậu. ở nớc ta số doanh nghiệp Nhà nớc có vốn dới 1 tỷ đồng chiếm tới
50%. Năm 1994 doanh nghiệp thu trung bình của các doanh nghiệp Nhà n-
ớc do bộ, ngành trung ơng quản lý là 64 tỷ đồng/năm. Các doanh nghiệp địa
phơng quản lý là 16 tỷ đồng/ năm. Trừ một số doanh nghiệp Nhà nớc mới
xây dựng trong những năm gần đây, hầu hết các doanh nghiệp lại có kỹ
thuật lạc hậu so với thế giới tới 2 - 3 thế hệ nh ngành đờng sắt, đóng tầu, cơ
khí vì vậy sản phẩm của các doanh nghiệp này cung cấp có chi phí sản
xuất cao, chất lợng kém.
- Tình trạng chiếm dụng vốn, công nợ dây da kéo dài giữa các doanh
nghiệp Nhà nớc là hiện tợng phổ biến. Tính đến 31/12/1994 tổng số công
nợ phải thu chiếm 20% doanh thu khu vực kinh tế này, bằng 54% tổng số
vốn của doanh nghiệp và tổng số công nợ phải trả chiếm 26,4% doanh thu.
Trừ một số doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ nh ngân hàng thơng mại, Công
ty bảo hiểm, còn lại đại bộ phận của doanh nghiệp Nhà nớc đều có số nợ
phải trả lớn hơn số nợ phải thu, số nợ không có khả năng thanh toán rất lớn.
- Hệ thống quản lý nặng lề, kém linh hoạt, cha đáp ứng đợc yêu cầu
của cơ chế thị trờng. Các quyết định đầu t, các phơng án sản xuất kinh
doanh và tiêu thụ sản phẩm, các phơng án đổi mới kỹ thuật và công nghệ,
phân phối tài chính có quá nhiều quy định, thủ tục phiền hà, chế độ tập thể
quyết định, trên thực tế không ai chịu trách nhiệm, gây thất thoát lớn đối
với tài sản của Nhà nớc trong các doanh nghiệp.
- Hiệu quả kinh tế trong các doanh nghiệp Nhà nớc rất thấp nhiều
doanh nghiệp Nhà nớc không bảo tồn đợc vốn, mức sử dụng lao động thấp,
tốc độ chu chuyển của vốn chậm, sức cạnh tranh yếu. Đến cuối năm 1994,
21
riêng nó doanh nghiệp Nhà nớc do địa phơng quản lý thua lỗ lên tới 469
doanh nghiệp, chiếm 12% tổng số doanh nghiệp Nhà nớc và 33,2% tổng số
lỗ của khu vực kinh tế Nhà nớc. Có doanh nghiệp trớc khi có quyết định

giải thế còn mắc nợ hàng trăm tỷ đồng và hàng triệu đô la. Mặc dù Chính
phủ thờng xuyên rà soát công nợ của doanh nghiệp Nhà nớc và có chính
sách phù hợp đối với số nợ tồn đọng từ nhiều năm trớc, nhng nhiều doanh
nghiệp Nhà nớc vẫn không có khả năng trang trải công nợ bằng lợi nhuận
thu đợc của các doanh nghiệp này. Hiện tợng các doanh nghiệp Nhà nớc
"ăn vào vốn" vẫn còn khá phổ biến, nh vậy sự tồn tại của khu vực kinh tế
Nhà nớc quá lớn trở thành gánh nặng đối với ngân sách Nhà nớc.
Thực trạng sự hoạt động kém hiệu quả, kém năng động của khu vực
kinh tế Nhà nớc là hiện tợng phổ biến ở các nớc. Từ những năm 80 của thế
kỷ 20 ở các nớc t bản đã diễn ra quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, t nhân hoá
và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nớc.
2- Nguyên nhân của tình trạng trên là:
- Về nhận thức và hành động từ các cơ quan quản lý đến doanh
nghiệp cha đầy đủ hành động cha thờng xuyên, liên tục:
+ Đối với các cơ quan quản lý Nhà nớc: Do đứng trớc ba nguy cơ lớn
của đất nớc là: nguy cơ đi chệch hớng XHCN, nguy cơ tụt hậu so với sự
phát triển chung, nguy cơ của quốc nạn tham nhũng của số cán bộ có chức
có quyền: Cán bộ các cấp còn rất dè dặt trong việc chỉ đạo công tác CPH.
Vì cổ phần doanh nghiệp Nhà nớc sẽ chuyển từ hình thức sở hữu Nhà nớc
sang hình thức sở hữu có một phần của Nhà nớc. Nhiều ngời muốn "cố thủ"
tốt nhất là không hăng hái trong công tác nay để trách đi chệch hớng
XHCN. Ngời lãnh đạo (đầu tầu) đã không hăng hái thì không thể chuyển
động đợc các "toa tầu" phía sau.
+ Đối với các doanh nghiệp: ngời lãnh đạo (tránh, phó giám đốc) hầu
hết là do chế độ bổ nhiệm mà có, do vậy khi chuyển sang Công ty cổ phần
22
để gìn giữ đợc chức vụ đó trớc đại hội cổ đông? vì thế họ không muốn CPH
và không chịu CPH doanh nghiệp Nhà nớc, và khi CPH công nhân và lao
động còn đợc làm việc nh cũ hay không? Họ đợc gì? hình nh cha đợc gì
đáng kể?

Thế là từ trên xuống dới kêu thành mảng trong nhận thức và hành
động. Để đảm bảo "an toàn" và giữ đợc "ghế" tránh đợc "nguy cơ đi chệch
hớng XHCN" thợng sách là cùng xắn tay áo lao vào công tác này.
- Khung pháp lý cha đầy đủ và thiếu đồng bộ: Chủ trơng lớn của
Đảng, Nhà nớc mới chỉ dừng lại ở một quyết định, một chỉ thị của Thủ tớng
Chính phủ, các ngành, các cấp thiếu hoặc rất chậm trong triền khai hớng
dẫn thực hiện các cơ quan chỉ đạo, nhất là mới chỉ hành động về hành chính
trong khi CPH cần đến cả một loạt các quy định của các ngành luật khác
nh tài chính, lao động mà đến nay cha có nên dẫn đến thiếu sự nhất quán
trong thi hành. Các điều kiện của cơ chế thị trờng dành cho hoạt động này
còn thiếu, tạo ra sự lúng túng trong quá trình chỉ đạo thí điểm CPH, đặc biệt
là xử lý những vấn đề có tính kỹ thuật, nghiệp vụ ở cơ sở.
- Hình thức CPH ở doanh nghiệp Nhà nớc còn quá sơ sài gian đơn
chuqa mang tính đa dạng, trong khi đó các loại hình doanh nghiệp ở các
vùng, các ngành có tính đặc thù riêng. Dó đó nhièu doanh nghiệp muốn
chuyển sang Công ty cổ phần nhng cha có hình thức chỉ đạo thích ứng.
- Sự phân biệt giữa doanh nghiệp Nhà nớc và doanh nghiệp ngoài
quốc doanh (kể cả Công ty cổ phần) còn nặng nền cả trong nhận thức lẫn
thực tế thực hiện.
- Doanh nghiệp Nhà nớc đợc u ái (bao cấp) khá đậm nét về địa điểm,
vốn, tín dụng đặc biệt là kết quả quốc doanh: Nếu lỗ, mất vốn Nhà nớc
vẫn còn gánh chịu. Cá nhân (tránh phó giám đốc) có mất cũng chỉ mất chức
- thậm chí còn đợc chuyển lên chức vụ cao hơn. Trong khi Nhà nớc mất đi
bạc tỷ - thì họ cũng chỉ mất (hoặc tăng) chức nhng đã "ăn đủ" cho cá nhân
công nhân viên doanh nghiệp Nhà nớc, ngoài lơng họ còn đợc hởng và các
quyền lợi khác mà họ không phải bỏ vốn .
23
- Chuyển Công ty cổ phần: Nhiều ý kiến chỉ chọn và đa ra những
doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả hoặc lỗ, những doanh nghiệp
lãi, có nguồn thu lớn phải giữ lại cho Nhà nớc. Có nghĩa đã đã đa ra thị tr-

ờng "các loại" "hàng" thiu thối - vì thế khó có ngời muốn mua. Đã vậy khi
chuyển sang Công ty cổ phần họ tởng nh Nhà nớc mất tài sản do đó họ
nâng giá trị tài sản doanh nghiệp lên quá mức thị trờng có thể chấp nhận thế
là tình trạng hàng bán ra đã kém lại có mức giá cao, thành thử ế ẩm. Kết
quả là các doanh nghiệp Nhà nớc đa ra CPH sau một thời gian tranh cãi, tốn
phí tiền của, nhân lực nhng lại bỏ đó.
Mặt khác nếu chuyển sang Công ty cổ phần doanh nghiệp còn chịu
khá nhiều những hắt hủi" của doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà trong
chính sách của Nhà nớc không có, nhng trong thực tế thực hiện lại nảy sinh
nh tín dụng, thuế, giá trị tài sản
- Thói quen hùn vốn vào Công ty cồ phần để kinh doanh trong dân ta
cha có, đặc biệt là ở các tỉnh phía bắc, họ thà cất giữ (vàng, ngoại tệ): gửi
tiết kiệm sinh lợi hoặc mua bất động sản sẽ an toàn hơn là mua cổ phần
doanh nghiệp. Đặc biệt đây là những đồng tiền ky cóp mồ hôi nớc mắt dành
dụm đợc.
- Các chính sách khuyến khích công nhân viên chức trong các doanh
nghiệp Nhà nớc chuyển sang Công ty cổ phần cha nhiều, cha có sự hấp dẫn
cần thiết để ho hăng hái trong hoạt động này. Nhà nớc cũng cần thiết phải
có một số chính sách đãi ngộ thích đáng cho các doanh nghiệp Nhà nớc
chuyển sang Công ty cổ phẩn thì mới tạo ra đợc động lực bên trong từng
doanh nghiệp để thúc đẩy công tác này phát triển đúng hớng. Bên cạnh sự
khuyến khích lợi ích vật chất, cũng cần có thái độ dứt khoát với các loại
hình doanh nghiệp mà Nhà nớc không cần đầu t 100% vốn để có kế hoạch
vụ thể từng bớc phát triển doanh nghiệp Nhà nớc sang Công ty cổ phân,
Công ty trách nhiệm hữu hạn, hoặc doanh nghiệp t nhân tạo ra sự phát triển
nhịp nhàng giữa các thành phần kinh tế trong tổng thể nền kinh tế quốc dân.
24
- Thủ tục hành chính quá rờm rà và tốn kém. Một doanh nghiệp Nhà
nớc trị giá 2 tỷ bạc chuyển sang Công ty cổ phần mà hàng chục lợt cán bộ
đến nghiên cứu, soát, xét, kiểm tra, kiểm toán, thẩm định kiểm toán, ký

biên bản, thẩm định biên bản, ra quyết định.v.v Rồi sau đó mới trình lên,
ngành, UBND, tỉnh, thành phố, trình Thủ tớng Chính phủ phê chuẩn Biết
bao "cửa ải" mà doanh nghiệp phải chịu đựng. Với thủ tục nh vậy hỏi sao có
thể đẩy mạnh đợc tiến độ phát triển chủ trơng CPH doanh nghiệp Nhà nớc
theo chơng trình đổi mới doanh nghiệp của Chính phủ đề ra.
Thực hiện nghị quyết trung ơng VIII về cải cách hành chính, thiết
nghĩ đây là một trong những điểm cần thiết phải "cải cách" phải loại bỏ
những thủ tục rờm rà xây dựng một quy trình CPH doanh nghiệp Nhà nớc
gọn nhẹ, quản lý chặt chẽ và tránh đợc những chi phí do doanh nghiệp phải
bỏ ra làm ảnh hởng đến túi tiền của ngân sách.
- Một nguyên nhân khá quan trọng là tổ chức chỉ đạo cha tập trung,
thiếu thống nhất giữa các bộ, ngành, trung ơng, địa phơng: cơ quan đại diện
chỉ định chủ trì (Bộ tài chính) cha đủ thẩm quyền giải quyết các vấn đề phát
sinh kịp thời, đôi khi gặp khó khăn (đặc biệt là có ý kiến khác nhau vè
quyền sở hữu tài sản) thì chùn bớc và phó mặc thời gian và sự việc.
3- Một số kết quả đã đạt đợc
Trong 6 tháng cuối năm 1998 sau khi có nghị định số 44/CP đã có 90
doanh nghiệp đợc CPH, đa số doanh nghiệp đợc lên con số 120 năm 1999,
CPH đợc 250 doanh nghiệp gấp 7 lần so với 6 năm trớc đó (1992 - 1997)
cộng lại. Nh vậy cho đến nay đã CPH đợc 370 doanh nghiệp. Trong số các
địa phơng có nhiều doanh nghiệp đợc CPH phải kể đến Hà Nội. Trong 2
năm 1998 - 1999 Hà Nội CPH 71 doanh nghiệp Nhà nớc (năm 1998 CPH
31 doanh nghiệp Nhà nớc, năm 1999 CPH 4 doanh nghiệp) Só doanh
nghiệp đợc CPH chiếm 21,6% doanh nghiệp Nhà nớc do địa phơng quản lý.
Thành phố Hồ Chí Minh đã đi đầu trong việc thực hiện thí điểm
CPH nhng sau đó chững lại. Đến tháng 6 năm 1999 mới có 8 doanh nghiệp
đợc chuyển thành Công ty cổ phần, 12 doanh nghiệp đang thực hiện thẩm
25

×