Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

nâng cao chất lượng các sản phẩm gia vị chinsu trên thị trường hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.58 KB, 29 trang )

Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
Lời mở đầu
Trong xu thế phát triển nhanh chóng như ngày nay để tăng cường
sự hội nhập với nền kinh tế trong nước cũng như các nước trong khu
vực và trên thế giới. việc đổi mới nhận thức trong cách làm, cách tiếp cận
với chất lượng sản phẩm cũng như mô hình quản lý chất lượng sản
phẩm là một vấn đề sống còn đối với bất kỳ doanh nghiệp nào. Nhất là
trong giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta và sắp tới
là hội nhập WTO . Đó là những bước đi cơ bản và cần thiết của đất nước
để sánh ngang với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhưng đồng
thời điều đó cũng đặt ra cho các doanh nghiệp trong nước những thách
thức không nhỏ. Một câu hỏi đặt ra là: “ Chất lượng hay là chết ”. Bởi lẽ
khi đất nước hội nhập với thế giới thì thì toàn thế giới sẽ là một sân chơi
và có luật chơi công bằng. Sự cạnh tranh gay gắt là không tránh khỏi và
không được phép khoan nhượng với bất cứ đối thủ nào.
Tuy nhiên sự “chuyển mình’’ của hệ thống quản lý chất lượng trong
các doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua mặc dù đã có nhiều tiến bộ
nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế.
Việc quản lý chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp Việt Nam còn gặp
tương đối nhiều khó khăn và thách thức.
Để thấy rõ hơn vai trò của chất lượng sản phẩm trong hoạt động
kinh doanh em đã đi sâu vào một sản phẩm cụ thể của một doanh nghiệp
cụ thể. Do đó đề tài mà em chọn để trình bày trong đề án này là: “ Nâng
cao chất lượng các sản phẩm gia vị Chinsu trên thị trường Hà Nội ’’.
Trong khuôn khổ của một bài đề án em chỉ có thể trình bày được một số
biện pháp để hoàn thiện và nâng cao hơn nữa chất lượng các sản phẩm
gia vị Chinsu nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường. Từ đó phát triển thị phần ra toàn quốc và các nước trong khu
vực.
Đề án này gồm những phần cụ thể sau:
I. Chất lượng sản phẩm và vai trò của nó trong hoạt động kinh


doanh
II. Công ty Masan và sản phẩm gia vị Chinsu trên thị trường Hà
Nội
III. Đánh giá của khách hàng Hà Nội về chất lượng các sản phẩm
gia vị Chinsu của công ty Masan
IV. Một số giải pháp để hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản
phẩm Chinsu
V. Kết luận
Đề án này của em được hoàn thành với sự giúp đỡ chỉ bảo tận
tình của cô giáo Phạm Thị Huyền. Em xin chân thành cảm ơn cô đã giúp
em hoàn thành tốt đề án môn học này.
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
I - Chất lượng sản phẩm và vai trò của nó trong hoạt động kinh
doanh
1. Các khái niệm cơ bản về chất lượng sản phẩm
1.1. Khái niệm cơ bản về chất lượng sản phẩm
Trong Nền kinh tế thị trường như ngày nay, chất lượng sản phẩm đã
trở thành mối quan tâm hàng đầu đối với các doanh nghiệp. khi mà hàng
hoá đã trở nên dư thừa thì người tiêu dùng lại có xu hướng quan tâm
đến chất lượng sản phẩm nhiều hơn. Vậy chất lượng sản phẩm là gì mà
các doanh nghiệp lại coi nó là nhân tố sống còn trong quá trình sản xuất
kinh doanh.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm. Các
chuyên gia thì đưa ra những khái niệm liên quan đến ‘mức độ phù hợp
với công dụng’, ‘mức độ phù hợp với các yêu cầu’, ‘mức độ tự do cải
biến’ và nhiều tính chất khác nữa. Nhưng ở đây em chỉ đề cập đến khái
niệm do hiệp hội kiểm tra chất lượng Mỹ đưa ra và đã được toàn thế giới
chấp nhận: “Chất lượng sản phẩm là toàn bộ những tính năng và đặc
điểm của một sản phẩm hay dịch vụ đem lại cho nó khả năng thoả mãn
những nhu cầu được nói ra hay được hiểu ngầm’’. Đây rõ ràng là là một

định nghĩa chất lượng lấy khách hàng làm trung tâm. Khách hàng có rất
nhiều nhu cầu và kỳ vọng, những nhu cầu đó lại liên tục biến đổi làm cho
các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc nắm bắt nhu cầu của
người tiêu dùng. Doanh nghiệp chỉ có thể cung ứng chất lượng khi sản
phẩm và dịch vụ của họ đáp ứng được hay vượt quá những kỳ vọng của
khách hàng. Một công ty tìm được cách thoả mãn hầu hết những nhu cầu
của khách hàng chắc chắn bao giờ cũng là một công ty chất lượng. Một
diều quan trọng là phải phân biệt được giữa chất lượng phù hợp và chất
lượng thực hiện. Chất lượng sản phẩm được xác định dựa trên đánh giá
của khách hàng, mà khách hàng mục tiêu của mỗi công ty là khác nhau.
Do vậy khó có thể nói sản phẩm nào có chất lượng tốt hơn nêu như các
thị trường mục tiêu tương ứng của chúng đều có được những gì mà
mình trông đợi ở sản phẩm. Ví dụ, nếu nhìn vào hai loại xe Mercedes và
Dewoo thì ta thấy rõ ràng là xe Mercedes có chất lượng cao hơn. Nhưng
xét về mặt chất lượng tổng thể thì một chiếc xe giá 70.000 USD đáp ứng
được những yêu cầu của thị trường mục tiêu là một chiếc xe chất lượng,
chiếc xe Dewoo giá 15.000 USD cũng đáp ứng được nhu cầu của thị
trường mục tiêu nên cũng được coi là một chiếc xe chất lượng. Vì thị
trường mục tiêu của Mercedes là những người có thu nhập cao, còn thị
trường mục tiêu của Dewoo lại là những người có thu nhập thấp và trung
bình.
Tuy nhiên chỉ riêng chất lượng phù hợp thì chưa đủ. Một sản phẩm
có thể có mức độ phù hợp rất cao với đặc điểm tính năng kỹ thuật,
nhưng điều đó sẽ là vô nghĩa nếu những tính năng kỹ thuật đó lại không
đúng. Cái mà các doanh nghiệp phải tính đến là chất lượng theo thị
trường chứ không phải chất lượng theo kỹ thuật. Chất lượng sản phẩm là
một tiêu chí tổng hợp, nó không chỉ thể hiện ở mặt sản phẩm có chất
lượng tốt mà nó còn được đánh giá bởi các tiêu chí khác như: nguyên
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
vật liệu đầu vào, hệ thống phân phối, bao bì nhãn mác, quá trình hậu mãi

sau bán hàng……Những tiêu chí đó được đảm bảo sẽ là cơ sở để quyết
định đưa sản phẩm ra thị trường cạnh tranh với những sản phẩm khác.
Khi đưa sản phẩm ra thị trường thì rủi ro và rào cản là rất lớn bởi những
đối thủ có sẵn trên thị trường. Để có thể giành được thị phần tương đối
doanh nghiệp phải tạo ra sản phẩm khác biệt và có chất lượng hơn hẳn
đối thủ cạnh tranh. Có như vậy doanh nghiệp mới tồn tại được trên thị
trường.
Chất lượng sản phẩm phải được xác định từ khâu thiết kế sản xuất
cho đến quá trình bao gói và phân phối. Tuy nhiên không có một quy định
chung nào cho quá trình quản lý chất lượng sản phẩm. Vì vậy hệ thống
quản lý chất lượng của từng doanh nghiệp phụ thuộc vào tầm nhìn, văn
hoá, cách quản trị, cách thực hiện và loại sản phẩm dịch vụ của doanh
nghiệp đó. Người ta gọi đó là quá trình thực hiện tổng chất lượng. Vấn đề
này phải được các cấp lãnh đạo doanh nghiệp nhìn nhận và đánh giá
một cách đúng đắn,. Vì vậy doanh nghiệp phải làm cách nào để khách
hàng nhân thức được chất lượng của sản phẩm những quyết định đưa ra
nhằm cải tiến chất lượng sản phẩm phải bắt đầu từ những nhu cầu của
khách hàng và kết thúc ở sự nhận thức của khách hàng. Nếu khách hàng
mong muốn độ tin cậy, độ bền hay tính năng cao hơn nữa thì những tính
năng đó sẽ tạo thành chất lượng dưới con mắt của khách hàng.Việc cải
tiến chất lượng chỉ có dầy đủ ý nghĩa khi nó được khách hàng nhận thức.
Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp phải điều tra xem khách hàng đang có
nhu cầu gì, về loại sản phẩm nào để có chiến lược cải tiến sản phẩm cho
hợp lý. Để đảm bảo chắc chắn rằng khách hàng nhận thức được là sản
phẩm có chất lượng cao, doanh nghiệp phải triển khai tốt những ý kiến
của khách hàng trong suốt quá trình thiết kế, gia công, sản xuất và phân
phối. Mặt khác chất lượng phải được phản ánh trong mọi hoạt động của
doanh nghiệp chứ không chỉ trong sản phẩm của doanh nghiệp. Về vấn
đề này giám đốc điều hành của hãng GE( General Electronic) đã nói “
Chúng tôi không chỉ quan tâm đến chất lượng của sản phẩm mà còn

quan tâm đến cả chất lượng quảng cáo, dịch vụ, tài liệu về sản phẩm,
việc giao hàng, việc hỗ trợ hậu mãi v…v…”. Đó không chỉ là phương
châm kinh doanh của GE mà đã trở thành hướng đi chung cho tất cả các
doanh nghiệp, các công ty đang tồn tại trên thị trường
1.2. Khái niệm về công tác quản lý chất lượng sản phẩm
Quản lý chất lượng sản phẩm là một lĩnh vực còn khá mới đối với
nền kinh tế nước ta, nhất là từ khi nước ta chuyển hướng phát triển nền
kinh tế theo cơ chế thị trường. Một số nhận thức về chất lượng sản phẩm
không còn phù hợp với giai đoạn mới. Đồng thời xuất hiện nhiều khái
niệm mới mà ta chưa tìm được thuật ngữ tiếng việt thích hợp để hiểu rõ
nó.
Quan niệm riêng về chất lượng và định nghĩa về chất lượng đã
được thay đổi và mở rộng theo từng thời kỳ phát triển của phong trào
chất lượng. Tổng quát lại có ba quan điểm về quản lý chất lượng dựa
trên nhu cầu của người tiêu dùng.
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
Theo tiêu chuẩn quốc gia Liên Xô thì quản lý chất lượng sản phẩm
là việc xây dựng, đảm bảo và duy trì mức chất lượng tất yếu của sản
phẩm khi thiết kế chế tạo, lưu thông và tiêu dùng.
Còn theo tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản thì quản lý chất lượng
sản phẩm là hệ thống phương pháp tạo điều kiện sản xuất tiết kiệm
những hàng hoá có chất lượng thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng.
Theo tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO, một tổ chức tiếp thu sáng
tạo các luồng tư tưởng, kinh nghiệm thực hành hiện đại dựa trên cách
tiếp nhận khoa học, logic đã khái niệm như sau: Quản lý chất lượng sản
phẩm là tập hợp những hoạt động của chức năng quản lý chung, xác
định chính sách chất lượng, mục đích trách nhiệm và thực hiện chúng
thông qua các biện pháp như lập kế hoạch chất lượng, đảm bảo và cải
tiến chất lượng trong khuôn khổ của hệ thống chất lượng.
Để có thể sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng và đảm bảo

chất lượng trong quá trình lưu thông trên thị trường thì mỗi doanh nghiệp
phải xây dựng cho mình một mô hình quản lý chất lượng thích hợp và
chặt chẽ. hiện nay trên thế giới quản lý chất lượng sản phẩm đã được
nhìn nhận một cách toàn diện trên cơ sở quản lý chất lượng công việc ở
từng giai đoạn, từng sản phẩm từ khâu marketing, thiết kế, sản xuất,
phân phối đến dịch vụ sau bán hàng. Quá trình đó được gọi là mô hình
quản lý chất lượng.
2. Vai trò của chất lượng sản phẩm trong hoạt động sản xuất
kinh doanh
Trong bối cảnh toàn cầu hoá như ngày nay, các công ty đang phải
đương đầu với sự cạnh tranh quyết liệt nhất trong nhiều thập kỷ
qua.hàng hoá tràn ngập trên thị trường đẩy các doanh nghiệp vào tình
thế khó khăn vì nhu cầu của người tiêu dùng gần như đã bão hoà. Người
tiêu dùng không biết lựa chọn sản phẩm nào giữa hàng trăm loại sản
phẩm được bày bán trên thị trường. trong tình hình đó để có thể tồn tại
trên thị trường các doanh nghiệp phải chuyển từ triết lý sản phẩm và bán
hàng sang triết lý khách hàng và Marketing. Để có thể giành được khách
hàng và chiến thắng đối thủ cạnh tranh thì giải pháp duy nhất là phải làm
tốt hơn công việc đáp ứng và thoả mãn những nhu cầu của khách hàng.
Những sản phẩm có chất lượng sẽ được khách hàng tin tưởng và ủng
hộ, ngược lại những sản phẩm kém chất lượng sẽ không thể tồn tại trên
thị trường dù có quảng cáo tiếp thị quy mô cỡ nào đi chăng nữa. Điều đó
đã trở thành quy luật tất yếu của thị trường, nếu doanh nghiệp nào cố
tình vi phạm nó sẽ phải trả giá đắt, lừa dối khách hàng là điều tối kỵ trong
kinh doanh. Như một nhà phân tích thị trường đã nói: “ Quảng cáo cho
sản phẩm tồi là cách thí mạng nhanh nhất ”
Trong những nền kinh tế khan hiếm hàng hoá và những thị trường
gần như độc quyền, các công ty không phải mất nhiều công sức để làm
vui lòng khách hàng. Vào thập niên 80 ở Đông Âu hàng triệu người tiêu
dùng rầu rĩ vì phải xếp hàng để mua được những bộ quần áo với chất

lượng tồi tàn. Ngược lại, ngày nay với nền kinh tế mở khách hàng có thể
tha hồ lựa chọn trong vô số hàng hoá dịch vụ được trưng bày la liệt tại
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
các cửa hàng và siêu thị. Trong hoàn cảnh đó nhà sản xuất phải đảm bảo
chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, nếu
không họ sẽ mất ngay khách hàng vào tay đối thủ cạnh tranh. Ngay cả
chất lượng và mức độ dịch vụ ngày hôm nay là có thể chấp nhận được
thì ngày mai đã không còn chấp nhận được nữa. Nói như vậy để thấy
được tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ và dịch vụ. Những
người tiêu dùng ngày nay có trình độ học vấn và yêu cầu cao hơn nhiều,
điều đó đồng nghĩa là các nhà sản xuất phải nâng cao hơn nữa tính năng
cũng như chất lượng của sản phẩm, dịch vụ. Hoạt động thực tiễn của
những tập đoàn lớn như Toyota, Sony và những đại lý bán lẻ siêu
hạng( marks spencer, L.L.Bean ) đã góp phần nâng cao những đòi hỏi về
chất lượng của sản phẩm. Sự thu hẹp nhiều ngành sản xuất ở Hoa Kỳ
như ô tô, máy ảnh, hàng điện tử gia dụng là một bằng chứng hùng hồn
về những hãng cung ứng hàng chất lượng trung bình đã mất đặc quyền
kinh doanh trên thị trường mục tiêu của mình, khi bị các đối thủ cạnh
tranh mạnh hơn tấn công. Để sống sót và chiến thắng trên thị trường các
doanh nghiệp cần phải áp dụng chiến lược kinh doanh mới, lấy khách
hàng làm trung tâm và cung ứng những giá trị hảo hạng như họ mong
đợi.
Hiện nay vẫn còn những công ty nghĩ rằng công việc của bộ phận
marketing là tìm kiếm khách hàng và nếu không lôi kéo được khách hàng
thì đã vội kết luận là những người làm Marketing của mình kém cỏi.
Nhưng họ đâu có biết rằng khách hàng không chấp nhận sản phẩm của
họ là vì chất lượng của sản phẩm đó không đáp ứng được nhu cầu của
họ. Cho dù là bộ phận Marketing giỏi nhất thế giới cũng không thể bán
được những sản phẩm có chất lượng kém hay không đáp ứng được nhu
cầu của bất kỳ khách hàng nào. Bộ phận Marketing chỉ có thể phát huy

được hiệu quả trong các công ty mà các phòng ban và toàn thể cán bộ
công nhân viên đều cùng chung sức để thiết kế và thực hiện một hệ
thống đảm bảo giá trị cho khách hàng hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh.
Việc đảm bảo chất lượng sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm
được chi phí. Cách nghĩ xưa kia của các doanh nghiệp là việc đạt chất
lượng cao hơn sẽ đòi hỏi chi phí nhiều hơn và làm chậm tốc độ sản xuất.
Nhưng thực ra chất lượng được cải tiến nhờ học được cách “ làm mọi
việc đúng ngay từ đầu ”. Chất lượng không phải do kiểm tra mà có, mà
phải được tạo ra trong thiết kế. Khi mọi việc được làm đúng ngay lần đầu
thì sẽ loại bỏ được nhiều khoản chi phí phát sinh như sửa chữa, bảo
dưỡng… , đó là chưa kể đến chuyện mất tín nhiệm với khách hàng.
Motorola là một ví dụ điển hình, trong năm năm vừa qua việc đảm bảo
chất lượng đã tiết kiệm được 700 triệu USD chi phí sản xuất. Tiết kiệm
được chi phí là một chuyện nhưng vấn đề quan trọng hơn là Motorola đã
tạo được uy tín với khách hàng. Nhưng cũng phải thấy rằng đảm bảo
chất lượng không là chưa đủ mà phải liên tục cải tiến chất lượng bởi vì
người mua ngày càng có những yêu cầu cao hơn. Và chất lượng tốt
chưa hẳn đã đem lại ưu thế cạnh tranh, đặc biệt khi các đối thủ cạnh
tranh cũng nâng cao chất lượng của họ với mức độ tương đương. Ví dụ
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
như hãng hàng không Singapore Airlines nổi tiếng là hãng hàng không tốt
nhất thế giới. Tuy nhiên các hãng hàng không đối thủ cạnh tranh mới đây
đã thu hút được một phần khách hàng lớn hơn khi họ đã thu hẹp được
khoảng cách giữa chất lượng dịch vụ của mình với chất lượng dịch vụ
của hãng Singapore.
Nói tóm lại cuộc chạy đua về chất lượng không thể cứu vãn nổi một
sản phẩm tồi. Sản phẩm, dịch vụ kém chất lượng trước sau gì cũng bị
khách hàng từ bỏ và tìm đến những sản phẩm có chất lượng tốt hơn.
Qua đó ta có thể thấy được vai trò của chất lượng sản phẩm quan trọng
như thế nào, nó là chìa khoá dẫn đến thành công cho doanh nghiệp biết

tận dụng triệt để yếu tố này.
3. Thực trạng về công tác quản lý chất lượng ở Việt Nam
Từ sau năm 1986 đến nay cùng với quá trình chuyển nhanh nền
kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thì quyền tự
chủ trong sản xuất kinh doanh cũng được mở rộng, các tiềm năng con
người được khơi dậy. Quyền lợi người tiêu dùng và khách hàng ngày
càng được đề cao và được pháp luật bảo vệ.Tình hình mới này đòi hỏi
sự thay đổi trong nội dung và phương pháp tiến hành quản lý chất lượng
sản phẩm
Có thể nói rằng văn bản đầu tiên quyết định sự đổi mới các hoạt
động quản lý chất lượng sản phẩm trong thời kỳ mới là chỉ thị ngày 6
tháng 8 năm 1989 của chủ tịch hội đồng bộ trưởng về các biện pháp cấp
bách nhằm củng cố và tăng cường công tác quản lý nhà nước về chất
lượng sản phẩm hàng hoá. Trong đó nêu rõ và biểu dương nhữnh tiến bộ
về chất lượng và công tác quản lý chất lượng sản phẩm trong những
năm gần đây. Đồng thời cũng phê phán hiện tượng chất lượng kém
không đáp ứng nhu cầu thị trường . Tiếp theo là pháp lệnh đo lường do
hội đồng nhà nước ban hành 16 tháng 7 năm 1990 và pháp lệnh chất
lượng hàng hoá được công bố ngày 2 tháng 1 năm 1991. Đó là những
văn bản quan trọng thể hiện quan điểm nhận thức của lãnh đạo nhà
nước về chất lượng sản phẩm. Từ đó ta thấy được chất lượng sản phẩm
đã trở thành vấn đề mang tính vĩ mô và các doanh nghiệp cũng cần có
thái độ nghiêm túc về vấn đề này. Đặc biệt cuối năm 1999 đầu năm 2000
với việc đổi mới sâu sắc văn bản pháp lệnh nhà nước về chất lượng
hàng hoá đã đánh dấu bước ngoặt trong công tác quản lý chất lượng sản
phẩm. Văn bản này đã có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 07 năm 2000.
Điều đó tạo điều kiện cho việc đổi mới hoạt động quản lý chất lượng sản
phẩm trong giai đoạn mới.
Những cải tiến bước đầu về quản lý chất lượng sản phẩm đã được
triển khai từ những cơ quan nhà nước đến các cơ sở kinh doanh. Điều

Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
đó đã đem lại những sắc thái mới, tạo ra sự phong phú đa dạng cho thị
trường và tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển biến về nhận thức của
các nhà lãnh đạo, các cấp quản lý và các nhân viên trong các doanh
nghiệp về công tác quản lý chất lượng sản phẩm
Không một nhà lãnh đạo doanh nghiệp nào còn nghi ngờ về yếu tố
cạnh tranh của chất lượng sản phẩm. Đó là sự sống còn của doanh
nghiệp. Đặc biệt với các doanh nghiệp muốn vươn ra thị trường quốc tế.
Để cạnh tranh về chất lượng với các doanh nghiệp nước ngoài quả là
khó khăn khi mà các doanh nghiệp nước ngoài có trình độ khoa học và
kỷ luật lao động rất cao. Nhưng điều đó không có nghĩa là không làm
được. Trong thời gian vừa qua cùng với những đổi mới quan trọng về
công tác quản lý vĩ mô, hệ thống quản lý chất lượng nhà nước đã được
thành lập và hoạt động tương đối có hiệu quả. Điều đó mở ra một tương
lai tươi sáng cho hàng hoá nước ta có thể cạnh tranh với hàng hoá nước
nhoài. Đặc biệt là trong thời gian sắp tới khi nước ta mở cửa hội nhập với
nền kinh tế thế giới (WTO). Đây là lúc chúng ta nhìn nhận những mặt yếu
kém và khắc phục nó để kịp thời hội nhập với thế giới. Nếu không với tốc
độ phát triển chóng mặt như ngày nay nền kinh tế nước ta sẽ bị bỏ lại
sau lưng cùng với sự nghèo nàn và lạc hậu. Trong những năm gần đây
trước những đòi hỏi khách quan cần thiết phải nâng cao nhận thức và tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với tiêu chuẩn quốc tế. Tổng cục
tiêu chuẩn đo lường chất lượng phối hợp với các tổ chức quốc tế đã đề
ra rất nhiều chương trình đào tạo, huấn luyện và các cuộc hội thảo về
chất lượng sản phẩm nhằm giúp các doanh nghiệp thấy rõ tầm quan
trọng của chất lượng sản phẩm trong hoạt động kinh doanh. Mà tiêu biểu
là tiêu chuẩn chất lượng ISO – 9000. Tiêu chuẩn này được biết đến ở
Việt Nam từ những năm 1989 – 1990. Nhưng việc tổ chức nghiên cứu
tuyên truyền phổ biến và áp dụng vào các doanh nghiệp Việt Nam có thể
nói là chậm chạp. Cho đến những năm 1995 – 1996 mặc dù đã qua hơn

nửa thập kỷ nhưng hầu hết các doang nghiệp không biết ISO – 9000 là
gì. Ngay cả trên phương tiện truyền thông còn nhầm lẫn ISO – 9000 với
tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá. Các doang nghiệp không biết làm thế
nào để áp dụng tiêu chuẩn này hay ai sẽ là ngưòi tư vấn, cấp giấy phép
cho họ. Thực trạng về nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam được
thể hiện qua kết quả điều tra ban đầu của Uỷ ban kinh tế xã hội Châu Á
thái binh dương ( gọi tắt là ESCAP ).
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
Kết quả điều tra ban đầu nhận thức về tiêu chuẩn ISO – 9000
TT Tên doanh nghiệp Sản phẩm chính
Số lao
động
Nhận thức về
ISO-9000
1 XN dệt len Sài Gòn Quần áo len dệt 400 không
2 Công ty Thiên Tân Chăn len mỏng 80 không
3 HTX may Tiến Bộ Quần áo may sẵn 200 Rất ít
4 Nhà máy dệt Tân Tiến Khăn ăn, khăn mặt 60 rất ít
5 XN thảm len Đống Đa Thảm len, may mặc 510 không
6 Công ty TNHH Ngọc
Phương
Quần áo may sẵn 125 rất ít
7 Công ty TNHH Đại
Phong
May mặc 217 không
8 Trung tâm may Kiến An Con giống nhồi
bông
417 rất ít
9 Công ty HERPO Quần áo may sẵn 170 không
10 Công ty TNHH Hiệp

Hưng
Thêu len, may sẵn 600 không
11 Công ty TNHH Nam
Thanh
Hàng dệt len 200 không
Từ bảng kết quả điều tra ban đầu ta thấy nhận thức của các doanh
nghiệp về vấn đề chất lượng sản phẩm là quá ít. Đó là một khiếm khuyết
lớn sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường nếu không sửa chữa kịp thời. Chất
lượng sản phẩm đã trở thành vấn đề cốt lõi sống còn của các doanh
nghiệp. Những sản phẩm có chất lượng kém sẽ không tồn tại được trên
thị trường, nó sẽ không được người tiêu dùng chấp nhận. Do đó doanh
nghiệp phải ý thức được rằng ngoài các yếu tố thoả mãn khách hàng
bằng các sản phẩm có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng với giá cả hợp lý thì việc phân phối nhanh, thuận lợi đến tay người
tiêu dùng được xem như yếu tố cấu thành nên chất lượng toàn diện.
Trong vài năm trở lại đây các doanh nghiệp đã nhận thức được vị thế
cạnh tranh của yếu tố chất lượng và đề ra mục tiêu chiến lược sản xuất
kinh doanh hướng vào chất lượng. Điều đó đã mang lại những kết quả
khả quan. Rất nhiều doanh nghiệp đã có chỗ đứng vững chắc trên thị
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
trường và sản phẩm của họ đã được khách hàng chấp nhận. Tính cho
đến nay đã có rất nhiều doanh nghiệp được cấp chứng chỉ ISO – 9002.
Đó là điều đáng mừng của nền kinh tế nước ta.
II – Công ty Masan và sản phẩm gia vị Chinsu trên thị trường Hà Nội
1. Giới thiệu chung về công ty Masan
Công ty Masan có thể được coi là một tập đoàn mạnh ở trong
nước.Tập đoàn Masan được thành lập năm 1996 gồm15 công ty thành
viên do toàn bộ người Việt Nam quản lý. Do đó tập đoàn rất quan tâm
đến hình ảnh của mình qua các hoạt động kinh tế xã hội. Những nhà lãnh
đạo công ty đều là những người đã học và tốt nghiệp tại Liên Xô cũ trong

thời kỳ nền kinh tế Liên Xô chuyển sang cơ chế thị trường. Do đó họ rất
hiểu những cơ hội và thách thức của bước chuyển giao sang cơ chế thị
trường. Công ty Masan có tiềm lực tài chính khá mạnh và nguồn nhân
lực có chất lượng cao. Masan là nơi hội tụ khá đầy đủ các “anh hào’’ của
các tập đoàn đa quốc gia. Thanh nam châm thu hút nhân tài của Masan
không phải là mức lương hậu hĩ, vượt trội mà là một chí hướng mang
tính “ mầu cờ sắc áo’’.
Sự hợp tác để xây dựng một tập đoàn Việt nam lớn mạnh có khả
năng cạnh tranh ngang ngửa với các tập đoàng nước ngoài trong tương
lai. Ông Nguyễn Đăng Quang chủ tịch tập đoàn Masan nói: “Có một thứ
rất quan trọng mà các công ty đa quốc gia đóng góp cho nền kinh tế Việt
Nam đó là phương pháp và môi trường làm việc công nghiệp’’. Masan
thu hút được đội ngũ những người chuyên nghiệp vì người Việt Nam
ngoài nhà cửa, tiền lương họ còn mong muốn một chút gì đó mang tính
mầu cờ sắc áo. Sản phẩm chính của công ty là các loại gia vị, thực phẩm
ăn nhẹ như xúc xích, mì ăn liền. Ngoài ra công ty còn kinh doanh nhiều
mặt hàng khác nữa. Nhưng ở đề án này em chỉ trình bày riêng về mặt
hàng gia vị mang nhãn hiệu Chinsu của công ty Masan. Thương hiệu
Chinsu đã trở nên quen thuộc với người tiêu dùng trên thị trường Hà Nội.
các sản phẩm gia vị bao gồm nước mắm, tương ớt, nước tương đã được
nhiều gia đình sử dụng trong các bữa ăn hàng ngày như một phần không
thể thiếu. Công ty Masan đã chinh phục được người tiêu dùng trên thị
trường Hà Nội bằng chất lượng sản phẩm và cung cách phục vụ. Công ty
luôn đặt lợi ích cuả khách hàng lên trên hết, ban lãnh đạo công ty cùng
đội ngũ công nhân viên luôn lao động hết mình vì lợi ích của công ty và
khách hàng vì công ty luôn ý thức rằng chỉ có giữ chân được khách hàng
thì mới đứng vững được trên thị trường, mà muốn giữ chân khách hàng
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
thì phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng ổn định và đồng đều. Đó là
phương châm sản xuất kinh doanh của công ty.

2. Những hoạt động sản xuất của công ty Masan trong thời
gian qua và quá trình xây dựng thương hiệu Chinsu trên thị trường
Hà Nội
2.1. Tổng quan về thị trường gia vị trong nước
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như ngày nay việc đưa sản phẩm
ra thị trường gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt là có những yếu tố ta
không thể lường trước được. Như đợt cúm gia cầm vừa qua tưởng
chừng như vô hại nhưng thục tế nó đã đem lại những tổn thất khá lớn
cho các doanh nghiệp. Các sản phẩm mì gói cao cấp Kim chi, Chinsu của
công ty Masan ghi ngay trên bao bì : “ Đặc biệt sử dụng bột mì cao cấp
có trộn lòng đỏ trứng gà nguyên chất ’’ đã phải hạ giá bán 200 đồng/1 gói
từ mùng 1 tháng 2 đến 15 tháng 2 năm 2004 do ảnh hưởng của dịch cúm
gia cầm. Điều đó cho thấy những bất lợi từ thị trường là rất lớn, nó sẽ
đánh gục ngay những công ty thiếu bản lĩnh. Nguy cơ từ phía đối thủ
cạnh tranh cũng luôn tiềm ẩn. Hiện nay trên thị trường các loại bột, viên,
nêm gia vị tạo hương bún bò, phở gà, bún mắm… của hàng chục công
ty có tên tuổi được đóng gói bao bì thật bắt mắt bán ở siêu thị thoáng mát
lịch sự chỉ 2000 đồng đến 3000 đồng một gói. Sự chênh lệch về giá
không đáng kể, do đó giá không còn là công cụ cạnh tranh hiệu quả nữa.
Các doanh nghiệp cần phải tìm cho mình một hướng đi mới, có lẽ chú
trọng nâng cao và cải tiến chất lượng là một giải pháp thích hợp.
Theo các nhà sản xuất thì nhu cầu tiêu thụ ở thị trường gia vị hiện
nay vẫn còn là ẩn số với các nhà kinh doanh. Sản lượng 200 đến 400
triệu tấn hạt nêm 1 năm của các nhãn hiệu lớn như Knor, maggi,
Ajinomoto……với chiến dịch quảng cáo rầm rộ trên khắp cả nước tưởng
chừng như đã đẩy mức tiêu thụ đến chỗ bão hoà. Nhưng thực tế cho
thấy thị trường vẫn còn chỗ trống bởi chỉ sau 1 năm ra nhập thị trường
nhãn hiệu Chinsu cũng tìm được chỗ mới để chen chân với mức độ phát
triển tăng gần 100% sau mỗi quý. Bên cạnh đó các cơ sở sản xuất nhỏ
cũng tăng bình quân từ 20% đến 30% trong năm qua.

Hai yếu tố chính được các công ty lớn tập trung khai thác và xây
dựng thương hiệu, giành thị phần là nâng cao chất lượng và tiếp thị, kinh
doanh có bài bản. Điểm lại sự ra mắt của hạt nêm Knor, Maggi, Ajingon
và mới nhất là Chinsu ta sẽ thấy rõ điều này. Ông Nguyễn Đăng Quang
tổng giám đốc công ty Masan, đơn vị tham gia kinh doanh nhãn hiệu
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
Chinsu nói :“Ba yếu tố để một nhà kinh doanh có thể tự tin bước vào
cuộc cạnh tranh gia vị hiện nay là khẩu vị, công nghệ và hệ thống phân
phối. Nhưng trước hết phải có sản phẩm thực sự có chất lượng’’. Điều đó
cho thấy bản thân lãnh đạo công ty Masan rất chú trọng đến chất lượng
sản phẩm.
Nhìn vào số lượng trên 100 nhãn hiệu gia vị lớn nhỏ ở các địa
phương trên cả nước nhiều người dễ lầm rằng mọi nhu cầu tiêu dùng
đều đã được đáp ứng. Nhưng thực tế theo đánh giá của các nhà kinh
doanh mức tiêu thụ gia vị trong mỗi nghành chỉ ở mức dưới trung bình.
Ví dụ với dân số 80 triệu người tiêu thụ nước tương của Việt Nam mới
chỉ trên 10 triệu lít. Bình quân chưa đến 1chai/ 1 người/ 1 năm. Trong khi
đó con số này ở các nước khác là 2 đến 3 chai/1người/1 năm. Trong mỗi
nhóm mặt hàng những nhà sản xuất có thương hiệu vượt trội khẳng định
uy tín toàn quốc chưa nhiều mà chủ yếu thể hiện ở lợi thế địa phương.
Do vậy gần đây xuất hiện xu hướng cạnh tranh đặc sản khá rõ. Như
nước mắm Nha Trang cùng với Phú Quốc, Phan Thiết đang giành lấy thị
trường ở các đô thị lớn. Các công ty ở miền bắc như Long Vân cũng
vượt cả ngàn cây số đưa sản phẩm vào ra mắt người tiêu dùng phía nam
mà chẳng hề e sợ các nhãn hiệu Hưng thịnh, Thanh Hà…… Ngay cả với
thị trượng có nhiều nhãn hiệu lớn như Hà Nội, công ty Masan cũng phải
tìm nét mới bằng cách bổ xung thêm các vi chất VitaminA, chất sắt,
iốt… vào tương ớt để gây sự chú ý của khách hàng.
Theo đơn đặt hàng của một công ty liên doanh một công ty nghiên
cứu thị trường đã tiến hành khảo sát 20000 người tiêu dùng và các nhà

hàng trong năm 2003. Họ công bố : Thị trường Nước tương ở Việt Nam
hiện nay mức tiêu thụ khoảng gần 10 triệu lít/ năm. Trong đó 30% tiêu thụ
ở các nhà hàng, quán ăn và 70% tiêu thụ ở các hộ gia đình. Sự thay đổi
thị phần giữa các nhãn hiệu không nhiều. Nam Dương chiếm lượng tiêu
thụ lớn nhất với trên 6 triệu lít/1 năm. Maggi, Chinsu… ở khoảng trên
dưới 1 triệu lít/1 năm. Các nhãn hiệu còn lại chiếm số lượng ít. Theo các
nhà kinh tế dự báo trong các năm tới nhu cầu sẽ tăng trung bình 30%
một năm. Đó là cơ hội cho các doanh nghiệp tăng sản lượng tiêu thụ và
mở rộng thị trường.
2.2. Những hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Masan
trong quá trình xây dựng thương hiệu Chinsu
Công ty Masan xuất hiện và kinh doanh khi trên thị trường đã có
nhiều đại gia tên tuổi trong lĩnh vực sản xuất gia vị. Tuy vậy với tiềm lực
tài chính và chiến lược kinh doanh hợp lý công ty vẫn tìm được chỗ đứng
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
trên thị trường, doanh thu cũng liên tục tăng trưởng. Để góp phần làm
nên thành công đó không thể không kể đến vai trò của các sản phẩm mới
được công ty tung ra gần đây. Trước hết ta hãy điểm lại các mốc ra đời
của sản phẩm Chinsu:
18/12/2002: Ra mắt nước tương cao cấp hiệu Chinsu
7/4/2003 : Tung ra mì gói Chinsu
1/10/2003 : Xuất hiện nước mắm cao cấp Chinsu trên thị trường
8/12/2003 : Giới thiệu hạt nêm Chinsu
Xen kẽ trong các đợt giới thiệu hàng mới là các chiêu thức tự làm
mới cho sản phẩm như tung ra nước tương có bổ xung Vitamin , i ốt và
chất sắt, tung ra các loại mì gói vị thịt heo, bò, gà khác nhau. Sắp tới sẽ
là các loại hạt nêm vị hải sản, nấm và các loại rau củ dinh dưỡng.
Thương hiệu Chinsu một cái tên nghe rất “tây’’, nó đã đem lại sắc
thái mới cho mỗi bữa ăn của người dân Việt Nam. Với thế mạnh về công
nghệ công ty đã tạo ra những sản phẩm có hương vị rất lạ và thơm ngon.

Với những nguyên liệu cao cấp kết hợp bao bì hiện đại và bắt mắt
Chinsu đã tạo ra sự tò mò cho khách hàng. Người tiêu dùng rất thích
những sản phẩm có cá tính và khác lạ. Về điều này thì công ty Masan đã
thành công khi tung ra nhãn hiệu Chinsu
Với thế mạnh là dòng sản phẩm cao cấp và có cá tính riêng nên
ngững sản phẩm gia vị mang nhãn hiệu Chinsu thường được bán ở các
siêu thị và các cửa hàng chuyên doanh. Nhưng trong những tháng cuối
năm 2001 hệ thống bán lẻ gia tăng mạnh mẽ. Điều đó đang gây sức ép
lên hệ thống phân phối của công ty. Ngay lập tức công ty đã cho xây
dựng ở Thành phố Hồ Chí Minh 25 cửa hàng tiện nghi với phương thức
bán lẻ hoàn toàn mới. Và đến tháng 12 năm 2001 công ty đã khai trương
đồng loạt 25 cửa hàng. Kế hoạch phát triển của công ty Masan được
xem là có quy mô lớn về vốn đầu tư cũng như số lượng cửa hàng. Ban
giám đốc công ty dự kiến sẽ đầu tư cho toàn dự án khoảng 75 tỉ đồng để
đến năm 2003 xây dựng một mạng lưới 300 cửa hàng ở Thành phố Hồ
Chí Minh và Hà Nội. Ông Nguyễn Tử Long phó tổng giám đốc công ty
Masan cho biết : “ Hiện tại để có giá bán cạnh tranh với các siêu thị, các
tiệm tạp hoá hệ thống 25 cửa hàng của chúng tôi chấp nhận lỗ thời gian
đầu cho đến khi việc xây dựng thương hiệu thành công.
Những cửa hàng này hoạt động gần giống siêu thị nhưng mở cửa từ
6h sáng đến 12h đêm. Cách trưng bày hàng hoá được sắp xếp theo một
trật tự nhất định và hoàn toàn giống nhau. Cách thiết kế như vậy sẽ
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
mang lại tiện nghi cho khách hàng, tiết kiệm thời gian mua sắm. Masan
không giao hàng tận nơi mà chủ yếu dùng cung cách phục vụ, chất
lượng hàng hoá để lôi kéo khách hàng. Hiện nay sự phân cấp thị trường
đã khá rõ ràng, “miếng bánh’’ sẽ rơi vào tay kẻ khác nếu không biết phát
huy thế mạnh của mình. Do đó công ty đã tích cực xây dựng hệ thống
bán lẻ nhằm cạnh tranh với các siêu thị. Chi phí cho 25 cửa hàng hiện
đại này lên đến hơn 20 tỷ đồng nhưng kết quả đem lại không như mong

muốn và ban quản trị công ty đã phải cho đóng cửa dần các cửa hàng
này. Đến ngày 22 tháng 4 năm 2003 năm cửa hàng cuối cùng trong số
25 cửa hàng đã dừng hoạt động.
Thất bại này là do ban giám đốc đã không lường trước được xu
hướng tiêu dùng của người dân khi ra quyết định. Người tiêu dùng chưa
thực sự có nhu cầu sử dụng cửa hàng tiện nghi, thêm vào đó là sự cạnh
tranh rất mạnh của các cửa hàng tạp hoá. Đó là một trong những nguyên
nhân thất bại của dự án này. Tuy nhiên 25 cửa hàng này không đóng cửa
hẳn mà chuyển sang kinh doanh các mặt hàng nước tương, mì gói,
tương ớt…mang nhãn hiệu Chinsu của công ty.
Trước khi khai trương 25 cửa hàng tiện nghi Masan Mart tất cả các
thành viên hội đồng quản trị đã đọc rất kỹ các khảo sát và nghiên cứu về
thị trường bán lẻ ở Việt Nam. Nhưng rốt cục mô hình cửa hàng bán lẻ
kiểu Seven Eleven vốn rất thành công ở Thái Lan và một số nước Đông
Nam Á lại không trụ được ở Việt Nam. Ban lãnh đạo công ty đã tính toán
chi li từng bước khi đưa mô hình cửa hàng tiện nghi vào hoạt động.
Những bước chuẩn bị ban đầu khá bài bản, chuyên nghiệp: từ việc thiết
lập mối quan hệ với các nhà cung cấp hàng hoá đến đào tạo đội ngũ
nhân viên bán hàng và đầu tư cho việc chuyển hàng hoá kịp thời bằng
công nghệ tin học thông qua việc thiết kế một phần mềm quản lý riêng
biệt. Thế nhưng chỉ 7 tháng sau khi đưa vào hoạt động 80% số cửa hàng
của công ty phải đóng cửa do doanh thu không được như dự tính. Số
cửa hàng còn lại được đầu tư thêm hàng hoá, cách trình bày cũng bắt
mắt hơn và đặc biệt áp dụng nhiều chiêu thức khuyến mãi, nhưng doanh
thu cũng chỉ tăng được trong vài tuần. Những tháng kế tiếp doanh thu
mỗi cửa hàng không vượt qua con số 10 triệu đồng/ tháng trong khi chi
phí trả cho việc thuê mặt bằng và trả lương công nhân viên vượt qua dự
tính cho phép. Và kết quả là cái tên Masan Mart lặng lẽ rời bỏ thị trường.
Đã từ lâu người tiêu dùng Việt Nam quen với chợ, các cửa hàng bán đủ
các hàng hoá linh tinh mà những người mua là các bà nội trợ. Những

cửa hàng dáng vẻ sang trọng với các cô bán hàng mặc đồng phục, bảo
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
vệ trông xe miễn phí khiến người ta e dè vì giá có thể cao hơn giá ở
chợ. Về sai lầm này Ông Nguyễn Tử Long phó tổng giám đốc công ty giãi
bày : Chúng tôi đã khảo sát rất kỹ lưỡng thành phần đi chợ, mức chi tiêu
của các bà mỗi lần vào chợ nhưng lại quên mất rằng các bà đến các chợ
các cửa hàng mấy lần một tuần. Nhìn lại thất bại này ông Long nói bây
giờ đời sống đã khá lên, thu nhập tăng, thị hiếu người tiêu dùng cũng
thay đổi nhưng sự thay đổi ấy vẫn bị chi phối bởi các yếu tố thời gian.
Các siêu thị lớn phải mất 3 đến 5 năm vắng khách lúc đầu mới có được
lượng khách như hiện nay. Cũng phải mất ít nhất ngần ấy năm để người
tiêu dùng chấp nhận trả thêm cho mỗi món hàng 500 – 1000 đồng tức là
cao hơn giá chợ để đổi lấy sự tiện nghi. Bây giờ chưa phải là thời điểm
để các cửa hàng tiện nghi xuất hiện. Ông Nguyễn Đăng Quang chủ tịch
hội đồng quản trị Masan nhìn nhận : “giai đoạn thử nghiệm nhằm xác
định thị hiếu và cách mua sắm của người tiêu dùng đã qua, một số đối
tượng khách hàng mà chúng tôi nhắm tới chưa được khai thác thành
công như mong đợi, trong khi những đối tượng chưa được chú ý trên
thực tế lại là khách hàng thường xuyên’’.Nhưng điều quan trọng là
Masan không từ bỏ dự án, công ty sẽ đầu tư thêm vốn xây dựng thêm
các cửa hàng trung bình và loại bỏ những cửa hàng kém.
Bất ngờ lớn nhất đối với công ty sau 6 tháng hoạt động là các cửa
hàng Masan Mart trên những đường phố lớn nơi được hy vọng sẽ đạt
doanh số cao do người tiêu dùng xung quanh thuộc tầng lớp trung lưu thì
hàng hoá bán ra lại rất chậm. Ngược lại những cửa hàng ở khu dân cư
bình dân hoặc ký túc xá sinh viên lại có doanh thu tăng hơn dự kiến 15%
đến 30%
Cuộc khảo sát của Masan cho thấy khách hàng của những cửa
hàng ở những khu bình dân phần lớn là phụ nữ đứng tuổi, là người nội
trợ chính, người chủ “tay hòm chìa khoá” của gia đình. Hoá đơn mua

hàng của họ trung bình khoảng 50.000 đồng 1 người/1 lượt. Còn sinh
viên thì thấp hơn khoảng 30.000 đến 35.000 đồng và họ chọn chủ yếu
các mặt hàng tiện dụng như: mì gói, tương ớt, nước mắm … Khi khai
trương Masan nghĩ đơn giản những cửa hàng gần khu sinh viên chỉ để
khuyếch trương tên tuổi của mình nhưng bây giờ thì khác : “Chúng tôi sẽ
mở những cửa hàng cho sinh viên’’. Ông Quang nói. Ngoài ra Masan còn
có kế hoạch mở các cửa hàng ở gần các bệnh viện. Những cửa hàng
này sẽ mở cửa sớm hơn và đóng cửa muộn hơn và chỉ tập trung cung
cấp các mặt hàng thiết yếu.
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
Tuy nhiên đây chỉ là những bước đi cơ bản để khắc phục thất bại
vừa qua. Còn về lâu dài công ty phải nhìn nhận lại những sai lầm của
mình để tự rút ra bài học kinh nghiệm. Chỉ 7 tháng sau khi khai trương
mà công ty đã phải đóng cửa 20 trong số 25 cửa hàng. Đó là cái giá phải
trả cho việc không hiểu rõ nhu cầu của thị trường. 10 tỷ là con số mà
công ty đã mất sau khi chuỗi cửa hàng này hoạt động không có hiệu quả.
Từ thất bại cay đắng này công ty đã rút ra bài học cho mình:
 Thứ nhất : Chọn sai địa điểm
Có đến gần phân nửa số cửa hàng của Masan đặt ở các đường phố
lớn, khu đông dân cư hoặc các ngã tư. Lúc đầu ban quản trị dự án nghĩ
đơn giản rằng ngã tư là nơi đông người qua lại. Nhưng trên thực tế đúng
là các ngã tư rất đông người nhưng chẳng ai muốn dừng lại ở các ngã tư
để mua sắm. Ở các nút giao thông quan trọng như thế rất hay xảy ra tai
nạn và ách tắc giao thông, dừng lại là phải hít thở không khí ô nhiễm do
các phương tiện thải ra. Đó là lý do giải thích vì sao những cửa hàng
được Masan hy vọng có doanh số bán ra cao lại tụt xuống cuối bảng xếp
hạng. Bên cạnh đó một số cửa hàng có diện tích mặt tiền quá hẹp mà giá
thuê lại cao. Điều này đã nâng chi phí đầu vào lên quá cao.
 Bài học thứ hai : Không hiểu rõ khách hàng.
Ông Tôn Thất Hưng phó tổng giám đốc Masan Mart không dấu rằng

số lượng khách hàng đến một cửa hàng của Masan trung bình chỉ có 80
đến 140 người/1 ngày và giá trị trung bình của một hoá đơn mua hàng
chỉ từ 25.000 đến 30.000 đồng. Đó là những con số quá khiêm tốn. Với
mục tiêu được xác định từ trước : nằm ở khúc giữa tiệm tạp hoá và siêu
thị, các cửa hàng Masan mart bày bán rất nhiều mặt hàng nhưng hàng
hoá lại thường nhỏ nhặt, rải rác. Tương tự đối tượng khách hàng chủ yếu
cần nhắm tới là tầng lớp có thu nhập khá trong xã hội nhưng hàng hoá
bày bán lại không có giá trị cao: “Những mặt hàng bán lẻ không hợp thị
hiếu sẽ đẩy người tiêu dùng ra khỏi cửa hàng. Một khi khách hàng có
nhu cầu nhưng không dược đáp ứng họ sẽ không quay lại’’. Trước khi
thử nghiệm chuỗi cửa hàng tiện nghi kiểu Seven – Eleven của nước
ngoài, Masan đã tiến hành những đợt khảo sát thực tế : “Những cửa
hàng Seven – Eleven có lắp máy lạnh, trang trí tuyệt đẹp và mở cửa
24/24 ở nước ngoài chưa thể phù hợp với Việt Nam. Những cửa hàng
sang trọng như thế rất khó thu hút tầng lớp thu nhập trung bình và rất kén
khách. Kết quả là Masan mở những cửa hàng không có máy lạnh, trang
bị cho cửa hàng dường như quá xuề xoà, không thu hút được khách.
Công ty áp dụng mô hình từng thành công ở nước ngoài nhưng không
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
phù hợp với Việt nam. Vì điều kiện mỗi nước khác nhau. Điều quan trọng
là phải xuất phát từ nhu cầu của khách hàng mục tiêu mà công ty nhắm
đến. Dẫu sao sự thất bại của mô hình chuỗi cửa hàng tiện nghi cũng là
một kinh nghiệm đáng tham khảo đối với những doanh nhân muốn tung
ra thị trường kiểu kinh doanh mới. Ông Long nói : “Chúng tôi u đầu vì đón
đầu”. Ở một góc cạnh nào đó sự đi đầu không phải bao giờ cũng thành
công nếu không bắt đúng mạch thị trường mà ở đây cụ thể là sự chuyển
đổi của thị hiếu người tiêu dùng.
3. Sự khẳng định thương hiệu Chinsu trên thị trường
Sau một thời gian hoạt động sản xuất kinh doanh, vượt qua bao
nhiêu khó khăn và thách thức công ty Masan đã tìm được vị trí vững

chắc trên thị trường. Với chất lượng sản phẩm tốt cùng cung cách phục
vụ tận tình Chinsu đã chiếm được cảm tình của khách hàng. Các sản
phẩm tương ớt, Nước mắm, nước tương, bột nêm … mang thương hiệu
Chinsu đã trở thành những gia vị không thể thiếu được trong bữa ăn
hàng ngày của đông đảo người dân Hà Nội. Sự đặc biệt trong hương vị
và cách thể hiện độc đáo trong bao bì tạo cho Chinsu một nét riêng.
Chinsu làm cho khách hàng cảm thấy họ đang hoà nhập với cuộc sống
hiện đại bằng những bữa ăn mang hương vị của “cuộc sống”.
Những sản phẩm mang thương hiệu Chinsu khá là đa dạng. Riêng
nước tương đã có đến mấy loại như : nước tương tre, nước tương tháp,
nước tương bầu. Và cách đây không lâu công ty Masan đã giới thiệu loại
nước mắm cao cấp Chin-su hoàn toàn mới với công nghệ làm giàu đạm
tốt, ngăn ngừa sự phát triển của đạm đen ra thị trường toàn quốc. Cho
đến nay công nghệ này là duy nhất ở Việt Nam. Với công nghệ này nước
mắm Chin-su luôn giữ được hương vị tinh khiết, thơm ngon tới mức
không cần pha. Đạm đen hay còn gọi là đạm thối, chiếm khoảng 25 đến
30% lượng đạm có trong nước mắm thông thường. Sau khi mở nắp chai
đạm đen tiếp xúc với ôxy và dưới tác động của quá trình ôxy hoá nước
mắm bị xuống màu đen, mất mùi vị và không tốt cho sức khoẻ. Công
nghệ này cho phép nước mắm Chin-su có thời gian bảo hành lên đến 24
tháng, thay vì 12 tháng như các loại nước mắm thông thường. Công ty
Masan luôn tìm cách hoàn thiện sản phẩm của mình sao cho khách hàng
cảm thấy thoải mái và an toàn khi dùng sản phẩm đó. Vì toàn kinh doanh
những mặt hàng thực phẩm nên công ty rất quan tâm đến chất lượng sản
phẩm. Đó là yếu tố tiên phong làm kim chỉ nam cho hoạt động của công
ty.
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
Nước mắm cao cấp Chin-su mới có hai loại. Loại Hương Thơm
Lừng ( nhãn cổ màu vàng ) và loại Vị Đậm Đà ( nhãn cổ màu đỏ ) rất dễ
cho người tiêu dùng lựa chọn. Giá bán chỉ 11.000 đồng cho chai 340ml

và 18.000 đồng cho chai 650ml. Đặc biệt nhân dịp giới thiệu sản phẩm
mới Nước mắm cao cấp Chin-su với khẩu hiệu : “Thơm ngon tới giọt cuối
cùng”, đã dành cho khách hàng Hà Nội 1000 chai nước mắm mỗi ngày
bắt đầu từ 7h sáng ngày 4 tháng 12 năm 2004 đến hết ngày 13 tháng 12
năm 2004. khách hàng chỉ cần gọi số 19001555 của tổng đài bưu điện .
1.000 cuộc gọi đầu tiên của mỗi ngày sẽ được tặng một chai 340ml giao
tận nhà sau 72 giờ tính từ ngày gọi. Chương trình “A lô ngay! mỗi ngày
ngàn chai” chủ yếu để giới thiệu sản phẩm mới đến tay người tiêu dùng.
Đây là giai đoạn thử nghiệm sản phẩm mới, nhằm xem phản ứng của
khách hàng ra sao để có phương án điều chỉnh cho phù hợp.
Đến ngày 14 tháng 12 năm 2004 đã có 10.000 khách hàng nhận
được nước mắm Chin-su. Chương trình ‘’ Alo ngay ! mỗi ngày ngàn chai
‘’ đã chính thức khép lại. Sau 10 ngày hoạt động chương trình đã thu hút
được 69540 lượt khách quay số tham dự. 10.000 sản phẩm nước mắm
Chin-su đã được trao tận tay người may mắn trúng thưởng. Trong đợt
khuyến mãi này công ty Masan hy vọng hương vị đặc biệt của Chin-su sẽ
làm hài lòng cả những khách hàng khó tính nhất . Đây là một kênh tiếp thị
sản phẩm mới hết sức độc đáo của doanh nghiệp tới người tiêu dùng .
Qua mạng lưới tiếp thị này người tiêu dùng sẽ nhận được đầy đủ thông
tin về doanh nghiệp cũng như sản phẩm của doanh nghiệp. Điều đó góp
phần tạo nên thành công cho thương hiệu Chin-su. Sự thành công này
đã khiến Chin-su được coi là thương hiệu ấn tượng năm 2004. Sau một
năm nỗ lực trong các hoạt động quảng bá và tiếp thị Masan đã xây dựng
thành công một thương hiệu của riêng mình. Trong thương trường ai
nhanh hơn, cao hơn và mạnh hơn sẽ là người chiến thắng. Vấn đề ở chỗ
phải xác định cho được lợi thế và khả năng của từng nhà kinh doanh
nằm ở đâu và Masan đã chủ động đi tìm cơ hội chen chân vào thị trường
với tình huống riêng của mình.
Bắt đầu từ năm 2000, Masan đẩy chiến lược phát triển kinh doanh
nội địa lên mục tiêu hàng đầu và bắt đầu thiết kế đưa sản phẩm mới ra

thị trường.
Nếu so với những đại gia ngành thực phẩm đang chiếm lĩnh thị
trường nội địa như mì gói của công ty Vifon, Miliket; hạt nêm của Unilever
Best Food, Nestlé, nước tương của Nam Dương, Ðào Tiên… thì Masan
mới chỉ có uy tín với cộng đồng người Việt ở nước ngoài, nhất là thị
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
trường Ðông Âu. Ngay cả thương hiệu Rồng Việt ra thị trường từ năm
1998 cũng mới chiếm lĩnh phân khúc thị trường trung bình và thấp. Ðể
tìm hiểu chân dung người tiêu dùng Việt Nam một cách chi tiết và chính
xác, Masan đầu tư chi phí hàng tỉ đồng cho nghiên cứu thị trường, khảo
sát nhu cầu người tiêu dùng, xây dựng các chiến lược dài hạn… cuối
cùng công ty đã tìm ra được đáp án và những khoảng sân lợi thế của
mình. Chẳng hạn như thị trường nước tương Việt Nam đang tiêu thụ trên
10 triệu lít/năm và có đến trên 100 nhãn hiệu của đủ các cơ sở sản xuất
lớn nhỏ khác nhau. Nhu cầu cũng tưởng chừng đạt đến mức bão hoà khi
mà ở bất cứ chỗ nào, từ chợ, siêu thị đến cửa hàng tạp hoá đều có từ 3-
5 loại khác nhau bán với mức giá 2.000 - 3.000đ/chai. Nhưng thực tế các
bà nội trợ lại đang cần sản phẩm có thương hiệu uy tín và khẩu vị ngon
theo phong cách ẩm thực nhanh và gọn , không cần pha chế gì thêm.
Trên cơ sở tự tin hiểu biết rõ về thị hiếu, khẩu vị của người Việt Nam,
công ty đã khai sinh ra dòng sản phẩm nhãn hiệu Chinsu đáp ứng đúng
“sở thích ngon miệng” mà người dân thành thị đang cần. Nhanh chân
nắm bắt nhu cầu mới, đón đường thị trường đang phát triển ở mức ngày
càng cao hơn cùng với thế mạnh của công ty từng chinh phục người Việt
ở thị trường các nước, Masan đã dồn dập đẩy Chinsu đến tận tay người
mua ở khắp các siêu thị, chợ, cửa hàng.
Ngay cả việc đưa sản phẩm ra thị trường công ty Masan cũng vận
dụng tiếp thị hiện đại với kỹ thuật riêng. Người quản lý nhãn hiệu của một
công ty có sản phẩm đang cạnh tranh với Chinsu nhận xét: “Chìa khoá
thành công của Chinsu nằm ở sự kết hợp giữa việc tổ chức kinh doanh -

sản xuất - phân phối hiện đại với các hình thức chiêu thị bài bản." Nghiên
cứu từ hình thức tung sản phẩm của các đại gia trước đó cho thấy khá
rõ: tất cả những sản phẩm đạt yêu cầu chất lượng từ loại khá trở lên, chỉ
cần được đẩy lên bằng tiếp thị quảng bá tốt đểu thành công.
Chất lượng sản phẩm là mấu chốt đồng thời là con dao hai lưỡi: nếu
ngon và đúng khẩu vị, lại được tiếp sức bởi quảng bá thương hiệu thì sẽ
hoà nhập vào đời sống tiêu dùng của người dân rất nhanh chóng, ngược
lại chỉ một sơ suất nhỏ sẽ giết chết thương hiệu ngay lập tức. Với mỗi
loại sản phẩm mới, Masan khá cẩn thận từng bước khảo sát thị trường,
chọn sản phẩm và công nghệ thích hợp với thị hiếu tiêu dùng, đưa vào
sản xuất, nghiên cứu cách phát triển và chọn lựa kênh phân phối, lên kế
hoạch tiếp thị và quảng cáo tỉ mỉ rồi mới tung hàng ra thị trường.
Khai thác sự sáng tạo và thế mạnh của các công ty dịch vụ quảng
cáo tiếp thị, mỗi dòng sản phẩm nước tương, mì gói, nước mắm, hạt
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
nêm, Masan lại chọn một đơn vị khác nhau. Chính điều này đã tạo thành
sự xuất hiện của sản phẩm Chinsu trên các phương tiện truyền thông đại
chúng nhanh, nhiều nhưng không trùng lắp với nhau. Thứ tự cách thông
tin được lập trình theo 3 bước: thông tin giới thiệu sản phẩm, các quảng
cáo sản phẩm dồn dập trên báo, các phim quảng cáo dồn dập trên các
đài truyền hình cách quảng cáo ngắn gọn, chỉ nhấn vào Chinsu và không
đề cập đến Masan đã làm người xem nhớ thương hiệu khá nhanh.
Hiện nay, theo đánh giá của các nhà kinh doanh thực phẩm và gia
vị, nhu cầu của người tiêu dùng đang còn rất lớn và thị trường hiện nay
vẫn đang mở ra cơ hội cho tất cả các doanh nghiệp. Không cạnh tranh
với nhau, cũng không xem nhau là đối thủ, các công ty vẫn đang nhắm
đến thị hiếu của người tiêu dùng để đua tranh phần thắng và Masan cũng
đang xây dựng chiến lược đưa Chinsu thành thương hiệu ngày càng lớn
trên thị trường nội địa. Mà bước khởi đầu chính là giành được sự tín
nhiệm của người tiêu dùng với danh hiệu Hàng Việt Nam chất lượng cao

chỉ sau một năm ra mắt thị trường.
III – Đánh giá của khách hàng Hà Nội về chất lượng các sản
phẩm gia vị mang nhãn hiệu Chinsu
Thời gian qua công ty Masan và thương hiệu Chinsu đã trở nên
quen thuộc với thị trường Hà Nội. Với phương châm kinh doanh lấy
khách hàng làm trọng tâm, công ty đã lấy được lòng tin nơi khách hàng
và không ngừng cải tiến chất lượng sản phẩm để thoả mãn tốt hơn nữa
những nhu cầu của khách hàng trong thời gian sắp tới.
Ngày 1 tháng 8 năm 2004 công ty đã giới thiệu loại nước mắm
Chinsu hoàn toàn mới, với công nghệ làm giàu đạm tốt, ngăn ngừa sự
phát triển của đạm đen. Sự ra đời của dòng sản phẩm này là bước khởi
đầu cho chính sách chất lượng mà công ty nhắm tới. Nước mắm Chinsu
mới đã làm hài lòng khách hàng Hà Nội không chỉ ở chất lượng mà còn ở
bao bì và nhãn mác. Việc công ty liên tục tung ra những sản phẩm mới
có chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Hà Nội đã
thực sự gây được tiếng vang trên thị trường. Đồng thời thông qua những
sản phẩm có chất lượng như thế công ty muốn khách hàng cảm nhận
được công ty luôn đặt lợi ích của khách hàng lên trên hết. Khách hàng
ngày càng tin tưởng vào chất lượng của thương hiệu Chinsu
Theo điều tra thực tế cho thấy sản phẩm gia vị Chinsu rất được
khách hàng tin dùng. Bởi và hương vị của nó rất thơm và hấp dẫn. Phần
lớn khách hàng được hỏi đều đã và đang dùng sản phẩm Chinsu, họ
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
thực sự hài lòng nhưng bên cạnh đó vẫn có một số khách hàng muốn có
những thay đổi trong hương vị của sản phẩm. Ví dụ như họ muốn nước
mắm Chinsu phải mặn hơn như vậy nó mới thể hiện được hương vị đặc
trưng của nước mắm.
Còn về nước tương thì khách hàng đánh giá rất cao, nó thích hợp
để làm nước chấm hay để ăn với các món rán……, tương ớt cũng giành
được sự ủng hộ của khách hàng, đa số những người được hỏi cho biết

tương ớt Chinsu được sử dụng trong bữa ăn của họ như một phần
không thể thiếu, nó vừa cay lại vừa có vị ngọt làm các món ăn trở nên
hấp dẫn hơn. Nhưng có một số khách hàng cho rằng tương ớt Chinsu
chưa đủ độ cay, họ muốn nó phải cay hơn nữa, phải ăn vào đến đâu biết
đến đấy. Khách hàng muốn cảm thấy vị cay nồng của ớt và vị thơm của
tương.
Phần lớn những người được hỏi đều là tầng lớp trẻ nên họ rất thích
phong cách hiện đại và trẻ trung của Chinsu. Đồng thời họ cũng cho biết
khả năng mua sản phẩm Chinsu của họ là rất lớn. Họ không thích thay
đổi thói quen tiêu dùng nếu như sản phẩm đó thực sự làm họ hài lòng.
Đó là về chất lượng sản phẩm, còn về dịch vụ và chế độ hậu mãi
sau bán hàng cũng được công ty thực hiện chu đáo, có hiệu quả. Thái độ
phục vụ chu đáo và tận tình cùng cách bố trí hàng hoá có trật tự đã tạo
được cảm tình của khách hàng. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số
khách hàng không hài lòng về dịch vụ của Chinsu. Điển hình là một số
khách hàng ở thành phố Hồ Chí Minh phản ánh : gọi tới số máy 8011012
tham gia chương trình ‘’ 1000 chai nước mắm Chinsu miễn phí’’ nhưng
đều được trả lời là không hợp lý vì chỉ giải quyết cho máy điện thoại cố
định. Dùng máy điện thoại cố định khi gọi đến số máy trên chỉ được
hướng dẫn chờ, nghe quảng cáo Chinsu và nếu bấm phím số 1 sẽ được
báo là đã có hơn 1000 cuộc gọi, nếu bấm phím số 2 lại luôn được báo là
trong vòng 48 giờ sẽ mang nước mắm đến dù trước đó đã báo hết quà.
Về vấn đề này đại diện công ty đã trả lời thoả đáng cho khách hàng.
Nhưng từ đó cũng cần rút kinh nghiệm cho các lần khuyến mãi sau.
Nhiều khách hàng được hỏi lại tỏ ra khâm phục ý tưởng sản phẩm,
quảng cáo và phân phối của sản phẩm Chinsu. Sản phẩm Chinsu là thực
phẩm bao gồm nước tương, nước mắm, tương ớt, mì gói, … Đây là
những sản phẩm rất khó Marketing vì người Việt Nam sử dụng những
sản phẩm này theo thói quen tức là mua bất cứ sản phẩm nào cũng
được, không có sự khác nhau đặc biệt theo brand name. Nhưng Chinsu

đã xây dựng được hình ảnh thương hiệu, với hình ảnh ông đầu bếp mũi
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
đỏ và câu khẩu hiệu ( slogan ): ‘’ Thơm ngon đến giọt cuối cùng ‘’ được
truyền tải qua tất cả các sản phẩm của Chinsu. Cách quảng cáo khá lạ,
câu khẩu hiệu dễ nhớ, lại liên tục tung ra các sản phẩm gần nhau. Chinsu
đã thành công trong việc xây dựng một Umbrella brand cho tất cả các
sản phẩm của mình. Hệ thống phân phối của Chinsu lại rất tốt, ngay từ
ngày đầu quảng cáo khách hàng đã có thể thấy Chin su ở khắp nơi trên
dịa bàn Hà Nội. Dù không phải là sản phẩm nước ngoài, chi phí cho
quảng cáo lại không cao nhưng Chinsu đã lấy được một thị phần đáng kể
từ tay các đại gia khác như Knorr, Maggi và các hãng không tên tuổi
khác.
Đó chỉ là đánh giá của một khách hàng, còn rất nhiều những ý kiến
khác ủng hộ sản phẩm Chinsu. Đặc biệt, rất nhiều khách hàng thích cách
thể hiện kiểu dáng, bao bì của Chinsu. Kiểu dáng bao bì của Chinsu rất
đặc trưng, nó tạo được sự khác biệt với các sản phẩm khác. Điều đó
thực sự chinh phục được khách hàng.
Nói chung khách hàng hài lòng với sản phẩm Chinsu không chỉ về
chất lượng mà còn về cung cách phục vụ. Với những cố gắng không
ngừng công ty Masan đã tạo nên một thương hiệu Chinsu có khả năng
cạnh tranh với các đại gia tên tuổi khác trên thị trường.
IV - Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng
sản phẩm Chinsu
1. Về bản thân công ty Masan
Để cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng khả năng
cạnh tranh trên thị trường thì công ty phải dựa vào chính bản thân mình.
Phải nhìn nhận chất lượng của sản phẩm dựa trên đánh giá của khách
hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm có nghĩa là thoả mãn tốt nhất
những nhu cầu và mong muốn của khách hàng một cách toàn diện.
Muốn vậy trước hết phải biết khách hàng có những yêu cầu gì, họ mong

muốn ra sao. Rồi xuất phát từ đó công ty mới tiến hành cải tiến và nâng
cao chất lượng sản phẩm. Để tiến hành tốt công tác cải tiến chất lượng
sản phẩm công ty cần chú trọng đến những biện pháp:
Thứ nhất, phải nâng cao nhận thức về chất lượng sản phẩm, đẩy
mạnh công tác đào tạo về chất lượng và quản lý chất lượng cho toàn thể
cán bộ, công nhân viên của doanh nghiệp.
Nhân lực là yếu tố quan trọng nhất trong tất cả các nguồn lực mà
doanh nghiệp có. Vì vậy con người cần được đặt ở vị trí trung tâm của
các dự án, các chương trình chất lượng của doanh nghiệp. Muốn vậy
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
con người cần được bồi dưỡng, đào tạo và giáo dục để nhằm giúp họ có
kiến thức, có kỹ năng, trình độ làm tốt công việc được giao. Từ đó họ có
thể phát huy hết sức lực và khả năng sáng tạo của mình vì mục tiêu
chung của doanh nghiệp. Mặt khác chất lượng đòi hỏi sự tham gia của
tất cả mọi thành viên trong doanh nghiệp. Tuy nhiên để các hoạt động
chất lượng được quan tâm, được duy trì thường xuyên và thực sự mang
lại hiệu quả, việc hô hào mọi người tham gia là chưa đủ. Vấn đề là ở chỗ
làm thế nào để tất cả các thành viên đều hiểu được tầm quan trọng của
chất lượng sản phẩm đối với quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Làm sao để họ hiểu được chất lượng sản phẩm vừa là trách nhiệm vừa
là quyền lợi và danh dự của chính bản thân họ. Đặc biệt làm thế nào để
cuốn hút và tổ chức cho mọi thành viên cùng tham gia đóng góp vì mục
tiêu chung của doanh nghiệp không ngừng cải tiến chất lượng để kinh
doanh có hiệu quả.
Thứ hai, phải không ngừng đổi mới công nghệ và nâng cao khả
năng thiết kế, chế tạo sản phẩm mới. Đổi mới công nghệ là khâu đột phá,
là giải pháp cơ bản trung tâm có tính chiến lược, tác động lâu dài đến
chất lượng sản phẩm. Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm đang
sản xuất và sản phẩm mới cũng như sản phẩm đa dạng hoá phải là mục
tiêu của đổi mới công nghệ.

Hình thức và phương thức đổi mới công nghệ phải phù hợp với điều
kiện cụ thể của doanh nghiệp. Trong điều kiện nguồn vốn của doanh
nghiệp cần kết hợp giữa đổi mới có trọng điểm ở những khâu, những bộ
phận then chốt đối với đầu tư, đổi mới đồng bộ. Doanh nghiệp cần xác
định những sản phẩm quan trọng, mũi nhọn trong từng giai đoạn để lựa
chọn đầu tư, đổi mới công nghệ có thể mua thiết bị công nghệ, cũng có
thể đổi mới nhờ liên doanh với nước ngoài. Kết hợp giữa đổi mới tuần tự
và nhảy vọt, giữa công nghệ hiện đại và công nghệ truyền thống được
cải tiến để lựa chọn được công nghệ thích hợp nhằm sản xuất ra sản
phẩm có chất lượng phù hợp với nhu cầu của thị trường trên cơ sở tiết
kiệm chi phí. Thiết kế sản phẩm mới là hoạt động sáng tạo để chuyển
hoá các yêu cầu của khách hàng thành kiểu dáng, đặc điểm và các thông
số kỹ thuật của sản phẩm, đủ sức đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Sản
phẩm của công ty cần phải có sự khác biệt và đặc điểm riêng không
trùng lặp với các sản phẩm cùng loại cho dù chỉ là về bao bì. Điều đó đòi
hỏi trình độ của đội ngũ thiết kế của công ty Masan. Để nâng cao năng
lực thiết kế sản phẩm mới cần có sự kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa
phòng kinh doanh và bộ phận marketing với phòng kỹ thuật trong khâu
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
thiết kế sản phẩm và phải nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ
làm công tác thiết kế, chế tạo sản phẩm mới.
Thứ ba phải tăng cường công tác tiêu chuẩn hoá
Công ty Masan cũng như ban lãnh đạo công ty phải coi tiêu chuẩn
hoá là biện pháp quan trọng để bảo đảm và nâng cao chất lượng. Nhiều
doanh nghiệp đã xây dựng tiêu chuẩn cho doanh nghiệp mình. Đây là
bước đi cần thiết nên em thiết ngĩ công ty Masan cũng nên xây dựng cho
mình một tiêu chuẩn nhất định để từ đó hướng tới tiêu chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên công tác tiêu chuẩn hoá còn tồn tại nhiều vướng mắc, chủ yếu
là chưa nhận thức đầy đủ về nội dung của tiêu chuẩn hoá, nó chỉ tập
trung vào khâu sản xuất. Hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn được xây dựng

chủ yếu căn cứ vào tình hình thực tế của doanh nghiệp, chưa dựa vào
nhu cầu của khách hàng. Khi công ty Masan đánh giá chất lượng các sản
phẩm mang nhãn hiệu Chinsu vẫn chỉ dựa vào các tiêu chuẩn do công ty
đề ra, sự đánh giá chất lượng từ nhận thức của khách hàng chưa được
quan tâm đúng mức.
Vì vậy, để tăng cường công tác tiêu chuẩn hoá làm nền tảng cho
việc cải tiến và nâng cao chất lượng cần chú ý các biện pháp:
Chú trọng xây dựng tiêu chuẩn doanh nghiệp đi đôi với việc thực
hiện tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn quốc tế
Xác định tiêu chuẩn cho các khâu hỗ trợ và dịch vụ sản xuất như
bao gói, dịch vụ sau bán hàng, phát triển công tác chứng nhận hợp
chuẩn.
Thư tư, Công ty cần có chế độ thưởng phạt cũng như mức tiền
lương thích đáng. Tiền lương là một trong những động lực thúc đẩy con
người làm việc có hiệu quả nên công ty nên khai thác triệt để yếu tố này.
Tiền lương cũng là tiêu thức cơ bản và quan trọng đối với cá nhân khi bắt
đầu xin vào làm việc. Cùng một tay nghề như nhau nhưng họ còn xem
xem doanh nghiệp nào có mức tiền lương cao hơn thì họ sẽ xin vào
doanh nghiệp đó. Tiền lương là thu nhập chính của nhân viên, nó phản
ánh mức sống của họ. Vì nhu cầu của con người là vô tận nên họ bao
giờ cũng mong muốn có cuộc sống đầy đủ. Nếu mức lương thu nhập
chính của doanh nghiệp không đủ mức chi tiêu hàng ngày thì dẫn đến
người nhân viên đó phải làm thêm để tăng thu nhập cải thiện đời sống.
Do đó họ không có thời gian tập trung vào công việc hay không toàn tâm
toàn ý với công việc của công ty. Hệ quả tất yếu sẽ làm cho chất lượng
sản phẩm của doanh nghiệp giảm xuống. Vậy nên công ty Masan cần có
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
mức lương thoả đáng đối với cán bộ công nhân viên của công ty để phát
huy sức sáng tạo của họ trong sản phẩm của doanh nghiệp.
Con người chúng ta mỗi người có một tính khí khác nhau, do đó mà

sự ham mê làm việc cũng khác nhau. Có người thì say mê với công việc
của mình, vì vậy mà họ tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật hay cải tiến chất
lượng sản phẩm. Còn có người lại an phận thủ thường không tham gia
vào công việc nghiên cứu của công ty. Vì vậy ban lãnh đạo công ty nên
quan tâm tới đời sống vật chất cũng như tinh thần của các công nhân
viên. Đồng thời có chế độ khen thưởng rõ ràng. Thưởng cho những
người say mê sáng tạo trong công việc. Nhưng bên cạnh đó cũng phải có
biện pháp phạt hành chính đối với những cá nhân ỷ lại trong công việc.
Đó là các biện pháp về chính sách, còn về chất lượng sản phẩm thì
công ty nên đa dạng hoá sản phẩm để phù hợp với nhiều đối tượng
khách hàng. Mỗi khách hàng có một khẩu vị khác nhau, phải làm sao để
khách hàng hài lòng khi sử dụng sản phẩm của công ty. Công ty Masan
có thể phát triển sản phẩm theo cách đa dạng chủng loại sản phẩm, ví dụ
như nước mắm có thể chia ra các loại có độ mặn khác nhau để cho
khách hàng có nhiều sự lựa chọn hơn. Tương tự tương ớt cũng chia
thành các loại có độ cay và hương vị khác nhau bằng cách cho thêm một
số gia vị khác vào. Đồng thời có thể tăng cường các chất các chất đạm
hay chất bổ vào trong thành phần của nước mắm và nước tương. Trong
quá trình sản xuất phải luông đảm bảo an toàn vệ sinh, phải kiểm soát
chặt chẽ từ quá trình chế biến, bao gói đến quá trình bảo quản sản phẩm.
Các biện pháp được thực hiện đầy đủ sẽ góp phần nâng cao chất lượng
sản phẩm cũng như khả năng cạnh tranh trên thị trường.
2. Về các chính sách và yếu tố vĩ mô
Để có thể thực hiện được những biện pháp đảm bảo và nâng cao
chất lượng đã đề ra ở trên thì doanh nghiệp cần phải có sự hỗ trợ từ phía
các cơ quan chức năng và nhà nước. Cụ thể là:
Thứ nhất là về chính sách thuế
Để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong
nước và quốc tế, thì đòi hỏi sản phẩm của doanh nghiệp phải có chất
lượng cao. Tức là doanh nghiệp cần có nhiều vốn đầu tư vào quá trình

sản xuất kinh doanh, mà trong đó sự góp vốn của chính doanh nghiệp là
một phần quan trọng. Để tăng lượng vốn tự có theo chu kỳ kinh doanh thì
lợi nhuận mang lại sau mỗi kỳ kinh doanh phải cao. Một trong những
nguyên nhân làm cho lợi nhuận doanh nghiệp tăng là thuế. Nhà nước
cần phải giảm thuế hoặc điều chỉnh mức thuế cho phù hợp vì như thế
Lª Th¸i B×nh D¬ng - Marketing 44B
không chỉ tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện môi
trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế bắt đầu đi vào kinh doanh.
Thứ hai phải tăng cường việc giáo dục đào tạo cho cán bộ
quản lý và cho công nhân.
Chất lượng không thể tự nhiên mà có, nó chỉ có thể có được bằng
việc thực hiện hàng loạt các hoạt động một cách có kế hoạch, có định
hướng. Với việc sử dụng tối ưu các nguồn lực của con người được coi là
quan trọng nhất trong việc hình thành và cải tiến chất lượng. vì vậy mà
con người cần được đào tạo, giáo dục. Chỉ có những người được đào
tạo được giáo dục mới giám chịu trách nhiệm với bản thân mình trước
tập thể, mới có đủ năng lực và tự nguyện cống hiến hết sức mình cho
mục tiêu chung
Rõ ràng để đáp ứng nhu cầu đổi mới chất lượng sản phẩm việc
tuyên truyền, giáo dục, đào tạo về chất lượng sản phẩm phải được đặt
lên hàng đầu. Ngoài các doanh nghiệp, người chịu trách nhiệm phải tạo
ra sản phẩm có chất lượng luôn luôn đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng
thì người tiêu dùng sản phẩm cũng sẽ là người tham gia tích cực vào
việc duy trì chất lượng sản phẩm. Đồng thời cũng là nơi có thể cung cấp
các thông tin cần thiết cho nhà sản xuất kinh doanh trong việc cải tiến
chất lượng. Vì vậy việc tuyên truyền giáo dục và đào tạo cân được mở
rộng hơn nữa cho toàn bộ các cán bộ công nhân viên của công ty để
chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm không ngừng được nâng
cao trên thị trường trong nước và quốc tế. Cụ thể là: Đẩy mạnh hơn nữa
việc tuyên truyền giáo dục thông qua nhiều hình thức. Đặc biệt cần mở

các lớp tập huấn các cuộc hội thảo về chất lượng sản phẩm cho các lãnh
đạo doanh nghiệp và công nhân của công ty. Đồng thời phải có cơ quan
đảm trách việc chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng cho các doanh nghiệp
và bảo hộ cho quyền lợi của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh
trên thị trường.
Sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan nhà nước sẽ giúp doanh nghiệp
dễ dàng trong công tác quản lý chất lượng. Từ đó mới có thể cải tiến và
nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của khách
hàng.

×