Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

nền kinh tế nhiều thành phần có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kì quá độ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.76 KB, 16 trang )

I- Lời Nói Đầu
Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa trong điều kiện một nước kinh tế kĩ thuật lạc hậu, trình độ phát triển sản
xuất thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Suốt một thời gian dài Việt Nam
cũng như nhiều nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) khác đã áp dụng mô hình
kinh tế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu, bao cấp mà thực chất là mô hình
kinh tế cứng nhắc, phi thị trường, quá đề cao vai trò của các thành phần kinh
tế XHCN dưới hai hình thức: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, còn các
thành phần kinh tế khác bằng những chính sách, biện pháp hành chính đã áp
đặt, nóng vội để đẩy nhanh tiến độ cải tạo XHCN. Kết quả là thành phần kinh
tế XHCN (quốc doanh và tập thể) phát triển nhanh về số lượng, mở rộng quy
mô và phạm vi hoạt động nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp và ngày
càng có xu hướng giảm sút, sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế
không được phát huy khiến cho nền kinh tế trở nên trì trệ, kém phát triển.
Chúng ta không thể phủ nhận những tác dụng tích cực mà mô hình này đã
mang lại trong thời gian truớc đây, nhưng càng về sau nó càng bộc lộ những
khiếm khuyết, mà chủ yếu là các nhu cầu của xã hội vượt quá khả năng đáp
ứng của một nền kinh tế năng động do thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập
trung quan liêu và chế độ phân phối bình quân chủ nghĩa. Chính điều đó đã
kìm hãm và làm thui chột động lực và tính cạnh tranh giữa các lực lượng kinh
tế, không huy động và sử dụng được các nguồn lực của đất nước để tạo đà
cho sự phát triển. Đoạn tuyệt với cơ chế cũ, lạc hậu và phát triển kinh tế đã
trở thành đòi hỏi bức thiết và tất yếu đối với Việt Nam.
Để khắc phục những thiếu sót trước đó, từ Đại hội VI của Đảng - Đại hội
Đảng khởi đầu sự nghiệp đổi mới - chủ trương phát triển nền kinh tế thị
trường với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được nhận thức lại và thực hiện
nhất quán. Đảng ta đã xác định nền kinh tế nhiều thành phần có cơ cấu nhiều
thành phần là một đặc trưng của thời kì quá độ. Mỗi thành phần kinh tế có
vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển
kinh tế nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược, lâu dài trong suốt thời
kì quá độ lên CNXH, nhằm mục tiêu hàng đầu là nâng cao hiệu quả kinh tế


nhà nước, kinh tế hợp tác và các thành phần kinh tế khác, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng của
1
nền kinh tế quốc dân, tạo khung pháp lí thuận lợi và môi trường chính trị, xã
hội ổn định và môi trường sản xuất kinh doanh bình đẳng, thông thoáng để tất
cả các thành phần kinh tế hoạt động tốt nhất, tạo động lực giải phóng sức sản
xuất, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH và
nâng cao đời sống toàn diện của nhân dân.
2
II. Nội Dung
1. Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thành phần kinh tế là bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân thống
nhất hay kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về
tư liệu sản xuất do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
quy định . Mỗi thành phần kinh tế đại biểu cho một quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất và vốn, theo đó là một quan hệ tổ chức, quản lí, phân phối và
thu nhập.
Khi bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nước ta
còn ở trình độ kém phát triển, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc
khác nhau, tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng sản xuất sẽ có một
kiểu quan hệ sản xuất. Do đó, cơ cấu kinh tế phải là cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần. Căn cứ vào những nguyên lí chung và điều kiện cụ thể của
Việt Nam, Đảng ta đã xác định: nền kinh tế trong thời kì quá độ lên CNXH
có 5 thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể,
tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. .
Các thành phần kinh tế cùng tồn tại đan xen với nhau, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh có tác dụng khôi phục cơ sở kinh tế hàng hoá mà trước
đây, do nôn nóng, đã xoá bỏ một cách không tự giác và cho phép khai

thác, sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế
trong nước. Những thành phần kinh tế này có diện mạo riêng nhưng đều
nằm trong sự thống nhất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN lâu
dài, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh lành mạnh góp phần phát triển vững chắc
nền kinh tế nước ta trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập
với kinh tế khu vực và thế giới.
2. Phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
2-1. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
Trong các thành phần kinh tế ở Việt Nam, mỗi thành phần đều có vai
trò, vị trí và đóng góp nhất định vào nền kinh tế đất nước. Song do tính
3
chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta cần đặc biệt
nhấn mạnh vai trò kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước làm chủ đạo và
cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất ( sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước). Kinh tế
nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia,
các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước để có thể
đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. Kinh tế nhà nước chiếm giữ ở các vị trí
then chốt của nền kinh tế, đặc biệt trong nền kinh tê sthị trường ở Việt
Nam, kinh tế nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định tới tính
chất định hướng XHCN của nền kinh tế quốc dân
Phát triển kinh tế nhà nước theo hướng là lực lượng mở đường, hỗ trợ,
định hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu kinh
tế, xã hội của đất nước. Kinh tế nhà nước có khả năng, điều kiện về mọi
mặt để đáp ứng tốt nhất cho việc thực hiện các quy hoạch, kế hoạch đầu
tư, xây dựng cải tạo, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội như giao
thông, điện, các công trình công cộng khác phục vụ sản xuất và đời sống.
Kinh tế nhà nước có điều kiện để đi đầu trong việc tập trung nghiên cứu,

xây dựng và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất những hàng
hoá mà trong nước có lợi thế, có khả năng cạnh tranh, thị trường có nhu
cầu và đem lại lợi nhuận cao, thu hút và sử dụng được nhiều lao động, tạo
đà cho kinh tế đất nước phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng, chủ yếu nhất để nhà
nước điều tiết và quản lí vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước chỉ có thể điều tiết
được nền kinh tế khi có trong tay một tiềm lực kinh tế mạnh. Kinh tế nhà
nước chính là chỗ dựa vật chất to lớn, tạo ra tiềm lực kinh tế mạnh để Nhà
nước thực hiện yêu cầu đó. Trong nền kinh tế nhà nước, hệ thống doanh
nghiệp nhà nước là lực lượng chủ lực tạo ra tiềm lực vật chất của kinh tế
nhà nước, có ở khâu những khâu trọng yếu của nền kinh tế, cung ứng phần
lớn tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng thiết yếu đóng vai trò nòng cốt
trong việc củng cố, phát triển các bộ phận cấu thành hệ thống kinh tế nhà
nước, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.Vì vậy,
trong lĩnh vực này, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà
4
nước đóng vai trò hết sức quan trọng. Phát triển doanh nghiệp nhà nước là
nhiệm vụ trọng tâm để phát triển kinh tế nhà nước. Trong đó, cần xây
dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ti nhà nước,
có sự tham gia của các thành phần kinh tế, thực hiện tốt chủ trương cổ
phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không
cần nắm 100% và tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát
triển và nâng cao hiệu quả theo hướng xoá bỏ triệt để bao cấp, doanh
nghiệp cạnh tranh trên thị trường. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất
quan trọng nhất để nhà nước thực hiện quản lí vĩ mô nền kinh tế, bảo đảm
cho nền kinh tế phát triển ổn định, bảo đảm những cân đối lớn và đủ khả
năng sẵn sàng ứng phó với những đột biến của nền kinh tế thị trường.
Việc phát triển kinh tế nhà nước sẽ là đòn bẩy để tăng trưởng kinh tế
và giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước: Nhà nước sử dụng lực lượng
kinh tế nhà nước để đầu tư cho những ngành, những khu vực, những công

trình kinh tế trọng điểm, tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế từng vùng,
miền, địa bàn, phát huy lợi thế, khả năng về mọi mặt, làm thay đổi bộ mặt
kinh tế cả nước. Kinh tế nhà nước còn được sử dụng vào việc thực hiện
các chương trình vay vốn, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm…
Như vây, để kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo, dẫn dắt các
thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN ta cần hoàn
thành việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu và nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước, đổi mới và phát huy ưu thế về kĩ thuật
và công nghệ, liên kết, liên doanh với các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng và hiệu
quả kinh tế xã hội, thực hiện vai trò và chức năng công cụ quản lí vĩ mô
của Nhà nước, đổi mới cơ chế quản lí kinh tế trong các doanh nghiệp Nhà
nước trên cơ sở bảo đảm chế độ tự chủ, sản xuất kinh doanh của các đơn vị
kinh tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa các loại lợi ích kinh tế, chú ý thích
đáng lợi ích kinh tế của người lao động.
2-2. Kinh tế tập thể cùng phát triển với kinh tế nhà nước
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do
người lao động tự góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lí theo nguyên tắc
tập trung, bình đẳng, cùng có lợi.
5
Kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng mà nòng cốt là hợp tác dựa
trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những
người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh… thuộc các thành phần kinh
tế, không giới hạn địa bàn hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách
nhiệm. Trong quá trình đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
nhiều chủ trương đổi mới và phát triển kinh tế tập thể nhằm phát huy vai
trò tích cực của nó. Kinh tế tập thể đã có những bước đổi mới một cách
sâu rộng, phát triển sâu rộng, phát triển các hình thức hợp tác đa dạng,
chuyển đổi mô hình tổ chức, nguyên tắc hoạt động và cơ chế quản lí nội bộ
để thích ứng với điều kiện mới.

Về hướng hoạt động sản xuất:
Chú trọng nâng cao khả năng cạnh tranh trong sản xuất, kinh doanh,
đáp ứng đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường; không ngừng đổi mới,
cải tiến kĩ thuật, cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Khả năng cạnh
tranh của một tổ chức kinh tế phụ thuộc vào cách thức, quy mô tổ chức sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ. Nâng cao khả năng cạnh tranh sẽ giúp
kinh tế tập thể khẳng định vị trí của mình trên thị trường.
Đa dạng hoá các ngành nghề hoạt động. Hiện nay, việc cung cấp các
dịch vụ đầu vào cho sản xuất đã phát triển khá mạnh trên thị trường, do
vậy nếu chỉ thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng đầu vào thông
thường thì giá trị sản xuất sẽ thấp, cạnh tranh rất ác liệt với các loại thị
hình kinh tế khác, dặc biệt là kinh tế tư nhân. Ở khu vực nông thôn, bên
cạnh việc phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ cần chú trọng kinh tế hợp tác
xã, trang trại… Để vươn ra thị trường và giảm tác động của các rủi ro, tăng
hiệu quả phát triển kinh tế các hợp tác xã, cần mở rộng lĩnh vực hoạt động
của mình với cácloại hình tổ chức kinh doanh khác, phát triển các ngành
nghề truyền thống, đa dạng các mặt hàng, đảm bảo những khâu quan trọng
như chế biến, tiêu thụ sản phẩm…
Về mặt tổ chức:
Kinh tế tập thể cần lựa chọn, xây dựng đội cán bộ có tinh thần, ý thức
trách nhiệm cao, cần xác định mô hình tổ chức quản lí nào là phù hợp với
điều kiện cụ thể của mình. Ngoài ra, kinh tế tập thể phải lấy lợi ích kinh tế
6
làm chính, trong đó bao gồm lợi ích của các thành viên, lợi ích tập thể,
đảm bảo kết hợp được lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể.
Bên cạnh đó, để phát triển đúng hướng và có hiệu quả, kinh tế tập thể
cần có sự lãnh đạo của Đảng và sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo
cán bộ, ứng dụng khoa học – công nghệ, nắm bắt thông tin, mở rộng thị
trường tiêu thụ, giải quyết nợ tồn đọng… Cùng với kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể ngày càng có vai trò vững chắc trong nền kinh tế quốc dân. Việc

đổi mới và phát triển thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải
được đặt trong khuôn khổ mối quan hệ tương hỗ với phát triển các thành
phần kinh tế khác trên cơ sở tôn trọng những quy luật khách quan của nền
kinh tế thị trường.
2-3. Kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân là một giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng
hoá. Đó không phải là một thành phần kinh tế mà là một khu vực kinh tế
gồm hai thành phần: thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ và thành phần
kinh tế tư bản tư nhân, “hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và
các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã phát triển rộng khắp trong nước”
(Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảngkhoá IX). Kinh tế tư
nhân như một động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển trong nền
kinh tế thị trường. Ngược lại, nền kinh tế thị trường chính là môi trường
trong hoạt động và phát triển các thành phần kinh tế, trong đó có thành
phần tư nhân. Đại hội lần thứ VII của Đảng đã khẳng định rõ quan điểm
với kinh tế tư nhân là: kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân được
khuyến khích và phát triển, không hạn chế việc mở rộng kinh doanh và có
thể áp dụng nhiều hình thức liên doanh với các doanh nghiệp khác. Đồng
thời chú trọng nâng cao hiệu quả quản lí Nhà nước đối với hoạt động của
kinh tế tư nhân, bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế, nhằm đáp
ứng tốt hơn các yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và sự phát triển kinh
tế- xã hội của đất nước.
Thứ nhất, cần tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế tư
nhân phát triển. Trong chiến lược, quy hoạch phát triển nền kinh tế quốc
dân, cũng như từng ngành, từng đơn vị kinh tế cần xác định rõ hướng phát
triển của các thành phần kinh tế, trong đó chú trọng tới kinh tế tư nhân.
7
Gắn liền với chiến lược, quy hoạch ấy cần có chính sách, cơ chế kèm theo
để tạo động lực hoặc có biện pháp hỗ trợ, khuyến khích theo hướng phát
triển đã định. Ngoài ra, cần xây dựng và phát triển đồng bộ luật pháp,

chính sách bảo đảm tính nhất quán và ổn định. Thúc đẩy nhanh việc hình
thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng đất
để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa về mặt sản xuất, kinh doanh cho khu
vực kinh tế tư nhân. Nên có chính sách giúp doanh nghiệp tư nhân được
dùng giá trị quyền sử dụng đất để thế chấp, vay vốn ngân hàng hoặc góp
vốn cổ phần với các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước.
Thứ hai, cần tạo lập sự bình đẳng thật sự giữa kinh tế tư nhân với các
thành phần kinh tế khác để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
có môi trường cạnh tranh lành mạnh. Từ khi Luật Doanh Nghiệp có hiệu
lực thì doanh nghiệp tư nhân đã có một bước phát triển vượt bậc. Song
hiện nay vẫn còn không ít những cản trở trong chỉ đạo, điều hành, nhất là
một số địa phương, ngành còn để tồn tại các loại giấy phép con trái với
Luật Doanh Nghiệp. Vì vậy, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật sao cho
hợp lí, tạo môi trường kinh doanh được bình đẳng hơn trên cơ sở tất cả các
doanh nghiệp tham gia sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế
đều chịu sự điều chỉnh của một luật chung.
Thứ ba, thúc đẩy nhanh việc hình thành các loại thị trường, đi liền với
các loại thị trường là cơ chế, chính sách để các thị truờng hoạt động đồng
bộ. Xây dựng cơ sở tài chính, tín dụng bình đẳng giữa doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế, bảo đảm kinh tế tư nhân dễ dàng tiếp cận và được
hưởng các ưu đãi của Nhà nước dành cho khu vực này, lành mạnh và ổn
định hoá hệ thống tài chính doanh nghiệp để các doanh nghiệp có điều
kiện tiếp cận các nguồn vốn trong và ngoài nước. Đơn giản hoá các thủ tục
cho vay, đi liền với tăng cường các dịch vụ thanh toán, bảo lãnh, tư vấn
cho kinh tế tư nhân. Thêm vào đó, khi các doanh nghiệp tư nhân gặp rủi ro
trong sản xuất thì cũng nên áp dụng những biện pháp hỗ trợ như đối với
các thành phần kinh tế khác.
Thứ tư, cần có chính sách hỗ trợ về cung cấp thông tin thị trường, xúc
tiến thương mại, đăng kí thương hiệu hàng hoá, đạo tạo, bồi dưỡng cho
chủ doanh nghiệp để đội ngũ doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh. Với kinh

8
tế tư nhân, trong lĩnh vực nông nghiệp, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ
về cây, con giống, khuyến nông, nuôi trồng…, có biện pháp thu mua, bảo
quản, chế biến sau thu hoạch để tránh tình trạng thừa sản phẩm, gây tổn
thất cho người sản xuất, lãng phí cho nền kinh tế quốc dân.
Thứ năm, cần thay đổi cách nhìn, cách nghĩ, xoá bỏ mặc cảm của xã
hội với khu vực kinh tế tư nhân, trước hết là trong đội ngũ công chức, nhà
nước. Từng bước xoá bỏ sự phân biệt đối xử về tín dụng, thuế, mặt bằng
đang gây khó khăn cho phát triển kinh tế tư nhân ở địa phương. Hơn nữa,
quản lí nhà nước nên chuyển từ can thiệp trực tiếp của các cơ quan quản lí
nhà nước sang hỗ trợ, hướng dẫn, định hướng cho sự phát triển kinh tế tư
nhân.
Ngoài ra, cần chú trọng kinh tế cá thể, tiểu chủ, cùng với nó là phát
triển các doanh nghiệp tư nhân, công ti trách nhiệm hữu hạn và công ti cổ
phần có sự phát triển nhanh. Hộ kinh doanh cá thể đáp ứng những sản
phẩm thoả mãn nhu cầu của xã hội và xuất khẩu, thu hút một lượng lao
động lớn, nhằm giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, nâng cao mặt
bằng kinh tế chung.
Chúng ta cần nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh, có mức
tăng trưởng cao hơn hiện nay, thu hút hơn nữa nhiều nguồn lực của tư
nhân vào đầu tư phát triển. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân còn có nhiều hạn
chế, yếu kém như phần lớn có quy mô nhỏ, vốn ít, trình độ quản lí còn
thấp, sức cạnh tranh còn yếu, một số đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực hiện
tốt những quy định của pháp luật đối với người lao động, không ít đơn vị
vi phạm pháp luật, trốn thuế, gian lận, làm hàng giả, kinh doanh trái
phép… Điều đó đòi hỏi phải tăng cường quản lí với kinh tế tư nhân.
2- 4. Kinh tế tư bản nhà nước
Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức
liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và
ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.

Phát triển kinh tế tư bản nhà nước sẽ tạo cơ sở cho việc hình thành một
hệ thống kiểm kê, kiểm soát toàn bộ nền kinh tế quốc dân, là nhân tố chủ
yếu để khắc phục xu hướng tự phát, vô chính phủ trong kinh tế, tạo cơ sỏ
cho việc đẩy lùi và ngăn chặn những tiêu cực trong các cơ sở kinh tế, nhất
9
là kinh tế nhà nước. Với tinh thần cơ bản là phát triển tư bản nội địa dưới
sự kiểm soát và điều tiết của Nhà nước và thu hút vốn đầu tư của tư bản
nước ngoài, kinh tế tư bản nhà nước muốn phát triển cần tạo lập được
những hình thức vừa phổ biến, vừa hiệu quả.
Trong đó, cần nâng cao trình độ quản lí của Nhà nước- việc này quyết
định chủ yếu về hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, là nhân tố định hướng
phát triển kinh tế thị trường, tạo lập hình thức liên doanh, liên kết giữa
Nhà nước với các chủ sở hữu ngoài quốc doanh ở các nước hoặc với các
chủ sở hữu ở các nước tư bản chủ nghĩa. Thành lập các công ti cổ phần với
tính cách là hình thức kinh tế tư nhân tư bản nhà nước và “cổ phần hoá” xí
nghiệp để thành lập xí nghiệp tư bản nhà nước, các đặc khu kinh tế, khu
công nghiệp chế biến, xuất khẩu. Bên cạnh đó, cho tư bản trong và ngoài
nước, cho nông dân thuê các cơ sở sản xuất, kinh doanh các tư liệu sản
xuất thuộc sở hữu toàn dân, phát triển các tổ chức hợp tác, liên doanh với
tính cách là các hình thức kinh tế tư bản tư nhân nhà nước hữu hiệu.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước là một hiện thực trong công cuộc
xây dựng CNXH ở nước ta. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước còn là giải
pháp nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước , đó là hình thức kinh
tế trung gian, quá độ, là chiếc cầu ngắn nhất đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn XHCN ở nước ta.
2- 5. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp có thể
100% vốn nước ngoài, có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà
nước hoặc tư nhân.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có vị trí quan trọng trong nền kinh tế

quốc dân, được khuyến khích phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-
xã hội gắn liền với thu hút công nghiệp hiện đại, tạo việc làm và đề ra
nhiệm vụ cải thiện nhanh môi trường kinh tế, pháp lí để thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có tác
dụng hỗ trợ, bổ sung cho phát triển kinh tế, là cầu nối mở rộng kinh tế với
các nước, tăng nguồn thu ngoại tệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nhằm nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài hiện nay chiếm hơn 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trên 35%
10
giá trị công nghiệp, 23% giá trị xuất khẩu và hơn 13% tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) cả nước không kể dầu khí. Do đó, Đại hội lần thứ IXcủa Đảng
đã xác định nhiệm vụ không ngừng cải thiện nhằm nâng cao môi trường
kinh tế, pháp lí và khả năng cạnh tranh trong việc thu hút và sử dụng
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ nhất, xây dựng chiến lược và quy hoạch cụ thể nhằm thu hút FDI,
trong đó cần chú trọng công tác dự báo, cập nhật thông tin thị trường trong
nước, quốc tế, bảo đảm sự thống nhất giữa quy hoạch, các ngành, địa
phương. Đồng thời phải xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong các năm tới và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ấy.
Thứ hai, cần cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật
liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài: xây dựng hệ thống luật hấp
dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định và mang tính khu vực. Sửa đổi thuế
thu nhập cá nhân đối với người lao động Việt Nam làm việc trong các
doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước
ngoài để khai thác thêm các lĩnh vực thu hút đầu tư mới. Đẩy nhanh việc
thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, ban hành danh
mục, lĩnh vực cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của các
công ti cổ phần Việt Nam trên thị trường chứng khoán.
Thứ ba, hoàn thiện chính sách về đầu tư nước ngoài: tiếp tục thực hiện
lộ trình giảm chi phí đầu tư.Với đất đai, có thể miễn giảm tiền thuế đất cho

một số năm để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, giải quyết dứt điểm tình
trạng giải phóng mặt bằng đang bị ách tắc cho việc triển khai dự án. Thêm
vào đó cần cải thiện công cụ thuế, tín dụng, cơ chế xuất nhập khẩu, hải
quan tạo điều kiện thông thoáng cho việc đầu tư vốn từ nước ngoài vào
trong nước.
Thứ tư, cần đổi mới, hoàn thiện quản lí nhà nước, cải cách thủ tục hành
chính với FDI. Tập trung điều hành để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho dự án
đầu tư nước ngoài có hiệu quả, giải quyết các khó khăn, vướng mắc phát
sinh, nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước với các nhà đầu tư nước ngoài.
Xây dựng chế độ kiểm tra rõ ràng, minh bạch, tránh tình trạnh tuỳ tiện,
hình sự hoá các quan hệ kinh tế, từng bước mở rộng phạm vi dự án thuộc
diện đăng kí cấp giấy phép đầu tư, khẩn trương triển khai các dự án tổ
11
chức đào tạo cán bộ kinh doanh quản lí công nhân lành nghề làm việc tại
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
3. Các thành phần kinh tế bổ sung, giúp đỡ nhau phát triển
Trong thời gian tới, các thành phần kinh tế có thể cạnh tranh và hợp tác
cùng phát triển, bổ sung lẫn nhau, tạo thành mạng liên kết sản xuất, tận
dụng kinh tế theo quy mô và tăng hiệu quả của nền kinh tế. Kinh tế nhà
nước phải luôn giữ vai trò là công cụ quản lí vĩ mô của Nhà nước, là lực
lượng dẫn đường cho các thành phần kinh tế khác đi theo quỹ đạo do Nhà
nước vạch ra, đồng thời, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế
khác để kinh tế nhà nước thực hiện tốt hơn vai trò của mình, bởi mỗi
ngành kinh tế đều có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nếu
kinh tế nhà nước đảm nhận những ngành chủ chốt, cạnh tranh với các tập
đoàn lớn trên thế giới, thì kinh tế cá thể tiểu chủ đảm nhiệm những hoạt
động kinh tế phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng trong nước. Kinh tế có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hướng tập trung vào những ngành hiện
đại, giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là những khu vực thành thị và
nơi có kết cấu hạ tầng tốt và thuận lợi. Khu vực kinh tế tư nhân và tập thể

có thể phát huy khả năng trong những khu vực nông nghiệp nông thôn,
vùng miền núi khó khăn.Trong nền kinh tế hội nhập toàn cầu, kinh tế nhà
nước, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
là những trụ cột giúp nền kinh tế cạnh tranh trên thị trường thế giới. Các
thành phần kinh tế khác vẫn tồn tại như một thực thể khách quan, xuất
phát từ đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam, đáp ứng nhu cầu đa dạng của
xã hội, bổ sung và phối kết hợp với các trụ cột trên tạo thành một nền kinh
tế lành mạnh và đa dạng.

12
III- Kết Luận
Thực hiện chính sách phát triển các thành phần kinh tế là một bộ phận
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta - từ chỗ
không thừa nhận kinh tế tư nhân đến chỗ thừa nhận kinh doanh nhỏ ở một
số ngành nghề, từ chỗ bó hẹp quy mô sản xuất đến chỗ không hạn chế về
quy mô và lĩnh vực mà luật pháp không cấm. Mỗi lần thay đổi tư duy là
một lần nhận thức của chúng ta được mở rộng và đầy đủ hơn, thúc đẩy các
thành phần kinh tế đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết
công ăn việc làm, tạo cơ hội cho những chủ thể kinh tế, các doanh nhân
mới năng động, sáng tạo phát huy mọi tiềm năng, nội lực tạo ra một tổng
hợp lực thật sự cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN.
Trong nền kinh tế thị trường thời kì quá độ lên CNXH của nước ta hiện
nay, việc phát triển các thành phần kinh tế lại càng có ý nghĩa quan trọng.
Những thành tựu đã đạt được đã đạt được trong công cuộc xây dựng và
phát triển kinh tế trong 20 năm đổi mới, đặc biệt là những năm gần đây đã
chứng minh cho quan điểm của Đảng về chủ trương phát triển kinh tế
nhiều thành phần, khẳng định sự tồn tại lâu dài của nhiều thành phần kinh
tế trên con đường tiến lên CNXH: “các thành phần kinh tế đều là bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng

phát triển lâu dài, cạnh tranh lành mạnh”. Trong giai đoạn 1996-2006,
GDP tăng trưởng qua các năm với tốc độ tăng bình quân 7,11% và giao
động từ 4,47% đến 8,43%, tương ứng mức tăng GDP tuyệt đối bình quân
là 21.126,32 tỉ đồng. Tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn này khá cao so
với các nước khác trong khu vực, với mức tăng trưởng bình quân 7,11%
đứng thứ 3 trong 10 quốc gia , thấp hơn so với Myanma (9,7%) và
Cambodia (7,6%).
Do đó, việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần không
chỉ là quy luật phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay mà còn là một yêu
cầu thiết thực nhằm phát huy những thành quả đã đạt được và xây dựng
một nền kinh tế phát triển hơn nữa. Các thành phần kinh tế đều có vai trò
nhất định với ưu thế riêng, tạo dựng một nền kinh tế có sức mạnh. Việc tạo
lập một nền kinh tế mà mọi thành phần kinh tế đều khẳng định vai trò của
13
chúng thông qua kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh với nhau sẽ mang lại
chất lượng tăng trưởng và hiệu quả cao cho toàn bộ nền kinh tế, phát triển
nền kinh tế thị trường, tăng cường khả năng hội nhập kinh tế quốc tế và
tạo nền tảng cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng CNXH.
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phát triển các thành phần kinh tế và - GS.TS Đinh Văn Ân
các tổ chức kinh doanh ở nước ta hiện nay TS. NgôĐình Giao
2. Phát triển kinh tế nhiều thành phần - GS.TS. Lê Hữu Nghĩa
ở Việt Nam TS. Đinh Văn Ân

3. Một số vấn đề về kinh tế- xã hội - GS.TS. Nguyễn Văn
Thường
thời kì đổi mới
4. Về thành phần kinh tế tư nhân - GS.TS Trần Ngọc Hiên
5. Tạp chí Kinh tế phát triển (tháng 3/2007)

15
MỤC LỤC
Trang
I- Lời Nói Đầu 1
II. Nội Dung 3
1. Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội 3
2. Phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa 3
2-1. Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước 3
2-2. Kinh tế tập thể cùng phát triển với kinh tế nhà nước 5
2-3. Kinh tế tư nhân 7
2- 4. Kinh tế tư bản nhà nước 9
2- 5. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 10
3. Các thành phần kinh tế bổ sung, giúp đỡ nhau phát triển 12
III- Kết Luận 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO 15
16

×