Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Phân tích quan điểm hồ chí minh về qui luật ra đời ; bản chất giai cấp công nhân ; các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của ĐCS việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.85 KB, 14 trang )

Đinh Thị Hương Giang
17071051
Khoa Quốc Tế - Đaị Học Quốc Gia Hà Nội

Câu 1 (5 điểm) Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về qui luật ra
đời ; bản chất giai cấp công nhân ; các nguyên tắc tổ chức và sinh
hoạt của ĐCS Việt Nam.
Tư tưởng về Đảng cộng sản và xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện
Đảng cầm quyền là một phần rất quan trọng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư
tưởng của Hồ Chí Minh.
Là người sáng lập, Đảng Cộng sản Việt Nam, giáo dục và rèn luyện Đảng ta,
chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng cả về tư
tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức. Bắt nguồn từ học thuyết của Mác về Đảng
cộng sản và trực tiếp từ học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân đã
được Lê nin đưa ra từ những năm đầu của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp
thu có chọn lọc và phát triển lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về Đảng cộng
sản, đồng thời chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng cách mạng - Đảng Cộng sản Việt Nam. Những luận điểm của Người về
Đảng cộng sản và xây dựng Đảng, đặc biệt trong điều kiện Đảng cầm quyền là
một phần rất quan trọng, vì theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam là
nhân tố quyết định hàng đầu, để đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Thể hiện tư tưởng này, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng “trước hết phải
có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên
lạc với các dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi”. Hồ Chí Minh giải
thích: “cách mạng muốn thắng lợi thì phải có một Đảng lãnh đạo, Đảng phải
làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột; phải dạy cho quần


chúng hiểu các quy luật phát triển của xã hội, để họ nhận rõ mục đích gì mà đấu
tranh, chỉ rõ con đường giải phóng cho quần chúng...". Vì theo Người: Cách
mạng là sự nghiệp của “cả dân chúng chứ không phải của một hai người”,


nhưng sức mạnh của dân chúng chỉ trở thành vô địch và “không một quân lính,
súng ống nào thắng nổi” khi được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo.
Đảng cách mạng là Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động. Trong Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã
mở đầu bằng một câu theo ý của Lê nin: “Khơng có lý luận cách mệnh, thì
khơng có cách mệnh vận động... chỉ có lý luận cách mệnh tiền phong, Đảng
cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”. Người đã chỉ rõ: “
Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai
cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người
khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam” và Người cho rằng: “Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê nin”. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ
rằng: lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt” khơng có nghĩa là giáo điều theo
từng câu từng chữ của Mác, của Lê nin, mà như Hồ Chí Minh nói, là nắm vững
tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững lập trường, quan điểm và phương
pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa dân
tộc và nhân loại, tham khảo kinh nghiệm các nước, vận dụng sáng tạo vào hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam để đưa ra đường lối chính sách đúng đắn cho cách
mạng. Với tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo, Hồ Chí Minh đã nêu lên một
chuẩn mực cho mọi người cách mạng về sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lênin để giải quyết thành công vấn đề cách mạng Việt Nam cũng như
cách mạng thế giới đặt ra.

 Cùng với việc làm sáng tỏ vị trí, vai trị quyết định của Đảng cộng sản với cách
mạng Việt Nam và bản chất giai cấp công nhân của Đảng, để xây dựng được


Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh, lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp cách mạng,
Người cũng chỉ rõ những nguyên tắc tổ chức sinh hoạt của Đảng Cộng sản
Việt Nam, đó là:


- Nguyên tắc tập trung dân chủ: đây là nguyên tắc cơ bản nhất để xây dựng
Đảng cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh
của mỗi người, vừa phát huy sức mạnh của tất cả ai đã tự nguyện gắn bó với
nhau trong một tổ chức. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ và tập trung là hai mặt có
mối quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau trong một nguyên tắc. Dân chủ để đi
đến tập trung, là cơ sở của tập trung, chứ không phải dân chủ theo kiểu phân
tán, vô tổ chức. Tập trung phải trên cơ sở dân chủ, chứ không phải tập trung
quan liêu, theo kiểu độc đốn chun quyền. Cịn về dân chủ, Người phân tích,
đó là cái quý báu nhất của nhân dân, là thành quả của cách mạng. Người viết
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do theo Người, đó là
đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra
chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là nghĩa vụ của mọi người.
Bên cạch đó, Hồ Chí Minh cịn nhấn mạnh phải chú ý thực hành dân chủ rộng
rãi trong Đảng, Người không đối lập hai mặt đó của một nguyên tắc và chỉ rõ:
Tập trung trên nền tảng dân chủ và dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung.
- Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách: đây là nguyên tắc lãnh đạo của
Đảng. Trong tác phẩm sửa đổi lề lối làm việc, Người đã phân tích rất rõ về
nguyên tắc này: một người dù tài giỏi đến mấy cũng không thấy hết mọi mặt
của vấn đề, càng không thể thấy hết mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. Vì
vậy, cần phải có nhiều người cùng tham gia lãnh đạo. Nhiều người thì nhiều
kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do đó họ hiểu được mọi mặt,
mọi vấn đề. Cá nhân phụ trách việc gì đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế
hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phụ trách, như thế công việc
mới chạy, mới tránh được thói dựa dẫm, ỷ vào người khác, ỷ vào tập thể, không


xác định rõ cá nhân phụ trách thì giống như “nhiều sãi khơng ai đóng cửa chùa”.
Theo Người, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn đi đôi với
nhau, liên hệ với vấn đề dân chủ tập trung; lãnh đạo khơng tập thể thì sẽ đi đến

cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan; phụ trách khơng do cá nhân thì sẽ đi đến tệ
bừa bãi, lộn xộn vơ chính phủ. Kết quả là hỏng việc.
- Nguyên tắc tự phê bình và phê bình: đây là nguyên tắc sinh hoạt Đảng, là quy
luật phát triển Đảng, vì Người cho rằng mỗi đảng viên trước hết phải thấy rõ
mình, để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, cũng giống như phải tự soi
gương rửa mặt hàng ngày.
Người nhấn mạnh: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư
tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”. Người xem
tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi
người tốt hơn, tiến bộ hơn, và tăng cường đoàn kết nội bộ hơn. Người đã thẳng
thắn vạch rõ: “Một Đảng mà dấu diếm khuyết điểm của mình là một Đảng
hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó,
vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hồn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm
mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn,
chắc chắn, chân chính”.
Tự phê bình và phê bình khơng những là vấn đề của khoa học cách mạng, mà
còn là nghệ thụật cách mạng, vì vậy, Người lưu ý cán bộ, đảng viên và các cấp
bộ Đảng trừ trên xuống dưới không những phải “ln ln dùng” mà cịn “khéo
dùng cách phê bình và tự phê bình”; cán bộ càng cao, trách nhiệm càng lớn phải
gương mẫu tự phê bình và phê bình. Muốn thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi
mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân mình cũng như với người
khác, “phải có tính đồng chí thương u lẫn nhau”. Người cũng phê phán những
thái độ lệch lạc trong tự phê bình và phê bình, như: thiếu trung thực, che dấu
khuyết điểm của bản thân, sợ phê bình, khơng dám phê bình, nể nang né tránh,


dĩ hòa vi quý, hoặc ngược lại lợi dụng phê bình để nói xấu, bơi nhọ, vùi dập, đả
kích người khác...
- Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh và tự giác: sức mạnh vô địch của Đảng là ở
tinh thần kỷ luật tự giác ý thức tổ chức nghiêm minh của cán bộ đảng viên. Từ

việc phải tuân thủ kỷ luật của Đảng, mỗi đảng viên dù ở cương vị nào cũng phải
nghiêm túc chấp hành kỷ luật của các đoàn thể và pháp luật của Nhà nước, tuyệt
đối không được ai cho phép mình coi thường, thậm chí đứng trên tất cả. Ý thức
kỷ luật đó là ý thức của giai cấp công nhân, ý thức của Đảng của giai cấp cơng
nhân. Việc đề cao ý thức kỷ luật đó đối với mọi cán bộ, đảng viên từ trên xuống
dưới chỉ làm tăng thêm uy tín của Đảng; ngược lại, nếu ý thức kỷ luật đó thấp,
nếu cán bộ, đảng viên càng nhiều vi phạm kỷ cương phép nước, tự cho mình là
người lãnh đạo, coi thường kỷ luật thì uy tín của Đảng ngày càng thấp, đưa đến
những nguy cơ cho Đảng.
- Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng: Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
đến việc xây dựng mối đoàn kết thống nhất trong Đảng cũng như xây dựng khối
đại đoàn kết toàn dân. Để xây dựng đoàn kết thống nhất trong Đảng, Người
thường nêu những yêu cầu, như: phải thực hành và mở rộng dân chủ trong nội
bộ để mọi bộ cán bộ, đảng viên có thể tham gia bàn bạc đến nơi đến chốn những
vấn đề hệ trọng của Đảng; phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân với bao nhiêu thứ tệ nạn từ chủ nghĩa cá nhân mà ra,
như: tham ơ, lãng phí, quan liêu, bè cánh, cơ hội, dối trá, chạy theo chức, quyền,
danh, lợi...
Tư tưởng và những chỉ dẫn quý báu của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt
Nam và xây dựng Đảng cầm quyền, là đường hướng, phương châm khoa học,
cách mạng, để Đảng và Nhân dân ta xây dựng Đảng của mình trở thành Đảng
cách mạng chân chính, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao,
đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi tới thành công. Trong xu thế mới của đất
nước và thời đại đặt ra cho vai trò lãnh đạo của Đảng những nhiệm vụ mới. Đó


là lãnh đạo nhân dân thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, trong điều kiện
nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN. Đây vừa là điều kiện thuận lợi
nhưng cũng đầy khó khăn thách thức đối với sự lãnh đạo của Đảng. Hơn lúc nào
hết, chúng ta phải vận dụng sáng tạo và giữ vững những nguyên tắc trong tư

tưởng của Người về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.

 Bản chất giai cấp công nhân

+ Trước hết đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin làm nền tảng tư tưởng, làm kim
chỉ nam cho mọi hoạt động của mình.
+ Bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng cịn thể hiên trong mục tiêu của Đảng:
Biểu hiện bản chất giai cấp công nhân của Đảng trước hết rõ nhất cụ thể nhất là
Đảng ta thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vì chỉ
có giai cấp cơng nhân mới có thể “đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng
lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”.
Trong “Điều lệ tóm tắt” của Đảng Cộng sản Việt Nam được thơng qua tại Hội
nghị hợp nhất 3 Đảng năm 1930 đã nêu: Đảng là đội tiên phong của đạo quân
vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực
lãnh đạo quần chúng.
Đại hội II của Đảng năm 1951 đã khẳng định “Đảng Lao động Việt Nam là
Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và nhân dân lao động Việt Nam. Mục
đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân của Đảng tiến lên chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam”. Như
vậy khi nói Đảng vừa là Đảng của giai cấp công nhân vừa là Đảng của cả dân


tộc khơng có nghĩa là xóa nhịa đi bản chất giai cấp của Đảng, nếu hiểu như vậy
thì khơng đúng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặc dù Đảng có nhiều tên gọi khác
nhau qua từng thời kì thì bản chất của Đảng vẫn là duy nhất theo tư tưởng của
Người: “Đảng Cộng sản Việt Nam luôn mang bản chất của giai cấp công nhân.”
Đảng mang bản chất của giai cấp cơng nhân cịn được thể hiện ở ngun tắc tổ
chức, xây dựng và hoạt động của Đảng: Về bản chất, Đảng Lao động Việt Nam
mang bản chất công nhân, là đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp công nhân,

vì Đảng Lao động Việt Nam có đủ những tính chất căn bản của một Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin làm nền tảng tư
tưởng; Đảng lấy dân chủ tập trung làm nguyên tắc tổ chức; Đảng lấy phê bình
và tự phê bình làm quy luật phát triển. Đảng cộng sản Việt Nam - chính đảng
của giai cấp cơng nhân Việt Nam ra đời mang bản chất giai cấp công nhân, là
lãnh tụ chính trị, đội tiên phong của giai cấp cơng nhân Việt Nam. Do đó, lợi ích
của Đảng trước hết đại biểu cho lợi ích của giai cấp cơng nhân và lợi ích của các
tầng lớp nhân dân lao động, lợi ích của tồn dân tộc. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử
của ĐCS Việt Nam là do thời đại, giai cấp và dân tộc quyết định

Câu 2. (5 điểm)Trình bày nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đồn kết dân tộc. Đảng đã lãnh đạo dân tộc và nhân
dân ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng khối đại
đồn kết trong giai đoạn hiện nay như thế nào.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
A, Vai trị của đại đoàn kết toàn dân tộc:
 Đại đoàn kết tồn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành
công của cách mạng:


- Đại đoàn kết toàn dân tộc là chiến lược lâu dài, nhất quán của cách mạng Việt
Nam.
- Chủ trương đại đồn kết tồn dân tộc ln ln khơng thay đổi trong các giai
đoạn cách mạng vì đó là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng.
- Từ thực tiễn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Đồn kết là một lực lượng vơ địch của chúng ta để khắc phục khó khăn,
giành lấy thắng lợi”, “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành cơng”;
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết/ Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”.
b. Đại đồn kết toàn dân tộc dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng Việt Nam:

- Đảng là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; đại đoàn kết toàn dân tộc
phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng; đại đoàn kết phải được
quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối, chủ trương, chính sách, tới
hoạt động thực tiễn của Đảng.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng; đại
đồn kết là u cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi khách quan
của quần chúng nhân dân.
- Đảng phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn quần chúng => tạo
thành khối đại đoàn kết; tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng.
B, Lực lượng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
 Chủ thể của khối đại đoàn kết tồn dân tộc:
- Gồm tồn thể nhân dân mà khơng phân biệt dân tộc, giai cấp, tầng lớp, lứa
tuổi, dân tộc, tơn giáo, đảng phái… tất cả những ai “có tài, có đức, có sức, có
lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”.
- Phải giải quyết hài hòa các mối quan hệ để khơng bỏ sót bất kỳ lực lượng nào
miễn là có lịng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không phản bội lại
quyền lợi của nhân dân.
 Nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc:


- Lực lượng làm nền tảng cho khối đại đoàn kết tồn dân tộc là cơng nhân, nơng
dân, trí thức.
- Hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là sự đoàn kết và thống nhất trong
Đảng.
C, Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc:
- Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết của dân tộc.
- Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người.
- Phải có niềm tin vào nhân dân.
D, Hình thức tổ chức của khối đại đồn kết toàn dân tộc – Mặt trận dân
tộc thống nhất:

 Mặt trận dân tộc thống nhất:
- Hồ Chí Minh rất chú trọng đến việc tập hợp quần chúng nhân dân vào những
tổ chức yêu nước phù hợp như đoàn thanh niên, hội phụ nữ, phội Phật giáo cứu
quốc, đội thiếu niên nhi đồng, v.v. trong đó bao trùm là Mặt trận dân tộc thống
nhất.
- Tùy từng thời kỳ và căn cứ vào nhiệm vụ của từng chặng đường cách mạng,
Mặt trận dân tộc thống nhất có những tên gọi khác nhau (Hội phản đế đồng
minh (1930), Mặt trận dân chủ (1936), Mặt trận nhân dân phản đế (1939), Mặt
trận Việt Minh (1941), Mặt trận Liên Việt (1951), v.v.), tuy nhiên thực chất chỉ
là một, đó là tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai cấp,
tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong
và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của
Tổ quốc, và tự do, hạnh phúc của nhân dân.
 Nguyên tắc xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất:
- Một là: Phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nhân – nơng dân –
trí thức và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Hai là: Phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân.
- Ba là: Phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.


- Bốn là: Phải đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
 Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân tộc:
- Một là, làm tốt cơng tác vận động quần chúng (Dân vận).
- Hai là, thành lập đoàn thể, tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng để
tập hợp quần chúng.
- Ba là, các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt
trận dân tộc thống nhất.
2. Đảng đã lãnh đạo dân tộc và nhân dân ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh để xây dựng khối đại đồn kết trong giai đoạn hiện nay như thế nào.

Đảng ta chủ trương tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh
đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa
bình, độc lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt
không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc”; Đề cao tinh thần dân tộc,
truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người
Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân
với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
a. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hịa quan hệ
lợi ích giữa các thành viên trong xã hội
Đại hội XII xác định: “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân
dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo
đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của công cuộc đổi


mới. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
đều vì lợi ích của nhân dân” .
b. Chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội nhằm phát huy sức mạnh
đại đoàn kết tồn dân tộc
Đối với giai cấp cơng nhân, “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát
triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính
trị, trình độ học vấn, chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp,
kỷ luật lao động của công nhân”.
Bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, nhà ở, các
cơng trình phúc lợi phục vụ cho công nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách,
pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,
để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân.
Củng cố, phát huy vai trị của tổ chức cơng đồn trong việc đại diện, bảo vệ

quyền lợi, lợi ích hợp pháp của cơng đồn viên, người lao động.
Đối với giai cấp nông dân: “Xây dựng, phát huy vai trị của giai cấp nơng dân,
chủ thể của q trình phát triển nơng nghiệp, xây dựng nơng thơn mới. Hỗ trợ,
khuyến khích nơng dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và
ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân
chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ”.
Nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất
lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo dục, thông tin,
cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nơng thơn; thực hiện có hiệu quả, bền
vững cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp.


Đối với đội ngũ trí thức: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự
do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo”. Trọng dụng trí thức trên cơ
sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ, đãi ngộ và tơn vinh xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có cơ
chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư
vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong
việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Đối với đội ngũ doanh nhân: “Xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân lớn
mạnh cả về số lượng và chất lượng, có trình độ quản lý, kinh doanh giỏi, có đạo
đức nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao”. Phát huy tiềm năng và vai trị tích
cực, sáng tạo của đội ngũ doanh nhân. Có cơ chế, chính sách bảo đảm quyền lợi
của đội ngũ doanh nhân. Tôn vinh những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự
nghiệp phát triển đất nước.
c. Chính sách với đồng bào, các giới và lứa tuổi nhằm phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc
Đối với thế hệ trẻ: “Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng,

lý tưởng, truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước, xây dựng
đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ”. Có cơ chế, chính sách phù hợp tạo môi
trường, điều kiện thuận lợi cho thế hệ trẻ học tập, nghiên cứu, lao động, giải trí,
phát triển trí tuệ, kỹ năng, thể lực. Khuyến khích, cổ vũ thanh niên ni dưỡng
ước mơ, hồi bão, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại.
Phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thu


hút rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi đồng tham gia các tổ chức do Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm nịng cốt và phụ trách.
Đối với phụ nữ: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần
của phụ nữ; thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài
năng”. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện luật pháp và chính sách đối với lao
động nữ, tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ thực hiện tốt vai trị và trách nhiệm
của mình trong gia đình và xã hội. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội
và xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại
nhân phẩm phụ nữ.
Đối với đội ngũ cựu chiến binh: “Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo
điều kiện, đồng thời động viên cựu chiến binh tích cực tham gia xây dựng và
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giúp nhau làm
kinh tế, cải thiện đời sống; tích cực tham gia giáo dục lịng u nước, yêu chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ”. Tích cực tham
gia đấu tranh phịng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm và các tệ
nạn xã hội; góp phần xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, xây dựng Đảng,
chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Đối với người cao tuổi: “Quan tâm chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện để người
cao tuổi hưởng thụ văn hóa, tiếp cận thơng tin, sống vui, sống khỏe, sống hạnh
phúc”. Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi
trong xã hội và gia đình. Tiếp tục xây dựng gia đình “ơng bà, cha mẹ mẫu mực,

con cháu thảo hiền, vợ chồng hịa thuận, anh chị em đồn kết, thương yêu
nhau”; giúp đỡ người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa.
Đối với đồng bào dân tộc ít người: “Đồn kết các dân tộc có vị trí chiến lược
trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính


sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tơn trọng, đồn kết, giải quyết hài hịa
quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, vùng có đơng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất
là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây duyên hải miền Trung”.
Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo
xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong
cộng đồng các dân tộc. Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực
hiện các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các cấp.
Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đối với đồng bào tơn giáo: “Tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật về tín
ngưỡng, tơn giáo, phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tơn
giáo”. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến
chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy
định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước. Đồng thời chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi
lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đồn kết dân tộc hoặc
những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật.
Đối với người Việt Nam ở nước ngoài: “Nhà nước hoàn thiện cơ chế, chính sách
để hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, phát triển
kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân
các nước; được bảo hộ tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích chính đáng; tạo
điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; có cơ chế,
chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ

đất nước”



×