Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

vấn đề stress của công nhân ở một số khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 111 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH






ĐÀO THỊ DUY DUYÊN





VẤN ĐỀ STRESS CỦA CÔNG NHÂN Ở MỘT
SỐ KHU CHẾ XUẤT, KHU CÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



Chuyên ngành : Tâm lý học
Mã số: 60 31 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH PHƯƠNG DUY











Thành phố Hồ Chí Minh - 2010

THƯ
VIỆN
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tôi. Các số liệu và
kết quả nghiên cứu là trung thực.
Đào Thị Duy Duyên























LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Đinh Phương Duy đã tận tình hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý
báu cho đề tài và đã luôn động viên tôi cố gắng hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin cảm ơn các Thầy Cô đã giảng dạy lớp Cao học Tâm lý học khóa 18 (2007 -2010) tại
trường ĐHSP TPHCM đã cung cấp cho tôi những kiến thức chuyên môn và kĩ năng nghiên cứu khoa học làm
cơ sở cho tôi hòan thành luận văn này.
Xin cảm ơn các anh/chị công nhân, các cán bộ quản lý đã nhiệt tình cung cấp cho tôi những thông tin
và số liệu quý báu giúp đề tài có được những kết quả chính xác và thực tế nhất.
Xin cảm ơn các bạn trong nhóm cộng tác viên đã đồng hành cùng tôi trong suốt giai đoạn thu thập số
liệu cho đề tài.
Xin cảm ơn các cán bộ , nhân viên công tác tại phòng Khoa học, công nghệ và sau đại học
Xin cảm ơn các Thầy trong hội đồng bảo vệ đề cương đã đóng góp những ý kiến định hướng nghiên cứu
cho tôi trong đề tài này.

Đào Thị Duy Duyên



























DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ đầy đủ
CN Công nhân
KCX – KCN Khu chế xuất – Khu công nghiệp
ĐTB Điểm trung bình
TX Thường xuyên
TT Thỉnh thoảng
KC Không có
SD Độ lệch chuẩn

Sig Mức ý nghĩa với hệ số tin cậy 95%
α=0.05
SL Số lượng
% Tỷ lệ phần trăm
















MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử loài người đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, ở mỗi giai đoạn phát triển, con
người đều phải đối mặt với rất nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp nảy sinh trong cuộc sống, do đó con
người đều có nguy cơ bị stress. Nhiều nhà nghiên cứu về stress cho rằng xã hội càng phát triển, càng hiện
đại thì nguy cơ bị stress của con người ngày càng cao, đặc biệt trong xã h
ội mà chúng ta đang sống ngày
nay. Với sự phát triển của thời đại công nghiệp, bên cạnh việc nó làm cho điều kiện sống của con người
ngày càng tốt hơn thì mặt khác nó lại làm phát sinh rất nhiều những hệ lụy tiêu cực, trở thành những tác
nhân gây stress cho con người nhiều hơn. Xã hội càng hiện đại, nhịp sống ngày càng khẩn trương, gấp

gáp và đặt ra yêu cầu cao hơn ở con người, như Alvin Toffler đã chỉ
ra rằng những biến động xã hội
mạnh mẽ mau lẹ và liên tục là những tác nhân gây stress thời hiện đại [ 31, tr.232], tác động tâm lý của
sự biến động này gây ra tâm trạng mơ hồ và lo hãi có chiều hướng gia tăng. Khi xã hội có nhiều thay đổi,
con người phải trải nghiệm nhiều sức ép nếu bản thân không kiềm chế được thay đổi hoặc bị thay đổi áp
đặt từ bên ngoài, một khi cá nhân cảm thấy mất khả
năng kiềm chế và mất khả năng đoán trước được các
sự kiện thì sẽ gây ra căng thẳng và khi những sự thay đổi diễn ra với tốc độ quá nhanh cũng sẽ làm cho
con người cảm thấy bối rối vì nó vượt quá năng lực thích ứng của bản thân [31, tr.238].
Thật vậy, trong những năm gần đây stress là một vấn đề trở nên phổ biến trong đời số
ng xã hội, hầu
hết mọi người đã quen thuộc với thuật ngữ stress, stress có mặt trong mọi biến cố của cuộc sống, stress
xuất hiện ở mọi nơi, mọi hoàn cảnh sống của con người…Theo thống kê của tổ chức tư vấn doanh
nghiệp Grant Thornton International có trụ sở tại Anh, mức độ stress của các chủ doanh nghiệp trên
khắp thế giới đã tăng 57% vào năm 2006 so v
ới 39% hồi năm 2005 [70]. Một cuộc nghiên cứu khác
của các nhà xã hội học Anh nghiên cứu trên 6000 người từ 18 tuổi trở lên cho thấy có 63% phụ nữ bị
stress và 51 % nam bị stress [72]. Ngoài ra, kết quả khảo sát đánh giá stress ở Việt Nam do công ty
Hoffmann – La Roche thực hiện trong thời gian 2 tháng ( 8-10/2003) với 834 người cũng cho thấy tỷ lệ
bị stress bình quân ở nước ta là 52% [75]. Stress trong việc làm là vấn đề mà hầu hết mọi CN đều
vướng mắc không nhiều thì ít. Thống kê của hãng b
ảo hiểm Northwestern National Life cho thấy tới
40% CN than phiền bị stress trong công việc. Kết quả theo dõi của đại học Yale cho hay 29% CN bị
stress khá nặng vì công việc.
Các kết quả khảo sát trên cho thấy tỷ lệ người bị stress đang ngày càng gia tăng đáng kể trong xã
hội hiện nay. Stress có thể xảy ra với bất cứ ai, ở mọi lứa tuổi, mọi giới, mọi ngành nghề khác nhau,
không chỉ trên thế giới, mà ở nước ta số ng
ười bị stress cũng khá cao.
Nước ta đang trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên xã hội còn rất nhiều khó khăn phức
tạp và có nhiều vấn đề nảy sinh nên con người luôn đứng trước nguy cơ bị stress. Trong những năm

gần đây, tại TPHCM ngày càng có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất được thành lập đã thu hút rất
nhiều CN từ khắp mọi miền đất nước tập trung đến để làm việc trong các nhà máy, xí nghi
ệp, doanh
nghiệp. Có thể nói trong giai đoạn nước ta đang chú trọng phát triển công nghiệp như hiện nay thì CN
là một lực lượng lao động rất quan trọng góp phần vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội. Tuy
nhiên, một thực tế cho thấy rằng đời sống CN đang còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn cả về vật
chất lẫn tinh thần bởi đa số họ là những người xuất thân từ nông dân, trình độ văn hóa không cao, và
chủ yếu là dân nhập cư phải sống xa gia đình, xa quê hương, đời sống kinh tế thấp …,chính những khó
khăn thiếu thốn ấy lại càng làm cho CN có nguy cơ
bị stress cao hơn, họ không chỉ có nguy có bị stress
trong công việc mà cả những áp lực, thách thức, khó khăn do cuộc sống thời đại hiện nay mang lại
cũng rất dễ làm cho CN bị stress. Một khi bị stress và không biết cách ứng phó thì stress sẽ ảnh hưởng
rất nhiều đến hiệu quả lao động của CN và sẽ gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Do đó, việc quan tâm
đến đời sống tinh thần của CN, đặ
c biệt là tình trạng stress của CN hiện nay để có những biện pháp hỗ
trợ kịp thời nhằm giúp giải tỏa stress là một việc làm rất cần thiết của mỗi doanh nghiệp nói riêng và
của xã hội nói chung.
Khi đứng trước những tác nhân gây stress nếu mỗi người được trang bị những kĩ năng ứng phó và
giải tỏa stress thì stress sẽ không phải là mối đe dọa to lớn nhưng ngược lại nếu không có s
ự hiểu biết
về stress, không có đủ khả năng để tự mình ứng phó với stress mà lại không nhận được sự hỗ trợ từ bên
ngoài thì khi đó stress sẽ là một mối đe dọa cho đời sống của mỗi người. Như đã nói, đặc điểm CN
đang làm việc tại TPHCM đa phần là có trình độ thấp, đời sống vật chất khó khăn, đời sống tin thần
thi
ếu thốn, việc tiếp cận thông tin còn nhiều hạn chế nên có thể nói những hiểu biết về stress và những
kĩ năng ứng phó, ngăn ngừa stress cũng ít nhiều còn hạn hẹp nên CN ắt hẳn rất cần đến sự hỗ trợ từ
phía xã hội, từ doanh nhiệp…để giúp họ đối diện, vượt qua stress một cách dễ dàng. Cho nên, việc tìm
hiểu nhu cầu của CN để có sự đáp
ứng kịp thời là một việc khẩn thiết và có ý nghĩa to lớn.
Chính thực tế cho thấy stress đang ngày càng phổ biến trong xã hội nên trong những năm gần đây

đã có nhiều công trình nghiên cứu về stress ở nước ta ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có ngành tâm
lý học. Các nhà tâm lý cũng đã bắt đầu nghiên cứu về stress trong lĩnh vực lao động, kỹ thuật, quản lý,
stress ở từng lứa tuổi. Một s
ố đề tài luận văn cao học tâm lý học cũng đã bắt đầu nghiên cứu stress ở tuổi
trung niên, stress ở học sinh, sinh viên, stress ở người trưởng thành và một vài khóa luận tốt nghiệp đã
bước dầu nghiên cứu về stress nghề nghiệp ở CN…nhưng riêng đối với vấn đề stress nói chung ở CN và
nhu cầu của họ về sự hỗ trợ từ bên ngoài để giúp ngăn ngừa và ứng phó với stress là m
ột vấn đề chưa
được nghiên cứu sâu ở một công trình nghiên cứu khoa học nào. Hơn thế nữa, đa phần những khách thể
nghiên cứu trong đề tài nghiên cứu chuyên ngành tâm lý học nước ta chưa chú trọng đến CN, một lực
lượng lao động khá đông và quan trọng của xã hội, cho nên việc nghiên cứu những vấn đề tâm lý trên
khách thể này là một hướng đi mới và rất cần thiết, góp phần làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu
trong chuyên ngành tâm lý học nước ta và trên cơ sở đó mang lại những lợi ích thiết thực cho CN về mặt
đời sống tinh thần.
Với những lý do đã trình bày, người nghiên cứu quyết định thực hiện đề tài “ Vấn đề stress của
công nhân ở một số khu chế xuất, khu công nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh” nhằm tìm hiểu thực
trạng stress của CN về mặt lý luận và thực tiễn, cũng như
nhu cầu của CN về sự hỗ trợ xã hội trong
việc giải tỏa stress, qua đó thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đến vấn đề
stress của CN để góp phần nâng cao chất lượng đời sống tâm lý, tinh thần cho họ.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một cách khái quát vấn đề stress ở CN về mặt lý luận, thực tiễn, đồng thời khảo sát
nhu cầu của CN về sự hỗ trợ xã hội trong việc ngăn ngừa và ứng phó với stress. Trên cơ sở đó đề xuất
với các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội có những biện pháp cụ thể giúp CN ứng phó với stress và
nâng cao chất lượng cuộc sống về mặt tinh thần.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
400 CN đang trực tiếp làm việc tại khu chế xuất Tân Thuận, khu công nghiệp Tân Tạo, khu công
nghiệp Vĩnh Lộc trên địa bàn TPHCM

7 cán bộ quản lý trực tiếp và gần gũi CN
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Stress ở CN, nhu cầu hỗ trợ xã hội và các giải pháp từ sự hỗ trợ xã hội trong việc giúp CN ngăn
ngừa và ứng phó với stress
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu stress của CN trực tiếp lao động sản xuất trong các dây chuyền
và cơ sở sản xuất
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận về stress nói chung và stress ở CN
5.2 Khảo sát thực trạng hiểu biết về stress của CN, mức độ stress, những biểu hiện stress , nguyên
nhân gây stress , cách ứng phó của CN với stress.
5.3 Khảo sát nhu cầu của CN về sự hỗ trợ xã hội trong việc giúp họ ứng phó với stress
5.4 Đề xuất những biện pháp từ sự hỗ trợ xã hội để giảm stress cho CN
6 . Giả thuyết nghiên cứu
6.1 Đa số CN đang làm việc ở các khu chế xuất, khu công nghiệp tại TPHCM chưa có hiểu biết đầy
đủ về stress và họ bị stress biểu hiện ở các mức độ khác nhau, tập trung ở mức độ thỉnh thoảng bị
stress. Có nhiều nguyên nhân gây ra stress, trong đó những yếu tố về đời sống vật chất, tình cảm, công
việc ảnh hưởng nhiều tới mức độ stress của CN. Stress tác độ
ng tiêu cực đến hiệu quả lao động và đời
sống của CN thể hiện qua những biểu hiện khi bị stress. Mặc dù CN đã có một số cách thức cụ thể để
ứng phó với stress nhưng họ vẫn có nhu cầu rất lớn về sự hỗ trợ xã hội để giúp ngăn ngừa và ứng phó
với stress.
6.2 Có sự khác biệt giữa các nhóm khách thể về mức độ của stress, sự
hiểu biết về stress .
7 . Phương pháp nghiên cứu
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích và tổng hợp tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài gồm các vấn đề liên quan đến
stress nói chung và stress ở CN
7.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi

- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình ( case study)
- Phương pháp xử lý toán thống kê bằng phần mềm SPSS: tần số, trung bình, kiểm nghiệm Anova,
kiểm nghiệm T….
8 . Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
8.1 Ý nghĩa khoa học
Khái quát và hệ thống hóa những lý luận về stress dưới góc độ tâm lý học nói chung và stress ở
CN nói riêng. Góp phần làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu của chuyên ngành tâm lý học bằng
việc mở rộng nghiên cứu các vấn đề tâm lý, cụ thể là stress trên khách thể nghiên cứu là CN – một lực
lượng lao động quan trọng trong xã hội nhưng vẫn chưa được nhiều người quan tâm nghiên cứu.
8.2 Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cung c
ấp những kết quả thực tế những hiểu biết của CN về stress, thực trạng stress ở
CN, những nguyên nhân và ảnh hưởng của stress đến hiệu quả lao động và chất lượng cuộc sống của
CN, một số cách CN thường sử dụng để ứng phó với stress và hiệu quả của các biện pháp đó. Ngoài ra
còn giúp chúng ta thấy được nhu cầu hiện nay của CN về sự trợ giúp xã hội trong vi
ệc giúp ngăn ngừa
và ứng phó với stress một cách hiệu quả.
Từ những kết quả nghiên cứu trên, các nhà quản lý doanh nghiệp, các tổ chức xã hội như công
đoàn, trung tâm hỗ trợ thanh niên CN, quỹ hỗ trợ CN sẽ nắm bắt được thực trạng stress hiện nay của
CN và nhu cầu cần được hỗ trợ của CN thế nào để có những biện pháp hỗ trợ cụ thể nhằm ngăn ng
ừa
và giảm thiểu tình trạng stress cho CN về lâu dài, việc làm này một mặt thể hiện sự quan tâm của
doanh nghiệp, của đoàn thể xã hội đến CN, mặt khác làm cho hiệu quả kinh tế không ngừng được nâng
cao vì khi CN được quan tâm đến sức khỏe và cải thiện tình trạng stress kịp thời thì họ mới chuyên tâm
lao động, không để stress ảnh hưởng đến công việc.
Bên cạnh đó, kết quả của luận văn c
ũng cung cấp những số liệu cần thiết làm cơ sở cho các nhà
tâm lý học đề xuất xây dựng và đưa vào hoạt động mô hình tham vấn stress cho CN trực tiếp tại các
doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, khu chế xuất ở TPHCM, đây sẽ là một cơ hội việc làm rất

tiềm năng cho những người tốt nghiệp ngành tâm lý học hiện nay.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề stress và stress ở CN
1.1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề stress trên thế giới
Khi con người xuất hiện thì lúc đó stress cũng đã tồn tại trong cuộc sống của con người, tuy
nhiên người ta chưa nhận thức rõ ràng về những hiện tượng mà sau này được nhiều nhà khoa học gọi là
stress mà chỉ nghiên cứu nhiều khía cạnh của stress dưới những thuật ngữ khác nhau và chưa mang
tính hệ thống. Stress thật sự được quan tâm nghiên cứu một cách khoa h
ọc bắt đầu từ thế kỉ 17 bởi
Hooke với thuyết “Engineering Analogy” ( tương đồng cấu trúc) trong lĩnh vực kiến trúc xây dựng.
Hooke đã đưa ra các thuật ngữ “load” khối nặng đè lên cấu trúc, “stress “ phần bị khối nặng đè lên và
“strain” sự thay đổi hình dạng do tương tác giữa khối nặng và stress. Những khái niệm này có nhiều
nét tương đồng với những khái niệm liên quan đến stress tâm sinh lý về sau này : stress là những yêu
c
ầu bên ngoài đặt lên hệ tâm sinh lý xã hội [45,tr1]
Sau đó, stress được nhiều nhà sinh lý học quan tâm nghiên cứu: Ảnh hưởng sinh học của sự sợ
hãi được Luis Juan Vives miêu tả từ nhiều thế kỷ trước. Cơ sở cho hiểu biết của chúng ta về khái niệm
stress đã được nghiên cứu hơn một thế kỷ trước đây bởi nhà khoa học người Pháp Claude Bernard.
Ông là người đầu tiên nhận ra làm thế nào cơ thể nỗ lự
c để duy trì một trạng thái tương đối cố định bên
trong cơ thể trong một môi trường luôn thay đổi (Bernard, 1878)
Năm 1911, Walter Bradford, một sinh học gia Hoa Kỳ đã nhận thấy kích thích tố nang thượng
thận gia tăng khi cơ thể bị xúc động mạnh [64], những phát hiện này làm tiền đề cho những nghiên cứu
về mối liên hệ giữa stress và sức khỏe sau này.
Walter Cannon (1927) là nhà nghiên cứu đầu tiên mô tả một cách khái quát một phản ứ
ng đối
với sự đe dọa mà ông gọi là phản ứng “chống hoặc chạy” (fight or flight), mỗi khi các loài vật đối mặt
với kẻ săn mồi, chúng phải quyết định chống cự hay chạy trốn. Trong cả hai tình huống này, nhịp tim
và huyết áp tăng cao, tăng nhịp thở, tăng hoạt động cơ bắp. Thị lực và thính lực hoạt động mạnh hơn

để
đạt được hiểu qua tốt hơn. Theo ông, đây là một phản ứng được “cài đặt sẵn” về mặt sinh học, cho
phép mỗi sinh vật có thể ứng phó với những tác nhân gây đe dọa từ môi trường bên ngoài [10], [84] .
Kết quả nghiên cứu của Cannon được vận dụng trong những nghiên cứu về những chiến lược ứng phó
stress của con người sau này, hoặc là đối diện để giải quyết tác nhân gây stress hoặc là né tránh chúng.
Hans Hugo Bruno Selye, là người đã phổ biến từ ngữ stress trong công chúng khi ông phát hành
cuốn “The Stress of Life” vào năm 1956, và cũng là một người nghiên cứu rất nhiều về stress để rồi
những quan điểm của ông trở thành những luận điểm cơ bản, nền móng cho những nghiên cứu khoa
học về stress. Ông cho rằng bất cứ sự kiện nào đòi hỏi sự thích ứng đều làm khởi phát các đáp ứng sinh
lý đặc trưng cho stress, nh
ững đáp ứng này cũng có tính không đặc hiệu; các loại sự kiện gây stress
khác nhau đều dẫn đến những biến đổi tương tự nhau. Và gọi quá trình đáp ứng này là “hội chứng
thích nghi chung” (General Adaptation Syndrome - GAS) [64]. GAS ngụ ý chỉ những hoạt động thần
kinh và nội tiết cho phép cơ thể sinh vật chống lại những kích thích sinh lý có hại. GAS được chia làm
ba giai đoạn: báo động , kháng cự và kiệt quệ (exhaustion)[15],[84]. Mô hình GAS mặc dù có hạn chế
là chỉ mới đề cập đến yếu tố sinh lý, chưa đề cập đến yếu tố tâm lý những nó được xem là cơ sở hiểu
biết của chúng ta về stress . Selye còn tiếp tục những nghiên cứu của ông về stress với hàng trăm trang
luận cứ khoa học và 39 cuốn sách. [8], [52]
Một đi
ểm giống nhau trong lý thuyết của Selye và Cannon là sự xuất hiện các đáp ứng “chống
hoặc chạy” và GAS tùy thuộc vào sự nhận biết của sinh vật về các kích thích có hại và việc diễn giải các
kích thích này là có tính đe dọa hoặc có hại cho chúng hay không. Bổ sung thêm vào luận điểm này
Syrington, Currie, Curran, Davidson, (1955) và Mason (1975) đã thừa nhận: “khi các kích thích có hại
xảy đến mà không có sự nhận biết của đương sự, các đáp ứng sinh học sẽ
không xảy ra”. Đồng thời sự
xuất hiện phản ứng “chống hoặc chạy” và GAS phụ thuộc vào khả năng tiên đoán và kiểm soát các sự
kiện có hại. [84]. Đồng quan niệm với luận điểm này, một loạt nghiên cứu của Weiss (1968,1971) trên
chuột cũng đã cho thấy tầm quan trọng của những khả năng tiên đoán và kiểm soát đối với những sự kiện
đ
e dọa, và mối quan hệ giữa nó với bệnh loét dạ dày. Những phát hiện của Weiss cho thấy một sự kiện

đe dọa sẽ ít gây ra những hậu quả tai hại nếu chúng ta biết được khi nào nó sẽ xảy ra, nếu chúng ta có thể
làm được một việc gì đó trước sự kiện ấy, và nếu chúng ta nhận được những phản hồi về hiệu quả của
hành động ấy. Tầm quan tr
ọng của khả năng tiên đoán và kiểm soát cũng được thấy trong các đáp ứng
của con người đối với những tác nhân gây stress (Rodin, 1980) [84]
Nhiều người nghiên cứu cho rằng những nghiên cứu dựa trên quan điểm stress là một đáp ứng
sinh lý có tính không đặc hiệu - các loại sự kiện gây stress khác nhau đều dẫn đến những biến đổi tương
tự nhau là quan điểm đúng nhưng chưa thật đầ
y đủ. Vì vậy họ nghiên cứu stress theo quan điểm stress
như một sự kiện từ môi trường - tất cả các sự thay đổi tích cực hoặc tiêu cực từ môi trường, cuộc sống
đều có tính chất gây stress và mỗi một sự kiện nhất định đều có tính chất gây stress như nhau với tất cả
mọi người. Các nghiên cứu thực hiện theo quan điểm môi trường đều có bản chất dịch t
ễ học: số lượng
và mức độ của các sự kiện gây stress sẽ có tính tiên lượng cho tình trạng sức khỏe của đương sự. [84].
Tuy nhiên, sau này quan điểm stress như một sự kiên từ môi trường được đánh giá là cũng có hạn chế
trong việc giải thích tại sao lại có những sự kiện gây stress cho người này nhưng không gây stress cho
người khác.
Vào những năm 1970 và 1980, nhiều nhà nghiên cứu đã công bố các chương trình nghiên cứu
thự
c nghiệm nhằm tìm ra mối liên hệ giữa thay đổi cuộc sống và đau ốm. Điển hình cho những cuộc
nghiên cứu này là cuộc nghiên cứu của Thomas Holmes và Richard Rahe (1967), họ đã thiết kế một
thang đo mức độ stress đi kèm với các sự kiện thường gắn với cuộc sống hằng ngày gọi là thang đo sự
kiện cuộc sống (SRE: schedule of recent events - gồm 43 sự kiện cuộc sống) để
tìm ra những tình huống
nào trong cuộc sống có khả năng gây stress nhiều nhất [31, tr 243]. Ngoài ra cuộc nghiên cứu này cũng
đưa ra kết luận càng tích lũy nhiều khủng hỏang trong cuộc sống thì con người càng dễ bị đau ốm trong
khỏang thời gian nào đó [31, tr 247], [84]
Việc ra đời của SRE được xem là một đóng góp rất có giá trị trong việc nghiên cứu nhiều vấn đề
liên quan đến stress . Sau này, nhiều nhà nghiên cứu khác đã ứng dụng thang đo s
ự kiện cuộc sống vào

những nghiên cứu của mình như Patrich và Holmes (1987) nghiên cứu tương quan giữa những sự kiện
cuộc sống với thời gian mắc các bệnh mãn tính, A.L Beautrais và cộng sự (1982) lọc ra 20 trong 43
items trong thang đo nói trên để nghiên cứu dọc trên 1082 trẻ em theo dõi từ mới đẻ đến 4 tuổi, kết quả
cho thấy gia đình nào có 12 biến cố trở lên thì số lần trẻ em của gia đình đó phải vào viện gấp 6 lần so
với nhóm gia đình ch
ỉ có 3 biến cố và các bệnh thường gặp là viêm phổi, tiêu chảy, tai nạn, bỏng, ngộ
độc. H.A Williamson (1989) dùng thang đo trên để theo dõi 513 phụ nữ mang thai để nghiên cứu liên
quan giữa biến cố cuộc sống với các biến cố lúc chưa sinh. [31, tr 248-249].
Một hướng nghiên cứu khác về stress là nghiên cứu mặt tích cực của stress : những người này
cho rằng, stress không thể thiếu trong cuộc sống mà “thiếu stress” vì thế cũng có thể gây ảnh hưởng
tiêu cự
c (Frankenhaeuser, 1978), Những người được bảo vệ tránh stress quá mức có lẽ có nguy cơ cao
bởi vì họ không thể phát triển được những kỹ năng ứng phó cần thiết trong đời sống hằng ngày
(Murphy, 1979). Stress có thể dẫn đến những hệ quả tích cực. Giải quyết thành công những đe dọa và
thách thức sẽ đưa đến những cảm xúc tích cực, tạo nên những cảm giác về tính hữu dụng của bả
n thân
và sức khỏe thể chất [84]
Nhìn chung, hiện nay trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về stress, có những nghiên cứu
thuần túy lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm, thực tiễn trên một đối tượng nhất định hoặc kết hợp cả
hai trên nhiều lĩnh vực riêng lẻ y học, sinh học, tâm lý học, xã hội học hoặc những nghiên cứu liên
ngành. Những kết quả nghiên cứu đó giúp cho con ngườ
i hiểu biết thêm về stress và có cách ngăn chặn
những tác động của nó khi mà xã hội hiện nay stress đang ngày càng trở nên phổ biến. Riêng đối với
lĩnh vực tâm lý học, tác giả L.A .Kitaepxmưx (1983) đã thống kê các sách báo khoa học nghiên cứu
stress bằng tiếng Anh và Đức từ năm 1976-1980 có trên 1000 tài liệu được công bố [27, tr12] , cho đến
nay thì con số đó đã tăng lên đáng kể, điển hình là chỉ bằng thao tác tìm kiếm trên công cụ Google với
t
ừ chính xác “psychology of stress” thì có 6.018 kết quả, với cụm từ “ psychology studies on stress “
thì có 1.180 kết quả , đó là chưa kể đến những nghiên cứu không đưa lên internet và những ngôn ngữ
khác…điều này cho thấy tâm lý học hiện nay đã quan tâm nghiên cứu rất nhiều về stress, và nhiều

trường đại học trên thế giới đã nghiên cứu và đưa stress vào nội dung giảng dạy cho sinh viên, có thể
khái quát những xu hướng nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu nội hàm của khái niệm stress dưới góc
độ tâm lý học : Gatchel & Baum (1983) R.S.
Lazarus and S. Folkman (1984), S. Palmer (1999), nhà tâm lý học Mc Grath, Robert S. Feldman
(1997), Stephen Worchel và Wayne Shebilsue, bác sĩ Eric Albert, nhà tâm lý học, người sáng lập Viện
nghiên cứu stress
- Nghiên cứu stress tâm lý : bao gồm những biểu hiện về mặt tâm lý khi bị stress và những ảnh
hưởng tâm lý của stress đối với cá nhân, những phương pháp,liệu pháp tâm lý giải tỏa stress, cách
phòng ngừa stress về mặt tâm lý v.v …điển hình như một số nghiên cứu của Weiss (1972), Lagone
(1981), [19]
- Nghiên cứu những tác nhân gây stress, phân loại chúng và những ảnh hưởng của những y
ếu tố
tâm lý cá nhân đến việc xuất hiện và duy trì stress, cũng như loại bỏ nó như loại nhân cách và stress,
ảnh hưởng của cảm xúc và quá trình nhận thức đến stress …Fleming, Baum & Singer (1984), Paterson
& Neufeld (1987), Lazaus &Cohen (1977), Folkman (1984), Rodin (1986), Taylor (1991) v.v…[52]
- Nghiên cứu những cách ứng phó, đương đầu với stress : Folkman & Lazarus (1980) , Adwin &
Revénon (1987), Compas (1987), Miller, Brody & Summerson (1988), Amirkhan (1990), Sarason
(1990) v.v…[52]
- Nghiên cứu ảnh hưởng của stress trong mối liên hệ với tâm lý học sức khỏe, bệnh tật và những
rối loạn tâm lý, tâm thể, tâm lý học thần kinh v.v…như Mason (1975), Selye (1976), Kiecolt-Glaser
&Glaser (1986), Schneiderman (1983), Brown (1984), Eckenrode (1984) v.v…[52] Năm 1977,
Caroline Bedell Thomas đã công bố kết quả nghiên cứu từ năm 1946-1977, những người thường ki
ềm
nén cảm xúc, che giấu các tình cảm mạnh, cả tiêu cực, lẫn tích cực trước tình huống khó thì dễ bị ung
thư. Bên cạnh đó, stress làm giảm hiệu quả của các loại vacxin, làm suy giảm hệ thống miễn dịch
(nghiên cứu của giáo sư Janice Kiecolt Glaser và tiến sĩ y học Ronald Glaser, tiến sỹ y học Sheldon
Cohen ). Tiến sĩ y học William Malarkeep còn cho thấy stress còn ảnh hưởng đến cả tuổi tác và tuổi
thọ. Philip Cowen và Walter Kaye (1989) nghiên cứu sự
tác động của stress với rối loạn tiêu hóa [8]

- Nghiên cứu stress trong các chuyên ngành của tâm lý như tâm lý học lao động (stress nghề
nghiệp), tâm lý học kỹ thuật, tâm lý học gia đình (stress gia đình), tâm lý học lứa tuổi, tâm lý học sư
phạm v.v, tâm lý học hành vi v.v hoặc nghiên cứu stress trên những đối tượng khác nhau (giáo viên,
bác sĩ, CN, phụ nữ, nam giới, sinh viên, nhà quản lý v. v…)
Tình hình nghiên cứu stress trên thế giới đã bắt đầu từ rất lâu và đang diễn ra rất phổ bi
ến nhưng
đối với Việt Nam, nghiên cứu về stress là một lĩnh vực còn khá mới mẻ, nhất là trong tâm lý học, stress
chỉ mới bắt đầu được nghiên cứu một cách khoa học trong mấy chục năm trở lại đây.
1.1.2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề stress và stress của CN ở Việt Nam
1.1.2.1. Những nghiên cứu mang tính lý luận
Hiện nay, ở Việt Nam stress vẫn chưa được nghiên cứu nhiều như nhữ
ng vấn đề khác, trong các
trường đại học có chuyên khoa tâm lý học vẫn chưa đưa stress vào nội dung giảng dạy chính thức nên
chưa có một hệ thống lý luận chung cho vấn đề stress, chủ yếu những kiến thức người học biết được về
stress tham khảo từ những cuốn sách, bài viết trên các phương tiện thông tin hoặc từ kết quả nghiên
cứu của những lĩnh vực khác.
Có thể nói, mộ
t trong những nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam về stress là của tác giả Tô Như
Khuê vào những năm 60 của thế kỉ XX, với những tác phẩm và bài viết liên quan đến stress trong lĩnh
vực quân sự, trong lao động , kỹ thuật , đời sống cụ thể như “phòng chống trạng thái căng thẳng
(stress ) trong đời sống và lao động” năm 1976, “đại cương tâm lý học kỹ thuật quân sự” năm 1980, “
cảm xúc và căng th
ẳng cảm xúc trong lao động” năm 1995, “ đại cương tâm sinh lý học lao động và
tâm lý học kỹ thuật” năm 1997.
Sau đó, có thêm một số cuốn sách viết về stress được xuất bản cung cấp những kiến thức khái
quát về stress như định nghĩa stress , dấu hiệu nhận biết stress, hậu quả của stress, cách ứng phó với
stress như tác phẩm “ stress trong thời đại văn minh” của Phạm Ngọc Rao và Nguyễn H
ữu Nghiêm đề
cập đến stress như là một hiện tượng phổ biến của xã hội hiện đại, mọi người đều có nguy cơ bị stress và
chịu tác hại của nó vì thế cần có những cách phòng ngừa và loại bỏ stress. Tác phẩm “ Stress và sức

khỏe”, “ Cơ sở tâm lý học ứng dụng”, hoặc “ Tâm lý học và đời sống” của Đặng Phương Kiệt, Nguyễn
Khắc Viện….cung cấp một hệ thố
ng lý luận về stress làm cơ sở tham khảo lý luận cho những người
nghiên cứu về stress ở Việt Nam sau này, nhưng chủ yếu những nội dung trong các sách này được tham
khảo và dịch từ những tác phẩm nước ngòai. Hơn nữa , hai ông còn có một số bài viết về vấn đề stress ở
trẻ em . Ngoài ra, tác giả Nguyễn Văn Nhận, Nguyễn Bá Dương, Nguyễn Sinh Phúc với tác phẩm “ tâm
lý học y học” đã chỉ rõ tác hại c
ủa stress tiêu cực với sức khỏe con người và cách phòng chống stress tiêu
cực [dẫn theo 27, tr17]; Nguyễn Công Khanh với tác phẩm “ tâm lý trị liệu” đóng góp những liệu pháp
tâm lý trong việc giải tỏa stress.
1.1.2.2 Những công trình nghiên cứu thực tiễn về stress
Trong những năm gần đây, stress đã bắt đầu được nghiên cứu dưới dạng những nghiên cứu
mang tính thực tiễn, như một công trình nghiên cứu khoa học nhiều hơn, làm phong phú thêm những
hiểu biết của chúng ta về stress. Nếu như trước đây, chúng ta chỉ thấy có một vài công trình nghiên cứu
cấp bộ về stress của Tô Như Khuê từ năm 1983 -1995 nghiên cứu stress của các bộ đội hoặc các
phương pháp phòng chống, giải tỏa stress như dùng võ thuật . Thì hiện nay, chúng ta đã có thêm những
nghiên cứu về stress qua các hội thảo khoa học “ Những rối loạn có liên quan đến stress ở trẻ em và
thanh thiếu niên” do Viện sức khỏe tâm thần thuộc bệnh viện Bạch Mai tổ chức (1997) đã nghiên cứu
vấn đề stress trên đối tượng trẻ em và thanh thiếu niên; Hội thảo Việt – Pháp về tâm lý học “ trẻ em,
văn hóa, giáo dục” (2000) tập hợp những nhà tâm lý học, xã hội học đầu ngành của Việt Nam và thế
giới để trao đổi về những nghiên cứu liên quan đến trẻ em, trong đó các tác giả Nguyễn Công Khanh
đã có bài báo cáo về những rối nhiễu liên quan đến stress qua các trường hợp trị liệu điển hình, và Lại
Thị Bưởi cùng cộng sự với cuộc nghiên cứu “Tìm hiểu stress về thay đổi môi trường sống thanh thiếu
niên dân tộc ít người tại trường phổ thông vùng cao Việt Bắc” đã nêu ra những nhân tố tâm lý do thay
đổi môi trường sống gây ra stress và các biểu hiện về mặt cơ thể, tâm lý khi bị stress
Bên cạnh đó còn có những nghiên cứu về stress được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như
Nguyễn Bá Đạt ( 2001) “ Ảnh hướng của stress đến kết quả thi học kì của sinh viên”, nghiên cứu biểu
hiện tâm sinh lý và kết quả học tập của những sinh viên bị stress trong kì thi. Phạm Thị Thanh Hương
(2004) “ một số biểu hiện và mức độ stress ở sinh viên trong học tập” nghiên cứu mức độ stress nói
chung và stress ở sinh viên đại học sư phạm hà nội trong học tập, các biểu hiện và thực trạng việc sử

dụng các biện pháp giảm stress có hại ở sinh viên; Phạm Thanh Bình (2007) “ stress trong học tập của
học sinh trung học phổ thông” nghiên cứu nhận thức của học sinh THPT về stress , mức độ và nguyên
nhân gây stress trong học tập của học sinh THPT; Nguyễn Hữu Thụ và Nguyễn Bá Đạt (2009) nghiên
cứu những nguyên nhân và cách ứng phó của sinh viên đại học quốc gia Hà Nội với stress trong học tập;
Lê Thị Thanh Thủy (2009) với bài “ stress trong học tập và cách ứng phó ở học sinh cuối cấp trung học
phổ thông” nghiên cứu mức độ , nguyên nhân gây stress trong học tập, ảnh hưởng của stress tới học tập,
cách ứng phó với stress của học sinh cuối cấp THPT.
Ngoài ra, đã có thêm những công trình nghiên cứu dưới hình thức luận văn, luận án cũng đã
chọn stress làm vấn đề nghiên cứu như Nguyễn Mai Anh (1991) với luận văn cử nhân tâm lý bước đầu
tìm hiểu “stress của sinh viên trong học tập” đã nghiên cứu ảnh hưởng của stress đến chất lượng bài
thi của sinh viên; Nguyễn Thành Khải (2001) với luận án tiến sĩ “ Nghiên cứu stress ở cán bộ quản lý”
nghiên cứu mức độ, biểu hiện, nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng tới stress và thựuc trạng sử dụng
các phương pháp làm giảm stress ở cán bộ quản lý, đây có thể được xem là công trình nghiên cứu đầu
tiên ở nước ta về vấn đề stress ở cán bộ quản lý và bổ sung thêm những lý thuyết về stress một cách hệ
thống; Nguyễn Thị Kim Quy (2004) với luận văn tốt nghịêp đại học “ Bước đầu tìm hiểu thực trạng
stress ở sinh viên trường Đại học Sư Phạm Tp.HCM” nghiên cứu thực trạng, ảnh hưởng tiêu cực của
stress đến việc học tập và ứng xử của sinh viên; Gần đây có một số luận văn thạc sĩ tâm lý học đã
nghiên cứu về vấn đề stress trên các đối tượng khác nhau như Trần Anh Thụ (2005) “ Nghiên cứu
stress ở những người tuổi trung niên” đã nghiên cứu mức độ, nguyên nhân gây stress, biểu hiện về mặt
tâm lý, các biện pháp ứng phó với stress và tương quan giữa nhận thức và stress, kiểm nghiệm 2 biện
pháp giảm stress là thiền của Phật giáo và cầu nguyện của Công giáo ; Lại Thế Luyện (2007) “ biểu
hiện stress trong sinh viên trường ĐHSP Kỹ thuật Tp.HCM” đã nghiên cứu những biểu hiện , nguyên
nhân và cách ứng phó của sinh viên với stress trong học tập và cuộc sống; Nguyễn Thị Hải (2008) với
luận văn thạc sĩ “ nghiên cứu stress ở người trưởng thành” nghiên cứu mức độ, biểu hiện, nguyên
nhân, hậu quả của stress ở người trưởng thành và chứng minh hiệu quả của yoga đến việc giải tỏa
stress.
1.1.2.3 Những công trình nghiên cứu thực tiễn về stress ở CN
Với đối tượng CN, hiện nay đã có một số nghiên cứu về stress trên đối tượng này nhưng chủ
yếu ở lĩnh vực y học và xã hội học, có thể kể đến các công trình sau:
Cuộc khảo sát từ dự án “Bạn gái với các vấn đề xã hội” của Trung tâm công tác xã hội thanh

thiếu niên (Trung ương Hội LHTNVN) phối hợp với Công ty Diana thực hiện trên 326 nữ CN làm việc
tại ba khu công nghiệp - khu chế xuất TP.HCM là Tân Thới Hiệp, Tân Bình và Linh Trung, có phần
nghiên cứu về tình trạng stress ở CN và những việc họ thường làm khi bị stress [60], [79], đề tài mang
tính một cuộc nghiên cứu xã hội về một số nội dung liên quan đến stress ở CN nữ mà không nghiên
cứu ở nam
Lê Thị Bưởi , “Nghiên cứu sức khoẻ tâm thần và các Stress ở CN ngành may mặc”. Nghiên cứu
trên 1066 CN may mặc nhằm đánh giá thực trạng sức khỏe tâm thần và các căng thẳng (stress) nghề
nghiệp, xác định các yếu tố nguy cơ gây stress. [61], đề tài này chỉ giới hạn nghiên cứu stress ở CN
may mặc .
Nguyễn Bạch Ngọc , “Stress nghề nghiệp và sức khoẻ tâm thần của người vận hành” nghiên
c
ứu 84 nam CN vận hành công trình ngầm, tuổi từ 22-43, thâm niên công tác từ 1 đến 15 năm. Các thử
nghiệm đối với CN đã được đo 3 lần trong 1 ca (ca sáng) vào các thời điểm trước khi vào cao, trước
khi nghỉ ăn trưa và trước khi tan ca. Kết quả làm test Zung và Beck của 41 sinh viên được dùng để làm
chứng[78]. Đề tài này cũng chỉ nghiên cứu CN làm việc ở công trình ngầm.
Qua những nghiên cứu trên có thể thấy nghiên cứu vấn đề stress ở CN không phải là một vấn đề
hoàn toàn mới mẻ ở nước ta mà nó đã được nghiên cứu bởi những nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh vực
khác như y tế và xã hội học, nhưng có sự giới hạn về đối tượng đa số là CN may, nữ CN hoặc các CN
trong những công trình ngầm và nội dung nghiên cứu thì thường nghiên cứu stress trong mối quan hệ vớ
i
những rối loạn tâm thần. Riêng đối với chuyên ngành tâm lý học, chúng tôi chỉ tìm thấy một nghiên cứu
về stress nghề nghiệp ở CN do Trịnh Thị Minh Dung thực hiện trong luận văn tốt nghiệp đại học chuyên
ngành tâm lý học “ Bước đầu tìm hiểu stress nghề nghịêp ở nữ CN một số công ty tại khu công nghịêp
Biên Hòa” (2005), chủ yếu nghiên cứu mức độ biểu hiện, nguyên nhân gây ra stress nghề nghiệp, những
ảnh h
ưởng về mặt tâm lý và cách ứng phó của nữ CN đối với stress nghề nghiệp. Đề tài này chỉ giới hạn
trên đối tượng nữ CN và vấn đề stress nghề nghiệp ở một khu công nghiệp tại Biên Hòa. Trong giới hạn
của mình chúng tôi chưa thấy một công trình nào nghiên cứu một cách khái quát vấn đề stress ở CN nói
chung đang làm việc ở các khu chế xuất, khu công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy có thể
thấ

y đây là một lĩnh vực nghiên cứu còn khá mới mẻ và bỏ ngõ chưa được quan tâm nhiều trong giai
đoạn hiện nay, do đó chúng tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Vấn đề stress của CN ở một số khu chế xuất,
khu công nghiệp trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh” để bổ sung thêm về mặt lý luận và thực tiễn trong việc
nghiên cứu vấn đề stress của CN ở nước ta nói chung và của chuyên ngành tâm lý học nói riêng.
1.2 Những lý luận chung về stress và stress ở CN
1.2.1 Một số khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Khái niệm stress
Khi nghiên cứu về stress, mỗi người nghiên cứu thường đưa ra một khái niệm về stress của mình,
do đó cho đến nay có rất nhiều khái niệm, cách hiểu khác nhau về stress, mỗi khái niệm đều đề cập đến
một hoặc vài khía cạnh, bình diện khác nhau của stress, nhưng tập trung lại có những cách hiểu sau về
stress :
Hướng thứ 1: xem stress là một tình trạng căng thẳng, chịu áp lực, sự mất cân bằng do nhiề
u
tác nhân gây ra
Theo nghĩa thông dụng: vào thế kỷ thứ 17, stress được dùng với nghĩa để chỉ một sức ép hay một
xâm phạm nào đó tác động vào con người gây ra phản ứng căng thẳng. Ngày nay stress là một thuật
ngữ được dùng rộng rãi để nói về sự căng thẳng cũng như những hậu quả và tác động của nó đến sức
khỏe con người [70].
Trong từ điển tâm lý học củ
a Nga, theo V.P.Dintrenko và B.G.Mesiriakova, “stress là trạng thái
căng thẳng về tâm lý xuất hiện ở người trong quá trình hoạt động ở những điều kiện phức tạp, khó
khăn của đời sống hằng ngày, cũng như trong những điều kiện đặc biệt [18, tr19]. Định nghĩa này nêu
ra được 2 khía cạnh là bản chất và nguồn gốc gây stress.
Trong Merriam-Webster Medical Dictionary thì danh từ stress chỉ “tình trạng căng thẳng thể lý
và tinh thần do những nhân t
ố làm thay đổi trạng thái cân bằng hiện tại” [45,16]. Định nghĩa này đề
cập thêm stress không chỉ là căng thẳng tinh thần mà còn căng thẳng thể lý và nêu lên khía cạnh thứ 3
của stress là ảnh hưởng của nó, làm thay đổi trạng thái cân bằng hiện tại.
Trong The American Heritage Dictionary of the English Language, stress là “một tình trạng gây
khó chịu hoặc gây thương tổn về cảm xúc, tinh thần, xảy ra khi cơ thể phản ứng lại những ảnh hưởng

trái ngược bên ngoài và có thể làm ảnh hưởng tới sức khỏe thể lý dễ nhận thấy qua các dấu hiệu: tim
đập nhanh, huyết áp cao, căng cơ, cảm giác khó chịu, và ưu phiền” [45,16]. Định nghĩa này chỉ ra cả 3
khía cạnh của stress , nhất là chỉ rõ nh
ững dấu hiệu của stress về mặt cảm xúc và thể lý.
Trong A Dictionary of psychology của Andrew M. Colman , stress là “căng thẳng thể lý và tâm lý phát
sinh do những tình huống, sự kiện, trải nghiệm khó có thể chịu đựng hoặc vượt qua như những biến cố nghề
nghiệp, kinh tế, xã hội, cảm xúc và thể lý” [45,17].
Theo từ điển Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên “ stress là một thuật ngữ có giới hạn rộng dùng để
chỉ
những trạng thái của con người xuất hiện do phản ứng với những tác động đa dạng từ bên ngoài ở các mức độ
sinh lý, tâm lý, hành vi [14, tr 241]
Theo J. Delay “ stress là một tình trạng căng thẳng cấp diễn ra của cơ thể bị bắt buộc phải điều động những
tổ chức phòng vệ của nó để đương đầu với một tình huống đe doạ” [15]
Theo S. Palmer (1999), Stress xu
ất hiện khi áp lực vượt quá khả năng thông thường của cá nhân
để ứng phó .
=> Các định nghĩa này giống nhau ở chỗ không chỉ ra ảnh hưởng của stress ra sao.
Theo Đặng Phương Kiệt, Nguyễn Khắc Viện “stress được định nghĩa là một lực vật lý hoặc tâm
lý mà khi tác động vào một hệ thống thì đủ tạo ra sự căng thẳng hay méo mó trong hệ thống hoặc nếu
rất mạnh thì làm hỏng hệ
thống đó” .
Nguyễn Công Khanh hiểu “stress là trạng thái căng thẳng của cơ thể , phản ứng lại với những
kích thích bên trong hoặc bên ngoài cơ thể”. [28,185]
Trong luận án tiến sĩ về Stress ở cán bộ quản lý, Nguyễn Thành Khải đã đưa ra định nghĩa stress “ dưới
góc độ tâm lý học, stress là trạng thái căng thẳng về tâm lý mà con người cảm nhận được trong quá trình hoạt
động cũng như trong cuộc s
ống.” [27, tr20]
=> Ba định nghĩa trên không chỉ ra được nguồn gốc gây stress
Trong luận văn stress ở người trưởng thành, Nguyễn Thị Hải đã định nghĩa “stress là trạng thái
căng thẳng về mặt tâm lý, xuất hiện ở người trong quá trình hoạt động gặp phải những biến cố, những

khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, dễ nhận thấy qua các dấu hiệu: nhịp tim tăng, huyết áp cao, cơ
c
ăng, cảm giác mệt mỏi, khó chịu, hoặc ưu phiền, chán nản…có thể dẫn đến những hậu quả nhiều mặt
tùy theo khả năng ứng phó của mỗi người” [18, tr 22]
Định nghĩa này nêu ra được đầy đủ 3 khía cạnh của stress và những dấu hiệu cụ thể của nó. Tuy
nhiên về bản chất thì khác nhau, một người thì cho rằng stress là tình trạng khó chịu hoặc gây thương
tổn về cả
m xúc và tinh thần, người kia thì xem stress là trạng thái căng thẳng tâm lý.
Hướng thứ 2: Xem stress là những đáp ứng, phản ứng sinh học của cơ thể hoặc một quá trình
phản ứng của con người
Theo Hans Selye (1930) “stress là mọi đáp ứng của cơ thể trước mọi yêu cầu hay đòi hỏi tác động
lên cơ thể đó” [15]. Trong đời sống hàng ngày, stress là hiện tượng sinh lý (physiologique) cần thiết cho
con người. Nhờ có stress ta mới đáp ứng được với các điều kiện thay đổi không ngừng của môi sinh.
Ông đã viết “ không có stress là chết”. Ngược lại, stress mạnh quá hay nhiều quá, có thể gây ra bệnh tật.
Do đó ông đưa ra 2 cụm từ “ eutress” (những stress ảnh hưởng tích cực , có lợi cho con người) và “
distress” (những stress tiêu cực gây hại đến sức khỏe của cá nhân). Định nghĩa này mở ra một cách hiểu
mới về stress , trước
đây mọi người đều cho rằng stress chỉ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực, chứ không
biết rằng stress cũng có mặt tích cực của nó.
Theo Robert S. Feldman (1997), stress là phản ứng của con người trước các sự kiện đang đe dọa hay
thách thức họ.[87]. Định nghĩa này không nêu ảnh hưởng của stress và nhấn mạnh đến tính chất đe dọa,
thách thức của sự kiện là nguồn gốc gây stress
Theo Stephen Worchel và Wayne Shebilsue, “ stress là một quá trình mà bằ
ng cách đó con người
phản ứng lại với các sự kiện môi trường và tâm lý mà được nhận thức là đe doạ hoặc thách thức” . [19,
tr 429]. Định nghĩa này nhấn mạnh đến yếu tố nhận thức cá nhân về nguồn gốc gây stress .
Hướng thứ 3 : Stress như một sự kiện từ môi trường
Theo bác sĩ Eric Albert, nhà tâm lý học, người sáng lập Viện nghiên cứu stress thì “ stress là nỗ
lực của cơ thể để
thích nghi với những đổi thay”

Theo Holroyd (1979), stress như một sự kiện từ môi trường đòi hỏi một cá nhân phải thử thách
những tiềm năng và đáp ứng không bình thường. [84]
Như vậy, Stress hình thành do những “đòi hỏi” của sự kiện môi trường hơn là bên trong cá nhân
người ấy , cách hiểu này có hạn chế ở chỗ là không phải sự kiện nào từ môi trường cũng gây ra stress và
không phải ai cũng bị
stress bởi một sự kiện như nhau.
Hướng thứ 4: Xem stress là một hiện tượng nhận thức của cá nhân, một quá trình tương tác với
môi trường
Theo giáo sư Ferreri, stress được hiểu là mối liên quan giữa con người và môi trường xung
quanh, nó vừa để chỉ tác nhân kích thích, vừa để chỉ phản ứng của cơ thể trước tác nhân đó. Như vậy
stress là mối tương tác giữa tác nhân kích thích và phản ứng của cơ thể. [10, 47]
Theo Charles Spielperger stress là quá trình t
ương tác giữa khả năng đáp ứng của mỗi cá nhân với những
đòi hỏi được đặt ra cho cá nhân đó trong môi trường của họ, quá trình tương tác đó có thể ảnh hưởng xấu về
nhiều mặt (sinh lý, tâm lý, cảm xúc, hành vi) [50,17]
Theo Gatchel & Baum (1983), “stress là một tiến trình mà bằng cách đó con người phản ứng lại
với các sự kiện môi trường và tâm lý được nhận thức là sự đe dọa hoặc thách thức” [19, tr 429]
Theo R.S. Lazarus (1966), “stress nh
ư một quá trình tương giao giữa con người và môi trường,
trong đó đương sự nhận định sự kiện từ môi trường là có tính chất đe dọa và có hại, và đòi hỏi đương sự
phải cố gắng sử dụng các tiềm năng thích ứng của mình”. [84]. Stress là một diễn tả chủ quan, từ trong
tâm trí, nên nó xuất hiện tùy theo cách nhìn của con người với sự việc (nó có chứa đựng yêu cầu cao đối
vớ
i cá nhân không, nó có đe dọa chủ thể không; và nhìn nhận về khả năng ứng phó của mình: liệu bản
thân mình có đủ nguồn lực để đáp ứng được với những yêu cầu và đe dọa đó không. Một sự kiện chỉ gây
stress khi cá nhân nhận định là “có hại”, và khi thiếu các phương tiện để ứng phó) . Đồng ý với quan
điểm này Nguyễn Khắc Viện đã nêu “stress là một vấn đề mang tính cá nhân, ta trải nghiệm bao nhiêu
stress là do bản chất của tác nhân gây stress quyết định, do cách stress được lý giải ra sao, những nguồn
lực sẵn có để đối phó với tác nhân gây stress và loại căng thẳng nào ta chịu ảnh hưởng”. Cũng như theo
Tô Như Khuê, “stress tâm lý chính là những phản ứng không đặc hiệu xảy ra một cách chung khắp, do

các yếu tố có hại về tâm lý xuất hiện trong các tình thế
mà con người chủ quan thấy là bất lợi hoặc rủi ro,
ở đây vai trò quyết định không chủ yếu do tác nhân kích thích mà do sự đánh giá chủ quan về tác nhân
đó” [45,tr18].
Hướng thứ 5: một quan điểm hệ thống về stress
Quan điểm này được xây dựng bằng cách tích hợp các bình diện sinh học, tâm lý, môi trường, và
đặc biệt là yếu tố nhận thức cá nhân của stress, xem stress là một khái niệm mang tính tổ chức, liên hệ
đến nhi
ều thông số và quá trình. Vì thế, “stress là một đáp ứng tích hợp sinh học - tâm lý - xã hội với
những sự kiện được xem là có hại và đòi hỏi những kỹ năng ứng phó của đương sự”[84] . Đóng góp
của định nghĩa này cho thấy tính đa dạng, phức tạp của stress, nhất là sự đa dạng, phức tạp trong phản
ứng với stress. Do đó, khi nghiên cứu những phản ứng với stress cầ
n nghiên cứu trên cả 3 mặt sinh
học, tâm lý, xã hội.
Như vậy, có rất nhiều định nghĩa khác nhau về stress, có những định nghĩa về stress dựa trên bình
diện sinh học, có những định nghĩa dựa trên bình diện tâm lý hoặc môi trường hoặc phối hợp cả ba
bình diện đó , có những định nghĩa đơn giản, có những định nghĩa phức tạp hơn nhưng khái quát lại
các định nghĩa đ
ó đã chỉ ra được:
+ Bản chất của stress : stress là một tình trạng đang chịu một sức ép hay áp lực mạnh hoặc một
trạng thái căng thẳng về nhiều mặt ( sinh lý, tâm lý) biểu hiện qua các dấu hiệu cơ thể; hoặc stress như
một quá trình tương tác giữa con người và môi trường; hoặc stress là nỗ lực của cơ thể để thích nghi;
hoặc stress là mọi đáp ứng, phản ứng c
ủa con người xảy ra một cách chung khắp, trên nhiều bình diện (
sinh lý, tâm lý, xã hội) với những tác động vào người đó.
+ Những nguồn gốc ( tác nhân, nguyên nhân ) gây stress hoặc góp phần tạo nên stress : một phần
do bản chất của những kích thích (sức ép) đa dạng từ bên ngoài hoặc do chính bản thân gây ra (tự tạo
áp lực ), một phần do nhận thức của cá nhân lý giải về nguồn gốc gây stress ra sao và nhận thức về
khả năng và ti
ềm lực của bản thân, cũng như các nguồn lực sẵn có để ứng phó (stress xuất hiện khi

thiếu khả năng, nguồn lực để ứng phó)…
+ Những ảnh hưởng, hệ quả của stress : gây ra những hậu quả và ảnh hưởng đến sức khỏe con
người biểu hiện ở các mặt sinh lý, tâm lý (quá trình nhận thức, cảm xúc,hành vi), xã hội (cuộc sống,
hoạt động thường ngày…) và nhữ
ng hậu quả đó sẽ tùy theo khả năng ứng phó của mỗi người.
Theo chúng tôi, một khái niệm stress đầy đủ phải chỉ ra được 3 khía cạnh của stress là bản chất,
nguồn gốc và ảnh hưởng của stress. Do đó trong đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi hiểu dưới góc
độ tâm lý học: stress là một quá trình biến đổi trạng thái cân bằng hiện tại của con người gây ra sự
căng thẳng về tâm lý; nảy sinh do con ng
ười phản ứng lại với những nhân tố tác động, trong đó
một phần do bản chất của những kích thích đa dạng từ bên ngoài hoặc do chính bản thân gây ra,
một phần do nhận thức của cá nhân lý giải về những kích thích đó, về khả năng, tiềm lực của bản
thân, các nguồn lực sẵn có để ứng phó; quá trình này gây ra những ảnh hưởng cho con người biểu
hiện ở các mặt sinh lý, tâm lý, xã hội”
1.2.1.2 Khái niệm CN và stress ở CN
a. Khái niệm CN

Theo viện khoa học xã hội Việt Nam – Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ
điển ngôn ngữ Hà Nội 1992 “ CN là những người lao động chân tay, làm việc ăn lương”. [15, tr 35]
Theo Lênin “ CN là những người lao động công nghiệp, làm việc trong nền đại công nghiệp” [5,
tr 12]
Trong nền sản xuất xã hội thì CN là một lực lượng xã hội, còn trong thể chế chính trị thì CN là
một giai cấp xã hội, đây là mộ
t giai cấp được nhiều nhà nghiên cứu chủ nghĩa xã hội khoa học quan
tâm:
Theo tác giả Đan Tâm “ Giai cấp CN Việt Nam là cộng đồng xã hội những người làm công ăn
lương, thu nhập và nguồn sống chủ yếu là tiền công , trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất công
nghịêp hoặc có tính công nghiệp, tạo ra sản phẩm công nghiệp hoặc có tính công nghiệp; nắm giữ
những cơ sở vật chất kĩ thuật then chố
t của xã hội, tiêu biểu cho phương thức sản xuất mới và là cộng

đồng làm chủ xã hội Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [44, tr 102]
Tác giả Bùi Đình Bôn đã rút ra một kết luận từ ý kiến của những nhà kinh điển của chủ nghĩa xã
hội khoa học và từ thực tiễn hiện nay về công nhân“ đặc trưng chủ yếu của giai cấp CN là lao động
công nghiệp, trự
c tiếp sản xuất hoặc tham gia vào quá trình sản xuất công nghịêp tạo ra giá trị vật chất
cho xã hội” [5, tr 14]. Cũng theo tác giả, không thể quan niệm giai cấp CN chỉ bao gồm những người
lao động chân tay, điều khiển các máy móc cơ khí, mà theo ông do sự phát triển của lực lượng sản
xuất, một bộ phận trí thức đã gia nhập giai cấp CN thực hiện chức năng của người CN lành nghề trong
sản xu
ất ( là những người gắn liền trực tiếp với lao động công nghịêp, với quy trình sản xuất công
nghịêp tạo ra của cải vật chất cho xã hội) , và thêm nữa cả những người lao động trong các ngành dịch
vụ công nghiệp mà lao động của họ có tính chất công nghiệp cũng nằm trong nội hàm khái niệm giai
cấp CN. Cũng không nên đưa tất cả những người lao động “ làm công ăn lương” vào giai cấp CN nếu
họ không có hoạt động lao động sản xuất trực tiếp hoặc tham gia vào quy trình sản xuất công nghiệp.
[5, tr 15]
Từ những khái niệm và phân tích trên đây có thể thấy khái niệm CN là một khái niệm tương đối
rộng nhưng trong giới hạn đề tài của mình chúng tôi hiểu “CN là một lực lượng lao động những người
làm công ăn lương, thu nhập chủ yếu bằng tiền công, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất công
nghiệp hoặc có tính công nghiệp, tạo ra giá trị của cải vật chất cho xã hội.”
b. Khái niệm stress ở CN
Từ khái niệm về stress và khái niệm CN nêu trên chúng tôi định nghĩa về stress ở CN như sau :
Stress ở CN là một quá trình biến đổi trạng thái cân bằng hiện tại của mỗi người CN, gây ra
sự căng thẳng về tâm lý; nảy sinh do mỗi người phản ứng lại với những nhân tố tác động - một phần
do bản chất của những kích thích đa dạng từ bên ngòai liên quan đến đời sống sinh lý, tâm lý, xã hội
và các hoạt động đặc trưng của CN, hoặc do chính bản thân mỗi người gây ra, một phần do nhận
thức của họ về những kích thích đó, nhận thức về khả năng, tiềm lực của bản thân, cũng như các
nguồn lực sẵn có để ứng phó với nó; quá trình này sẽ gây ra những ả
nh hưởng đến CN ở các mặt
sinh lý, tâm lý, xã hội.”
1.2.2 Một số đặc điểm tâm sinh lý, xã hội của CN

1.2.2.1. Đặc điểm xã hội của CN
CN vừa là một lực lượng lao động trong xã hội, vừa là một giai cấp chính trị và giữ vai trò lãnh
đạo trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa nhưng trong đề tài này chúng tôi sẽ không đề cập đến
vai trò sứ mệnh lịch sử đó, mà chủ y
ếu quan tâm đến những mặt khác trong đặc điểm của CN Việt
Nam, đó là:
- Đội ngũ CN Việt Nam có nguồn gốc xuất thân chủ yếu từ nông dân nên còn những mặt hạn chế
như: tính tổ chức, kỷ luật chưa cao; tư tưởng, tâm lý, tác phong và thói quen của những người sản xuất
nhỏ còn khá nặng nề, chưa trải qua hoạt động kinh tế đại công nghiệp, đa số họ
chưa qua đào tạo về trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật, họ làm việc vì nhu cầu cơm ăn, áo mặc. Khi chịu ảnh hưởng nhiều
bởi những yếu tố đó, có nhiều CN chưa thích ứng được với những yêu cầu trong lao động công nghiệp
trong khi chủ nhân thuê mướn của họ lại là những người mang tác phong công nghiệp và quan hệ giữa
họ là quan hệ chủ tớ với nhữ
ng quy tắc và cách ứng xử nghiệt ngã, nên những mâu thuẫn chủ tớ sẽ diễn
ra. Thực tế hiện nay ở các khu công nghiệp, khu chế xuất tại TPHCM sử dụng phần lớn là CN, lao động
trẻ, đa số là dân nhập cư chiếm khoảng 71% số lượng CN (theo số liệu của ban quản lý các KCX-KCN
TPHCM) [5], [57]
- Mặc dù số liệu thống kê cho thấy trình độ tri thức, trình độ tay nghề của CN mỗi năm m
ột cao
hơn, nhưng mặt bằng chung là vẫn còn thấp vì các doanh nghiệp chưa chú trọng đến việc đào tạo, bồi
dưỡng tay nghề cho CN, cũng như chưa có các chính sách thỏa đáng về lương, ưu đãi và các phúc lợi,
quyền lợi vật chất, tinh thần khác đối CN bậc cao, lành nghề , còn mang tính chất bình quân nên không
khuyến khích được CN phấn đấu nâng cao bậc thợ, tay nghề. Hơn nữa, cuộc sống của ngườ
i CN hiện
nay vẫn khó khăn nên họ thiếu thời gian, điều kiện, nhiệt tình và lòng say mê nghề nghịêp để rèn luyện,
nâng cao tay nghề, bậc thợ. [5, tr 36,37] , [57, tr 19], [68]
- Điều kiện lao động, môi trường lao động và môi trường sống, đời sống của CN đang thiếu
những đảm bảo cần thiết: biểu hiện ở mức độ thiếu an toàn lao động, thiếu các phương tiện, dụng cụ
b

ảo hộ lao động, sự gia tăng bệnh nghề nghiệp làm suy giảm sức khỏe và năng lực lao động của CN,
nhiều CN đang phải làm việc quá số giờ làm việc/ngày/tháng theo qui định của luật lao động; tình hình
việc làm ngày càng căng thẳng, lương không đủ sống, người CN phải xoay sở mọi cách để tồn tại, phải
vật lộn với cuộc sống hằng ngày, đặc biệt đối v
ới CN nhập cư gặp nhiều bất lợi về điều kiện sống, như
diện tích nơi ở chật chội, giá điện nước cao, nguồn nước và môi trường kém vệ sinh. Tại các khu dân
cư có đông CN ở trọ còn quá thiếu các hoạt động giao lưu văn hoá, văn nghệ, thể thao, phổ biến về kỹ
năng sống, hoạt động đoàn thể và cộng
đồng mà họ có thể tham gia. Cũng chính vì điều đó mà CN ít
quan tâm và không tích cực tham gia các hoạt động xã hội, thờ ơ với tình hình chính trị- xã hội trong
nước và trên thế giới, ngại học tập, đời sống tinh thần thiếu thốn; gặp khó khăn trong việc “hòa nhập xã
hội” (bất lợi, thiệt thòi trong các mối quan hệ xã hội) dẫn đến tình trạng thiếu "vốn xã hội" – được hiểu
là những mối quan hệ và mạng lưới, các nhóm chính thức và phi chính thức và các tổ chức xã hộ
i có
liên quan đến CN [5, tr 45, 51], [57, tr 18, 236], [68], [87]
- Những chính sách xã hội dành cho CN chưa được thực hiện rộng rãi như chế độ bảo hiểm y tế,
bảo hiểm xã hội, vấn đề nhà ở cho CN vẫn đang là vấn đề đáng lo ngại [68]. Hiện nay, ở TPHCM hiện
có 7 dự án nhà lưu trú cho CN CN chỉ đáp ứng được cho 6.058 CN ở (theo số liệu của ban quản lý các
KCX-KCN TPHCM)
- CN là một lực lượng lao động quan trọng trong ngành công nghiệp mà nước ta
đang chú trọng
phát triển để phát triển kinh tế, nên những biến động của nền kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến CN gây
ra những tâm trạng lo lắng, bất an vì nguy cơ thất nghiệp và đời sống đã khó khăn lại càng khó khăn hơn,
mặt khác do những yêu cầu của thời đại công nghiệp nên CN cần phải có những thay đổi đáng kể để
thích ứng, quá trình chuyển đổ
i vai trò từ một người lao động trong nông nghiệp sang công nghiệp luôn
có những thử thách, khó khăn đòi hỏi sự nỗ lực thích ứng của cá nhân để có thể tồn tại trong môi trường
lao động công nghiệp luôn cần sự nhanh chóng và chính xác. Từ đó, những hệ thống giá trị của cá nhân
và xã hội cũng thay đổi mà mỗi CN đều phải chịu tác động, đòi hỏi mỗi người phải cân nhắc, chọn lựa
giá tr

ị thích hợp cho bản thân.
1.2.2.2 Đặc điểm tâm sinh lý của CN
Về mặt sinh lý : CN ở giai đoạn phát triển và hoàn thiện về thể chất, cũng như về mặt giới tính.
Về mặt tâm lý CN có những đặc điểm sau:
- Về mặt nhận thức: do trình độ văn hóa của CN tương đối thấp nên nhận thức của họ về nhiều
vấn đề trong cuộc số
ng, trong xã hội có nhiều hạn chế, điều này khiến cho họ có thể cảm thấy tự tin,
mặc cảm và khó hòa nhập vào cuộc sống hiện đại của xã hội, nhiều CN vì thế hạn chế giao tiếp, tự cô
lập mình với người khác rồi trở nên cô đơn không người thân thiết bên cạnh.
- Về đời sống tình cảm: Họ đang trong lứa tuổi có những rung động giới tính và cảm xúc yêu
đươ
ng với người khác giới, họ đã có những tình yêu thật sự và thông thường đó là những mối quan hệ để
chuẩn bị cho một cuộc sống hôn nhân. Trong tình yêu họ bộc lộ những thái độ, nhận thức và quan điểm
riêng, cũng như bản sắc riêng của mỗi người . Đối với CN, việc có được một mối quan hệ tình yêu tốt
đẹp là điều rất quan trọng, và là một nhu c
ầu rất lớn, tình yêu là nguồn động viên và là động lực để họ
sống và làm việc, ngược lại khi có những trục trặc trong mối quan hệ này thì sẽ ảnh hường không tốt đến
tâm lý của CN, từ đó ảnh hưởng đến cuộc sống và công việc của họ. Hơn nữa, một đặc điểm cũng đáng
quan tâm của CN đang làm việc tại các KCN – KCX ở TPHCM là đa số h
ọ là những người nhập cư và
tỷ lệ nữ CN nhiều hơn nam CN nên việc có được một người yêu phù hợp không phải là chuyện dễ dàng.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến nhiều người cảm thấy hụt hẫng, cô đơn và chán nản khi
có những thất bại trong quá trình dẫn đến tình yêu và việc duy trì mối quan hệ đó. Mặt khác, cũng chính
vì có nhiều vấn đề không thuận lợi trong việc tìm cho mình một tình yêu và duy trì tình yêu (xa nhà, kinh
tế thiếu thốn, tỷ lệ nam nữ chênh lệch, không có môi trường giao lưu …) nên trong CN xảy ra các hiện
tượng sống chung, sống thử trước hôn nhân hoặc bị lợi dụng tình cảm , dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.
Không chỉ có mối quan hệ tình yêu ảnh hưởng đến đời sống tâm lý của CN mà cả những mối quan hệ
khác cũng có nhiều vấn đề nảy sinh. Con người khi tồn tạ
i ở một môi trường nào đó đều cần phải có
những mối quan hệ với những người xung quanh, nhưng đối với CN hầu hết những mối quan hệ thân

thiết của họ như những người bạn, hàng xóm láng giềng đều được hình thành từ khi họ còn sinh sống ở
quê, lên thành phố với một môi trường xa lạ và nhiều phức tạp, nhiều CN không hòa nhập, thích nghi
được nên đã chọn lố
i sống khép kín, quanh quẩn trong khu nhà trọ của mình do đó họ không thể tạo ra
được cho mình những mối quan hệ thân thiết, làm chỗ dựa tinh thần cho mình, và tìm kiếm nguồn chia
sẻ động viên, vì thế nhiều CN cảm thấy lạc lõng, cô đơn, luôn mang trong mình nỗi nhớ nhà gia diết.
Nhưng vì cuộc sống mưu sinh họ đành phải lưu lại TPHCM để làm việc và nén lại những cảm xúc đó.
- Hoạt động chủ đạo củ
a CN: đó chính là hoạt động lao động trong ngành công nghiệp, đối với
CN mục đích chính của họ là làm việc để kiếm thu nhập chăm lo cho bản thân và gia đình nên khi có
những vấn đề nảy sinh từ việc làm, công việc không như ý thì sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến
CN. Theo tâm lý học lao động, trong hoạt động lao động công nghiệp, CN là một thành phần trong hệ
thống người – máy – môi trường, nên luôn luôn có sự tương tác và ảnh hưởng qua l
ại với những thành
phần khác như máy móc, trang thiết bị, tính chất công việc , môi trường vật lý, môi trường xã hội trong
lao động công nghiệp, cụ thể hơn là mối quan hệ giữa CN với đồng nghiệp, với quản lý, với lãnh đạo,
sự tương tác giữa những đặc điểm tâm lý của cá nhân với yêu cầu công việc và phương tiện lao động,
môi trường lao động [40]. Sự tương tác này ảnh hưởng trự
c tiếp đến nhiều mặt trong đời sống CN.
- Các hoạt động để tạo ra sự cân bằng tâm lý: Những ảnh hưởng từ cuộc sống, những mối quan
hệ, công việc có thể gây ra sự mất cân bằng tâm lý cho CN nhưng do điều kiện kinh tế, điều kiện làm
việc, thói quen sinh hoạt và hiểu biết nên nhiều CN không có điều kiện hoặc không biết cách tạo ra sự
cân bằng về tâm lý cho mình.
Sở dĩ chúng tôi đề cập đến những đặc điểm và thực trạng của CN Việt Nam hiện nay như trên là
vì nó có thể ảnh hưởng ít nhiều đến vấn đề stress của CN mà chúng tôi muốn nghiên cứu. Những đặc
điểm này sẽ được phân tích cụ thể hơn trong phần những nguyên nhân gây stress cho CN
1.2.3 Các mức độ của stress
Theo Tô Như Khuê, stress có 3 mức độ là [27, tr40] :
- Mức độ stress bình thường : là mức độ đảm b
ảo hoạt động sống bình thường, cho dù có chịu

tác động bởi những tác nhân gây căng thẳng nhẹ hoặc vừa nhưng cá nhân vẫn giữ được trạng thái cân
bằng, không có ảnh hưởng của yếu tố căng thẳng đáng kể , ở mức độ này hoạt động tâm sinh lý diễn ra
bình thường.
- Mức độ stress cao : khi có các tác nhân gây căng thẳng đáng kể, cơ thể phải sử dụng thêm một
s
ố các năng lượng và cấu trúc lại hệ thống chức năng để thích nghi với những kích thích đó, các phản
ứng thích nghi đạt tới mức giới hạn nếu yếu tố gây căng thẳng đến mức tới hạn. Ở mức độ này, mặc dù
có những biến đổi của cơ thể nhưng nó sẽ được hồi phục lại sau khi tác nhân ngừng tác động. Tuy
nhiên nếu mức độ này kéo dài, hoặc các tác nhân kích thích quá mức hơn nữa thì phản ứng thích nghi
sẽ không đáp ứng được nữa, cơ thể sẽ chuyển sang trạng thái bệnh lý.
- Mức độ stress bệnh lý : ở mức độ này, các phản ứng của cơ thể không còn hiệu quả mong
muốn, các hệ thống chức năng mất tính mềm dẻo, môi trường bên trong có nhiều rối loạn và không trở
lại bình thường khi kích thích ng
ừng tác động.
Theo bác sĩ Đặng Phương Kiệt [31, tr39], stress có 3 mức độ, trong đó stress ở mức độ nhẹ là
mức độ làm cho chủ thể cảm nhận như một thách thức, có thể là một kích thích làm tăng thành tích.
Stress ở mức độ vừa là mức độ phá vỡ ứng xử, có thể dẫn đến những hành động lặp đi lặp lại. Stress ở
mức độ nặng là mức độ
ngăn chặn ứng xử và gây ra nhứng phản ứng lệch lạc
Nguyễn Thành Khải [27] lại phân chia mức độ stress thành 3 mức độ dựa trên sự cảm nhận của
chính chủ thể gồm mức độ rất căng thẳng khi chủ thể cảm nhận về mặt tâm lý là rất căng thẳng, khó
chịu . Mức độ căng thẳng khi chủ thể cảm nhận có sự că
ng thẳng cảm xúc, nếu mức độ này kéo dài sẽ
chuyển qua mức độ rất căng thẳng. Mức độ thứ ba là ít căng thẳng khi chủ thể cảm nhận bình thường
hoặc có yếu tố căng thẳng nhẹ. Tuy nhiên việc phân chia này mang tính tương đối, không có những tiêu
chuẩn cụ thể để có thể phân biệt được sự khác nhau rõ rệt giữa các mức độ.
Nguyễn Thị Hải [18, tr 29] lại phân chia m
ức độ stress thành 3 mức : ít trầm trọng khi stress chỉ
biểu hiện ở một mặt, không kéo dài, chủ thể có thể tự khắc phục được ; mức độ thứ hai là trầm trọng
biểu hiện ở hai hay một số mặt, lặp đi lặp lại trong thời gian tương đối dài, phải khắc phục trong một

thời gian nhất định ; mức độ thứ ba là rất trầm trọng bi
ểu hiện ở nhiều mặt, diễn ra trong thời gian dài,
phải khắc phục trong thời gian rất dài
* Mức độ của stress phụ thuộc vào các yếu tố sau
: [33, tr208], [84]
+ Thời lượng: Mức nghiêm trọng của stress phụ thuộc vào khoảng thời gian một người cảm thấy
mình phải chịu đựng stress. Nếu stress diễn ra trong một thời gian ngắn thì con người vẫn có thể tập
trung sức lực để vượt qua, không bị mất niềm tin vào bản thân và tương lai. Nếu stress cứ tiếp diễn, con
người sẽ mất tinh thần, sức lực và hi vọng bị hao mòn, ít còn khả năng ch
ịu đựng. Nếu stress kéo dài mà
con người chỉ có các đáp ứng sinh lý mà không có cách ứng phó khác thì sẽ dẫn đến kiệt sức.
+ Cường độ: Khi hậu quả của stress gây lâm nguy cho sự tồn tại và an toàn cho cá nhân thì
stress được cho là ở mức độ nghiêm trọng. Một người có ý nghĩ tiêu cực về việc làm của mình mà đó
lại là nguồn thỏa mãn chính yếu thì cũng làm rơi vào một tình trạng stress nghiêm trọng, khi một người
nhận thấy mình đang r
ơi vào một tình cảnh hoàn toàn xa lạ thì stress gay ra sẽ lớn hơn so với việc
đương đầu với những vấn đề quen thuộc, nếu rơi vào tình huống bất ngờ, đột ngột không có thời gian
chuẩn bị thì mức độ stress sẽ nặng nề hơn.
+ Các yếu tố cá nhân: mức độ nghiêm trọng của stress còn tùy thuộc vào bản thân người bị
stress, đó chính là sự nhận định của cá nhân về các kích thích và khả n
ăng ứng phó của họ. Levine,
Weinberg, Ursin, (1978) đã nêu “nhận định là quá trình trong đó chúng ta gán những ý nghĩa cho các
sự kiện bên trong chúng ta hoặc xung quanh chúng ta”. Theo Lazarus, Launier (1978) stress liên quan
đến việc nhận định một sự kiện là có tính đe dọa, có hại hoặc thách thức, hoặc khi cá nhân nhận định
khả năng ứng phó là không đầy đủ hoặc không hiệu quả đều là những điều kiện để stress xuất hiện.
Việc nhận định kích thích và nhận định khả năng ứng phó sẽ tương tác với nhau để hình thành mức độ
của stress mà đương sự trải qua. Mức độ stress cao nhất xảy ra khi kích thích là rất tiêu cực và khi
không có biện pháp nào để giải quyết sự kiện. Khi sự kiện ít trầ
m trọng hơn và các cố gắng ứng phó có
tính khả thi thì mức độ stress sẽ giảm đi. Tuy nhiên, một số tình huống khi sự kiện kích thích được

nhận định là “rất tiêu cực”, và những phương thức ứng phó có khả năng thực thi được vẫn xảy ra stress
do tính chất nghiêm trọng của sự kiện. Tương tự, khi sự kiện ít nghiêm trọng, nhưng trong tay không
có sẵn những biện pháp giải quyết stress sẽ x
ảy ra do bị mất khả năng kiểm soát sự kiện. [84].
=> Từ những cách phân chia mức độ stress trên, chúng tôi nhận thấy chưa có một tiêu chí về mặt
định lượng hay định tính cụ thể để phân biệt mức độ stress là nặng, vừa hay nhẹ, trầm trọng hay ít trầm
trọng. Muốn đánh giá được mức độ stress một cách cụ thể thì cần phải có một trắc nghiệm để đo lườ
ng
về mặt định lượng, có thông số rõ ràng. Nhưng trong giới hạn của mình, chúng tôi chưa tìm thấy một
trắc nghiệm về stress khái quát chính thức nào do các nhà tâm lý học nước ta soạn thảo hay đã được
chuẩn hóa tại Việt Nam. Đồng thời căn cứ vào những yếu tố chi phối mức độ stress chúng tôi đã chọn
hướng nghiên cứu xem xét trong cuộc sống con người có thường xuyên bị stress hay không, những
biểu hiện củ
a stress là thường xuyên hay thỉnh thoảng hay là không có biểu hiện gì, và dựa trên luận
điểm một tác nhân gây stress nhiều hay ít là do chủ thể nhận định nó gây ảnh hưởng đến bản thân mình
như thế nào. Do đó chúng tôi đã phân chia mức độ stress dựa trên tần số bị stress trong cuộc sống qua
sự đánh giá chủ quan của cá nhân về tình trạng của mình với các mức thường xuyên, thỉnh thoảng,
hiếm khi hay hầu như chưa bao giờ
bị stress . Đồng thời dựa trên tần số biểu hiện của stress là thường
xuyên, thỉnh thoảng hay không có biểu hiện đó. Thứ ba là, dựa trên sự đánh giá của cá nhân về các tác
nhân gây stress ảnh hưởng cho mình ở mức độ nào ảnh hưởng nhiều, ảnh hưởng ít hay không ảnh
hưởng.
1.2.4 Những ảnh hưởng và biểu hiện của stress nói chung và stress ở CN
1.2.4.1 Những ảnh hưởng và biểu hiện của stress nói chung

Đầu tiên, những biểu hiện của stress được nhận biết qua những phản ứng sinh lý của cơ thể và
những ảnh hưởng về mặt sinh lý do stress gây ra:
Khi cơ thể phản ứng với các tác nhân kích thích thì các biến đổi sinh lý sẽ xảy ra theo một mô
hình đã được “cài đặt” sẵn như phản ứng “ chống hoặc chạy” mà Cannon đã nêu. Trong đó có sự gia
tăng nhịp tim, huyết áp và hô hấp. Máu được phân b

ố đến các bắp cơ lớn và các quá trình tiêu hóa bị
ngưng lại. Những thay đổi này nhằm chuẩn bị cho cơ thể sinh vật ấy thực hiện được những hành động
mạnh mẽ nhằm đáp ứng lại các tác nhân kích thích hoặc là chống trả hoặc là trốn chạy. Do đó khi bị
stress , cơ thể sẽ có một loạt thay đổi về hoạt động của tim, sự hô hấ
p và huyết áp, sự tiêu hóa. Còn với
Hans Selye thì ông lại miêu tả quá trình phản ứng sinh lý của cơ thể với tác nhân gây stress bằng “hội
chứng thích nghi chung” – GAS, quá trình này trải qua 3 giai đoạn báo động , kháng cự , và kiệt quệ. Ở
giai đoạn báo động là phản ứng ban đầu của cơ thể đối với tác nhân gây stress, cơ thể chuẩn bị năng
lượng cho hệ thống sẽ tạo ra những phản ứng đó b
ằng cách lấy đi năng lượng của những hệ thống khác
như tăng nhịp tim, tăng huyết áp trong máu, các cơ bị căng , thở sâu và thở mạnh, có sự suy giảm tiêu
hóa, nếu các kích thích này vẫn không giảm bớt cơ thể sẽ chuyển sang giai đoạn kháng cự, trong giai
đoạn này cơ thể duy trì tốc độ vận hành cao hơn cho những cái đã khởi động trong giai đoạn báo động,
những thay đổi tâm sinh lý trong giai đoạn kháng cự là sự thải hóc môn làm ảnh hưởng tr
ực tiếp đến
các tế bào của cơ thể trong hệ thống miễn nhiễm, do đó stress làm giảm khả năng miễn nhiễm đối với
các bệnh thể lý, cơ thể dễ mắc các bệnh khác hơn. Nếu các yếu tố gây stress tiếp tục đủ lâu, nguồn lực
của cơ thể bị hao mòn và sự suy sụp là điều không tránh khỏi, giai đoạn này cơ thể
đánh dấu bằng các
phản ứng báo động, nếu lờ đi những dấu hiệu cảnh báo này thì stress tiếp tục tăng và cá nhân sẽ thật sự
thấy kiệt quệ và đây chính là hiện tượng thường gọi là sự suy sụp thần kinh [31, tr 28], [50],[84]. Đồng
ý với những luận điểm này, Nguyễn Công Khanh nêu ra 3 ảnh hưởng sinh lý của stress là “(1) làm rối
loạn các quá trình trao đổi chất, làm thay đổi các quá trình sinh hoá, dẫn đến các tác nhân gây bệ
nh
(như vi khuẩn, vi trùng, vi rút) có nhiều cơ hội thâm nhập gây bệnh hay truyền bệnh; (2) khởi động hay
thúc đẩy một tác nhân gây bệnh đã có nay có điều kiện sinh sôi hay hoạt động trở lại gây bệnh;(3) giúp
duy trì một quá trình bệnh lý đang diễn ra, làm chậm lại quá trình khỏi bệnh”[28,tr42] . Như vậy biểu
hiện của stress về mặt sinh lý thể chất sẽ được nhận biết qua sự hoạt động c
ủa tim, các cơ, hệ hô hấp,
huyết áp, hệ tiêu hóa, và hệ miễn dịch, hệ thần kinh.

Một số người nghiên cứu khác như Kiecolt-Glaser& Glaser (1986); Schneiderman (1983);
Cohen, Tyrrell, & Smith, (1993) cũng nêu lên nhưng ảnh hưởng và tác hại của stress, các ông cho rằng
qua thời gian, các phản ứng với stress có thể thúc đẩy sự suy yếu của các mô, như mạch máu và tim
chẳng hạn. Kết cục, chúng ta dễ nhiễm bệnh hơn khi sự đề kháng vi trùng bị giảm sút. Ngoài những
trục trặc sức khỏe trầm trọng, nhiều cơn đau nhức nhỏ hơn có thể là nguyên nhân hoặc trở nên tồi tệ
hơn do stress : đau lưng, tim, da nổi mụn, khó tiêu, mệt mỏi và táo bón, thậm chí, liên quan đến cảm
cúm thông thường nữa. (Brown, 1984; Cohen, Tyrrell, & Smith, 1993). [87].
Ngoài ra, một số ảnh hưởng sinh lý, đồng thời cũng là những biểu hiện cụ thể của stress đã được
biết đến như:
+
Ảnh hưởng đến não: stress thường xuyên khiến não trở nên kém linh hoạt, minh mẫn, thậm
chí có nguy cơ bị tổn thương nghiêm trọng.
+ Ảnh hưởng đến hệ hô hấp: stress kích thích tuyến thượng thận giải phóng hormone
adrenaline. Khi lượng hormone này tăng cao thì hơi thở thường trở nên gấp gáp, hổn hển, không sâu,
phải rướn lên để thở. Người bị stress nếu đã mắc bệnh suyễn hoặc các bệnh khác về đường hô hấ
p thì
bệnh tình sẽ trở nên tồi tệ hơn.
+ Ảnh hưởng đến tim: stress liên quan đến bệnh sơ vữa động mạch vành, rối loạn nhịp tim (tim
đập nhanh, mạnh). Một số căng thẳng về tinh thần hoặc tình cảm, gây ra quá trình thiếu máu cục bộ cơ
tim có thể diễn ra một cách lặng lẽ.
+ Ảnh hưởng đến hệ bài tiết : khiến cơ thể hay bị
đổ mồ hôi một cách khác thường (ví dụ, đẫm
mồ hôi tay) ngay cả khi nhiệt độ không cao hoặc không có sự vận động cơ thể gắng sức

×