Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

khảo sát đặc điểm và vai trò của chủng xạ khuẩn streptomyces dicklowii

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.38 MB, 122 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH



Nguyễn Hoàng Minh Huy





KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ
CỦA CHỦNG XẠ KHUẨN
Streptomyces dicklowii.


CHUYÊN NGÀNH VI SINH VẬT

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC








NGƯỜI HƯỚNG DẨN KHOA HỌC:
TS. TRẦN THỊ THANH



Tp. HCM, 2006

LỜI CÁM ƠN

Trên hết, tôi xin chân thành biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ TRẦN THỊ
THANH, người đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời
gian làm đề tài; với tất cả tinh thần tình thương và trách nhiệm cô đã giúp tôi
hoàn thành luận văn, bên cạnh đó tôi đã học hỏi được nhiều kiến thức quí báu
nơi cô cũng như phương pháp nghiên cứu khoa học.
Tôi chân thành cám ơn thầy cô ở khoa sinh, khoa hóa - trường đạ
i
học sư phạm tp HCM, thầy cô ở bộ môn sinh hóa - trường đại học khoa học tự
nhiên, đã tận tình giúp đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài luận văn cũng
như thầy cô công tác tại phòng thí nghiệm vi sinh - sinh hóa, phòng thí nghiệm
sinh lý thực - trường đại học sư phạm tp HCM đã giúp đỡ, động viên và tạo
mọi điều kiện thuận lợi trong suốt thời gian làm đề tài.

Tp HCM, tháng 3 năm 2006

NGUYỄN HOÀNG MINH HUY
MỤC LỤC

Trang
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Xạ khuẩn và chất kháng sinh từ xạ khuẩn:
1.1.1. Đặc điểm hình thái sinh lý sinh hóa của xạ khuẩn:
1.1.1.1. Đặc điểm hình thái.
1.1.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh hóa của xạ khuẩn.
1.1.2. Khả năng sinh chất kháng sinh của xạ khuẩn:

1.1.2.1. Khái niệm về chất kháng sinh.
1.1.2.2. Những nghiên cứu trên thế giới và ở nước ta về
kháng sinh.
1.1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh tổng hợp chất kháng
sinh.
1.1.2.4. Sự hình thành và các con đường sinh tổng hợp chất
kháng sinh.
1.1.2.5. Cơ chế tác động của chất kháng sinh.
1.1.3. Tách chiết và tinh chế chất kháng sinh.
1.1.3.1. Tách chiết kháng sinh từ sinh khối.
1.1.3.2. Tách chiết kháng sinh từ dịch lọc.
1.1.3.3. Tinh sạch chất kháng sinh.
1.2. Các nhóm chất kháng sinh chính có nguồn gốc từ xạ khuẩn:
1.2.1. Phân lo
ại các chất kháng sinh từ xạ khuẩn.
1.2.2. Chất kháng sinh chống nấm từ xạ khuẩn.
1.3. Vai trò của xạ khuẩn và chất kháng sinh trong phòng chống
nấm bệnh và tuyến trùng hại cây trồng:
1.3.1. Thực trạng về bệnh hại cây trồng.
1.3.2. Vai trò của xạ khuẩn, chất kháng sinh trong phòng
chống bệnh và tuyến trùng hại cây trồng.
Chương 2: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP.
2.1. Vật liệ
u:
2.2. Phương pháp:
2.2.1. Phương pháp vi sinh vật.
2.2.1.1. Phương pháp làm phòng ẩm quan sát hình thái vi
thể của xạ khuẩn.
2.2.1.2. Phương pháp xác định hoạt tính kháng sinh –
phương pháp khuếch tán trên thạch.

2.2.1.3. Phương pháp xác định sinh khối vi sinh vật.
2.2.2. Phương pháp hóa sinh.
2.2.2.1. Phương pháp xác định khả năng phân giải các hợp
chất cao phân tử của xạ khuẩn.
2.2.2.2. Phương pháp xác định khả năng sinh chất kích
3
3
3
3
6
10
10

11

13

15
16
19
21
21
22
22
22
30

31
31


40

47
52
52

52

53
53
54

54

thích sinh trưởng thực vật.
2.2.3. Phương pháp hóa lý.
2.2.3.1. Phương pháp khảo sát khả năng bền nhiệt của
chất kháng sinh.
2.2.3.2. Phương pháp tách chiết và tinh sạch kháng sinh.
2.2.3.3. Phương pháp xác định các nhóm chức trong cấu
trúc hóa học của chất kháng sinh.
2.2.3.4. Phương pháp xác định khả năng hoà tan trong các
dung môi của chất kháng sinh.
2.2.4. Phương pháp khác.
2.2.4.1. Phương pháp tách tuyến trùng nốt sưng từ rể bị
nhiễm bệ
nh.
2.2.4.2. Phương pháp tách tuyến trùng nốt sưng ra khỏi
đất.
2.2.4.3. Phương pháp khảo sát ảnh hưởng của dịch nuôi

cấy xạ khuẩn lên khả năng nảy mầm của hạt.
2.2.4.4. Phương pháp khảo sát ảnh hưởng của dịch nuôi
cấy xạ khuẩn lên sự phát triển của cây con.
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ BIỆN LUẬN.
3.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh học củ
a chủng xạ khuẩn
Streptomyces dicklowii.
3.1.1. Đặc điểm hình thái của xạ khuẩn.
3.1.2. Đặc điểm sinh trưởng phát triển trên các môi trường
nuôi cấy khác nhau.
3.1.3. Đặc điểm sinh lý sinh hóa của xạ khuẩn.
3.2. Nghiên cứu khả năng sinh kháng sinh của chủng xạ khuẩn
Streptomyces dicklowii.
3.2.1. Thử họat tính kháng sinh.
3.2.2. Lựa chọn môi trường thích hợp cho việc tạo kháng
sinh của chủng xạ khuẩn Streptomyces dicklowii.
3.3. Nghiên cứ
u các điều kiện ảnh hưởng đến sinh tổng hợp chất
kháng sinh của chủng xạ khuẩn Streptomyces dicklowii.
3.3.1. Ảnh hưởng pH ban đầu:
3.3.2. Ảnh hưởng chế độ thông khí:
3.3.3. Xác định thời gian sinh kháng sinh tối ưu:
3.3.4. Ảnh hưởng nguồn hydratcacbon:
3.3.5. Ảnh hưởng nguồn nitơ:
3.4. Tách chiết và tinh sạch chất kháng sinh của chủng xạ khuẩn
Streptomyces dicklowii.
3.4.1. Lựa chọn dung môi thích hợ
p.
3.4.2. Tách chiết và tinh sạch kháng sinh:
3.4.3. Tìm hiểu tính chất của chất kháng sinh từ chủng xạ

khuẩn Streptomyces dicklowii.
55
57

57
57

60

61
61

61

62

62

62

63

63

64
66

72
72


73

76
76
78
80
83
85
89

89
92

95
3.5. Khảo sát ảnh hưởng của dịch nuôi cấy chủng Streptomyces
dicklowii lên các tác nhân gây hại cây trồng.
3.5.1. Khảo sát khả năng ức chế của chất kháng sinh lên
nấm bệnh hại cây trồng:
3.5.2. Khảo sát khả năng ức chế của chất kháng sinh lên
tuyến trùng hại cây trồng.
3.6. Khảo sát ảnh hưởng của dịch nuôi cấy chủng Streptomyces
dicklowii đến hoạt động sinh lý củ
a cây trồng.
3.6.1. Ảnh hưởng dịch nuôi cấy lên khả năng nảy mầm của
hạt:
3.6.2. Ảnh hưởng dịch nuôi cấy lên sự phát triển của cây
con:
Chương 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

98


98

101

107

107

108
111

1
Ở ĐẦU
Thiệt hại kinh tế của bệnh cây là điều thấy rất rõ: làm giảm năng suất
cây trồng, giảm phẩm chất nông sản khi thu hoạch và bảo quản, ảnh hưởng
xấu đến đất trồng và cơ cấu cây trồng. Từ thế kỷ 18 Anton De Bary đã đặt nền
móng môn khoa học bệnh cây (1853). Để khắc phục những thiệt hại do bệnh
cây gây ra, người ta đã sử dụng nhi
ều biện pháp như: kỹ thuật canh tác, thuốc
hóa học, … trong đó sử dụng thuốc hóa học để phòng ngừa và ngăn chặn bệnh
hại cây trồng là được nhiều người ưa chuộng do tính dễ sử dụng, hiệu quả cao
nếu kết hợp với biện pháp canh tác thì việc phòng bệnh cho cây đạt hiệu quả
lớn.
Tuy nhiên, sau thời gian dài sử dụng thuốc hóa học cũng như phân
hóa họ
c người ta đã nhận thấy chúng ảnh hưởng đến môi trường sống rất lớn.
Chúng tác động xấu đến cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi trường đất, nước
làm cho người và gia súc bị ngộ độc. Đáng ngại hơn, một số thuốc trừ sâu
chậm phân hủy đã lưu tồn lâu trong đất (DDT lưu tồn được 25 năm) sự lưu tồn

lâu trong đất của các chất hoá học này làm nồng
độ của chúng tăng dần theo
thời gian. Đồng thời việc sử dụng tuỳ tiện liều lượng, thời gian phun thuốc hóa
học đã tạo nên dư lượng lớn không cho phép trong rau màu và lương thực, gây
nên những vụ ngộ độc thực phẩm lớn mà con người mà chúng ta từng biết
trong thời gian qua.
Để khắc phục nhược điểm này của thuốc hóa học cũng như bảo vệ
môi sinh, người ta đã tìm kiếm các biện pháp và phát hiện vai trò của vi sinh
vật trong việc điều chỉnh cân bằng sinh học của hệ sinh thái. Bằng các biện
pháp khống chế sinh học, người ta đã từng bước sản xuất ra nhiều chế phẩm vi
sinh vật ở qui mô lớn và được sử dụng trong công tác phòng trừ sâu bệnh.
Càng ngày người ta càng sử dụng rộng rãi những chế phẩm kháng
sinh từ các chủng xạ khuẩ
n đối kháng, mà đặc tính của những chất kháng sinh

2
đó đã thoả mãn được những tính chất cần thiết để có thể sử dụng trong bảo vệ
thực vật, như:
- Không gây ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng phát triển của
cây.
Ở một số nồng độ thích hợp chúng còn kích thích khả năng nảy mầm của
hạt và sinh trưởng của cây.
- Không gây hại cho người và gia súc.
- Có hiệu lực trong một thời gian nhất định ở ngoài môi
trường tự nhiên.
- Có tác dụng tiêu diệt một cách có chọn lọc vi khuẩn gram
dương, hoặc vi khuẩn gram âm, kháng nấm mạnh.
Dicklow.M.B cùng cộng sự vào năm 1996 đã công bố patent số
5549889 về loài Streptomyces dicklowii
, loài có khả năng kháng nấm và tuyến

trùng hại cây trồng, rất thích hợp sử dụng làm vi sinh vật khống chế sinh học
trong nông nghiệp.
Chúng tôi nhận được chủng Streptomyces dicklowii từ phòng thí
nghiệm vi sinh trường Đại học sư phạm Tp Hồ Chí Minh, chủng xạ khuẩn này
được nhập từ Mỹ. Để tiến tới sử dụng có hiệu quả chủng xạ khuẩn này trong
điều kiện môi trường Vi
ệt Nam, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ
CỦA CHỦNG XẠ KHUẨN Streptomyces dicklowii”

3
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Xạ khuẩn và chất kháng sinh từ xạ khuẩn:
1.1.1. Đặc điểm hình thái sinh lý sinh hóa của xạ khuẩn:
1.1.1.1. Đặc điểm hình thái:
Xạ khuẩn sống rất phổ biến trong tự nhiên cũng như trong đất, chúng
có nhiều đặc điểm giống vi khuẩn và khác với nấm mốc như kích thước tế bào
nhỏ, thành tế bào không chứa cenllulose hay kitin, phân chia tế bào theo kiểu
vô ti (Amytoz), không phân biệt giới tính; tuy nhiên, xạ
khuẩn cũng có những
đặc điểm giống nấm mốc hơn như có hệ sợi
khuẩn ty phân nhánh, nhưng ở xạ
khuẩn hệ sợi
không có vách ngăn. Sự phân hoá của khuẩn ty khí sinh bắt đầu
từ những mấu lồi xuất hiện trên bề mặt của sợi khuẩn ty sau đó mấu lồi lớn lên
thành chồi, chồi phát triển dài ra thành sợi, cuối cùng tạo thành hệ sợi dầy đặc.
Đường kính mỗi sợi khuẩn ty là 0,5µm – 1,5µm. (R.E. Buchanan, 1998).
Khuẩn ty khí sinh của xạ khuẩn phát triển ra bên ngoài không khí
trên bề mặt môi trường rắn tạo thành khuẩn lạc xạ

khuẩn; khuẩn lạc xạ khuẩn
dạng hình tròn do khuẩn ty phát triển theo hình phóng xạ tạo thành nhiều vòng
tròn đồng tâm (xem hình 1.1), khác với khuẩn lạc của nấm men, nấm mốc và
vi khuẩn, khuẩn lạc của xạ khuẩn thường chắc, xù xì, bề mặt có mấu lồi, có
nếp nhăn hoặc sần sùi. Theo Procofieva Bengopxkaia (1936), cho rằng khuẩn
lạc của xạ khuẩn có 3 lớp: lớp ngoài gồm các sợi bện chặt lạ
i với nhau, lớp
trong tương đối xốp hơn, và lớp giữa thì có cấu trúc tổ ong. Khuẩn lạc của xạ
khuẩn có thể mang các màu sắc khác nhau như: màu đỏ, màu lam, màu xám,
màu tím.

4


Hình 1.1: Các dạng khuẩn lạc của xạ khuẩn
Các khuẩn ty mọc phía dưới khuẩn lạc và cắm sâu vào trong môi
trường là khuẩn ty cơ chất, khuẩn ty cơ chất có nhiệm vụ hút chất dinh dưỡng
để cung cấp dinh dưỡng cho toàn bộ cơ thể nên còn gọi là khuẩn ty dinh
dưỡng. Đường kính khuẩn ty cơ chất thay đổi từ 0,2μm – 0,3μm, khuẩn ty
không có vách ngăn và không bị đứt đoạn. Tuỳ loạ
i môi trường mà khuẩn ty
cơ chất có thể tiết ra môi trường một số loại sắc tố trong đó có sắc tố hòa tan
được trong nước có sắc tố hòa tan được trong dung môi hữu cơ.
Sau thời gian phát triển, trên đầu sợi khuẩn ty khí sinh hình thành
nên những sợi phân hóa gọi là cuống sinh bào tử; tuỳ theo từng loài mà cuống
sinh bào tử có thể thẳng hay uốn cong, xoắn lò so hay xoắn ốc; chúng có thể
mọc đơn, mọc đối, mọ
c vòng, mọc thành chùm, số vòng xoắn của cuống sinh

5

bào tử có thể từ 5 – 10 vòng, đường kính vòng xoắn có thể thay đổi từ 5 –
7nm. (xem hình 1.2)

Hình 1.2: Các dạng cuống sinh bào tử ở xạ khuẩn
Bào tử của xạ khuẩn được hình thành từ cuống sinh bào tử, thường
có hình cầu, hình ovan, hình que … bề mặt bào tử có các dạng như: dạng nhẵn
(hình 1.4), dạng xù xì, dạng gai (hình 1.3), dạng tóc.

6

Hình 1.3: Bào tử dạng gai ở Streptomyces africanus chủng CPJVR-HT (hình
chụp dưới kính hiển vi điện tử theo
ijs.sgmjournals.org/ / medium/frontcover.gif
)

Hình 1.4: Bào tử dạng nhẵn ở Streptomyces violazeoruber (hình chụp dưới
kính hiển vi điện tử theo
www.ncl.ac.uk/biol/ assets/MSc-IB.jpg )
1.1.1.2. Đặc điểm sinh lý sinh hóa của xạ khuẩn:
1.1.1.2.1. Đặc điểm sinh lý nuôi cấy:
Xạ khuẩn phân bố rộng rãi trong tự nhiên, trong môi trường đất - xạ
khuẩn chiếm 20 – 40% tổng số vi sinh vật trong đất, tập trung nhiều ở lớp đất

7
trên bề mặt (sâu xuống khoảng 40cm). Hầu như trong các loại đất đều có mặt
của xạ khuẩn, đa số xạ khuẩn là vi sinh vật hiếu khí, ưa ẩm, một số xạ khuẩn
ưa nhiệt. Xạ khuẩn thường sống tốt trong môi trường có pH trung tính.
Xạ khuẩn thuộc cơ thể dị dưỡng nên nguồn hydratcacbon mà chúng
sử dụng có thể là tinh bột, đường, polysaccaric… nguồn nitơ mà xạ
khuẩn sử

dụng bao gồm: muối amon, muối nitrat (nguồn nitơ vô cơ); protein, pepton,
cao ngô, …(nguồn nitơ hữu cơ).
1.1.1.2.2. Khả năng sinh enzym của xạ khuẩn:
Enzym là một chất xúc tác sinh học được tạo thành trong tế bào vi
sinh vật, nó đóng một vai trò quan trọng trong trao đổi chất của vi sinh vật.
Enzym không những hoạt động xúc tác những phản ứng chuyển hóa
trong cơ thể mà còn xúc tác những chuyển hóa bên ngoài môi trường – điề
u
này có ý nghĩa lớn trong việc ứng dụng enzym vi sinh vật vào công nghiệp,
nông nghiệp,…
Ở xạ khuẩn, người ta đã thu nhận các loại enzym như:
- Enzym amylaza: thu nhận từ các loài Streptomyces aureofaciens,
Streptomyces diastochromogens, …
- Enzym cenllulaza: thu nhận từ các loài Streptomyces antibioticus,
Streptomyces sp. 0143, …
- Enzym proteaza: thu nhận từ Streptomyces kinoluteus,
Streptomyces verticillatus var. zynogenes, Actinomyces fradiae, …
- Enzym kitinaza: thu nhận từ Streptomyces griseus, …
Trong đó enzym proteaza của xạ khuẩn được ứng dụng nhiều trong
công nghệ thực phẩm – có tác dụng làm mềm thịt. Các chế ph
ẩm được bán
trên thị trường như: PRONAZA của Nhật (thu nhận từ Streptomyces griseus);
M – zim của Mỹ (thu nhận từ Streptomyces fradiae) (Nguyễn Trọng Cẩn,
1998).

8
Ngoài ra người ta còn chú ý một loại enzym quí ở xạ khuẩn là
glucoza izomeraza, enzym này giúp biến đổi đường glucose thành đường
fructose với độ ngọt cao hơn. (Nguyễn Trọng Cẩn, 1998)
CHO

(CHOH)
4
CH
2
OH
GLUCOSE IZOMERAZA
CH
2
OH
C=O
(CHOH)
3
CH
2
OH

Glucose Fructose
Để thu enzym người ta thường thu canh trường nuôi cấy của chúng.
Thành phần dinh dưỡng của môi trường cũng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và
tổng hợp enzym, nên để tăng sự tổng hợp enzym thì môi trường nuôi cấy phải
có đầy đủ các thành phẩn dinh dưỡng đặc biệt cần bổ sung “chất cảm ứng”
tổng hợp enzym, thường là cơ chất tương ứng của enzym cần tổng hợp.
Thí dụ: trong tổng hợp proteaza của Actinomyces cần chất cảm ứng
là protein đậu nành hay protein động vật.
1.1.1.2.3. Khả năng sinh vitamin của xạ khuẩn:
- Vitamin B12: Cũng như vi khuẩn, xạ khuẩn có khả năng tổng hợp
tốt vitamin B12, là loại vitamin mà ở động vật và thực vật không có khả năng
tổng hợp. Nên trong công nghệ tổng hợp vitamin B12 thì con đường sản xuất
chủ yếu là con đường sinh h
ọc mà xạ khuẩn và vi khuẩn là hai loài vi sinh vật

người ta quan tâm nhất – các loài xạ khuẩn đó là: Actinomyces olivaceus,
Actinomyces griseus, Actinomyces aureopacieus, Actinomyces pradiae,
Actinomyces autibioticus, …Đáng kể nhất là xạ khuẩn Actinomyces olivaceus
và loài vi khuẩn Propionibacterium shermanii là những chủng vi sinh vật
được sử dụng trong công nghiệp sản xuất vitamin B12.
- Caroten (tiền vitamin A): khi vào cơ thể người và động vật sẽ
chuyển thành vitamin A. Các chủng xạ khuẩn được quan tâm là: Blakeslea
trispora, Mycobacterium smegmatis, Streptomyces chrestomyceticus …

9
1.1.1.2.4. Khả năng sinh chất kích thích sinh trưởng thực vật
của xạ khuẩn:
Khả năng sinh chất kích thích sinh trưởng của vi sinh vật được phát hiện
từ rất sớm. Năm 1925, Saubert phát hiện auxin trong môi trường nuôi cấy nấm
Rhizopus suinus, Kurosawa (1926) trích ly Gibberellin (GA) từ nấm Fusarium
moniliforme.
Năm 1926 E.Kurosawa (người Nhật) tìm thấy một loài nấm mốc tên
Gibberella fugikuroi. Ông chứng minh rằng khi nấm nhiễm vào cây con,
chúng làm cây con tăng trưởng với tốc độ cao.
Năm 1930 ng
ười ta đã phân lập và kết tinh một chất từ Gibberella nay
được gọi là gibberellin. Trong vòng 30 năm trở lại đây có hơn 70 chất khác
nhau được phân lập từ nấm mốc và nhiều thực vật có hoa cũng được xếp vào
nhóm gibberellin (GAs). Gibberellin thường được sử dụng trong các thí
nghiệm là GA3 hay acid gibberellic.
Có rất nhiều xạ khuẩn trong đất cũng có khả năng sinh tổng hợp
Auxin - một dạng phytohoocmon rất có ý nghĩa đối với cây trồng. Auxin có
vai trò quan trọng trong sự kiểm soát sự tăng dài của tế bào. Vì tế bào thực
vật có vách bao bọc, nên tế bào chỉ có thể tăng trưởng được khi vách có thể
được kéo dài ra. Vách được cấu tạo bởi phần lớn là đường đa mà thành phần

chính là cellulose. Ở vách sơ cấp, cellulose hiện diện dưới dạng những sợi dài
liên kết với các đường đa khác để tạo ra một mạng lưới. Khi tăng trưởng các
liên k
ết có thể bị đứt tạm thời, do đó vách tế bào trở nên đàn hồi hơn và
những vật liệu mới được chen vào. Auxin có vai trò chính trong cả hai quá
trình trên. Trong các auxin, β – indole acetic acid (IAA) là một kích thích tố
sinh trưởng thực vật được người ta quan tâm nhiều. Đã có nhiều công trình
nghiên cứu về khả năng sinh IAA của xạ khuẩn: Các chủng xạ khuẩn có khả
năng sinh tổng hợp IAA có thể kể như: Streptomyces olivochromoferus 1/247

10
có khả năng tạo thành 33 μgIAA/ ml canh trường, Streptomyces
olivochromoferus 1/294 có khả năng tạo thành 9μgIAA/ ml canh trường, …(
Lê Thị Hoa, 1998)
Qúa trình sinh tổng hợp IAA ở vi sinh vật diễn ra khá phức tạp,
bằng phương pháp đồng vị phóng xạ người ta xác định được IAA có nguồn
gốc từ Triptophan (hình 1.5).

Hình 1.5: Các con đường hình thành IAA ở vi sinh vật. (theo Lê Thị
Hoa,1998)
1.1.2. Khả năng sinh chất kháng sinh của xạ khuẩn:
1.1.2.1. Khái niệm về chất kháng sinh:
Có nhiều lập luận khác nhau hoặc theo nguồn gốc hoặc theo hướng
điều trị bệnh
nhưng nhìn chung có thể hiểu chất kháng sinh (Antibiotic) là các
chất có nguồn gốc vi sinh vật và thực vật
có tác dụng ức chế sinh trưởng hoặc
tiêu diệt một số vi sinh vật khác một cách có chọn lọc ngay khi ở nồng độ
thấp. Chất kháng sinh là một chất hóa học có hoạt tính kháng lại các vi sinh
vật như: vi khuẩn gây bệnh cho người và động vật; nấm gây bệnh ở động vật


11
và thực vật. Các vi sinh vật mẫn cảm với chất kháng sinh ở những mức độ
khác nhau, đa số các vi khuẩn gram dương mẫn cảm với chất kháng sinh hơn
các vi khuẩn gram âm.
1.1.2.2. Những nghiên cứu trên thế giới và ở nước ta về kháng sinh:
- Trên thế giới: Kể từ khi Penicillin được Alexander Fleming phát
hiện vào 1928, và được Abraham, Chain và Florey tinh chế ở dạng ổn định có
tác dụng chữa bệnh vào 1941 (www.vinachem.com.vn), trong hơn nữa th
ế kỷ
qua, kháng sinh đã trở thành một dược phẩm thần kỳ sớm chiếm vị trí hàng
đầu trong lĩnh vực dược phẩm của thế giới, với những kết quả ngày càng mới
lạ, với nhu cầu ngày càng tăng và với lượng sản xuất ngày càng lớn. Hơn thế
nữa, cạnh bên chất Penicillin đầu đàn, có thêm nhiều loại kháng sinh được
chiết xuất từ nấm, từ
vi khuẩn, từ xạ khuẩn. Những thành tựu tách chiết kháng
sinh từ xạ khuẩn có minh chứng qua một số patent: patent số 3968204 Hamill,
1976 tách chiết kháng sinh A-2315 từ Actinoplanes philippinensis NRRL
5462; patent số 4331658 Hamill, 1982 tách chiết kháng sinh A-32887 từ
Streptomyces albus NRRL 11109; patent số 4537770 Michel, 1985 tách chiết
kháng sinh A41030 từ Streptomyces virginiae NRRL 12525; patent số
4637981 Hershberger, 1987 tách chiết kháng sinh A-4696G từ Actinoplanes
missouriensis; patent số 4659660 Hamill, 1987 tách chiết kháng sinh A47934
từ Streptomyces toyocaensis NRRL 15009; patent số 5229362 Kirst, 1993 tách
chiết kháng sinh A10255 từ Streptomyces gardneri.
Đó là những patent của
Mỹ, Mỹ cũng là một trong những nước sản xuất kháng sinh hàng đầu trên thế
giới, bên cạnh các nước phát triển công nghiệp kháng sinh thì Hàn Quốc cũng
đã có nền công nghiệp sản xuất kháng sinh, ngoài những kháng sinh tinh khiết
dùng điều trị bệnh còn có kháng sinh dưới dạng chế phẩm sinh học như

Biocontrol dưới dạng lỏng có thành phần bao gồm một số chủng Streptomyces
sp.; Trung Quốc cũng là n
ước hết sức chú trọng phát triển công nghiệp kháng
sinh, các nhà máy kháng sinh được xây dựng ở Tứ Xuyên, Thượng Hải,

12
Trường Sa, Hắc Long Giang, Quảng Châu để sản xuất các nguyên liệu và các
thành phẩm kháng sinh từ vi sinh vật.
- Ở Việt Nam: chúng ta cũng đã có nhiều cố gắng trong việc tìm
kiếm và sản xuất chất kháng sinh phục vụ cho nhu cầu điều trị bệnh, tách chiết
cũng như nổ lực hợp tác với nước ngoài để sản xuất kháng sinh mặc dù kết
quả chưa đáp ứng được so v
ới nhu cầu thực tế. Những cố gắng ấy có thể tổng
kết qua các mốc thời gian sau: Năm 1950, trong kháng chiến chống Pháp, GS
Ðặng Văn Ngữ đã nuôi cấy Pénicillum và dùng dịch nuôi cấy để chữa vết
thương cho thương binh; Năm 1962 - 1965, Liên Xô (cũ), theo yêu cầu của ta,
đã khảo sát và thiết kế cho Việt Nam một nhà máy sản xuất thuốc kháng sinh,
dự định đặt ở Phú Thọ (Bắc bộ), như
ng sau đó phải ngưng lại vì chiến tranh
mở rộng ra miền Bắc; Năm 1968, Trung Quốc giúp ta thiết kế xưởng
Tetracyclin 5 tấn/năm, trước dự định xây dựng ở Cao Bằng, sau chuyển về
Sơn Tây rồi Việt Trì, nhưng do quan hệ giữa hai nước lúc đó có trục trặc nên
công trình bỏ dở; Năm 1970, Ðơn vị nghiên cứu chuyên đề kháng sinh do GS
Trương Công Quyền làm chủ nhiệm ra đời, giáo sư và cộ
ng sự đã có nhiều
công trình nghiên cứu về kháng sinh: phân lập được một tập hợp khá lớn các
chủng vi sinh vật trong đó đặc biệt có xạ khuẩn sinh kháng sinh có nguồn gốc
từ đất Việt Nam. Đã tiến hành nghiên cứu sinh lý sinh hoá các chủng vi sinh
vật sinh kháng sinh và tách chiết, định loại được một số kháng sinh. Từ 1985
đến 1990, trong chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước mã số 64C,

Bộ Y tế đã cho nghiên cứu sản xuấ
t thử kháng sinh Oxytetracyclin và
Tetracyclin. Cũng trong thời gian này (từ 1985 – 1990), Liên Xô (cũ) thỏa
thuận giúp ta xây dựng nhà máy kháng sinh 5 tấn/năm tại Xí nghiệp Dược
phẩm TW 24, TPHCM. Công việc đang triển khai thì tình hình chính trị ở
Liên Xô cũ chuyển biến không thuận lợi, nên công trình đình lại vào năm
1992. (theo Nguyễn Duy Cương, 2005).
Đến nay, chúng ta cũng đã có một số dây chuyền bào chế kháng sinh
đạt tiêu chuẩn GMC Aseane nhưng nguyên liệu phải nhập từ nước ngoài như:

13
tại xí nghiệp dược 24 tại thành phố Hồ Chí Minh nguyên liệu Ampicinlin và
Amocillin từ nguyên liệu trung gian 6-APA nhập từ Belarut; bên cạnh đó vào
1999- 2000 tổng công ty dược Việt Nam đã chủ trì đề tài “Nghiên cứu công
nghệ điều chế 6-APA, 7-ADCH và cephalexin từ penicillin G” và đề tài
“Nghiên cứu áp dụng công nghệ sản xuất các kháng sinh mới, hiệu quả bằng
nguyên liệu trong nước”. Gần đây lãnh đạo Tổng công ty Hóa chất và tổng
công ty Dược đã có văn bản trình chính ph
ủ về hợp tác xây dựng nhà máy sản
xuất 300 tấn/ năm các cephalexin bán tổng hợp thế hệ 1 và thế hệ 3 từ nguyên
liệu trung gian 7-ADCA và 7-ACA nhập khẩu. Từ tình hình trên cho thấy sản
xuất nguyên liệu kháng sinh trong nước là một nhu cầu hết sức cấp bách đối
với chiến lược quốc gia phát triển ngành dược Việt Nam. Trong chiến lược
phát triển khoa học công nghệ Việt Nam từ nay đến 2010 (do thủ tướng Phan

n Khải ký) đã xác định Việt Nam phải sản xuất kháng sinh và phải sản xuất
tự túc 60% thuốc dùng trong nước.(theo www.vinachem.com.vn
).
Với tiêu chí trên cho thấy rất cần những công trình nghiên cứu và
tiến tới sử dụng các chủng vi sinh vật trong đó đặc biệt là xạ khuẩn để sản xuất

các kháng sinh dùng cho nhu cầu rất lớn được đặt ra hiện nay.
1.1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sinh tổng hợp chất kháng sinh:
1.1.2.3.1. Điều kiện nuôi cấy:
- Độ thông khí: yếu tố thông khí ảnh hưởng quyết định
đến sinh
tổng hợp chất kháng sinh. Các xạ khuẩn thuộc nhóm vi sinh vật hiếu khí nên
độ thông khí để đạt hiệu suất cực đại đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng khả
năng sinh kháng sinh; lượng không khí cung cấp vào môi trường nuôi cấy là
lưu lượng thổi khí 1 thể tích môi trường /1 phút.
- Nhiệt độ: có những loài xạ khuẩn ưa nhiệt hay sống tốt khi nhiệt
độ của môi trường cao nhưng đa số các xạ
khuẩn sinh kháng sinh mà chúng ta
khảo sát thường phát triển tốt ở nhiệt độ 28
O
C – 30
O
C (nhiệt độ phòng thí
nghiệm). Nhiệt độ tối ưu cho sinh tổng hợp chất kháng sinh thường nằm trong
khoảng 18
O
C – 28
O
C.

14
- pH: sinh tổng hợp chất kháng sinh phụ thuộc đáng kể vào độ pH
của môi trường. Độ pH thích hợp để sinh tổng hợp chất kháng sinh là pH trung
tính, ở pH acid và kiềm sẽ ức chế quá trình sinh tổng hợp chất kháng sinh.
- Nhân giống: Qua thực nghiệm cho thấy sinh tổng hợp chất kháng
sinh không chỉ phụ thuộc vào điều kiện lên men mà còn phụ thuộc vào chất

lượng của bào tử và giống sinh dưỡng, nghĩ
a là tuổi và khả năng đồng đều về
mặt di truyền và hoạt tính trao đổi chất của giống phản ánh điều kiện nuôi cấy.
Điều kiện của môi trường nhân giống cũng như thời gian nhân giống cũng
khác nhau tùy vào từng chủng và tuổi của bào tử giống.
- Hình thức lên men: trong sinh tổng hợp chất kháng sinh phương
pháp nuôi cấy cũng là một trong những yếu tố quyết
định; Qui trình sản xuất
chất kháng sinh thường được nuôi cấy theo phương pháp nuôi cấy chìm trong
nồi lên men có khuấy đảo và sục khí.
1.1.2.3.2. Thành phần môi trường nuôi cấy:
Sinh tổng hợp chất kháng sinh ở vi sinh vật phụ thuộc chặt chẽ vào
môi trường lên men. Trước hết là nguồn C, N và phosphat vô cơ. Các vi sinh
vật khi đã phát triển trên môi trường nhân giống và cấy truyền lên môi trường
lên men có nguồn gốc C, N và các thành phần môi trường khác nhau sẽ dẫn
đến khả n
ăng sinh các chất khác nhau.
- Nguồn cacbon: quá trình sinh trưởng và sinh tổng hợp chất kháng
sinh chịu ảnh hưởng sâu sắc thông qua các nguồn cacbon khác nhau. Tuỳ
thuộc vào từng chủng mà cần chọn nguồn cacbon thích hợp; các loại đường
đơn: Glucose, Manitole, … hay các loại đường kép: Saccarose, Lactose, …
cũng có thể là các loại tinh bột hoặc các chất có thành phần không xác định
như rỉ đường, đại mạch, …Đối với xạ khuẩn, nhiều chủng có hoạt tính
amylaza cao nên nguồn cacbon thích hợ
p đối với chúng là tinh bột.
- Nguồn nitơ: nguồn và nồng độ nitơ trong môi trường nuôi cấy
cũng ảnh hưởng đến sinh tổng hợp chất kháng sinh. Sự dư thừa các ion amin
hoặc các nitơ chuyển hóa nhanh khác sẽ ức chế sinh tổng hợp chất kháng sinh

15

như Erytromoxin, Leucomicin, Novobioxin, … Quá trình sinh tổng hợp chất
kháng sinh từ xạ khuẩn thường đòi hỏi có cả 2 nguồn nitơ hữu cơ và vô cơ
trong môi trường. nguồn nitơ hữu cơ thích hợp là các hợp chất từ thực vật như:
bột đậu tương, bột đậu xanh, cao ngô, … nguồn nitơ vô cơ là: muối amon hoặc
nitrat.
1.1.2.4. Sự hình thành và các con đường sinh tổng hợp chất kháng sinh:
Có nhiều quan điểm v
ề chất kháng sinh, có quan điểm cho rằng chất
kháng sinh là sản phẩm thải của quá trình trao đổi chất của xạ khuẩn, cũng có
quan điểm cho rằng chất kháng sinh là chất tham gia cạnh tranh của xạ khuẩn
trong môi trường sống tự nhiên. Dù theo quan điểm nào đi nữa thì các con
đường sinh ra chất kháng sinh từ xạ khuẩn được tóm tắt như sau:
- Chất kháng sinh được tổng hợp từ một chất trao đổ
i sơ cấp duy nhất
(như chất kháng sinh cloramphenicol, các chất kháng sinh thuộc nhóm
nucleozit).
- Chất kháng sinh được hình thành từ hai hoặc ba chất trao đổi bậc một
khác nhau (như các chất kháng sinh lincomicin, novobiocin).
- Chất kháng sinh được tổng hợp bằng cách polyme hóa các chất trao đổi
bậc 1, sau đó có thể tiếp tục biến đổi qua các phản ứng enzym khác. Có thể
phân biệt thành 4 dạng:
+ Chất kháng sinh nhóm polypeptit theo con đường trùng hợp các
acid amin: bacitracin, polymycin.
+ Chất kháng sinh được tạo thành nhờ ph
ản ứng polyme hóa các đơn
vị acetat, propionat: chất kháng sinh nhóm macrolit, tetracilin, rifamicin.
+ Chất kháng sinh aminoglycozit được tạo thành nhờ các phản ứng
trùng hợp polysacarit: neomicin, streptomycin.
+ Chất kháng sinh được hình thành theo con đường tổng hợp các hợp
chất izopreonit từ các đơn vị acetat…

1.1.2.5. Cơ chế tác động của chất kháng sinh:
1.1.2.5.1. Ức chế tổng hợp thành tế bào vi khuẩn:

16
Thành tế bào vi khuẩn có cấu tạo từ peptidoglycan gồm các đơn vị
murein, đó là disacarit pentapeptit (N – acetylglucozamin, acid N – acetyl
muramic) gắn với chuổi peptapeptit.
Cycloserin có cấu tạo tương tự D – alanin, nó có thể cạnh tranh với
D – alanin để gắn vào các enzyme alanin – racemaza và D – alanin – D alanin
synthetaza ngăn cản sự tạo thành D – alanin – D – alanin.
Các chất kháng sinh β – lactam thấm qua thành tế bào dễ dàng gắn
lên màng sinh chất: ở đây một số protein có khả năng gắn với chất kháng sinh
gọi là PBP (penicillin binding protein) mỗi protein có ái lực riêng với m
ột loại
β – lactam ảnh hưởng trực tiếp lên quá trình sinh tổng hợp murein.
1.1.2.5.2. Ức chế tổng hợp protein:

- Các chất kháng sinh ức chế tổng hợp protein:
Một số chất kháng sinh như cloramphenicol gắn vào tiểu đơn vị 50S
của riboxom, chất này phong bế peptiditranpheraza ngăn cản sự kéo dài mạch
polypeptit.(xem hình 1.6)
Các chất kháng sinh thuộc nhóm macrolit như: erythromycin,
lincomycin, … ức chế việc giải phóng acid amin khỏi phức hệ aminocyl –
ARNt – ribixom – ARNm. (xem hình 1.6)
Tetracilin gắn lên receptor ở cả đơn vị 30S và 50S ức chế quá trình
tổng hợp protein. (xem hình 1.6)
Puromycin, chất ức chế dịch mã có cấu trúc g
ần giống với đầu 3’của
một tyrocyl – ARNt ở vị trí A, do đó nó có thể tác dụng với peptidyl –
puromycin. Peptidyl – puromycin không chuyển sang vị trí P, không tham gia

vào quá trình vận chuyển, do đó không tiếp tục quá trình kéo dài chuổi
polypeptit và tách ra khỏi riboxom.
- Các chất kháng sinh dẫn đến sinh tổng hợp protein bất thường:
Một số chất có thể gắn với phần 30S của riboxom làm thay đổi cấu
hình không gian của tiểu thể này, ảnh hưởng đến việc gắn RNAm vào riboxom
làm rối loạn đọc.

17
Ví dụ: Streptomycin tác dụng làm cho codon UUU mã hóa cho
phenyl bị đọc sai thành AUU, mã hóa cho izolơcin do vậy acid amin
phenylalanime bị thay bằng izolơcin.(xem hình 1.6)

Hình 1.6: Sự ức chế tổng hợp protein của một số chất kháng sinh.
1.1.2.5.3. Phá hủy màng nguyên sinh chất:
Đó là các chất kháng sinh như Bacitracin, Polymicin.
Polymycin làm phá vỡ lớp phospholipid của cấu trúc màng nguyên
sinh chất làm cho các chất khuếch tán ra khỏi tế bào, tế bào sẽ chết.
Chất kháng sinh polyen tác động lên thành phần sterol của màng.
Màng tế bào vi khuẩn không chứa sterol nên thường không bị kháng sinh
thuộc nhóm này tác động, ngoại trừ tế bào nấm, tế bào động vật và tế bào
ngườ
i (do có thành phần sterol trên màng).
1.1.2.5.4. Ức chế tổng hợp acid nucleic:
Những chất kháng sinh như: mitomycin, actinomycin, mitramycin,
… gắn với acid nucleic (DNA, RNA) tạo thành phức hợp bất hoạt, ngăn cản
sự sao chép của các phân tử acid nucleoic này.

18
Một số chất kháng sinh chống virus như vidarabin, axiclovir có cấu
trúc giống acid nucleoic do đó có thể gắn với enzym cần tổng hợp DNA của

virus.
Rifamycin, novobiocin ức chế RNA polymeraza, flucitocin ức chế
timidilatsintetaza, ảnh hưởng trực tiếp đến tổng hợp RNA.
1.1.2.5.5. Ức chế cạnh tranh:
Những chất kháng sinh này có cấu trúc gần giống với chất trao đổi
bình thường (acid amin, coenzym) nên chúng có thể tranh chấp enzym hoặc có
thể thay thể chất trao đổi và làm bấ
t hoạt cơ chất này.
Ví dụ: ở vi khuẩn, acid folic (vitamin B9) là chất thiết yếu để tổng hợp tạo
thymin, chất này được tạo thành qua quá trình chuyển hóa từ acid
paminobenzoic (APAB). Sulfamit do có cấu trúc giống APAB nên có thể thay
thế APAB và không tạo acid folic.
1.1.3. Tách chiết và tinh chế chất kháng sinh:
Chất kháng sinh do vi sinh vật tổng hợp nên vừa nằm trong tế bào
vừa nằm trong dịch nuôi cấy – chúng có thể không hoà tan hay hòa tan trong
dịch nuôi cấy, do vậy trong tách chiết chất kháng sinh người ta thường ti
ến
hành tách chiết kháng sinh từ tế bào (sinh khối) và từ dịch nuôi cấy. Có nhiều
phương pháp khác nhau để tách chiết chất kháng sinh như:
- Tách chiết chất kháng sinh bằng phương pháp hấp phụ: hấp phụ nhằm
mục đích gắn hợp chất cần thiết có trong dung dịch nước ở nồng độ thấp vào
một chất hấp thụ gắn thích hợp. Sau đó lại phải giải hấp ph
ụ chất đã gắn ở trên
bằng một thể tích nhỏ của một dung dịch khác ở một pH chính xác. Phương
pháp này cho phép: cô lập, tinh chế, cô đặc sản phẩm cần thu nhận. Trong các
phòng thí nghiệm và trong sản xuất công nghiệp, người ta sử dụng các chất
hấp thụ như than hoạt tính có ưu điểm là ít tính đặc hiệu, ít nhạy cảm với pH
và có diện tích tiếp xúc lớn, thường đối với x
ạ khuẩn người ta sử dụng 2%
than hoạt tính trong dịch nuôi cấy xạ khuẩn đã loại bỏ sinh khối và pH = 7

khuấy 1 giờ và lọc qua giấy lọc. Than hoạt tính được giải hấp phụ bằng dung

19
môi hữu cơ (aceton) với tỉ lệ 1:3 trong 6 giờ.; ngoài than hoạt tính còn có Oxit
nhôm và Gel silic là 2 chất được nạp vào các cột dùng trong các quá trình
phân ly của các sắc tố hay một số steroit. (Nguyễn Đức Lượng, 2001)
- Tách chiết kháng sinh bằng nhựa trao đổi ion: các loại nhựa này là
những phân tử của styren trùng hợp với sự có mặt của một lượng nhất định
divinyl benzen, sự kết hợp đến 12% divinylbenzen sẽ tạo các cầu nối giữa các
m
ạch trong quá trình trùng hợp, cho phép tạo các mạng polyme làm tăng độ
xốp của chúng và làm khung cho nhiều nhóm hóa học, tạo ra tính đặc biệt cho
mỗi loại nhựa. những nhựa cationit mạnh chứa tới 3 nhóm sunfonic trong các
phân tử benzen làm cho nhựa có tính acid mạnh. Những chất trao đổi ion
cenllulotic là những este của cenlluloza, chúng đóng vai trò của chất trao đổi
anion hay cation. Ngoài ra chúng còn có những tính chất đặc biệt như hút
nước, khả năng trao đổi tăng nhanh hơn 5m Eq/g. Đối với tách chiết s
ản phẩm
trao đổi ở xạ khuẩn thường người ta sử dụng 5% nhựa trao đổi ion trong dịch
nuôi cấy xạ khuẩn đã loại bỏ sinh khối và lắc trên máy lắc 2 giờ. Sau khi loại
dịch lọc, nhựa trao đổi được rửa bằng nước cất. Giải hấp phụ bằng NH
4
OH 1N
và HCl 1N, sau khi giải hấp phụ đem cô chân không ở 60
O
C và tủa kháng sinh
bằng aceton (theo Nguyễn Đức Lượng, 2001)
- Phương pháp tách chiết chất kháng sinh bằng dung môi hữu cơ: quá
trình tách chiết bằng dung môi hữu cơ thường được thực hiện qua 2 giai đoạn:
đầu tiên là giai đoạn trộn 2 pha nước và dung môi để tăng bề mặt tiếp xúc,

đảm bảo các phân tử của các chất lỏng tiếp xúc chặt chẽ với nhau. thời gian
khuấy phải đủ để cho phép khuyếch tán m
ạnh các sản phẩm phải chiết vào
dung môi hữu cơ; cuối cùng là giai đoạn nhũ dịch sau khi lắng, các dung môi
được dùng bao gồm các chất như sau: các ancol (butanol, isopropanol,
propanol.), các este (acetal, butyl, amyl), các ceton (metyl ityl aceton,
metylbutyl ceton), các ete (ete izopropilic, dioxan), benzen, phenol, pyridin,
dicloetan, clorofoc. Các dung môi đều phân cực, khi chọn dung môi hữu cơ,
ngtười ta thường quan tâm đến 2 tính chất: độ hoà tan của nó trong nước và ái

20
lực của nó với chất cần tách chiết, trong đó độ hoà tan của dung môi lại phụ
thuộc vào nhiệt độ, ta chọn nhiệt độ sao cho độ hoà tan của dung môi là nhỏ
nhất.
1.1.3.1. Tách chiết kháng sinh từ sinh khối:
Có nhiều phương pháp tách chiết gồm các phương pháp sau: phương
pháp cơ học và siêu âm (dùng thiết bị Edebo,và thiết bị Rogers), phương pháp
enzym (sử dụng chính enzym của tế bào phá vở tế bào đối với tế bào n
ấm men
hoặc sử dụng enzym bên ngoài để phá vở những thành phần tương ứng trên
thành tế bào của vi sinh vật), phương pháp hóa lý (gây sốc nhiệt), phương
pháp hoá học. Với phương pháp tách chiết kháng sinh bằng hóa học dựa trên
khả năng tạo ra áp suất thẩm thấu mạnh của 1 số hóa chất, người ta cho 1 số
hóa chất vào như NaCl, Foluen, Cồn … các chất này sẽ tạo ra một áp suất
thẩm thấu đủ mạ
nh để làm tế bào bị vỡ và giải phóng các chất trong tế bào ra
(Nguyễn Đức Lượng, 2001), bên cạnh đó, để việc tách chiết kháng sinh đạt
hiệu quả cao từ sinh khối đòi hỏi khả năng hoà tan của chất kháng sinh trong
tác nhân chiết phải lớn, hay khả năng tách chiết phụ thuộc vào độ hoà tan của
chất dùng để tách chiết.

Trước khi tách chiết, sinh khối cần rửa bằng nước để loạ
i bỏ thành
phần môi trường; các dung môi dùng để tách chiết có nhiều loại như: etyl
acetat, butanol, etanol, metanol, … nhưng trong đó aceton là dung môi có cực
thấp nhất thường hay được sử dụng nhiều hơn trong tách chiết chất kháng
sinh.
1.1.3.2. Tách chiết kháng sinh từ dịch lọc:
Cũng tương tự như tách chiết kháng sinh từ sinh khối, các chất
kháng sinh trong dịch lọc có trọng lượng phân tử thấp thường hoà tan trong
nước và dung môi hữu cơ nên người ta thường l
ựa chọn dung môi hòa tan chất
kháng sinh mạnh để tách kháng sinh ra khỏi môi trường dịch lọc; butanol là
dung môi thường được sử dụng.

×