Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

tiểu luận đề tài phân tích tổ chức bộ máy nhà nước theo hiến pháp 1980

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199 KB, 29 trang )

Đề tài: “Phân tích tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980”


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài....................................................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu..............................................................................................3
3. Đối tượng nghiên cứu............................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................3
NỘI DUNG................................................................................................................5
Chương 1: Hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản Luật Hiến Pháp Việt Nam năm 1980
....................................................................................................................................5
1.1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1980........................................................5
1.2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1980.........................................................6
Chương 2: Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980...................................16
2.1. Bộ máy nhà nước..............................................................................................16
2.1.1. Khái niệm nhà nước.......................................................................................16
2.1.2. Khái niệm bộ máy nhà nước..........................................................................16
2.2. Đặc điểm của Bộ máy nhà nước.......................................................................17
2.3. Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980..............................................18
2.3.1. Bối cảnh kinh tế xã hội..................................................................................18
2.3.2. Khái quát về bản chất, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (giai đoạn 1980-1992)...........................................20
2.3.3. Đặc điểm bộ máy nhà nước Việt Nam giai đoạn Hiến pháp năm 1980.........25
KẾT LUẬN..............................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................29

2


MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Quá trình hình thành và phát triển của bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là một quá trình liên tục, gắn liền với từng giai đoạn của cách
mạng Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam trong từng thời kì, luôn quan tâm và
chú trọng việc xây dựng, củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước từ trung ương
đến địa phương. Nếu như trong thời kì của Hiến pháp 1946, Nhà nước chủ yếu là
bộ máy cai trị, dùng bạo lực cách mạng để trấn áp thù trong, giặc ngồi, duy trì
trật tự, an ninh trong nước. Từ Hiến pháp 1959 đến nay, Nhà nước dân chủ nhân
dân đã làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và trở thành người điều hành nên
sản xuất xã hội. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành TW Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nhấn mạnh: “Nhiệm vụ cách mạng của giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta và
nhân dân ta phải đặc biệt quan tâm và nhanh chóng xây dựng và củng cố bộ máy
chính quyền nhà nước…”. Xuất phát từ tầm quan trọng của cơng cuộc hồn thiện
bộ máy Nhà nước, qua q trình học tập bộ mơn, em cũng đã tìm hiểu và nghiên
cứu về vấn đề này, nên em xin chọn đề tài: “Phân tích tổ chức bộ máy nhà nước
theo Hiến pháp 1980” làm bài tiểu luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu và làm rõ các nội dung lý luận về tổ chức bộ máy nhà nước theo
Hiến pháp 1980, qua đó góp phần nghiên cứu và liên hệ thực tiễn về tổ chức bộ
máy nhà nước hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu
Phân tích tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tìm kiếm tài liệu, sách báo liên quan nghiên cứu về phân tích tổ
chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980.
Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu
3


Phương pháp phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật lịch sử duy

vật biện chứng,chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh

4


NỘI DUNG
Chương 1: Hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản Luật Hiến Pháp Việt Nam năm
1980
1.1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1980
Trước tình hình đó, tháng 9/1975, Hội nghị lần thứ 24 của Ban chấp hành
trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
lúc này là phải hoàn thành việc thong nhất nước nhà. Nghị quyết của Hội nghị đã
nhấn mạnh: “Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất của đồng
bào cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam,
của lịch sử dân tộc Việt Nam...”. Hội nghị lần thứ 24 của Ban chấp hành trung
ương Đảng Lao động Việt Nam đã quyết định triệu tập Hội nghị hiệp thương chính
trị thống nhất Tổ quốc. Hội nghị đã nhất trí quyết định tổ chức tổng tuyển cử bầu ra
Quốc hội chung cho cả nước. Cuộc tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thơng đầu
phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín đã diễn ra ngày-25/4/1976 với sự tham gia của hơn
23 triệu cử tri, chiếm gần 99% tổng số cử tri.
Tổng số đại biểu Quốc hội đã bầu là 492, trong đó 249 đại biểu miền Bắc và
243 đại biểu miền Nam.1 Tổng số đại biểu Quốc hội được tính theo tỷ lệ: 1 đại
biểu/1.000 cử tri.
Quốc hội chung của cả nước đã bắt đầu kì họp đầu tiên vào ngày 25/6/1976
và kéo dài đến ngày 03/7/1976. Ngày 02/7/1976, Quốc hội đã thông qua các nghị
quyết quan trọng. Quốc hội đã quyết định trong khi chưa có Hiến pháp mới, tổ
chức và hoạt động của Nhà nước ta dựa trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 của nước
Việt Nam dân chủ cộng hồ, đồng thời Quốc hội khố VI đã ban hành Nghị quyết
về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1959 và thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp gồm
36 người do đồng chí Trường Chinh - Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội làm

Chủ tịch. Sau một năm rưỡi làm việc khẩn trương, Uỷ ban đã hoàn thành Dự thảo.
Bản Dự thảo được đưa ra cho toàn dân thảo luận. Tháng 9/1980, Ban chấp hành
5


trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp kì đặc biệt để xem xét và cho ý kiến
bổ sung, sửa chữa Dự thảo trước khi trình Quốc hội thảo luận, thơng qua. Sau một
thời gian thảo luận, tại kì họp thứ 7, Quốc hội khố VI đã nhất trí thông qua Hiến
pháp.
1.2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1980
Hiến pháp năm 1980 bao gồm lời nói đầu, 147 điều chia làm 12 chương.
Lời nói đầu của Hiến pháp khẳng định truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, ghi nhận
những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân Việt Nam đã giành được trong Cách mạng
tháng Tám, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mĩ xâm lược và bè lũ tay sai. Lời nói đầu cịn xác định những nhiệm vụ của
cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
của Đảng đề ra và nêu lên những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp năm 1980 đề cập.
Chương I của Hiến pháp năm 1980 quy định chế độ chính trị của Nhà nước
ta.
Chương này có 14 điều (từ Điều 1 đến Điều 14) bao gồm các vấn đề cơ bản
sau đây:
- Xác định bản chất giai cấp của Nhà nước ta là Nhà nước chun chính vơ
sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân
dân lao động... xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản
(Điều 2).
- Khác với Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm
1980 quy định các quyền dân tộc cơ bản bao gồm 4 yếu tố: Độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Đây là một phạm trù pháp luật quốc tế do Chủ tịch
Hồ Chí Minh đề xướng dựa trên những khái niệm chung về quyền tự nhiên của con
người. Phạm trù quyền dân tộc cơ bản được thế giới thừa nhận một cách rộng rãi và

trở thành một trong những phạm trù quan trọng của luật quốc tế hiện đại, một đóng
góp lớn của Việt Nam vào sự nghiệp bảo vệ các quyền cơ bản của các dân tộc.
6


- Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1980 thể chế
hố vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Nhà nước và xã hội vào một điều
của Hiến pháp (Điều 4).
Sự thể chế hố này thể hiện sự thừa nhận chính thức của Nhà nước về vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hiến pháp cũng quy định: Các tổ chức của
Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp.
- Ngồi việc thể chế hố vai trị lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp năm 1980 cịn
xác định vị trí, vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội quan trọng khác như Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9), Tổng cơng đồn Việt Nam (Điều 10). Đây cũng là
lần đầu tiên vị trí, vai trị của các tổ chức chính trị-xã hội này được quy định trong
Hiến pháp.
- Với Hiến pháp năm 1980, quan điểm về quyền làm chủ tập thể của Đảng ta
đã được thể chế hoá (Điều 3).
- Cũng như Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 tiếp tục khẳng định
chính sách đồn kết dân tộc của Nhà nước ta. Điều 5 Hiến pháp năm 1980 quy
định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thong nhất của
các dân tộc cùng sinh sống trên đẩt nước Việt Nam, bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ. Nhà nước bảo vệ, tăng cường và củng cổ khối đại đoàn kết dân tộc, nghiêm
cấm mọi hành vỉ miệt thị, chia rẽ dân tộc”.
- Hiến pháp năm 1980 kế tục tư tưởng của Hiến pháp năm 1959 nhấn mạnh
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân. Cũng như Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 quy
định Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp cũng như các cơ quan khác của nhà
nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.

- Ngoài nguyên tắc tập trung dân chủ, Hiến pháp còn quy định nguyên tắc
pháp chế Xã hội chủ nghĩa. Đây là một quy định hoàn toàn mới so với Hiến pháp
7


năm 1959. Tại Điều 12 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Nhà nước quản lý xã hội
theo pháp luật và không ngừng tàng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Chương II- Chế độ kinh tế, gồm 22 điều (từ Điều 15 đến Điều 36).
Giống như Hiến pháp năm 1959, Chương này quy định những vấn đề cơ bản
trong lĩnh vực kinh tế như mục đích của chính sách kinh tế, các hình thức sở hữu,
các thành phàn kinh tế, các nguyên tắc lãnh đạo nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên,
Hiến pháp năm 1980 CÓ nhiều điểm khác với Hiến pháp năm 1959. Theo Hiến
pháp năm 1959, đất đai có thể thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân, cịn Hiến pháp năm 1980 quốc hữu hố toàn bộ đất đai (Điều 19). Theo Hiến
pháp năm 1959, các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là: Sở hữu nhà nước (sở
hữu toàn dân), sở hữu của hợp tác xã (sở hữu tập thể của nhân dân lao động), sở
hữu của người lao động riêng lẻ và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc (Điều
11). Còn theo Điều 18 Hiến pháp năm 1980 thì Nhà nước tiến hành cách mạng về
quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi Xã hội
chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu Xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: Thành phần
kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế họp tác xã thuộc
sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
Chương III - Văn hóa, giáo dục, khoa học, Kỹ thuật, bao gồm 13 điều
(từĐiều 37 đến Điều 49).
Đây là một chương hoàn toàn mới so với Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp
năm 1959. Chương này quy định mục tiêu của cách mạng tư tưởng và văn hoá là
xây dựng nền văn hoá mới có nội dung Xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có
tính đảng và tính nhân dân; xây dựng con người mới có ý thức làm chủ tập thể, u
lao động, q trọng của cơng, có văn hố, có kiến thức khoa học, kĩ thuật, có sức

khoẻ, yêu nước Xã hội chủ nghĩa và có tinh thần quốc tế vô sản (Điều 37). Theo
quy định của Hiến pháp, chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển
8


của xã hội Việt Nam (Điều 38). Nhà nước ta chủ trương bảo vệ và phát triển những
giá trị văn hoá và tinh thần của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới; chống
các tư tưởng phong kiến, tư sản... và bài trừ mê tín, dị đoan. Ngồi những quy định
trên, Chương III cịn xác định chính sách về khoa học, lỡ thuật, văn học, nghệ thuật
và các cơng tác thơng tin, báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh, truyền hình...
Chương IV - Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bao gồm 3 điều (từ Điều 50
đến Điều 52).
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vấn đề bảo vệ Tổ quốc Xã hội
chủ nghĩa được xây dựng thành một chương riêng trong hiến pháp. Điều này xuất
phát từ tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề phòng thủ đất nước. Bảo vệ Tổ quốc Xã
hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định là một trong hai nhiệm vụ chiến lược của
Đảng và Nhà nước.. Bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ
tồn tại song song trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, có sự gắn bó và tương
hỗ lẫn nhau. Tại Điều 50 Hiến pháp năm 1980 xác định đường lối quốc phòng của
Nhà nước là xây dựng một nền quốc phịng tồn dân, toàn diện và hiện đại trên cơ
sở kết hợp xây dựng Tổ quốc với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng
vũ trang nhân dân với sức mạnh toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết
dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ Xã hội chủ nghĩa. Tại Điều 51
Hiến pháp xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân. Điều cuối cùng
trong Chương này là thực hiện chế độ nghĩa vụ qn sự, chăm lo cơng nghiệp quốc
phịng, huy động nhân lực, vật lực nhằm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước. Nhà nước ta xây
dựng nền quốc phịng tồn dân, vì vậy Hiến pháp đã quy định: “Tất cả các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an
ninh do pháp luật quy định” (Điều 52).

Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, bao gồm 29 điều (từ
Điều 53 đến Điều 81).
9


Kế tục và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp
năm 1980 một mặt ghi nhận quyền và nghĩa vụ của công dân đã quy định trong hai
bản Hiến pháp trước, mặt khác xác định thêm một số quyền và nghĩa vụ mởi phù
hợp với giai đoạn mới của nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa. So với Hiến pháp năm
1959, Hiến pháp năm 1980 đã xác định thêm một số quyền mới của công dân như
quyền tham gia quản lý công việc của Nhà nước và của xã hội (Điều 56), quyền
được khám và chữa bệnh khơng phải trả tiền (Điều 61), quyền có nhà ở (Điều 62),
quyền được học tập không phải trả tiền (Điều 60), quyền của các xã viên hợp tác xã
được phụ cấp sinh đẻ (Điều 63). Hiến pháp cũng xác định thêm một số nghĩa vụ
mới của công dân: Công dân phải trung thành với Tổ quốc (Điều 76); ngồi bổn
phận làm nghĩa vụ qn sự, cơng dân cịn phải tham gia xây dựng quốc phịng tồn
dân; ngồi nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỉ luật lao động, tôn trọng
những quy tắc của cuộc sống Xã hội chủ nghĩa, cơng dân cịn phải bảo vệ an ninh
chính trị và trật tự, an tồn xã hội, giữ gìn bí mật nhà nước; ngồi nghĩa vụ đóng
thuế, cơng dân cịn phải tham gia lao động cơng ích. Tuy nhiên, một số quyền mới
quy định trong Hiến pháp năm 1980 không phù hợp với điều kiện thực tế của đất
nước nên khơng có điều kiện vật chất đảm bảo thực hiện.
Mặc dù có những hạn chế nói trên song chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân trong Hiến pháp năm 1980 vẫn là một bước phát triển mới, phong phú
hơn, cụ thể hơn, rõ nét hơn.
Chương VI - Quốc hội, bao gồm 16 điều (từ Điều 82 đến Điều 97).
Cũng như quy định của Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 xác định
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Quốc hội quyết định
những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế

và văn hoá, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Quốc hội thành lập các cơ quan nhà nước tối cao như bầu ra Chủ tịch, các Phó Chủ
10


tịch và các thành viên khác của Hội đồng Nhà nước; Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và
các thành viên khác của Hội đồng Bộ trưởng; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối
cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước... (Điều 82 và 83). Như vậy về cơ bản,
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội không thay đổi nhưng cơ cấu tổ
chức của Quốc hội có sự thay đổi lớn. Nếu theo Hiến pháp năm 1959 cơ quan
thường trực của Quốc hội là Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì theo Hiến pháp năm
1980 cơ quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng Nhà nước. Nhưng Hội đồng
Nhà nước theo Hiến pháp năm 1980 còn là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 1959, khi Quốc hội họp thì bầu Chủ
tịch đồn để điều khiển cuộc họp (Điều 47), cịn theo Hiến pháp năm 1980 thì Quốc
hội bầu ra Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội. Chủ tịch Quốc hội chủ tọa các
phiên họp của Quốc hội, bảo đảm việc thi hành nội quy của Quốc hội; giữ quan hệ
với các đại biểu Quốc hội; điều hoà và phối họp hoạt động của các uỷ ban của
Quốc hội; chứng thực những luật và những nghị quyết đã được Quốc hội thông
qua; thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội.
Như vậy, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội là một thiết chế mới,
một cách tổ chức mới của Quốc hội mà trước đó lịch sử lập hiến nước ta chưa biết
đến.
Chương VII - Hội đồng Nhà nước, bao gồm 6 điều (từ Điều 98 đến Điều
103).
Đây là một chương mới so với Hiến pháp năm 1959. Theo quy định tại Điều
98 Hiến pháp năm 1980, Hội đồng Nhà nước là cơ quan cao nhất hoạt động thường
xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Như vậy, Hội đồng Nhà nước vừa thực hiện chức năng của Ủy ban Thường

vụ Quốc hội, vừa thực hiện chức năng của Chủ tịch nước. Vì vậy, thẩm quyền của
Hội đồng Nhà nước tương đương với thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
11


và thẩm quyền của Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1959. Hội đồng Nhà nước
có những nhiệm vụ và quyền hạn rất lớn, được quy định tại Điều 100 Hiến pháp
năm 1980.
Trong số các quyền của Hội đồng Nhà nước thì việc quyết định thành lập
hoặc bãi bỏ các bộ, các uỷ ban nhà nước; cử và bãi miễn các Phó Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng, các bộ trưởng, các chủ nhiệm uỷ ban nhà nước; việc tuyên bố tình
trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược, Hội đồng Nhà nước phải trình Quốc
hội phê chuẩn trong kì họp gần nhất của Quốc hội. Ngoài những nhiệm vụ, quyền
hạn đã được xác định, tại khoản 21 Điều 100 Hiến pháp năm 1980 còn ghi nhận:
“... Quốc hội cỏ thể giao cho Hội đồng Nhà nước những nhiệm vụ và quyền hạn
khác, khỉ xét thấy cần thiết”. Thể chế Chủ tịch nước tập thể trong thực tiễn đã thể
hiện những ưu điểm và nhược điểm của nó. Ưu điểm của thể chế này là các vấn đề
quan trọng của đất nước đều được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, như
vậy thường vững vàng hơn so với một người quyết định. Nhược điểm của nó là do
mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể nên công việc đôi khi chậm chạp, trách nhiệm của
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước chưa thật rõ ràng. Giữa hai kì họp của Quốc hội thì
quyền hạn của Hội đồng Nhà nước rất lớn nhưng trong kì họp Quốc hội thì thẩm
quyền của Hội đồng Nhà nước lại hầu như không được thể hiện. Mặt khác, việc
Hội đồng Nhà nước được quyền quyết định một số quyền hạn thuộc thẩm quyền
Quốc hội đã làm nảy sinh vấn đề liên quan đến yêu cầu tập trung quyền lực, nhất là
quyền lập pháp vào Quốc hội. Theo quy định của Hiến pháp thì chức năng, nhiệm
vụ giao cho Hội đồng Nhà nước rất lớn nhung cơ cấu của thành viên Hội đồng Nhà
nước hầu hết gồm những người kiêm nhiệm.
Chương VIII - Hội đồng Bộ trưởng, bao gồm 9 điều (từ Điều 104 đến Điều
112).

Theo quy định tại Điều 104 Hiến pháp năm 1980, Hội đồng Bộ trưởng là
Chính phủ của nước Cộng hồ Xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí như Hội đồng
12


Chính phủ trong Hiến pháp năm 1959. Tuy nhiên, Hội đồng Bộ trưởng về tính chất
khơng hồn tồn giống như Hội đồng Chính phủ. Hội đồng Chính phủ theo quy
định của Hiến pháp năm 1959 là “cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Việt Nam
dãn chủ cộng hoà”.
Khác với Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng Bộ
trưởng Nà cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhấc. Với quy định này, có thể thấy tính độc lập của Chính phủ
trong quan hệ với Quốc hội bị hạn chế.
Về nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng, Điều 107 Hiến pháp
năm 1980 quy định các vấn đề cơ bản sau đây:
Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật; trình dự án luật, dự án pháp
lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước; lập dự án kế hoạch
nhà nước và dự án ngân sách nhà nước trình Quốc hội; tổ chức thực hiện kế hoạch
nhà nước và ngân sách nhà nước; thống nhất quản lý việc cải tạo, xây dựng và phát
triển nền kinh tế quốc dân, việc xây dựng và phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học,
kĩ thuật; xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến cơ sở;
đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ nhà nước; lãnh đạo công tác
cùa các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng; bảo đảm cho Hội đồng
nhân dân các cấp thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương; lãnh đạo ủy ban nhân dân các cấp; đình chỉ việc thi hành và
sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị, thơng tư khơng thích đáng của các
bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng; đình chỉ việc thi hành những
nghị quyết khơng thích đáng của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương và cấp tương đương, đồng thời đề nghị Hội đồng Nhà nước sửa đổi

hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó; đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ
những quyết định, chỉ thị khơng thích đáng của ủy ban nhân dân các cấp; quyết
13


định việc phân vạch địa giới của các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh... về cơ bản,
nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Bộ trưởng theo Hiến pháp năm 1980 giống với
nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp năm 1959. Tuy
nhiên, Hiến pháp năm 1980 bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn mới phù hợp với
nhu cầu của xã hội như tổ chức và lãnh đạo công tác trọng tài nhà nước về kinh tế;
tổ chức và lãnh đạo công tác bảo hiểm nhà nước ...So với các hiến pháp trước thì
chế định về Hội đồng Bộ trưởng cịn có một điểm mới nữa là quy định về trách
nhiệm tập thể của các thành viên Hội đồng Bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng
Nhà nước.
Chương IX - Hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân, bao gồm 14 điều (từ
Điều 113 đến Điều 126).
Tại Chương này, Hiến pháp quy định về phân cấp hành chính ở nước ta, xác
định vị trí, tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân.
Về phân cấp đơn vị hành chính, Hiến pháp năm 1980 quy định nước ta có ba
cấp hành chính. Đó là tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương;
huyện, quận, thành phố trực thuộc tỉnh và thị xã; xã, phường, thị trấn. Khác với
Hiến pháp năm 1959 khu tự trị bị bãi bỏ (theo Nghị quyết kì họp Quốc hội khố V
ngày 27/12/1975) nhưng lập thêm đơn vị hành chính đặc khu (tương đương với
tỉnh), đơn vị phường ở những thành phố, thị xã (tương đương với xã). Ở tất cả các
đơn vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân.
Những quy định của Hiến pháp năm 1980 về Hội đồng nhân dân và ủy ban
nhân dân được cụ thể hoá bởi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
năm 1983. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 1989 đưa
thêm vào cơ cấu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,

huyện, quận, thị xã một cơ quan mới là thường trực Hội đồng nhân dân. Nhiệm kì

14


Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp cũng được nâng lên từ 3 năm lên 5
năm.
về tính chất, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân cơ
bản giống Hiến pháp năm 1959.
Chương X - Toà án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân, bao gồm 15 điều
(từ Điều 127 đến Điều 141).
Cũng giống như Hiến pháp năm 1959, Chương này quy định về nhiệm vụ
chung của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân, về hệ thống các cơ quan toà
án, chức năng của các cơ quan toà án, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của tồ
án. Có thể khẳng định rằng các quy định của Hiến pháp năm 1980 trong Chương
này hoàn toàn giống với Hiến pháp năm 1959.
Chương Xỉ của Hiển pháp quy định về Quốc kì, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đơ.
Chương XII quy định về hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp.
Điều 146 Hiến pháp quy định: Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, có
hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp,
về thủ tục sửa đổi Hiến pháp hồn tồn giống Hiến pháp năm 1959.
Tóm lại, Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ữong phạm vi cả nước. Tuy có nhược điểm nhưng Hiến pháp năm 1980 là một mốc
quan trọng trong lịch sử lập hiến của nước ta.

15


Chương 2: Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980
2.1. Bộ máy nhà nước

2.1.1. Khái niệm nhà nước
Nhà nước là tổ chức quyền lực, chính trị của xã hội có giai cấp, có lãnh thổ,
dân cư và chính quyền độc lập, có khả năng đặt ra và thực thi pháp luật nhằm thiết
lập trật tự xã hội nhất định trong phạm vi lãnh thổ của mình.
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt có các dấu hiệu đặc trưng sau: phân bố dân
cư theo đơn vị hành chính – lãnh thổ; các bộ máy quyền lực cơng; có chủ quyền tối
cao trong phạm vi lãnh thổ của đất nước mình; có quyền quy định các loại thuế
mang tính bắt buộc đối với cá nhân, tổ chức trong xã hội.
2.1.2. Khái niệm bộ máy nhà nước
Để thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, bộ máy nhà nước cần được tổ
chức chặt chẽ, khoa học. Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ
Trung ương đến địa phương, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống
nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước.
Bộ máy nhà nước theo pháp luật Việt Nam hiện hành được tổ chức như sau:
Thông thường trong bộ máy nhà nước nói chung bao gồm ba loại cơ quan:
cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp.
- Cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương).
- Cơ quan hành chính nhà nước, tức là cơ quan hành pháp (đứng đầu hệ
thống này là Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ
và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã, các sở, phòng, ban…).
- Cơ quan tư pháp:

16


+ Các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa
phương, Tòa án quân sự…).

+ Các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát
nhân dân địa phương, Viện kiểm sát quân sự). Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà
nước tùy thuộc vào hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan nhà nước.
2.2. Đặc điểm của Bộ máy nhà nước
- Bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay được tổ chức và hoạt động dựa trên
các nguyên tắc chung nhất định, bộ máy nhà nước thực chất chỉ là các cơ quan đại
diện cho nhân dân, đảm bảo các quyền lợi cho nhân dân.
Về bản chất thì người dân có quyết đưa ra quyết định trong mọi vấn đề của
đất nước, các công việc liên quan đến chính trị, tư tưởng, văn hóa .
Người dân thực hiện các quyền làm chủ này thông qua hoạt động của các cơ
quan nhà nước hoặc trực tiếp tiến hành như trong các đợt bầu cử đại biểu Quốc hội,
người dẫn sẽ được đi bỏ phiếu lựa chọn cho đại biểu mà mình tín nhiệm.
- Tất cả các cơ quan trong hệ thống bộ máy nhà nước đều mang tính quyền
lực nhà nước, được nhà nước trao các quyền năng cụ thể để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước được phân chia cho các chủ thể nhất định,
không tập trung quyền lực vào một cơ quan hay một cá nhân duy nhân.Tính quyền
lực được thể hiện ở mỗi cơ quan với mức độ khác nhau, phụ thuộc vào phạm vi
thẩm quyền của cơ quan đó theo quy định của pháp luật.
Các cơ quan sử dụng quyền lực nhà nước để thực hiện các công việc một
cách độc lập, tuy nhiên giữa các cơ quan ln có mối quan hệ, hỗ trợ nhau trong
việc giải quyết công việc, cơ quan này giám sát cơ quan khác. Hay chính là dùng
quyền lực để giám sát quyền lực.
Hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm đem lại lợi ích chung cho nhân dân,
“thay mặt” nhân dân giải quyết cơng việc, hết lịng vì nhân dân
17


Các cơ quan trong hệ thống bộ máy nhà nước thì thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật

Trong quá trình làm việc của mình thì các cơ quan nhà nước được quyền ban
hành ra các văn bản pháp luật để chỉ đạo, hướng dẫn hay giải quyết cơng việc trong
phạm vi thẩm quyền của mình.
Do vậy mà những văn bản pháp luật đó mang tính bắt buộc phải chấp hành
đối với các chủ thể nhất định trong xã hội và được đảm bảo thực hiện bằng quyền
lực nhà nước.
2.3. Tổ chức bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980
2.3.1. Bối cảnh kinh tế xã hội
Về nguyên tắc, Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam giai đoạn 1980 1992 được xem xét từ khi Hiến pháp 1980 ra đời đến trước khi ban hành Hiến pháp
1992 và để nghiên cứu lịch sử Nhà nước và pháp luật giai đoạn này, trước hết cần
tìm hiểu bối cảnh chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước ở thời điểm đó.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, đất nước thống nhất, Tổ quốc
hoàn toàn được độc lập. Tuy vậy, về mặt nhà nước vẫn tạm thời tồn tại hai nhà
nước: Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Bắc và Nhà nước Cộng hồ
miền Nam Việt Nam ở miền Nam. Thực tế đó đòi hỏi phải thực hiện nhiệm vụ
thống nhất hai Nhà nước.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam, đó xác định vấn đề cấp bách lúc này là phải hoàn
thành việc thống nhất nhà nước. Nghị quyết của Hội nghị này đã khẳng định:
"Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất của đồng bào cả nước,
vừa là quy luật khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân
tộc Việt Nam. Cách mạng thắng lợi trong cả nước, chế độ thực dân mới do đế quốc
Mỹ áp đặt ở miền Nam bị đập tan, nguyên nhân chia cắt đất nước bị hoàn toàn thủ
tiêu, thỡ đương nhiên cả nước ta độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xó hội.
18


Từ nay, Tổ quốc ta từ Lạng Sơn đến Cà Mau, từ đất liền đến hải đảo vĩnh viễn độc
lập, thống nhất trên cơ sở chủ nghĩa xó hộo
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt nam đó quyết định triệu

tập Hội nghị hiệp thương chính trị để thống nhất nhà nước. Từ ngày 15 đến ngày
21-11-1975 Hội nghị Hiệp thương chính trị đó được tiến hành tại Sài Gũn bao gồm
đại diện của hai miền Nam, Bắc với sự có mặt đủ các thành phần đại biểu đại diện
cho ý chí, nguyện vọng của nhõn dõn cả nước. Hội nghị đó nhất trớ về việc tổ chức
tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội chung cho cả nước và Quốc hội sẽ xác định hệ thống
chính trị, thành lập cơ quan Nhà nước Trung ương và xây dựng Hiến pháp mới của
Nhà nước Việt Nam thống nhất. Cuộc tổng tuyển cử trong cả nước theo nguyên tắc
phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín đó diễn ra ngày 25-4-1976.Tổng
tuyển cử rất thành cơng và đó bầu ra 492 đại biểu Quốc hội, trong đó có 249 đại
biểu miền Bắc và 243 đại biểu miền Nam. Kỳ họp Quốc hội chung đầu tiên đã ra
cácNghị quyết về lấy tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về Quốc
kỳ, Quốc huy, Quốc ca và Thủ đô, về tổ chức và hoạt động của Nhà nước trong khi
chưa có Hiến pháp mới.Cùng với việc ban hành các nghị quyết quan trọng nói trên,
Quốc hội đó quyết định khoá Quốc hội này là khoá VI để thể hiện tính liên tục và
tính thống nhất của Nhà nước ta.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
những chủ trương, quan điểm để chỉ đạo một cách kịp thời việc xây dựng và kiện
toàn nhà nước và pháp luật. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV chỉ
rõ: “Sau thắng lợi của cuộc khỏng chiến chống Mỹ cứu nước, cách mạng Việt Nam
bước sang thời kỳ mới, thời kỳ cả nước độc lập, thống nhất và quá độ bước lên chủ
nghĩa xã hội. Về mặt kinh tế xã hội, nước ta vẫn đang ở trong quá trình từ nền kinh
tế phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lờn chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Về mặt nhà nước, chúng ta phải kiện toàn Nhà nước xã hội
chủ nghĩa của cả nước, tăng cường hiệu lực của Nhà nước về mặt tổ chức và quản
19


lý kinh tế, văn hố và xã hội, nhanh chóng xây dựng và kiện tồn bộ máy chính
quyền nhà nước các cấp ở Miền Nam, tiếp tục hoàn thiện bộ máy chính quyền các
cấp ở miền Bắc”.

Sau 5 năm xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, bước vào đầu thập kỷ 80,
Việt Nam gặp phải rất nhiều khó khăn, đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng
kinh tế xã hội trầm trọng: sản xuất trì trệ, lạm phát tăng vọt, đời sống nhân dân hết
sức khó khăn. Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ VI (năm 1986) đó kịp thời đánh
giá một cách khách quan những thành tựu sau 10 năm xây dựng chủ nghĩa xó hội
trên phạm vi cả nước, đồng thời phân tích những tồn tại, kiểm điểm, phê bình một
cách nghiêm khắc những sai lầm, khuyết điểm. Đặc biệt, Đại hội VI đã đề ra đường
lối đổi mới một cách tồn diện, trong đó tập trung đổi mới và kiện toàn nhà nước
và pháp luật.
Quan điểm chung về đổi mới và hoàn thiện nhà nước và pháp luật giai đoạn
này là nhằm: “Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nêu cao vị trí và vai trò
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho các cơ quan dân cử
thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo Hiến pháp quy định. Tăng
cường pháp chế xó hội chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật. Phân định rành
mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan nhà nước từng cấp theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, phân biệt rừ chức năng quản lý hành chính - kinh tế
với quản lý sản xuất - kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa
phương và vùng lãnh thổ. Chấn chỉnh bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh,
gọn, có đủ năng lực thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật,
chính sách cụ thể; xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch nhà nước; quản lý
và điều hành có hiệu quả các hoạt động kinh tế; xã hội; giữ vững pháp luật, kỷ
cương và trật tự, an toàn xã hội”

20


2.3.2. Khái quát về bản chất, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (giai đoạn 1980-1992).
* Bản chất và hình thức
Về bản chất, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước

kiểu mới - nhà nước chun chính vơ sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước đó là
thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Bản chất của Nhà nước
chuyên chính vơ sản thể hiện ở những khía cạnh sau đây: 1/là tổ chức chính trị
nhằm duy trỡ và củng cố địa vị làm chủ của nhân dân lao động bao gồm giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xó hội chủ nghĩa và những
người lao động khác, mà nũng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân
lãnh đạo; 2/ nhà nước mang tính xã hội ngày càng rộng rãi, có vai trò chủ động và
sáng tạo trong tổ chức và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa; 3/ tính
dân tộc: là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt
Nam; 4/ nhà nước thực hiện chính sách đối ngoại hồ bình, hợp tác và hữu nghị.
Hình thức nhà nước
Hình thức chính thể của nhà nước ta giai đoạn này thuộc loại hình chính thể
cộng hồ đại nghị. Trong đó, Quốc hội - cơ quan do nhân dân cả nước bầu ra, được
xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là thiết chế trung tâm của bộ máy
nhà nước. Các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước đều xuất phát từ Quốc hội, do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, báo cáo trước Quốc hội và chịu trách nhiệm trước
Quốc hội.
* Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước giai đoạn 1980
a) Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
Theo điều 3 Hiến pháp 1980, ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, người chủ tập thể là nhân dân lao động bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân tập thể, tầng lớp trớ thức xã hội chủ nghĩa và những người lao động khác,
mà nũng cốt là liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo. Nhà nước bảo
21


đảm khơng ngừng hồn chỉnh và củng cố chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa
của nhân dân lao động về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; làm chủ trong
phạm vi cả nước, từng địa phương, từng cơ sở; làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên,
làm chủ bản thân. Ngoài ra, nguyên tắc Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân

dân còn được thể hiện rõ nét ở điều 6 Hiến pháp năm 1980. Theo đó, Ở nước Cộng
hồ xó hội chủ nghĩa Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhõn dõn.Nhân dân sử
dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do
nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
b) Tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng trong hệ thống các
nguyên tắc tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vị trí quan
trọng của nguyờn tắc này thể hiện ở chỗ, nó là nguyên tắc cơ bản quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức trong bộ máy
nhà nước; quy định mối quan hệ giữa cơ quan Trung ương với các cơ quan nhà
nước ở địa phương, giữa cấp trên với cấp dưới, giữa thủ trưởng cơ quan, đơn vị với
cán bộ, nhân viên trong cơ quan; quy định cơ chế chuẩn bị, thảo luận, thông qua
Hiến pháp, các văn bản pháp luật, các chủ trương, chính sách, các quyết định trong
hoạt động quản lý của Nhà nước; quy định lề lối làm việc, quan hệ lónh đạo, giám
sát, kiểm tra và xử lý cụng việc trong hoạt động của bộ máy nhà nước... Điều 6
Hiến pháp 1980 quy định: “Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của
Nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”
c) Nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa
Việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền cao độ ("tập
quyền rắn"), nghĩa là quyền lực Nhà nước thống nhất tập trung vào Quốc hội. Theo
cơ chế này thì Quốc hội - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất - thống nhất tất cả các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và giám sát. Các cơ quan Nhà nước khác do Quốc
hội lập ra là để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội giao cho. Do bị chi
22


phối bởi nguyên tắc này mà Hội đồng Bộ trưởng chỉ là cơ quan chấp hành của Quốc
hội và là cơ quan hành chính cao nhất của Quốc hội mà khơng phải là cơ quan hành
chính Nhà nước cao nhất của Nhà nước cộng hịa xó hội Việt nam như trong Hiến
pháp 1992 sau này và cũng không phải là cơ quan hành pháp đích thực theo đúng

nghĩa của nó.
d) Có kế hoạch
Nguyên tắc có kế hoạch là yêu cầu khách quan trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nhà nước là
công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, là người đại diện cho sở
hữu toàn dân đối với tư liệu sản xuất chủ yếu, nên nhà nước có đủ điều kiện quản lý
q trình phát triển kinh tế, văn hố giáo dục, khoa học và các lĩnh vực khác của
đời sống xó hội một cách có kế hoạch. Mặt khác, nhà nước bảo đảm sử dụng và
phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng, nguồn lực vật chất và con người để phát triển
mọi mặt đời sống xã hội, đồng thời đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần ngày càng
cao cho nhân dân.
e) Pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong tổ chức và
hoạt động của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Điều 12 Hiến pháp 1980 quy định:
“Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, nhân viên Nhà nước, nhân viên
các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp,
pháp luật, kiên quyết đấu tranh để phòng ngừa và chống các tội phạm, các việc làm
vi phạm Hiến phap và pháp luật”.
f) Công khai, lắng nghe ý kiến nhân dân
Điều 8, Hiến pháp 1980 quy định: Tất cả các cơ quan Nhà nước và
nhân viên Nhà nước phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
23


nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân, phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.
g) Bình đẳng giữa các dân tộc
Đồn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc

sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân
tộc là chính sách nhất quán giữa các dân tộc tạo nên sự đồn kết, nhất trí, tin tưởng
lẫn nhau, cùng nhau xây dựng xó hội mới. Đồng thời, thực hiện tốt nguyên tắc đó
sẽ ngăn chặn và đập tan mọi sự xuyên tạc, mọi âm mưu chia rẽ, gây mất ổn định
trong quan hệ giữa các dân tộc và chống phá chủ nghĩa xã hội.
h) Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Nguyên tắc này được khẳng định trong điều 4 của Hiến pháp năm 1980. Sự
lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm sự ra đời, tồn tại và phát triển
của Nhà nước kiểu mới. Vì vậy, bảo đảm và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là
yêu cầu khách quan trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước bảo đảm cho Nhà nước có đường lối, phương hướng
đúng xây dựng Nhà nước kiểu mới, có đủ năng lực tổ chức, xây dựng xã hội mới,
bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
không chỉ bảo đảm cho Nhà nước luôn giữ vững và củng cố bản chất Nhà nước
kiểu mới mà cũn bảo đảm cho Nhà nước có phương hướng, mục tiêu, chính sách,
đường lối tổ chức cán bộ đúng đắn để thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ của
mình.
Ở Trung ương, Quốc hội được xác định một cách đầy đủ hơn về mặt tính
chất cũng như thẩm quyền theo hướng là cơ quan có tồn quyền (Điều 82). Theo
mơ hình cơ chế tập quyền xã hội chủ nghĩa, chế định Chủ tịch nước cá nhân được
thiết kế lại sao cho gắn bó với Quốc hội. Hội đồng nhà nước được thiết lập là cơ
quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là chủ tịch tập thể của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
24


Hội đồng Chính phủ được đổi thành Hội đồng Bộ trưởng với tính chất là cơ
quan chấp hành và hành chính cao nhất cịn cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,
do Quốc hội thành lập bằng cách bầu ra tất cả từ Chủ tịch đến thành viên, chịu
trách nhiệm trước Quốc hội. Đến lúc này thì Hội đồng Bộ trưởng – cơ quan trước

đây vốn có nhiều độc lập đã lệ thuộc hoàn toàn vào cơ quan quyền lực (về mặt lý
thuyết).
Chính quyền địa phương bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
(Ủy ban hành chính trước đây đổi tên thành Ủy ban nhân dân) được thành lập ở tất
cả các cấp, kể cả thành phố, thị xã. Thay đổi quan trọng nhất là có sự tăng cường
vai trò của Hội đồng nhân dân ở mỗi cấp. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề
xây dựng địa phương, bầu ra Ủy ban nhân dân.
Hệ thống Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân về cơ bản được tổ
chức giữ nguyên như trước, Quốc hội thành lập Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện thành lập Tòa án nhân dân
tương ứng. Riêng Viện kiểm sát nhân dân các cấp vẫn tổ chức theo nguyên tắc
thống nhất từ trên xuống.
2.3.3. Đặc điểm bộ máy nhà nước Việt Nam giai đoạn Hiến pháp năm 1980
Hiến pháp năm 1980 đã thiết lập một bộ máy nhà nước với đặc điểm bao
trùm là tính chất Xã hội Chủ nghĩa hết sức đậm nét, có thể nói là đậm nét nhất
trong số các bản hiến pháp của Việt Nam. Điều này được thể hiện qua ba đặc điểm
cụ thể sau:
Thứ nhất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định và
quy định một cách mạnh mẽ. Trong Hiến pháp năm 1980, vai trò lãnh đạo của
Đảng tiếp tục được đề cập một cách nổi bật trong Lời nói đầu như nhân tố và động
lực chủ chốt làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó, lần đầu
tiên vai trị lãnh đạo của Đảng đã được quy định trong một điều riêng của hiến
pháp, Điều 4, với nội dung:
25


×