Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.12 MB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ


MƠN HỌC: KINH T CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN

TIỂU LUẬN
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC ĐẢM BẢO HÀI HỊA CÁC QUAN HỆ
LỢI ÍCH KINH T TRONG NỀN KINH T THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA

GVHD: ThS. Hồ Ngọc Khương
SVTH:
1. Phan Hồng Thanh Sơn

20110714

2. Nguyễn Quang Tín

19145480

3. Nguyễn Bùi Thị Thanh Thảo 20126188
4. Hồ Viết Trãi

19145484

5. Quách Duy Cường

19144234

Mã lớp học: LLCT120205_21_1_11




DANH MỤC CÁC TỪ VIT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Ký hiệu chữ viết tắt
ASXH
CNXH
KTTT
LICN
LIKT
LIXH
PLXH
TNHH
XHCN

Chữ viết đầy đủ
An sinh xã hội
Chủ nghĩa xã hội
Kinh tế thị trường
Lợi ích cá nhân

Lợi ích kinh tế
Lợi ích xã hội
Phúc lợi xã hội
Trách nhiệm hữu hạn
Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 1
1.

Lý do chọn đề tài:.......................................................................................................1

2.

Mục tiêu nghiên cứu:..................................................................................................1

NỘI DUNG........................................................................................................................2
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC ĐẢM BÀO HÀI HỊA
CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH T TRONG NỀN KINH T ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA............................................................................................................2
1.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:...............2
1.2. Tính tất yếu khách quan trong việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam:..............................................................................................2
1.2.1.

Sự cần thiết khách quan:..............................................................................2

1.2.2.


Cơ sở khách quan của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:..........................3

1.2.3.

Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường:...................................3

1.3. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:...5
1.3.1.

Về mục tiêu:................................................................................................5

1.3.2.

Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế:...................................................5

1.3.3.

Về quan hệ quản lý nền kinh tế:..................................................................5

1.3.4.

Về quan hệ phân phối:.................................................................................6

1.3.5.

Về quan hệ gắn tang trưởng kinh tế với công bằng xã hội:..........................6

1.4. Khái niệm lợi ích kinh tế, quan hệ lợi ích kinh tế, các nhân tố ảnh hưởng quan hệ
lợi ích kinh tế:.................................................................................................................6
1.4.1.


Khái niệm lợi ích kinh tế:............................................................................6

1.4.2.

Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế:...............................................................7


1.4.3.

Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế:....................................7

1.5. Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản ở Việt Nam:................................................8
1.5.1.

Quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động:...............8

1.5.2.

Quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động:................................10

1.5.3.

Quan hệ lợi ích giữa những người lao động:..............................................11

1.5.4.

Quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích xã hội:........................11

1.6. Vai trò của nhà nước trong đảm bảo hài hòa các quan hệ lợi ích kinh tế:............12

1.6.1.

Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo mơi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm

lợi ích của các chủ thể kinh tế:..................................................................................12
1.6.2.

Điều hịa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội:............................13

1.6.3.

Kiểm sốt ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực:.............14

1.6.4.

Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế:.......................15

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH VAI TRỊ ĐẢM BẢO HÀI HỊA CÁC QUAN HỆ LỢI
ÍCH KINH T CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY........................................16
2.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi ích
của các chủ thể kinh tế:.................................................................................................16
2.2. Điều hịa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội:......................................17
2.3. Kiểm soát ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực:.......................19
2.4. Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế:.................................21
KT LUẬN...................................................................................................................... 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................23


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Lời mở đầu Đất nước ta trong quá trình đi lên CNXH phải xây dựng một nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp. Lịch sử phát
triển kinh tế loài người từ trước đến nay đã trải qua tất nhiều hình thái kinh tế xã hội, nổi
bật và rõ nét đó là hình thái cơng xã ngun thuỷ, chiếm hữu nơ lệ, phong kiến, tư bản
chủ nghĩa và XHCN. Trong tất cả các hình thái kinh tế đó chưa có một hình thái kinh tế
nào có một cơ chế quản lý, điều hành kinh tế một cách phù hợp và hợp lý nhất từ việc
phát triển kinh tế chỉ dựa vào KTTT để giải quyết vấn đề cơ bản của nền kinh tế cho đến
việc chỉ dựa vào tổ chức quản lý điều hành của Nhà nước để phát triển kinh tế cho phù
hợp, đặc biệt là giai đoạn Việt Nam hiện nay, em lựa chọn đề tài: "Vai trò của Nhà nước
trong đảm bảo hài hòa các quan hệ kinh tế trong nền KTTT định hướng XHCN ở
nước ta ". Nền kinh tế nước ta đang ở vào giai đoạn đặc biệt của sự phát triển, đó là
bước ngoặt trong quá trình chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền KTTT có sự
quản lý của Nhà nước. Như chúng ta đã biết, trong thời đại ngày nay không có nền kinh
tế nào chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường mà khơng có sự quản lý của Nhà nước ở
những mức độ và phạm vi khác nhau. Bởi vì bên cạnh những mặt tích cực của KTTT
như: năng suất lao động tăng nhanh công nghệ sản xuất khơng ngừng được cải tiến, hàng
hố sản xuất ra nhiều, thu nhập quốc dân tăng…. thì cơ chế thị trường cũng nảy sinh
nhiều vấn đề tiêu cực cần giải quyết như: lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng, tệ nạn, xã
hội… Do vậy Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế
có hiệu quả, công bằng ổn định. Đặc biệt nền kinh tế nước ta đang phát triển theo định
hướng XHCN càng không thể thiếu sự quản lý của Nhà nước.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Làm rõ cơ sở lý luận, từ đó phân tích vai trị của nhà nước Việt Nam trong việc đảm bảo
hài hịa các quan hệ LIKT. Từ đó, làm rõ được tầm quan trọng, vai trị khơng thể thiếu


2
của chính quyền nhà nước Việt Nam trong cơng cuộc xây dựng và phát triển kinh tế nước

nhà.


3

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC ĐẢM BÀO HÀI HỊA
CÁC QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH T TRONG NỀN KINH T ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA
1.1.

Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:

Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt
Nam đặt ra cho mơ hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Nó được mô tả là một nền KTTT nhiều thành phần, trong đó khu vực kinh tế nhà nước
giữ vai trị chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây dựng CNXH. KTTT định hướng XHCN
là sản phẩm của thời kỳ Đổi Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn
hợp hoạt động theo cơ chế thị trường. Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với
nền kinh tế toàn cầu. Cụm từ "định hướng XHCN" mang ý nghĩa là Việt Nam chưa đạt
đến CNXH mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống XHCN trong
tương lai. Mơ hình kinh tế này khá tương đồng với mơ hình KTTT XHCN (socialist
market economy) của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó các mơ hình kinh tế tập thể,
nhà nước, tư nhân cùng tồn tại, và khu vực nhà nước giữ vai trò chủ đạo [1].
1.2.

Tính tất yếu khách quan trong việc phát triển kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
1.2.1. Sự cần thiết khách quan:

KTTT định hướng XHCN thực chất là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng XHCN. Kinh tế hàng
hóa là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để
bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hóa khơng phải để thỏa
mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để thỏa
mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của xã hội.
KTTT là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó tồn bộ các yếu tố “đầu
vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thơng qua thị trường. Kinh tế hàng hóa và KTTT


4
khơng đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển. Về cơ bản chúng có
cùng nguồn gốc và cùng bản chất.Theo C.Mác, sản xuất và lưu thông hàng hóa là hiện
tượng vốn có của nhiều hình thái kinh tế xã hội. Những điều kiện ra đời và tồn tại của
kinh tế hàng hóa cũng như trình độ phát triển của nó do sự phát triển của lực lượng sản
xuất tạo ra [9, tr.2].
1.2.2. Cơ sở khách quan của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hóa chẳng
những khơng mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Phân
công lao động trong từng khu vực, từng địa phương ngày càng phát triển. Sự phát triển
của phân cơng lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng
cao của sản phẩn đưa ra trao đổi trên thị trường. Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều
hình thức sở hữu. Đó là: sở hữu tồn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá
thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể
kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng
quan hệ hàng hóa tiền tệ. Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt
nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng, mặt khác các đơn
vị kinh tế cịn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật – cơng nghệ, về trình độ tổ chức quản
lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau. Quan hệ hàng hóa – tiền tệ

cịn cần thiết trong quan hệ kinh té đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động
quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là
người chủ sở hữu đối với các hàng hóa đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi
này phải tuân theo nguyên tắc ngang giá [9, tr.3].
Như vậy nên KTTT nước ta là một tồn tại tất yếu, khách quan , thì khơng thế lấy ý chủ
chủ quan mà xóa bỏ nó được
1.2.3. Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường:


5
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ q độ lên CNXH cịn mang năng tính tự túc,
tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hóa phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển
thành nền kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự xã hội hóa sản xuất.
Kinh tế hàng hóa tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh
giữa những người sản xuất hàng hóa, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp
dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu nhờ đó có
thể cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thức đẩy lực
lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lap động xã hội. Trong nền kinh tế hàng
hóa, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường để quyết
định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Do đó, kinh
tế hàng hóa kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng
cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, cũng như tăng khối lượng hàng hóa và dịch vụ [9, tr.4].
Như vậy, phát triển KTTT là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế
cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập
vào sự phân cơng lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng
sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền KTTT nhiều
thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ

thuật công nghệ của nước ngồi, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định
vào việc đảm bảo tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
Trình độ phát triển của KTTT có liên quan mật thiết với các giai đoạn phát triển của lực
lượng sản xuất. Về đại thể, kinh tế hàng hóa phát triển qua ba giai đoạn tương ứng với ba
giai đoạn phát triển của lực lượng sản xuất, sản xuất hàng hóa giản đơn, KTTT tự do,
KTTT hiện đại. Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế, chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang kinh tế hàng hóa. Mơ hình kinh tế của Việt Nam được xác định
là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước, định hướng XHCN (nền KTTT định hướng XHCN). Hiện nay, nền kinh tế


6
nước ta cịn ở trình độ kém phát triển, bởi lẽ cơ sở vật chất – kỹ thuật của nó cịn lạc hậu,
thấp kém, nền kinh tế ít nhiều cịn mang tính tự cấp tự túc. Tuy nhiên, nước ta khơng lặp
lại ngun vẹn tiến trình phát triển của các nước đi trước: kinh tế hàng hóa giản đơn
chuyển lên KTTT tự do, rồi từ KTTT tự do chuyển lên KTTT hiện đại, mà cần phải và có
thể xây dựng nền KTTT hiện đại, định hướng XHCN theo kiểu rút ngắn. Điều này có
nghĩa là phải đảy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển nhanh chóng lực
lượng sản xuất, trong một thời gian tương đối ngắn xây dưng được cơ sở vật chất – kỹ
thuật hiện đại để nền kinh tế nước ta bắt kịp với trình độ phát triển chung của thế giới;
đồng thời phải hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhà
nước có vai trị đặc biệt quan trọng trong việc quản lý kinh tế vĩ mô và thực hiện định
hướng XHCN [9, tr.4].
1.3.

Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam:
1.3.1. Về mục tiêu:
KTTT định hướng XHCN là phương thức để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ

sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện “ dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, văn minh”.
1.3.2. Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế:
Về sở hữu
Sở hữu là quan hệ giữa người với người trong qúa trình sản xuất và tái sản xuất xã hội
trên cơ sở chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản xuất và kết quả lao động tương ứng của
quá trình sản xuất hay tái sản xuất ấy trong một điều kiện lịch sử nhất định. Sở hữu hàm ý
trong đó bao gồm có chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu, lợi ích từ đối tượng sở hữu.
Sở hữu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý
Về nội dung kinh tế, sở hữu là điều kiện của sản xuất, là LIKT mà chủ thể sở hữu được
thụ hưởng khi sở hữu đối tượng sở hữu.
Về nội dung pháp lý, sở hữu thể hiện những quy định mang tính chất pháp luật về quyền
hạn hay nghĩa vụ của chủ thể sở hữu.


7
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế có nhiều hình thức ở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tư nhân là động
lực quan trọng, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để
phât triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ.Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình
đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật [6, tr.112].
1.3.3. Về quan hệ quản lý nền kinh tế:
KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam có đặc trưng là do Nhà nước pháp quyền XHCN
quản lý dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam sự làm chủ và giám sát của nhân
dân với mục tiêu dùng KTTT để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH vì " dân
giàu, nước mạnh,dân chủ, công bằng văn minh". Nhà nước quản lý nền kinh tế thông qua
pháp luật, các chiến lược, kế hoạch, cơ chế chính sách và các cơng cụ kinh tế trên cơ sở
tôn trọng nguyên tắc của thị trường, khắc phục những khuyết tật của KTTT và phù hợp
với yêu cầu xây dựng CNXH ở Việt Nam [6, tr.112].
1.3.4. Về quan hệ phân phối:

Quan hệ phân phối bị chi phối và quyết định bởi quan hệ sở hữu về TLSX. Nền KTTT
với sự đa dạng các hình thức sở hữu do vậy thích ứng với nó sẽ có các loại hình phân
phối khác nhau: phân phối theo kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua hệ thống an sinh
xã hội, phúc lợi xã hội [6, tr114].
1.3.5. Về quan hệ gắn tang trưởng kinh tế với công bằng xã hội:
Tiến bộ và công bằng xã hội vừa là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền
kinh tế, vừa là mục tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp cảu chế độ xã hội chue nghĩa mà chúng
ta phải hiện thực hóa từng bước trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Những vấn đề nêu
trên đã khái quát rõ nét những vấn đề cơ bản của KTTT định hướng XHCN, trong đó vấn
đề định hướng XHCN thể hiện ở năm điểm: có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền
XHCN; do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân
trong phát triển kinh tế xã hội; xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp để thúc đẩy phát
triển mạnh lực lượng sản xuất; và nhất là: thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội trong từng
bước, từng chính sách phát triển [6, tr115].


8
1.4.

Khái niệm lợi ích kinh tế, quan hệ lợi ích kinh tế, các nhân tố ảnh hưởng

quan hệ lợi ích kinh tế:
1.4.1. Khái niệm lợi ích kinh tế:
Để tồn tại, phát triển, con người cần được thoả mãn các nhu cầu vật chất cũng như nhu
cầu tinh thần. Lợi ích thu được khi con người được thỏa mãn nhu cầu của mình. Lợi ích
có thể là lợi ích vật chất, có thể là lợi ích tinh thần.Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của
con người mà sự thỏa mãn nhu cầu này phải được nhận thức và đặt trong moi quan hệ xã
hội ứng với trình độ phát triển nhắt định của nền sản xuất xã hội đỏ. Trong mỗi điều kiện
lịch sử, tuỳ từng bối cảnh mà vai trò quyết dịnh đối với hoạt động cua con người là lợi

ích vật chất hay lợi ích tinh thân. Nhưng xuyên suốt quá trình tồn tại của con người và
đời sống xã hội thì lợi ích vật chất đóng vai trò quyết định thúc đẩy hoạt động của mỗi cá
nhân, tổ chức cũng như xã hội. LIKT là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các
hoạt động kinh tế của con người [6, tr.123].
1.4.2. Khái niệm quan hệ lợi ích kinh tế:
Khái niệm về quan hệ LIKT: Quan hệ lợi ích kinh tể là sự thiết lập những tương tác giữa
con người với con người, giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ
phận hợp thành nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc gia với phần
còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các LIKT trong mối liên hệ với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng của một giai đoạn phát
triển xã hội nhất định. Như vậy, quan hệ LIKT có biểu hiện hết sức phong phú, quan hệ
đỏ có thể là các quan hộ theo chiều dọc, giữa một tố chức kinh tế với một cá nhân trong
tổ chức kinh tế đó. Cũng có thể theo chiều ngang giữa các chủ thể, các cộng đồng người,
giữa các tổ chức, các bộ phận hợp thành nền kinh tế khác nhau. Trong điều kiện hội nhập
ngày nay, quan hệ LIKT còn phải xét tới quan hệ giữa quốc gia với phàn còn lại của thế
giới [6, tr.127].
1.4.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế:
Các quan hộ lợi ích trong nền KTTT chịu tác động của nhiều nhân tố, cụ thể như sau:


9
Thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Là phương thức và mức độ thỏa mãn
các nhu cầu vật chất của con người, LIKT trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng
hàng hóa và dịch vụ, mà điều này lại phụ thuộc vào trình độ phát triền lực lượng sản xuất.
Do đó, trình độ phát triền của lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp ứng LIKT của các
chủ thể càng tốt. Quan hộ LIKT vì vậy, càng có điều kiện đề thống nhất với nhau. Như
vậy, nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến quan hệ LIKT của các chủ thể là lực lượng sản xuất.
Chính vì vậy, phát triển lực lượng sản xuất trở thành nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
các quốc gia [6, tr128].
Thứ hai, địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội. Quan hệ sản xuất, mà

trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định vị trí, vai trị của mỗi con
người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia các hoạt động kinh tế xã hội. Do đó, khơng
có LIKT nằm ngoài những quan hệ sản xuất và trao đối, mà nó là sản phẩm của những
quan hệ sản xuất và trao đổi, là hình thức tồn tại và biêu hiện của các quan hệ sản xuất và
trao đổi trong nền KTTT [6, tr128].
Thứ ba, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước. Sự can thiệp của nhà nước vào nền
KTTT là tất yếu khách quan, bằng nhiều loại cơng cụ, trong đó có các chính sách kinh tế
xã hội. Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước làm thay đôi mức thu nhập và tương
quan thu nhập của các chủ thể kinh tế. Khi mức thu nhập và tương quan thu nhập thay
đổi, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất cũng thay đổi, tức là LIKT và
quan hệ lợi ích kinh tc giữa các chủ thể cũng thay đối [6, tr128].
Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế. Bản chất của KTTT là mở cửa hội nhập. Khi mở cửa
hội nhập, các quốc gia có thể gia tăng LIKT từ thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế. Tuy
nhiên, LIKT của các doanh nghiệp, hộ gia đình sản xuất hàng hóa tiêu thụ trên thị trường
nội địa có thê bị ảnh hưởng bởi cạnh tranh của hàng hóa nước ngồi. Đất nước có thề
phát triển nhanh hơn nhưng cũng phải đối mặt với các nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô
nhiễm môi trường... Điều đó có nghĩa là hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động mạnh mẽ và
nhiều chiêu đên LIKT của các chủ thê [6, tr128].


10
1.5.

Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản ở Việt Nam:

Trong nền KTTT có vơ số các quan hệ LIKT gắn với các chủ thể khác nhau, ở đây đề cập
một số loại quan hệ lợi ích cơ bản, cụ thể:
1.5.1. Quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động:
Người lao động là người có đủ thể lực và trí lực để lao động, tức là có khả năng lao động.
Khi họ bán sức lao động sẽ nhận được tiền lương (hay tiền công) và chịu sự quản lý, điều

hành của người sử dụng lao động. Bản chất của tiền lương là giá cả của hàng hóa sức lao
động, chỉ đủ để tái sản xuất sức lao động [7].
Người sử dụng lao động là chủ doanh nghiệp (nhà tư bản trong CNTB), cơ quan, tổ chức,
hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp đồng lao động.
Là người trả tiền mua hàng hóa sức lao động nên người sử dụng lao động có quyền tổ
chức, quản lý quá trình làm việc của người lao động [7].
LIKT của người sử dụng lao động thể hiện tập trung ở lợi nhuận mà họ thu được trong
quá trình kinh doanh. LIKT của người lao động thể hiện tập trung ở thu nhập (trước hết là
tiền lương, tiền thưởng) mà họ nhận được từ việc bán sức lao động của mình cho người
sử dụng lao động. LIKT của người lao động và người sử dụng lao động có quan hệ chặt
chẽ, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau [7].
Sự thống nhất về LIKT giữa người lao động và người sử dụng lao động thể hiện: nếu
người sử dụng lao động thực hiện các hoạt động kinh tế trong điều kiện bình thưởng họ
sẽ thu được lợi nhuận, thực hiện được LIKT của mình; đồng thời, họ sẽ tiếp tục sử dụng
lao động nên người lao động cũng thực hiện được LIKT của mình vì có việc làm, nhận
được tiền lương. Ngược lại, nếu người lao động tích cực làm việc, LIKT của họ được
thực hiện thông qua tiền lương được nhận, đồng thời, góp phần vào sự gia tăng lợi nhuận
của người sử dụng lao động. Vì vậy, tạo lập sự thống nhất trong quan hệ lợi ích giữa
người lao động và người sử dụng lao động là điều kiện quan trọng thực hiện LIKT của cả
hai bên [7].


11
Tuy nhiên, quan hệ LIKT giữa người lao động và người sử té dụng lao động cịn có mâu
thuẫn. Tại một thời điểm nhất định, thu nhập từ các hoạt động kinh tế là xác định nên lợi
nhuận của người sử dụng lao động tăng lên thì tiền lương của người lao động giảm xuống
và ngược lại. Vì lợi ích của mình, người sử dụng lao động ln tìm cách cắt giảm tới mức
thấp nhất các khoản chi phí trong đó có tiền lương của người lao động để tăng lợi nhuận.
Tuy nhiên, tiền lương là điều kiện để tái sản xuất sức lao động nên mức tiền lương thấp
nhất người sử dụng lao động trả cho người lao động phải đủ để người lao động sống ở

mức tối thiểu. Vì lợi ích của mình, người lao động sẽ đấu tranh địi tăng lương, giảm giờ
làm, bãi cơng... Nếu mâu thuẫn không được giải quyết hợp lý sẽ ảnh hưởng xấu tới các
hoạt động kinh tế [7].
1.5.2. Quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động:
Những người sử dụng lao động cũng có quan hệ lợi ích với nhau. Trong cơ chế thị
trường, những người sử dụng lao động vừa là đối tác, vừa là đối thủ của nhau, từ đó tạo
ra sự thống nhất và mâu thuẫn về LIKT giữa họ. Những người sử dụng lao động liên kết
và cạnh tranh với nhau trong ứng xử với người lao động, với những người cho vay vốn,
cho thuê đất, với nhà nước, trong chiếm lĩnh thị trường…
Trong cơ chế thị trường, mâu thuẫn về LIKT giữa những người sử dụng lao động làm cho
họ cạnh tranh với nhau quyết liệt. Hệ quả tất yếu là các các nhà doanh nghiệp có giá trị cá
biệt cao hơn giá trị xã hội và các rủi ro khác bị thua lỗ, phá sản... bị loại bỏ khỏi thương
trường. Đồng thời, những người thu được nhiều lợi nhuận sẽ phát triển nhanh chóng [7].
Những người sử dụng lao động khơng chỉ cạnh tranh trong cùng ngành, mà còn cạnh
tranh giữa các ngành, bằng việc di chuyển vốn (tư bản) từ ngành này sang ngành khác.
Từ đó hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, tức là những người sử dụng lao động đã
chia nhau lợi nhuận theo vốn đóng góp. Sự thống nhất và mâu thuẫn về LIKT giữa những
người sử dụng lao động biểu hiện tập trung ở lợi nhuận bình quân mà họ nhận [7].
Sự thống nhất về LIKT làm cho những người sử dụng lao động liên kết chặt chẽ với
nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Người sử dụng lao động có các nghiệp đồn, hội nghề nghiệp riêng


12
của mình như Hội doanh nhân tư nhân Việt Nam, Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Việt Nam, Hiệp hội da giầy Việt Nam, Hiệp hội dệt may Việt Nam... Sự liên kết giữa
người sử dụng lao động trong từng lĩnh vực đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh,
nâng cao vị thế, bảo vệ LIKT của họ. Những người sử dụng lao động đã trở thành đội ngũ
doanh nhân, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Họ cần được
tôn vinh, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển [7].
1.5.3. Quan hệ lợi ích giữa những người lao động:

Trong nền KTTT, nhiều người muốn bán sức lao động. Để thực hiện LIKT của mình,
người lao động khơng chỉ phải quan hệ với người sử dụng lao động, mà còn phải quan hệ
với nhau. Nếu có nhiều người bán sức lao động, người lao động phải cạnh tranh với nhau.
Hậu quả là tiền lương của người lao động bị giảm xuống, một bộ phận người lao động bị
sa thải. Nếu những người lao động thống nhất được với nhau, họ có thể thực hiện được
các yêu sách của mình (ở một chừng mực nhất định) đối với giới chú (những người sử
dụng lao động) [7].
Ở Việt Nam hiện nay, nhiều người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có nguồn
gốc xuất thân từ nông thôn nên quan hệ họ hàng. đồng hương có ý nghĩa nhất định trong
giải quyết quan hệ LIKT giữa họ với nhau. Nhìn chung, người lao động ít có xung đột về
LIKT. Nếu có, họ có thể thương lượng dễ dàng với nhau.
1.5.4. Quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, lợi ích xã hội:
Trong cơ chế thị trường, cá nhân tồn tại dưới nhiều hình thức. Người lao động, người sử
dụng lao động đều là thành viên của xã hội nên mỗi người đều có lợi ích cá nhân và có
quan hệ chặt chẽ với lợi ích xã hội. Nếu người lao động và người sử dụng lao động làm
việc theo đúng các quy định của pháp luật và thực hiện được các LIKT của mình thì họ
đã góp phần phát triển nền kinh tế, thực hiện LIKT của xã hội. Khi LIKT của xã hội được
thực hiện, xã hội phát triển sẽ tạo lập môi trường thuận lợi để người lao động và người sử
dụng lao động thực hiện tốt hơn các LIKT của mình [7].


13
Ngược lại, nếu giữa người lao động và người sử dụng lao động này sinh mâu thuẫn
không giải quyết được; hoặc người lao động và người sử dụng lao động cộng tác với
nhau là hàng giả, hàng nhái, trốn thuế... thì LIKT của xã hội sẽ bị tổn hại. Biểu hiện là
nền kinh tế chậm phát triển, chất lượng cuộc sống của người dân chậm được cải thiện...
Từ đó ảnh hưởng xấu đến LIKT của các chủ thể, trong đó có LIKT của người lao động và
người sử dụng lao động [7].
Sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, xã hội quyết định sự tồn tại, phát triển của cá nhân
nên lợi ích xã hội đóng vai trị định hướng cho lợi ích cá nhân và các hoạt động thực hiện

lợi ích cá nhân. Lợi ích xã hội là cơ sở của sự thống nhất giữa các lợi ích cá nhân, tạo ra
sự thống nhất trong hoạt động của các chủ thể khác nhau trong xã hội. Ph. Ăngghen đã
từng khẳng định: “Ở đâu khơng có lợi ích chung thì ở đó khơng thể có sự thống nhất về
mục đích và cũng khơng thể có sự thống nhất về hành động được". Quan hệ lợi ích giữa
các chủ thể trên cho thấy, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có quan hệ nhiều chiều [7].
“Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” nếu phù hợp với lợi ích quốc gia, khơng gây tổn hại
đến các lợi ích khác cần được tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện thực hiện vì đất nước có
thêm động lực phát triển; ngược lại, khi chúng mâu thuẫn với lợi ích quốc gia, làm tổn
hại các lợi ích khác thì cần phải ngăn chặn [7].
Trong thực tế, “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có sự tham gia của cơng chức, viên chức
hoặc các cơ quan công quyển sẽ tác động tiêu cực đến lợi ích xã hội và các LIKT khác vì
quyền lực nhà nước sẽ bị lạm dụng và phục vụ cho lợi ích của các cá nhân. Tuy nhiên,
“lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” tiêu cực thưởng khơng lộ diện. Vì vậy, việc chống lợi
ích nhóm” và “nhóm lợi ích” tiêu cực vơ cùng khó khăn. Tuy nhiên, bảo đảm sự thống
nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội địi hỏi việc chống lợi ích nhóm” và “nhóm lợi
ích" tiêu cực phải được thực hiện quyết liệt, thường xuyên [7].
1.6.

Vai trò của nhà nước trong đảm bảo hài hịa các quan hệ lợi ích kinh tế:

1.6.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo mơi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi
ích của các chủ thể kinh tế:


14
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng cũng diễn ra trong một môi trường nhất định. Môi
trường càng thuận lợi, các hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không ngừng mở rộng.
Môi trường vĩ mô thuận lợi không tự hình thành, mà phải dược nhà nước tạo lập. Tạo lập
môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế trước hết là giữ vững ổn định về chính trị.
Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã thực hiện rất tốt điều này. Nhờ đó, các nhà đàu

tư trong nước và ngoài nước rất yên tâm khi tiến hành đầu tư. Tiếp tục giữ vững ồn định
về chính trị là góp phần bảo đảm hài hịa các LIKT ở Việt Nam [7].
Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây dựng dược mơi
trường pháp luật thơng thống, bảo vệ được lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế
trong và ngồi nước, dặc biệt là lợi ích của đất nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia còn phải tuân thù các chuẩn
mực và thông lệ quốc tế. Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật của nước ta đã và
dang thay đổi tích cực. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất hiện nay là tuân thù pháp luật [7].
Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu phải đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng của nền kinh tế (bao gồm hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông, dường
hàng không...; hệ thống cầu cống; hệ thống điện, nước; hệ thống thông tin liên lạc...).
Nhờ phát triển kết cấu hạ tầng được coi là một trong ba đột phá lớn, trong những năm
vừa qua, kết cấu hạ tầng của nền kinh tế nước ta đã được cải thiện rất đáng kề, đáp ứng
nhu càu của các hoạt động kinh tế. Môi trường vĩ mô về kinh tế đòi hỏi nhà nước phải
đưa ra được các chính sách phù hợp với nhu cẩu của nen kinh tế trong từng giai đoạn.
Thực tế cho thấy, các chính sách kinh tế của Việt Nam đang từng bước đáp ứng ycu cầu
này [7].
Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế còn là tạo lập mơi trường văn hóa
phù hợp với u cầu phát triển KTTT. Đó là mơi trường trong đó con người năng động
sáng tạo; tôn trọng kỷ cương, pháp luật; giữ chữ tín...
1.6.2. Điều hịa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội:


15
Do mâu thuẫn về LIKT giữa các chủ thể và tác động của các quy luật thị trường, sự phân
hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho LIKT của một bộ phận dân cư được
thực hiện rât khó khăn, hạn chế. Vì vậy, nhà nước cần có các chính sách, trước hết là
chính sách phân phối thu nhập nhằm bảo đảm hài hòa các LIKT. Trong điều kiện KTTT,
một mặt, phải thừa nhận sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các tập thể, các cá nhân là
khách quan; nhưng mặt khác phải ngăn chặn sự chênh lệch thu nhập quá đáng. Sự phân

hóa xã hội thái q có thể dẫn đến căng thẳng, thậm chí xung đột xã hội. Đó là những vấn
đề mà chính sách phân phối thu nhập cần phải tính đến. Phân phối không chỉ phụ thuộc
vào quan hệ sở hữu, mà cịn phụ thuộc vào sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất càng cao, hàng hóa, dịch vụ càng dồi dào, chất lượng càng tốt, thu nhập của các chủ
thể càng lớn. Do đó, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát triển khoa học công
nghệ đê nâng cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế. Đó chính là những điều kiện vật chất
đế thực hiện ngày càng đầy đủ sự công bằng xã hội trong phân phối [7].
1.6.3. Kiểm soát ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực:
LIKT là kết quả trực tiếp của phân phối thu nhập. Phân phối công bằng, hợp lý góp phần
quan trọng đảm bảo hài hịa các LIKT. Do đó, nhà nước phải tích cực, chủ động thực hiện
công bằng trong phân phối thu nhập [7].
Để LIKT thật sự là động lực của các hoạt động kinh tế, người lao động và người sử dụng
lao động phải có nhận thức và hành động đúng trong lĩnh vực phân phối thu nhập. Họ cần
phải hiếu được các nguyên tắc phân phối của KTTT để có sự phân chia hợp lý giữa tiền
lương và lợi nhuận; chủ doanh nghiệp phải hiểu và tự nguyện thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế... Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập cho
các chủ thể kinh tế xã hội là những giải pháp rất cần thiết đề loại bỏ những đòi hỏi khồng
hợp lý về thu nhập. Trong trường hợp người lao động và người sử dụng lao động không
tự nhận thức và thực hiện được, nhà nước cần có sự tư vấn, điều tiết họp lý [7].


16
Bên cạnh đó, trong cơ chế thị trường, thu nhập từ các hoạt động bất hợp pháp như buôn
lậu, làm hàng giả, hàng nhái; lừa đảo; tham nhũng... tồn tại khá phổ biến. Các hoạt động
này càng gia tăng, càng làm tồn hại LIKT của các chủ thề làm ăn chân chính. Đẻ chống
các hình thức thu nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài hòa các LIKT. Trước hết, phải có bộ
máy nhà nước liêm chính, có hiệu lực. Bộ máy nhà nước phải tuyển dụng, sử dụng được
những người có tài, có tâm; sảng lọc được những người khơng đủ tiêu chuẩn. Cán bộ,
công chức nhà nước phải được đãi ngộ xứng đáng và chịu trách nhiệm đến cùng mọi
quyết định trong phạm vi, chức trách của họ. Nhà nước phải kiềm sốt được thu nhập của

cơng dân, trước hết là thu nhập của cán bộ, công chức nhà nước. Trước pháp luật, mọi
người dân và cán bộ, công chức nhà nước phải thực sự bình đẳng; mọi vi phạm phải được
xét xử theo quy định của pháp luật. Thực hiện cơng khai, minh bạch mọi cơ chế, chính
sách và quy định của nhà nước... Nhờ đó, người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức
nhà nước hiểu rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình. Đồng thời, các cơ quan công
quyền, cán bộ, công chức nhà nước được giám sát, tránh được tình trạng lạm quyền, thiếu
trách nhiệm, tham nhũng... [7].
Cùng với đó, việc nâng cao hiệu lực, hiệu quà của hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý
vi phạm là đặc biệt cần thiết. Thực hiện tốt hoạt động này không chỉ nhằm khắc phục các
bất cập, thực hiện công bằng xã hội, mà quan trọng hơn là ngăn chặn các hình thức thu
nhập bất hợp pháp.
1.6.4. Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế:
Mâu thuẫn giữa các LIKT là khách quan, nếu không được giải quyết sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến động lực của các hoạt động kinh tế. Do đó, khi các mâu thuẫn phát sinh cần được
giải quyêt kịp thời. Muốn vậy, các cơ quan chức năng của nhà nước cần phải thường
xuyên quan tâm phát hiện mâu thuẫn và chn bị chu đáo các giải pháp đơi phó. Nguyên
tắc giải quyết mâu thuẫn giữa các LIKT là phải có sự tham gia của các bên liên quan, có
nhân nhượng và phải đặt lợi ích đât nước lên trên hết [7].


17
Ngăn ngừa là chính nhưng khi mâu thuẫn giữa các LIKT bùng phát có thề dẫn đến xung
đột (đình cơng, bãi cơng...). Khi có xung đột giữa các chủ thể kinh tế, cần có sự tham gia
hịa giải của các tổ chức xã hội có liên quan, đặc biệt là nhà nước.


18

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH VAI TRỊ ĐẢM BẢO HÀI HỊA CÁC QUAN HỆ LỢI
ÍCH KINH T CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1.

Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo mơi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi

ích của các chủ thể kinh tế:
Nước ta đã hình thành một hệ thống pháp luật kinh tế tương đối đầy đủ
để điều chỉnh các vấn đề phát sinh do thực tiễn hoạt động của nền
kinh tế đặt ra. Theo PGS.TS Dương Đăng Huệ, Bộ Tư pháp, đã ghi nhận
đầy đủ các loại chủ thể tham gia quan hệ thị trường, bao gồm doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên,
công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp
danh và hợp tác xã với tư cách là những chủ thể chủ yếu đang hoạt
động trong nền KTTT của Việt Nam. Các loại chủ thể này được quy định
chủ yếu trong Luật Doanh nghiệp (2014) và Luật Hợp tác xã (2012).
Điều chỉnh các quan hệ hàng hóa – tiền tệ phát sinh trên cơ sở bình
đẳng, tự nguyện và tự chịu trách nhiệm. Vai trị chính trong việc điều
chỉnh các quan hệ thị trường thuộc về Bộ luật Dân sự (1995 và 2005).
Ngoài ra, các quan hệ thị trường phát sinh trong các lĩnh vực kinh
doanh chuyên ngành cũng đã được các luật chuyên ngành quy định
một cách cụ thể như Luật Các tổ chức tín dụng (2010), Luật Kinh doanh
bất động sản (2014), Luật Kinh doanh bảo hiểm (2014), Luật Xây dựng
(2014), Luật Nhà ở (2014),… Việc phá sản doanh nghiệp cũng đã được
điều chỉnh bởi Luật Phá sản (1994, 2004 và 2014). Đạo luật này có tác
dụng giúp các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ rút khỏi thị trường một
cách trật tự, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình và của
các chủ nợ [3].
Việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh
doanh cũng đã được Nhà nước quan tâm, thể hiện ở việc ban hành Bộ



19
luật Tố tụng Dân sự (2004) với tư cách là cơng cụ pháp lý để Tịa án
giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể kinh doanh, và
Luật trọng tài thương mại với tư cách là công cụ pháp lý để trọng tài
thương mại – tổ chức phi nhà nước thực hiện chức năng giải quyết
tranh chấp thương mại trên cơ sở những nguyên tắc có nhiều điểm
khác biệt với Tòa án để đáp ứng nhu cầu được tự do lựa chọn các hình
thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh của doanh nghiệp.
Xét về mặt nội dung thì hệ thống pháp luật kinh tế hiện hành của Việt
Nam đã ghi nhận và tạo điều kiện để triển khai thực hiện trên thực tế
những nguyên tắc cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN. Ghi nhận và
bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh thông qua việc xác định
ngành nghề nào bị cấm, ngành nghề nào kinh doanh phải có điều kiện,
ngành nghề nào được tự do kinh doanh mà khơng cần bất kỳ điều kiện
gì. Đặc biệt, đã có nhiều quy định để hạn chế đến mức thấp nhất việc
can thiệp của các cơ quan công quyền vào hoạt động của các doanh
nghiệp [3].
Các cơng trình giao thông được quy hoạch và đầu tư theo hướng đồng
bộ, hiện đại như: đường bộ cao tốc, sân bay, cảng biển quốc tế đạt tiêu
chuẩn khu vực và thế giới. Trong đó phải kể đến đã quy hoạch mạng
lưới đường bộ cao tốc quốc gia kết nối các trung tâm kinh tế trọng
điểm Bắc Nam; các cửa khẩu, sân bay, cảng biển quốc tế và các tuyến
đường vành đai đơ thị có nhu cầu vận tải lớn với tổng chiều dài hơn
6.400km; tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc Nam và hệ thống đường sắt
đô thị tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; các cảng biển cửa ngõ quốc
tế (Lạch Huyện, Vân Phong và Cái Mép Thị Vải); mạng đường bay theo
mơ hình nan quạt với tần suất khai thác cao tại 2 đầu Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh. Chất lượng phục vụ, dịch vụ vận tải cũng không
ngừng được đổi mới, nâng cao, bảo đảm phục vụ tốt hơn nhu cầu đi lại



20
của nhân dân; thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh; góp phần kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mơ, bảo đảm an sinh xã hội, qua đó
nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế [3].
2.2.

Điều hịa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội:

Từ khi đổi mới (1986) đến nay, vấn đề giải quyết quan hệ lợi ích giữa các chủ thể, nhất là
giữa Lợi ích cá nhân (LICN) và lợi ích xã hội (LIXH) đã được Đảng, Nhà nước ta quan
tâm giải quyết, nhất là trong lĩnh vực sở hữu và phân phối, tạo động lực cho sự phát triển
của cá nhân và xã hội. Q trình đó đã đạt được những kết quả nhất định, đó là:
Thứ nhất, cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội bước đầu đã được quan tâm giải quyết theo
hướng thúc đẩy sự phát triển. Những kết quả tích cực trong phát triển kinh tế xã hội cùng
việc thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội (ASXH) và phúc lợi xã hội (PLXH) trong
những năm qua đã tạo lập những giá trị mới của xã hội, tạo lập sự công bằng về cơ hội
trong việc hưởng thụ, tiếp cận các giá trị của phát triển. Đời sống của mỗi cá nhân khơng
ngừng được nâng lên, quyền và lợi ích chính đáng được pháp luật bảo vệ, nhất là trong sở
hữu và phân phối. Lợi ích của các giai tầng cụ thể, những đối tượng chính sách, đối
tượng yếu thế trong xã hội, đồng bào vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo được quan tâm
đúng mức, tỷ lệ hộ nghèo giảm, ASXH và PLXH được thực hiện tốt... Tốc độ tăng trưởng
kinh tế trong 10 năm qua luôn ở trên 6,5%, trong đó, năm 2018, tổng sản phẩm trong
nước (GDP) đạt trên 240 tỷ USD, tăng 7,08% so với năm 2017, thu nhập bình quân đầu
người đạt 2.587 USD, tăng 198 USD so với năm 2017, tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa
chiều năm 2018 ước tính 6,8%, giảm 1,1 điểm phần trăm so với năm 2017, trên 90% dân
số tham gia bảo hiểm y tế... Gần 800.000 người khuyết tật khơng có khả năng lao động
được nhận trợ cấp hằng tháng. Hơn 30 năm đổi mới vừa qua, chúng ta từng bước khắc
phục được tư duy tuyệt đối hóa lợi ích xã hội trong việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội. Đó là việc chủ thể sở hữu tư nhân được thừa nhận và tạo điều kiện

phát triển, kinh tế tư nhân từ chỗ không được thừa nhận, đến chỗ thừa nhận và hiện nay
coi đó “là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Đóng góp của khu vực kinh tế tư
nhân trong cơ cấu GDP luôn ở mức trên 43% GDP (so với khu vực kinh tế nhà nước


21
28,9% GDP và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài FDI là 18% GDP) và “kinh tế tư nhân
hiện đóng góp khoảng 39% tổng đầu tư tồn xã hội và tiếp tục tăng lên, năm 2012 là 385
nghìn tỷ đồng và năm 2015 đạt 490 nghìn tỷ đồng” [4].
Thứ hai, Đảng và Nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện ngày một tốt những chủ
trương, chính sách đúng đắn về tạo cơ hội phát triển của cả lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội. Từ khi đổi mới đến nay, Đảng, Nhà nước đã ban hành và thực hiện ngày một tốt trên
thực tế những chủ trương đúng đắn về tạo cơ hội phát triển cho cả LICN và LIXH trên
mọi lĩnh vực, nhất là trong sở hữu và phân phối. Sự thay đổi chủ trương, chính sách, pháp
luật của Đảng, Nhà nước về phân phối cũng đã có tác động rất lớn đến việc giải quyết
quan hệ giữa LICN và LIXH ở nước ta hiện nay. Từ khi đổi mới đến nay, Đảng, Nhà
nước đã có những thay đổi chủ trương, chính sách về phân phối một cách hợp lý hơn. Tại
Đại hội IX, Đảng chỉ rõ: “KTTT định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế; đồng thời phân phối theo mức đóng góp các nguồn lực
khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội” [4]..
2.3.

Kiểm soát ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực:

Ở Việt Nam trong những năm gần đây, do tốc độ phát triển kinh tế xã hội và quá trình hội
nhập quốc tế sâu rộng, bên cạnh những “nhóm lợi ích” tích cực, nhiều “nhóm lợi ích” tiêu
cực xuất hiện ngày càng nhiều. đã tác động và ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã
hội, nhất là những ngành, lĩnh vực quan trọng liên quan trực tiếp đến đời sống của mọi
tầng lớp xã hội như quản lý đất đai, tài chính ngân hàng, đầu tư xây dựng cơ bản, khai
thác tài ngun. Thậm chí, “Nhóm lợi ích” tiêu cực cịn xuất hiện ở một số ngành, lĩnh

vực vẫn được coi là thiêng liêng, liên quan đến an ninh quốc gia như cơng tác tổ chức cán
bộ, phịng, chống tội phạm… Hàng loạt vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức
tạp đã được khởi tố bị điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian gần đây liên quan đến nhiều
tổ chức đảng và đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo. Các quan chức cấp cao cho
thấy “nhóm lợi ích” đã leo cao, xâm nhập sâu vào bộ máy Đảng và Nhà nước, đe dọa sự
tồn vong của Đảng và chế độ. Ở quy mô nhỏ hơn, ở một số tỉnh, bộ, ngành đã để xảy ra
tình trạng “nhóm lợi ích” thao túng chính quyền; Có nơi “nhóm lợi ích” đã can thiệp sâu


×