Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với việc bảo vệ môi trường sinh thái trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.6 KB, 18 trang )

Đề cương chi tiết
A.Đặt vấn đề :
B.Nội dung :
1. Quan diểm biện chứng về mâu thuẫn.
1.1. Mâu thuẫn là nguồn gốc , là động lực của phát triển.
1.2. Tính khách quan , phổ biến của mâu thuẫn.
2. Quan hệ mâu thuẫn biện chứng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ
môi trường sinh thái ở Việt Nam.
2.1. Mâu thuẫn biện chứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ
môi trường sinh thái.
2.1.1. Khái niệm.
2.1.1.1. Phát triển kinh tế.
2.1.1.2. Môi trường sinh thái - kinh tế môi
trường.
2.1.1.3. Phát triển bền vững.
2.1.2. Phân tích sự mâu thuẫn và sự thống nhất giữa
hai mặt phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường
sinh thái.
2.1.2.1. Sự đối lập .
2.1.2.2. Sự thống nhất.
2.2. T ình trạng phát triển kinh tế và b ảo vệ môi trường sinh
thái ở n ước ta trong thời gian qua.
3. Một số giải pháp để kết hợp phát triển kinh tế và bảo vệ môi
trường sinh thái ở nước ta .
C. Kết luận :
D.Danh mục tài liệu tham khảo :
-Giáo trình triết học Mác_Lênin_NXB Chính trị quốc gia, các trang 245-
247,248-240.
-Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 231-năm 2003.
-“Bảo vệ môi trường sống”-Huy Văn, báo “Nhân dân”,số 18871 ngày
15/4/2007,trang 1.


-Thông báo về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 của
Bộ Kế hoạch Đầu tư.
-Thời báo kinh tế Việt Nam, số 63, ngày 19/4/04.
-Sách Quản lý Nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển
bền vững dưới góc độ xã hội - nhân văn , tác giả PGS.TS Phạm Ngọc
Trâm(chủ biên), NXB Khoa học xã hội.
-Sách Môi trường và phát triển, tác giả PGS.TS Nguyễn Thế Thôn và TS
Hà Văn Hành, NXB Xây dựng.
ww.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105039/ns060420084723
ww.monre.gov.vn/monrenet/default.aspx?tabid=209&ItemID=26725
ww.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=7255212&news_ID=5254625
A. Đặt vấn đề
Trong thời đại ngày nay, khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sống là những vấn đề quan trọng
nằm trong Chiến lược phát triển bền vững của toàn nhân loại, cũng như của
tất cả các quốc gia, dân tộc. Vấn đề này trở nên cấp thiết khi mà các nguồn
tài nguyên thiên nhiên trên toàn thế giới đang dần bị cạn kiệt, còn môi
trường sống bị ô nhiễm nặng nề. Thực trạng này đã ảnh hưởng rất tiêu cực
và nguy hiểm đến mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó, khai thác và sử
dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường chính
là vấn đề về mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên - đã trở thành
mối quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế. Và Việt Nam, cũng không
nằm ngoài thực trạng chung của thế giới.
Đặc thù con đường phát triển của Việt Nam là dựa trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì định hướng XHCN
trong nền kinh tế thị trường, nền kinh tế phải phát triển nhanh, đủ sức hội
nhập vào quỹ đạo chung của thế giới hiện đại và khẳng định được vị thế
xứng đáng của mình trong khu vực trong vài chục năm tới.
Việt Nam đang bước vào công cuộc phát triển kinh tế- xã hội, công ngiệp
hoá hiện đại hoá đất nước với tốc độ tương đối cao.Trong những năm qua,

tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng bình quân hàng năm là trên 7%, công
nghiệp tăng bình quân hằng năm là 12,6%.Đó là mức tăng trưởng khá cao
so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Mục tiêu phấn đấu đã được
Đảng và nhà nước ta xác định là : “Từ giờ đến năm 2020 ra sức phấn đấu
đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp”. Theo định hướng mục tiêu
đó, dự kiến kế hoạch trong những năm tới, tăng trưởng kinh tế ở nước ta,
mặc dù có những khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính thế giới
và khu vực, vẫn phải được duy trì ở mức cao, khoảng 6-8%/năm. Một tốc
độ tăng trưởng khá cao như vậy sẽ còn được tiếp tục duy trì trong một vài
thập kỷ tới.
Tuy nhiên, không thể coi tốc độ phát triển cao là mục tiêu tối thượng
của chiến lược phát triển đất nước, mà xét tổng thể, còn có các biến số
khác, thậm chí căn bản hơn về dài hạn.Đó là mục tiêu hiện đại hoá (HĐH),
bao gồm HĐH kinh tế, và phát triển bền vững với hai mục tiêu cụ thể là ổn
định – công bằng xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Sự phát triển và
tăng trưởng là một điều cần thiết nhằm làm cho đất nước nhanh chóng phát
triển, hoà nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Nhưng đồng thời cũng
chính sự phát triển với nhịp độ cao như vậy cũng có nghĩa là một khối
lượng tài nguyên ngày càng tăng được khai thác nhiều hơn để chế biến, một
khối lượng lớn chất thải từ sản xuất và tiêu dùng hằng ngày dược thải vào
tự nhiên. Nhầt là trong vài năm gần đây, do nền kinh tế nước ta đang đi trên
con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã dẫn đến tình trạng môi trường
sống ngày càng ô nhiễm nặng nề, đặc biệt là ở các khu công nghiệp, khu
chế xuất, các đô thị thành phố lớn. Sự kiện ngày 7 tháng 11 năm 2006 Việt
Nam gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO) đưa nước ta đứng
trước những thời cơ và thách thức mới trong sự vận động phát triển của
toàn xã hội. Cùng với sự giao lưu kinh tế được mở rộng, khối lượng hàng
hoá trao đổi giữa Việt Nam và các nước tăng nhanh. Tuy nhiên một điều
thật trớ trêu là: quá trình tăng trưởng kinh tế cũng đồng thời tăng sử dụng
tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễn môi trường và suy giảm sinh thái . Môi

trường sinh thái được bảo vệ là điều kiện then chổt không chỉ nhằm đạt
mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững mà gay gắt hơn như thực tế đang
diễn ra cho thấy, là để bảo vệ sự sinh tồn của loài người và xã hội, là điều
kiện quan trọng để con người có thể sống trong một môi trường trong sạch
và an toàn. Do vậy, bảo vệ môi trường là một vấn đề quan trọng được Đảng
và Nhà nước rất quan tâm trong chiến lược xây dựng kinh tế-xã hội trong
giai đoạn công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.Vì vậy cần có một chính
sách đúng đắn, cụ thể về bảo vệ môi trường, thì kinh tế sẽ phát triển bền
vững và ổn định. Như vậy trên quan điểm triết học duy vật biện chứng, ta
có thể nhận thấy giữa môi trường và kinh tế có mối quan hệ biện chứng,
trong đó giữa các mặt có sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau một cách sâu
sắc và tương quan hỗ trợ nhau.
Do tầm quan trọng của việc nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển kinh
tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay nên em đã chọn đề tài
:” Mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế với việc bảo vệ môi
trường sinh thái trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay”.
Trong khuôn khổ bài tiểu luận triết học này , em dựa vào mâu thuẫn biện
chứng để phân tích mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với vấn đề bảo vệ
môi trường sinh thái tại Việt Nam.
B.Nội dung
1.Quan điểm biện chứng về mâu thuẫn.
- Mâu thuẫn biện chứng là mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa các
mặt đối lập của cùng một sự vật hay giữa sự vật này với sự vật khác trong
sự thống nhất , là nguồn gốc , động lực của sự phát triển.
1.1.Mâu thuẫn là nguồn gốc , là động lực của sự phát triển.
- Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là hai xu hướng tác
động khác nhau của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn.Như vậy mâu
thuẫn cũng bao hàm cả sự “thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập.
Nó không thể tách rời nhau trong quá trình vận động , phát triển của sự vật.

Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im , với sự ổn định tạm thời của sự vật.
Song, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát
triển khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập. Sự đấu tranh gắn liền với
tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển.
- Trong sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt
đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và
làm cho mâu thuẫn phát triển. Khi mới xuất hiện mâu thuẫn chỉ là sự khác
nhau căn bản, nhưng theo khuynh hướng trái ngược nhau. Khi hai mặt đối
lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu
thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể
thống nhất mới, sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đới thay thế. V.I.Lênin
viết :”Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập “. Tuy
nhiên, không có thống nhất của các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh
giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách
rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Do đó mâu thuẫn là nguồn gốc, là
động lực của sự phát triển.
1.2.Tính khách quan , phổ biến của mâu thuẫn.
- Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt
trái ngược nhau. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến
trong tất cả các sự vật. Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua
lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại
một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Nó tồn
tại dưới nhiều hình thức khác nhau: mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên
ngoài, mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu
và mâu thuẫn thứ yếu, mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối
kháng. Các mâu thuẫn tồn tại phổ biến trong suốt quá trình phát triển của
chúng. Không có sự vật , hiện tượng nào lại không có mâu thuẫn và không
có giai đoạn trong sự phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng lại không tồn tại
mâu thuẫn. Mâu thuẫn hết sức phong phú và đa dạng.Tính phong phú, đa
dạng đó được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối

lập, bởi điều kiện tác động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ
thống mà trong đó mâu thuẫn tồn tại. Một khi mâu thũân này mất đi thì lại
có một mâu thuẫn khác được hình thành. Ngay cả trong lĩnh vực tư duy
cũng vậy, chúng ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn. Chẳng hạn như mâu
thuẫn giữa năng khiếu nhận thức vô tận ở bên trong của mỗi con người với
sự tồn tại thực tế của năng khiếu ấy trong những con người bị hạn chế bởi
hoàn cảnh bên ngoài, và bị hạn chế trong những năng khiếu nhận thức, mâu
thuẫn này được giai quyết trong sự nối tiếp của các thế hệ con người, thế hệ
nào cũng đều đạt được những tiến bộ nhất định trong sự vận động đi lên vô
tận của tư duy.
2.Quan hệ mâu thuẫn biện chứng giữa sự phát triển kinh tế với sự bảo
vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam.
2.1.Mâu thuẫn biện chứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường.
2.1.1.Các khái niện :
2.1.1.1. Phát triển kinh tế :
-Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ
cấu, thể chế kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo công bằng
xã hội.
-Muốn phát triển kinh tế trước hết phải có sự tăng trưởng kinh tế. Nhưng
không phải sự tăng trưởng kinh tế nào cũng dẫn tới phát triển kinh tế. Phát
triển kinh tế đòi hỏi phải thực hiện được ba nội dung cơ bản sau :
+Sự tăng lên của tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân
(GNP) và tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người.
+ Sự biến đổi cơ cấu kinh tế theohướng tiến bộ, thể hiện ở các ngành dịch
vụ và công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân tăng lên, còn tỷ trọng
nông nghiệp ngày càng giảm xuống.
+ Mức độ thoả mãn các nhu cầu cơ bản của xã hội thể hiện bằng sự tăng
lên của thu nhập thực tế, chất lượng giáo dục, y tế… mà mỗi người dân
được hưởng.
Như vậy, phát triển kinh tế là mục tiêu và ước vọng của các dân tộc

trong mọi thời đại.
2.1.1.2. Môi trường sinh thái – kinh tế môi trường:
- Môi trường là một khái niệm tổng hợp, phức tạp, mang tính mở và phát
triển cùng với sự phát triển của khoa học – công nghệ nói riêng, của nền
kinh tế - xã hội và nhận thức của loài người nói chung.
- Kinh tế môi trường là một ngành khoa học đa ngành và mới mẻ, lấy các
vấn đề môi trường làm đối tượng nghiên cứu chính của mình và tiếp cận
chủ yếu chúng dưới góc độ kinh tế.
- Môi trường là toàn bộ các vùng địa - vật lí và sinh học, các điều kiện về
vật chất - tự nhiên, bao gồm sinh quyển (không khí, nước, đất, ánh sáng…)
và hệ sinh thái với tư cách là sản phẩm của tạo hoá, có trước con người,
tương tác lẫn nhau, và cùng tác động đến sự hình thành và phát triển của
con người cùng các hoạt động xã hội của họ. Bản thân các hoạt động sinh
tồn của con người cũng đang ngày càng làm thay đổi môi trường một cách
mạnh mẽ.
2.1.1.3. Phát triển bền vững :
- Nguồn gốc chủ yếu của sự thay đổi về môi trường sinh thái hiện nay là
các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của con người.
- Phát triển là quy luật tất yêú của tiến hoá đã và đang diễn ra trên hành
tinh của chúng ta từ khi nó được hình thành.
2.1.2.Sự đối lập và thống nhất giữa phát triển kinh tế và môi trường sinh
thái.
2.1.2.1. Sự đối lập.
- Trong đời sống, do nhu cầu về điều kiện sống của con người ngày
càng cao nên tất yếu sẽ thúc đẩy chúng ta phải phát triển kinh tế để thoả
mãn những nhu cầu của bản thân cũng như toàn xã hội. Tuy nhiên việc phát
triển kinh tế đòi hỏi phải có nguồn nguyên vật liệu để đảm bảo quá trình
mở rộng sản xuất, mà nguồn cung cấp đó lại được lấy từ tự nhiên và điều
này tất yếu đẫn đến việc ảnh hưởng tới môi trường sinh thái: khai thác quá
mức, tàn phá tài nguyên trên phạm vi rộng lớn không những làm suy thoái

tài nguyên mà còn làm giảm chất lượng của môi trường sinh thái. Đây
chính là mâu thuẫn, kinh tế càng phát triển thì lại ngày càng làm cho môi
trường xấu đi.
Cơ cấu ngành sản xuất sẽ dịch chuyển theo hướng tăng nhanh tỉ lệ công
nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
- Các phương án phát triển được đề xuất ở tầm vĩ mô (cả nước)
và tầm trung mô (ngành, địa phương) và vi mô (công ty, doanh nghiệp) đều
có nét chung nổi bật là tốc độ tăng sản xuất công nghiệp (thường được xác
định khoảng 4% - 6% / năm). Kết quả là tỉ trọng của sản xuất công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ trong GDP có xu hướng tăng lên nhanh chóng. Sự
tăng trưởng cao của các nhành công nghiệp, xây dựng nhất định sẽ dẫn đến
các vấn đề môi trường cần quan tâm đặc biệt. Bởi lẽ đằng sau mức tăng
trưởng của sản xuất công nghiệp tiềm ẩn những nguy cơ gây ô nhiễm môi
trường . Kinh nghiệm quốc tế đã khái quát mối quan hệ giữa tăng trưởng
công nghiệp, đô thị hoá và chất lượng môi trường ở các nước đang phát
triển.
- Chúng ta có thể thấy rằng nếu như không có các chính sách, chiến
lược phù hợp thì khi định hướng phát triển công nghiệp của Việt Nam
nhằm vào các ngành mà đất nước hiện đang có lợi thế so sánh như : công
nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, dầu khí, điện năng, chế biến nông,
lâm, hải sản, dệt may, thì sẽ càng thấy rõ những nguy cơ tiềm ẩn lớn dần về
ô nhiễm môi trường. Bởi lẽ các nhành công nghiệp nói trên đều thuộc loại
danh mục các nguồn lớn nhất gây ô nhiễm môi trường.
-Một khía cạnh khác cũng cần phải tính đến trong hoạch định chính
sách kinh tế là cùng với nhịp độ tăng của các ngành kinh tế công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ tiêu dùng chất đốt cho năng lượng sẽ tăng lên đáng
kể. Sự tăng lên về tiêu dùng năng lượng than, điên … chắc chắn sẽ thải các
chất thải ngày càng một nhiều hơn và ảnh hưởng tới chất lượng môi trường.
Dự báo về nhu cầu than tới năm 2010 của Bộ Công Nghiệp cho thấy nhu
cầu tiêu dùng than mà nền kinh tế năm 2010 cần sẽ tăng gấp đôi so với nhu

cầu tiêu dùng của năm 1995, cụ thể là từ 6,89 triệu tấn (1995) lên 12,8 triệu
tấn (2010).
- Dựa trên cơ sở nhu cầu tiêu dùng nhiên liệu hoá thạch (than,
dầu)của các năm, có thể dự báo các dạng khí độc (CO2, SO2 … ) ảnh
hưởng tới chất lượng không khí. Tài liệu dự báo của Bộ Nông Nghiệp cho
thấy tổng lượng chất thải khí CO2 vào năm 2010 từ sự tiêu dùng năng
lượng sẽ tăng gấp 3 lần năm 1999. Vì vậy, ta có thể thấy từ thực tế Việt
Nam những năm qua, chúng ta càng tập trung vào các ngành công nghiệp,
xây dựng, nền kinh tế tăng trưởng càng cao thì môi trường sinh thái ngày
càng bị ảnh hưởng một cách nghiêm trọng. Đây chính là một trong những
khía cạnh chính của sự đối lập giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường
sinh thái.

Chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước nhằm mục tiêu duy
trì tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài.
-Mục tiêu chiến lược mà các ngành, các địa phương đều hướng vào là
làm cho nền kinh tế tăng gấp đôi và hơn nữa GDP trong mỗi thập kỉ phát
triển. Điều đó có nghĩa là phải duy trì tốc độ tăng trưởng trong một thời
gian dài ngày của GDP ở mức độ cao khoảng 8 - 10% / năm. Nếu như trình
độ công nghệ của sản xuất và cơ cấu sản xuất của nền kinh tế không được
cải thiện nhiều thì sự tăng trưởng GDP của đất nước cũng có nghĩa là tăng
khối lượng tài nguyên khai thác cho sản xuất và khối lượng chất thải vào
môi trường. Kết quả là ô nhiễm môi trường chắc chắn sẽ tăng lên, nhất là
khi tốc độ tăng trưởng của sản xuất công nghiệp cao (12 - 15% / năm).
Hiện tại tốc độ đổi mới công nghệ trong nền kinh tế quốc dân mới vào
khoảng 7 - 10% / năm. Định hướng chiến lược phát triển khoa hoc – công
nghệ của Việt Nam xác định tốc độ đổi mới công nghệ hàng năm khoảng
10 -15% / năm. Điều đó có nghĩa là phải sau 7 – 10 năm nền kinh tế mới
đổi mới được công nghệ của mình. Trong khoảng thời gian đó thì môi
trường đã phải chịu những tác động hết sức nặng nề.

Không chỉ trong công nghiệp và xây dựng, việc phát triển nông nghiệp ở
nhiều nước trên thế giới nói chung và ở ngay Việt Nam nói riêng cũng đã
và đang gây ảnh hưởng xấu tớ môi trường sinh thái.
- Trong cơ cấu GDP của nước ta, giá trị của nông, lâm, ngư nghiệp
cẫn còn chiếm giữ một tỉ trọng tương đối lớn (khoảng ¼). Ở phần lớn các
tỉnh và địa phương, tỉ lệ này còn có nơi chiếm tới 50 - 60%. Sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỉ trọng của sản xuất nông nghiệp gắn
liền với việc thâm canh ngày càng tăng trong sản xuất nhằm tăng năng suất
cây trồng và vật nuôi. Qúa trình thâm canh hoá sản xuất nông nghiệp ở Việt
Nam sẽ vẫn tiếp tục gắn liền với tăng cường sử dụng các loại phân vô cơ,
thuốc trừ sâu, diệt cỏ. Vào năm 1996, mức sử dụng phân bón hóa học cho
một hécta sản xuất nông nghiệp ở nước ta trung bình vào khoảng 120 -
150kg. Đến năm 2000, để đạt sản lượng 30 triệu tấn thóc thì phải tăng mức
phân bón hoá học nói trên 3 lần, tức là khoảng 200 - 450 kg cho 1 hécta.
- Rõ ràng là nếu không có những chính sách và biện pháp bảo vệ thích
hợp và lâu dài thì với sự tăng cường sử dụng các loại phân bón hoá học,
các chất vô cơ lâu phân huỷ và độc hại thì nguy cơ ô nhiễm môi trường ở
tất cả các thành phần môi trường (đất, nước, không khí, đa dạng sinh
hoc…) sẽ ngày càng tăng lên, đe doạ chính sự phát triển bền vững của sản
xuất nông nghiệp và sức khoẻ con người. Đây chính là một khía cạnh đối
lập rất rõ ràng trong mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng giữa phát triển
kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái ở nhiều nước trên thế giới và ngay
cả ở Việt Nam.
Phát triển, đặc biệt là phát triển kinh tế là một yêu cầu tất yếu của cuộc
sống con người, thế nhưng dù ở trình độ nào thì sự phát triển của con
người dù ít hay nhiều đều ảnh hưởng tới môi trường sinh thái thông qua
việc khai thác tự nhiên. Một số nền kinh tế ở trình độ thấp lại chủ trương
tăng trưởng quá nóng, thường thiếu các điều kiện vật chất, tài chính và dễ
bỏ qua các nguyên tắc, yêu cầu bảo vệ môi trường. Thậm chí có nước đã
chủ trương “hi sinh “ môi trường để đạt được sự tăng trưởng nhanh chóng

nhờ tiết kiệm các khoản chi phí ngân sách cho bảo vệ môi trường.
2.1.2.2. Sự thống nhất .
- Vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển kinh tế là hai mặt đối lập
trong mâu thuẫn biện chứng giữa chứng. Trong mối quan hệ này sự thống
nhất của các mặt đối lập với nhau và tác động lẫn nhau theo hai hướng
chính.
2.1.2.2.1. Chiều tiêu cực :
- Môi trường là xuất phát điểm quan trọng cho việc hình thành các chính
sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, cũng như cho việc triển khai các hoạt
động kinh tế trên thực tế, đồng thời bất cứ nền kinh tế nào vận hành trên
các nguyên tắc và thể chế không được thiết kế nhằm khuyến khích và định
hướng hành vi, thái độ ứng xử của cá nhân và tập thể người sản xuất cũng
như người tiêu dùng, ở cả cấp vĩ mô và vi mô, cũng gây tác động xấu đến
môi trường . Hơn nữa, khi đó những lợi ích kinh tế ban đầu thu được từ
việc khai thác và sử dụng bừa bãi thiên nhiên sẽ không bù lại được những
chi phí đắt đỏ và tổn thất to lớn mà con người phải hứng chịu về sau trong
quá trình khôi phục môi trường, hay để thích hợp hơn trong một môi
trường mới đã bị biến dạng, bị xuống cấp bởi chính bàn tay con người.
- Trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thì con người và sự phát
triển của con người đang bị đe doạ bởi những tác động trở lại của môi
trường như sau :
+ Các vấn đề xã hội cấp bách là nạn nghèo đói đang lan tràn tại
các nước chậm phát triển, nạn thất nghiệp đang đe doạ nhiều nước
trên thế giới kể cả những nước phát triển nhất, sự cách biệt về thu
nhập vá mức sống giữa các quốc gia, cũng như giữa các nhóm
người khác nhau trong cùng một nước suy giảm về trữ lượng và
chất lượng của tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa cơ bản đối với
cuộc sống của con người: đất, nước, rừng thuỷ sản , khoáng sản và
các dạng tài nguyên năng lượng. Điều này có khả năng dẫn tới tình
trạng thiếu thốn nghiêm trọng về lương thực cho nhân loại.

+ Ô nhiễm môi trường sống của con người với tốc độ nhanh và
phạm vi lớn hơn trước.
2.1.2.2.2.Chiều tích cực :
- Môi trường bị tàn phá một cách nặng nề và sự tác động trở lại của nó, môi
trường là một khía cạnh đặc biệt quan trọng trong chính sách phát triển bền
vững. Nhưng tác động và ảnh hưởng của môi trường trở lại phát triển kinh
tế không chỉ dừng lại ở đó.Còn có một mặt khác của vấn đề mà hiện nay ít
được đề cập.
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái ở nước
ta trong thời gian qua .
Theo ngân hàng thế giới thì chỉ với mức tăng GDP của nền kinh tế Việt
Nam như những năm qua (khoảng 7% / năm) th ì mức độ ô nhiễm môi
trường vào năm 2020 có thể gấp 4 - 6 lần mức ô nhiễm năm 2000. Theo
các chuyên gia của Ngân Hàng thì Việt Nam sẽ có mức độ ô nhiễm tăng
cao hơn mức tăng trưởng kinh tế. Tổn thất kinh tế do ô nhiễm là khoảng
0,3% GDP của đất nước vào năm 2000 và tới 2010 sẽ tăng lên tới 9%. Nếu
tính gộp cả các giá trị hưởng thụ bị mất đi, sự mất mát đa dạng sinh học …
thì tỉ lệ này còn lớn hơn gấp bội. Kinh nghiệm phát triển kinh tế của thế
giới cho thấy rằng: tính trung bình trong 10 năm, nếu tổng sản phẩm quốc
nội (GDP) của các nước Châu Á tăng lên 3 lần thì mức độ ô nhiễm tăng lên
5 lần, tỉ lệ này ở Việt Nam là ½.
Cánh cửa WTO mở ra cũng đồng nghĩa với việc mở ra nhiều cơ hội phát
triển kinh tế - xã hội. Nhưng đi liền theo đó, sự phát triển “nhanh” và
“nóng” cũng đặt ra những thách thức trong việc bảo vệ môi trường.
Nền kinh tế đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất. Việc chuyển đổi
rừng và các vùng đất mặn thành đất canh tác nông nghiệp, nuôi trồng thủy
sản; sự mở rộng đô thị và phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển du lịch dẫn
đến mất hay phá vỡ các hệ sinh thái và các sinh cảnh. Sự mở rộng và thâm
canh nông nghiệp là một trong những lý do lớn nhất của việc mất các sinh
cảnh tự nhiên ở Việt Nam. Các vùng đất ngập nước ngọt như các

trảng cỏ ngập nước theo mùa đang bị đe doạ bởi hệ thống thủy lợi và sự
chuyển đổi thành các ruộng lúa. Hiện nay, ở nhiều khu vực dọc bờ biển
Việt Nam, đặc biệt từ Lăng Cô (Thừa Thiên Huế) vào phía Nam là nơi tập
trung nhiều cồn cát, các bãi biển đang bị xé nhỏ, phân lô để xây dựng khu
nghỉ mát, chỉ riêng tại vùng Khe Gà (Bình Thuận) đã có trên 100 khu, vùng
Mũi Né cũng vào khoảng 50 khu… Ở những bãi biển bình thường, việc xây
dựng hạ tầng thường không có ảnh hưởng lớn. Song, vùng cồn cát là một
hệ thống rất nhạy cảm, nên chỉ một can thiệp nhỏ cũng có thể gây ra xói
mòn, trượt cát, sụt lở và phá hủy cảnh quan. Việt Nam gia nhập WTO sẽ
làm thay đổi nhất định về kinh tế, xã hội cộng với dân số tăng nhanh, các
mô hình tiêu thụ của người dân cũng thay đổi, mạng lưới giao thông xâm
nhập tới các vùng xa xôi hẻo lánh nhất làm cho những vùng này trở nên dễ
tiếp cận hơn đối với các thị trường bên ngoài. Những thay đổi to lớn này sẽ
dẫn tới việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên tới mức độ nguy
hiểm tại nhiều vùng trên cả nước ảnh hưởng sâu sắc tới đa dạng sinh học.
Hầu hết các thực phẩm có giá trị kinh tế, trong đó có nhiều loài được dùng
làm thức ăn, chất đốt, thuốc chữa bệnh, vật liệu xây dựng hay làm đồ thủ
công mỹ nghệ đều bị khai thác triệt để nhằm phục vụ tại chỗ hoặc buôn
bán. Chẳng hạn như việc khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ; đánh bắt thủy
hải sản theo kiểu hủy diệt; săn bắn và buôn bán trái phép động vật hoang dã
là những ví dụ rất cụ thể.
Nhu cầu phát triển kinh tế cũng sẽ kéo theo việc sử dụng tài nguyên nước
ngày càng lớn, trong khi nước ta được đánh giá là một nước dưới mức
trung bình về nước tính theo đầu người so với thế giới. Nước ta lại đang
phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nước quốc tế, đến tới 65% trong khi các
quốc gia thượng nguồn cũng đang có nhiều nhu cầu về sử dụng nước.
Trong khi đó, việc gia tăng khối lượng và phạm vi khai thác nước dưới đất
sẽ dẫn tới giảm nhanh chóng mực nước dưới đất, không những làm cạn kiệt
nguồn nước mà còn làm hoang mạc hóa ở những vùng có lượng mưa thấp
và dẫn tới những biến dạng về địa hình mà điển hình là nạn sụt lún đất. Có

thể nhìn thấy nhiều nước đang có chủ trương đóng cửa mỏ và nâng giá mua
khoảng sản từ các nước khác, trong khi nhu cầu vốn cho công nghiệp hóa
của nước ta đang rất lớn mà một phần trong số đó được trông đợi từ tài
nguyên khoáng sản. Tình hình đó sẽ tạo áp lực cho việc khải thác khoáng
sản không hợp lý, thiếu bền vững. Kinh tế phát triển với nhịp độ cao cùng
với quá trình đô thị hóa và mức tiêu dùng của người dân ngày càng lớn sẽ
dẫn tới khối lượng chất thải gia tăng nhanh chóng, trong khi khả năng ngăn
chặn tình trạng đổ chất thải ra môi trường không đạt tiêu chuẩn, việc xử lý
còn nhiều bất cập. Các hệ sinh thái nước ngọt, duyên hải và biển cũng đang
bị đe dọa bởi nạn ô nhiễm từ nhiều nguồn, bao gồm nước thải chưa xử lý,
hệ thống thoát nước nông nghiệp và các dòng thải công nghiệp. Do đó nếu
không có biện pháp xử lý mạnh ngay từ bây giờ sẽ dẫn tới những hậu quả
nghiêm trọng về ô nhiễm đất, nước, không khí. Bài học về sự phát triển
nhanh, ít chú ý đến môi trường của Trung Quốc cho thấy rõ điều đó.
Việc bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay không đáp ứng nhu cầu của
quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới. Nhìn chung môi
trường ở nước ta vẫn tiếp tục bị ô nhiễm nghiêm trọng.
2.2.1. Các hoạt động kinh tế đã và đang làm suy thoái tài nguyên
thiên nhiên và ô nhiễm môi trường ở Việt Nam .
2.2.1.1. Khai thác tài nguyên thiên nhiên không hợp lý.
- Mở rộng diện tích đất nông nghiệp vào hệ sinh thái rừng, đất ngập nước…
- Tiếp tục du canh du cư và canh tác nương rẫy.
- Khai thác bừa bãi động vật hoang dã , tiếp tục buôn bán các loài thú quý
hiếm.
- Sử dụng chất nổ, chất độc, điện để đánh bắt thuỷ sản.
- Khai thác nước ngầm không đúng kĩ thuật.
- Tiếp tục để hoang đất trồng, đất núi trọc.
2.2.1.2. Sản xuất, phát triển kinh tế- xã hội không bền vững.
- Quy hoạch dân số và kế hoạch hoá gia đình chưa đạt yêu cầu cân bằng, ổn
định.

- Khai thác quá mức tài nguyên thuỷ sản trong các khu vực nước ngọt và
ven biển.
- Khai thác bừa bãi các rạn san hô làm vôi, bán làm kỉ niệm.
- Thâm canh nông nghiệp theo hướng tăng thuốc trừ sâu, phân hoá học.
- Chưa thực hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động môi trường của các
hoạt động tưới tiêu thuỷ lợi.
- Còn bỏ sót đánh giá tác động môi trường cho các dự án phát triển kinh tế
- xã hội.
- Chưa kiểm soát được di dân tự do.
- Thực hiên chưa đầy đủ các công ước về bảo vệ môi trường đã kí.
2.2.1.3. Ô nhiễm môi trường đang gia tăng.
- Các nhà máy thiếu bộ phận xử lí chất thải chưa có công nghệ tái sử dụng
chất thải .
- Không tiết kiệm, khi khai thác quặng quy hoạch bãi thải.
- Các chất thải từ các đô thị và khu công nghiệp, đặc biệt là các chất độc
hại, không được quản lí chặt chẽ.
- Chưa kiểm soát bụi, khí thải, tiếng ồn của các phương tiện giao thông, sân
bay, cầu cảng …
- Không quản lí tốt môi trường khu du lịch, thể thao, nghỉ ngơi, giải trí.
2.2.1.4. Nhiều rủi ro và thảm hoạ xảy ra.
- Khai thác và vận chuyển dầu chưa an toàn.
- Chưa kiểm soát tốt các lưu vực.
- Sử dụng thiếu an toàn thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh gia súc và phân hoá
học.
- Các chất độc hại không có quy chế quản lí.
- Chưa có kế hoạch tốt đề phòng các rủi ro và thảm hoạ môi trường.
- Cung cấp nước sạch cho nhân dân chưa đảm bảo nhu cầu tối thiểu.
- Không xử lí phân bắc ở nông thôn, đặc biệt là ở đồng bằng Nam Bộ, kể cả
phân gia súc.
- Rừng tiếp tục bị phá là nguyên nhân dẫn đến lũ quét và ngập lụt lớn.

2.2.2. Thực trạng về một số khía cạnh nổi cộm của tình trạng môi
trường sinh thái của Việt Nam trong thời gian gần đây.
-Có thể nói, nước ta là quốc gia giàu tiềm năng về tài nguyên nước, nhưng
vấn đề bảo vệ tài nguyên này đang đứng trước những thách thức to lớn.
Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự sống
và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát triển của đất nước. Nước còn là
điều kiện cần thiết để khai thác, sử dụng các tài nguyên khác; là tư liệu sản
xuất không thể thay thế được của các ngành kinh tế. Nhà bác học Lê Quý
Đôn đã từng nói: Vạn vật không có nước không thể sống. Mọi việc không
có nước không thể thành được. Nhưng nước là tài nguyên có hạn. Nước ta
có 2.360 con sông, 10 lưu vực sông có diện tích hơn 10.000 km
2
. Tổng
lượng nước mặt trung bình hằng năm là 880 tỉ m
3
. Tuy nhiên, do nằm ở
cuối hạ lưu sông Mê Kông, sông Mã, sông Cả và sông Hồng, cho nên
62,5% lượng nước (khoảng 570 tỉ m
3
) là từ lãnh thổ các quốc gia khác ở
thượng lưu chảy vào. Lượng nước tạo ra trong lãnh thổ Việt Nam chỉ
khoảng 325 tỉ m
3
/năm, chiếm 37,5%. Về nước ngầm, nước động thiên
nhiên khoảng 50 - 60 tỉ m
3
và trữ lượng có thể khai thác khoảng 10 - 12 tỉ
m
3
/năm. Hiện chỉ khoảng 20% dự trữ nước ngầm đang được khai thác.

Theo đánh giá của nhiều cơ quan và chuyên gia về nước, thì lượng nước
mặt ở nước ta không thật dồi dào, đặc biệt là trong mùa khô, khi các quốc
gia ở thượng nguồn sử dụng nhiều nước; trữ lượng nước ngầm cũng ở mức
trung bình so với các nước trên thế giới. Những năm gần đây, do việc phát
triển kinh tế đã kéo theo quá trình đô thị hoá ngày càng nhanh. Nhiều nhà
máy trước đây nằm ở ngoại thành giờ đây đã nằm lọt trong các đô thị với
lượng dân cư đông đúc, đang gây ô nhiễm nghiêm trọng cho môi trường
xung quanh. Đặc biệt là tình tràng ô nhiễm nguồn nước sạch do rất nhiều
nhà máy, công xưởng xả nước thải chưa hề được xử lí nhưng chưa đạt yêu
cầu ra sông ngòi, kênh rạch … “riêng Thành Phố Hồ Chí Minh mỗi ngày
có 550000 kg BOD bị thải ra sông rạch. Trong đó nước thải công nghiệp
chiếm 250000 kg/ ngày. Các nhà máy dệt, nhuộm gây ô nhiễm nặng nề
nhất, từ 15000 - 200000mg/l BOD”Theo số liệu thống kê tại Hà Nội, tổng
lượng nước thải từ 350000 - 450000 m3 / ngày. Trong đó lượng nước thải
trừ sản xuất công nghiệp là 100000 - 135000m3 / ngày, tổng khối lượng rác
thải sinh hoạt là 1800 - 2000m3/ ngày. Trong đó khối lượng thu gom chỉ
đạt được 850m3/ ngày, phần còn lại chủ yếu được đổ vào các khu vực ven
sông hồ, kênh mương nội thành.
-Tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hóa khá nhanh, sự gia tăng dân số gây
áp lực ngày càng nặng nề đối với tài nguyên và môi trường. ở nhiều đô thị,
khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải
và chất thải rắn. Tại các thành phố lớn, hàng trăm các cơ sở sản xuất công
nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường do không có công trình và thiết bị xử
lý chất thải. ở Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn tình
trạng nước thải sinh hoạt chưa có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả
ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương). Phần lớn các bệnh viện và cơ
sở y tế chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác thải rắn lớn trong
thành phố không thu gom hết. Mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ
của thành phố rất nặng. Ở Thành phố Thái Nguyên, nước thải từ các cơ sở
sản xuất giấy, luyện gang thép, kim màu, khai thác than chưa được xử lý đổ

ra sông Cầu. Hằng trăm làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, dệt,
nhuộm thuộc các tỉnh lưu vực sông Cầu với lượng nước thải hàng ngàn
m3/ngày không qua xử lý gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước và môi
trường khu vực. Một số đô thị khác như: Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam
Định, Hải Dương chất thải sinh hoạt cũng chưa được xử lý tốt. Độ ô
nhiễm môi trường đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
-Ô nhiễm môi trường ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp cũng
rất nghiêm trọng. Gần 76% số dân nước ta đang sinh sống ở nông thôn là
nơi kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia
súc không được xử lý, thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô
nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Nhiều nơi
do nuôi trồng thủy sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ
thuật, đã gây nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước. Lượng nước thải
của các xí nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh cũng rất lớn, từ vài chục
ngàn đến hàng trăm ngàn m3/năm. Môi trường ở nông thôn cũng đang bị ô
nhiễm do việc sử dụng không đúng quy cách và không hợp lý các hóa chất
nông nghiệp; thiếu các phương tiện vệ sinh và cơ sở hạ tầng phục vụ sinh
hoạt nên số hộ ở nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh mới chỉ đạt
khoảng 40%, và chỉ có khoảng 30% số hộ có công trình vệ sinh đạt tiêu
chuẩn.
-Bên cạnh quá trình phát triển kinh tế là sự suy thoái tài nguyên rừng.
Trong mấy chục năm qua, rừng của Việt Nam đang bị tàn phá nặng nề trên
quy mô lớn. Rừng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với con người cũng
đang phải đối mặt với sự suy giảm nhanh về số lượng và chất lượng. Đầu
thế kỷ XX, độ che phủ đạt khoảng 50%, sau đó còn gần 30%. Do chúng ta
có nhiều chính sách trồng rừng và bảo vệ rừng nên độ che phủ đã được cải
thiện. Năm 2005 ở mức khoảng 37% và với đà này, mục tiêu 42% độ che
phủ của rừng vào năm 2010 là có thể đạt được, tuy nhiên, chất lượng rừng
thì ngày càng suy giảm. Rừng tự nhiên đầu nguồn và rừng ngập mặn vẫn
tiếp tục bị tàn phá nghiêm trọng. Rừng giàu, rừng kín, rừng nguyên sinh chỉ

còn chiếm khoảng 13% và rừng tái sinh chiếm tới 55% tổng diện tích rừng.
Đa dạng sinh học cũng đóng vai trò quan trọng đối với con người và thiên
nhiên. Từ nhiều thập kỷ nay, hoạt động của con người đã tác động mạnh tới
thế giới sinh vật, được xem là tương đương hoặc thậm chí lớn hơn nhiều so
với các đợt tuyệt chủng lớn nhất trong thời tiền sử. Việt Nam là nước có
mức độ đa dạng sinh học đứng thứ 10 thế giới nhưng tốc độ suy giảm được
xếp vào loại nhanh nhất. Nhiều hệ sinh thái tự nhiên bị xâm phạm, giảm
thiểu diện tích. Trong không đầy 50 năm, diện tích rừng ngập mặn giảm
gần 3/4.
-Tài nguyên đất đai vô giá của chúng ta cũng đang bị xâm hại nặng nề. Cả
nước ta hiện có diện tích tự nhiên khoảng 33 triệu héc-ta, trong đó diện tích
phần đất liền khoảng 31,2 triệu héc-ta. Theo kết quả điều tra gần đây nhất,
trong số 21 triệu héc-ta đất đang sử dụng trong canh tác nông, lâm nghiệp,
thì phần diện tích đáng kể lại có hàm lượng dinh dưỡng thấp. Đặc biệt có
tới 9,43 triệu héc-ta đất hoang hóa, trong đó khoảng 7,85 triệu héc-ta chịu
tác động mạnh bởi sa mạc hóa. Sự suy giảm đất canh tác, sự suy thoái chất
lượng đất và sa mạc hóa cũng đang diễn ra với tốc độ nhanh. Cùng với hiện
tượng xói mòn, rửa trôi, sạt lở, mặn hóa, phèn hóa đang xảy ra phổ biến ở
nhiều nơi đã làm cho khoảng 50% trong số 33 triệu héc-ta đất tự nhiên của
nước ta được coi là "có vấn đề suy thoái". Bên cạnh đó, do việc quy hoạch
và quản lý còn hạn chế, nhiều nơi đất đai còn chưa được sử dụng có hiệu
quả và bền vững.
- Do quá trình xây dựng, phát triển kinh tế hiện nay, các nhà máy công
nghiệp, các ngành nghề sản xuất phụ nhanh chóng phát triển. Do đó mức
độ ô nhiễm ở những nơi có nhà máy sản xuất công nghiệp, ngành nghề sản
xuất phụ đã và đang gây hậu quả nghiêm trọng cho môi trường. Các đô thị
đều bị ô nhiễm tới mức đáng báo động, đặc biệt là về nồng độ bụi trong
không khí : ”nồng độ bụi trung bình ở các thành phố là 0,4 - 0,5mg/ m3,
nồng độ bụi ở các khu dân cư bên cạnh các nhà máy, xí nghiệp hay gần
đường giao thông lớn đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 - 3 lần, nơi bị ô

nhiễm nặng nhất là khu dân cư gần nhà máy xi măng Hải Phòng … ”. Ô
nhiễm bụi chủ yếu do giao thông vận tải, xây dựng sửa chữa nhà cửa và sản
xuất công nghiệp gây ra. Tuy nhiên theo số liệu của trạm quan trắc môi
trường quốc gia thì ô nhiễm bụi ở các khu dân cư đô thị gần các khu công
nghiệp từ năm 1995 đến nay có chiều hướng giảm dần.
- Do phát triển kinh tế, chúng ta phải khai thác khoáng sản có sẵn trong tự
nhiên. Các nguồn khoáng sản của ta đa dạng chứ không giàu, trữ lượng
thấp. Do đó, đến nay một số khoáng sản của ta đã bị cạn kiệt mà nguyên
nhân chủ yếu không phải sản xuất công nghiệp mà do sử dụng chúng chưa
có hiệu quả và không đúng mục đích. Khác với nguồn khoáng sản, nhiên
liệu hoá thạch do khó khai thác nên chúng ta còn khá nhiều, đây sẽ là
nguồn tài lực quan trọng cho chúng ta phát triển kinh tế trong những năm
tới.
* Qua những thực trạng trên, chúng ta thấy rằng việc đề ra các biện pháp để
giải quyết sự mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường là vô
cùng cần thiết, và là một nhiệm vụ cực kì cấp bách để bảo đảm sự phát
triển bền vững cho các thế hệ sau.
3. Một số biện pháp để kết hợp phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường
ở Việt Nam hiện nay.
Giữ gìn môi trường và phát triển kinh tế là vấn đề mà các nhà quản lý
và dân chúng đang hết sức quan tâm. Để bảo vệ môi trường trong qúa trình
hội nhập và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, các cơ quan chức năng
cho rằng cần phải hoàn thiện pháp luật về môi trường, quản lý chất thải;
xây dựng các quy định về kiểm soát ô nhiễm; phát triển công nghệ môi
trường. Việc xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường, hợp tác quốc tế về bảo
vệ môi trường là cách có thể tiếp cận với những chuẩn môi trường cao cũng
như thu hút được nhiều nguồn vốn cho công tác này.Việc chọn đối tác đầu
tư nước ngoài cũng là một yếu tố quan trọng góp phần duy trì bền vững
môi trường.Những đối tác đến từ các nước đang phát triển nơi có quy định
chặt chẽ về công tác môi trường thường áp dụng các biện pháp quản lý môi

trường tốt hơn. Thêm vào đó, chúng ta cần nghiêm túc nhìn lại hiện trạng
và những thách thức đặt ra đối với môi trường và phát triển bền vững ở
nước ta trong thời gian qua, để cùng nhau nỗ lực hơn nữa thực hiện có hiệu
quả các mục tiêu về tài nguyên và môi trường mà Đại hội lần thứ X của
Đảng đề ra, góp phần xây dựng đất nước ta "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn"
như lời căn dặn của Bác Hồ.
3.1. Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp
sống và các phong trào quần chúng bảo vệ môi trường, giáo dục dân số,
môi trường và xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường.
3.2. Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ môi trường, khẩn
trương ban hành các chính sách về phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi
trường, xây dựng và củng cố pháp lí về thể chế bảo vệ môi trường.
-Cần nhanh chóng đồng bộ hoá và hoàn thiện không ngừng hệ thống
pháp luật bảo vệ môi trường quốc gia ( gồm Luật bảo vệ môi trường và các
bộ luật khác về thành phần hay khu vực môi trường quốc gia như: luật
rừng, luật biển, luật khoáng sản, luật đất đai … ). Hệ thống luật và các thể
chế càng đầy đủ, cụ thể, đồng bộ, tiên tiến và được thực thí nghiệm túc, thì
chắc chắn sẽ trở thành công cụ hữu hiệu bảo vệ môi trường. Đa dạng hoá
các thể chế bảo vệ môi trương ( bao gồm các tổ chức, cơ quan, hiệp hội,
nhà nước hay phi nhà nước, các ngành và chuyên trách trong các lĩnh vực
nghiên cứu và quản lí và bảo vệ môi trường chung.
3.3. Đánh giá tác động môi trường và quản lí tai biến môi trường, chủ
động phòng chống ô nhiễm và củng cố môi trường, khắc phục suy thoái
môi trường.
- Để quản lí tai biến môi trường cần xác định đặc trưng, khả năng gây
hại môi trường của nó. Vì vậy, cần tiến hành điều tra cơ bản môi trường và
thu nhập các dữ liệu quan trong liên quan để xây dựng hệ thống dự trữ môi
trường của quốc gia. Cần khẩn trương xây dựng đồng bộ và hệ thống hoá
hệ thống quan trắc môi trường quốc gia.
- Cán bộ các tỉnh thành phó tổ chức phân loại các cơ sở gây ô nhiễm

và có kế hoạch xử lí phù hợp, kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc di chuyển
địa điểm các cơ sở hoặc bộ phân của cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất.
- Áp dụng công nghệ sạch, ít phế thải, tiêu hao ít nguyên liệu và năng
lượng.
3.4. Khai thác, sử dụng hợp lí, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
đa dạng sinh học, bảo tồn thiên nhiên.
-Nhanh chóng chấm dứt tình trạng khai thác khoáng sản bừa bãi gây
lãng phí tài nguyên, huỷ hoại rừng, suy thoái đất và ô nhiễm môi trường.
-Chấm dứt ngay việc sử dụng các biện pháp có tính huỷ diệt như điện,
xung điện, chất nổ, chất đốt … để khai thác nguồn lợi thuỷ sản.
3.5. Kiện toàn bộ máy quản lí nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung
ương đến các địa phương.
- Tăng cường năng lực quản lí nhà nước và bảo vệ môi trường cho các
địa phương. Xây dựng phương án tổ chức hệ thống quản lí nhà nước về
việc bỏ vệ môi trường ở cấp quận huyện. Thực hiện thí điểm ở một số tỉnh
và thành phố để rút ra những kinh nghiệm triển khai đại trà ở nhiều nơi
trong các năm sau. Tổ chức cần gọn nhẹ, hiệu quả, nhân sự được điều
chỉnh từ biên chế hiện có.
3.6. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ, nâng cao trình độ
khoa hoc – công nghệ bảo vệ môi trường, đào tạo cán bộ, chuyên gia về
lĩnh vực bảo vệ môi trường.
3.7. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường.
C.Kết luận
Để Việt Nam có được sự phát triển bền vững thì chúng ta cần phải gắn
liền công tác bảo vệ môi trường với quá trình phát triển kinh tế. Môi trường
đã và đang là một vấn đề có tính toàn cầu,thực tế đó đòi hỏi phải có một
chiến lược quốc gia để kết hợp nhà nước và nhân dân một nỗ lực nhằm bảo
vệ môi trường. Tuy nhiên điều đáng lo ngại là mặc dù đã nhận thức đựoc
đầy đủ mức độ nghiêm trọng của vấn đề nhưng không phải lúc nào con

người cũng có những bước đi cụ thể, tham gia đầy đủ trong nỗ lực này.
Chúng ta đã và đang tàn phá môi trường tự nhiên một cách bừa bãi, khai
thác tài nguyên thiên nhiên một cách lãng phí mà không hề lo lắng gì cho
tương lai, cho thế hệ con cháu của chúng ta, không sợ sự tác động trở lại
của thiên nhiên.

Theo triết học duy vật biện chứng, mối quan hệ đặc thù của con người
với môi trường xung quanh là ở chỗ con người không thụ động tiếp nhận
sự tác động từ bên ngoài mà tích cực cải biến tự nhiên và chính bản thân
mình.Chúng ta đang sống trong xã hội phát triển với nền khoa học kỹ thuật
cao, sự phát triển nhanh chóng làm cho môi trường sống ngày càng bị ô
nhiễm trầm trọng. Tuy chúng ta có nhận thức được vấn đề nhưng sự thật là
chúng ta dường như đã lãng quên đi tầm quan trọng của thiên nhiên, môi
trường để chạy theo sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật Vì
vậy nhận thức được đầy đủ mức độ nghiêm trọng của vấn đề nhưng không
phải lúc nào con người cũng có những bước đi đúng đắn kịp thời để ngăn
chặn sự phá huỷ môi trường đang diễn ra hằng ngày hằng giờ. Nhận thức
nhưng cũng cần phải có hành động cần thiết kịp thời mới có thể giải quyết
đựơc vấn đề. Do đó Nhà nước phải đóng vai trò chủ lực và chủ động giải
quyết các vấn đề môi trường. Nếu không thị trường và cạnh tranh kinh tế sẽ
dẫn đến thất bại, không thể tạo ra môi trường thiên nhiên phục vụ tốt cho
cuộc sống con người và xã hội nước ta.
D.Tài liệu tham khảo
-Giáo trình triết học Mác_Lênin_NXB Chính trị quốc gia, các trang 245-
247,248-240.
-Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 231-năm 2003.
-“Bảo vệ môi trường sống”-Huy Văn, báo “Nhân dân”,số 18871 ngày
15/4/2007,trang 1.
-Thông báo về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 của
Bộ Kế hoạch Đầu tư.

-Thời báo kinh tế Việt Nam, số 63, ngày 19/4/04.
-Sách Quản lý Nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sự phát triển
bền vững dưới góc độ xã hội - nhân văn , tác giả PGS.TS Phạm Ngọc
Trâm(chủ biên), NXB Khoa học xã hội.
-Sách Môi trường và phát triển, tác giả PGS.TS Nguyễn Thế Thôn và TS
Hà Văn Hành, NXB Xây dựng.
ww.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/nr040807105039/ns060420084723
ww.monre.gov.vn/monrenet/default.aspx?tabid=209&ItemID=26725
ww.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=7255212&news_ID=5254625

×