Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

thực trạng của các đối tượng tham gia hoạt động quảng cáo truyền hình ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.63 KB, 25 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại toàn cầu hoá ngày nay, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO thị
trường vừa đi vào tiêu chuẩn hoá, vừa đa dạng hoá, cạnh tranh ngày càng gay gắt nên sự khác
biệt hoá mặt hàng càng ngày càng đóng vai trò quan trọng và nhiệm vụ của quảng cáo càng
phức tạp, khó khăn hơn.
Chính lẽ đó, quảng cáo không những đã triển khai theo chiều rộng mà cả chiều sâu đặc
biệt muốn nhấn mạnh ở đây là chiều phát triển kỹ thuật. Quảng cáo từ những phương tiện thô
sơ như lời đồn đại, tin tức truyền miệng …đến tận dụng sức mạnh của các phương tiện báo,
tạp chí, truyền thanh, truyền hình, điện ảnh, gần đây tiếp cận truyền thông đa phương tiện
truyền thông vệ tinh, internet.
Với mong muốn tiếp cận và phần nào làm rõ thực trạng, xu hướng cuả quảng cáo
truyền hình Việt Nam thời gian qua, người nghiên cứu đã sử dụng phương pháp thu thập dữ
liệu thứ cấp thông qua tài liệu sach, tạp chí chuyên ngành và internet để từ đó tổng kết những
thông tin cần thiết phục vụ cho nghiên cứu đề tài.
Phương pháp nghiên cứu được tác giả đề tài sử dụng là phương pháp tổng hợp, thực
chứng, diễn giải, kết hợp với quy nạp và diễn dich
Phương pháp luận tư duy: duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lien quan đến quảng cáo
truyền hình ở Việt Nam.
Với những nỗ lực của tác giả và sự hướng dẫn tân tình sat sao của cô giáo hướng dẫn
cùng nhiều ý kiến của các bạn hy vọng đề án sẽ có được những đóng góp tích cực cho những
ai quan tâm đến quảng cáo truyền hình.
Sinh viên: Lê Thị Ngọc Thúy
Phần I: Những lý thuyết cơ bản về quảng cáo truyền hình.
I.Quảng cáo truyền hình - Đặc điểm và chức năng.
1. Khái niệm.
a. Khái niệm quảng cáo.
Quảng cáo là một hoạt động tốn tiền, dựa vào phương tiện truyền thông (môi thể ), không dựa
vào con người để loan báo , chào mời về sản phẩm, dịch vụ hay ý tưởng do một chủ thể quảng
cáo có danh tính rõ ràng chi trả.
b. Khái niệm quảng cáo truyền hình.


Quảng cáo truyền hình là một hình thức của quảng cáo. Trong đó, hoạt động quảng cáo dựa
trên môi thể truyền hình, thông điệp quảng cáo là các phim quảng cáo, đích nhắm là khán giả
truyền hình và người tiêu thụ sản phẩm.
2. Đặc điểm và chức năng của quảng cáo truyền hình.
a. Đặc điểm
Quảng cáo truyền hình không những sử dụng phương tiện thuyết phục là ngôn ngữ mà còn
bằng hình ảnh và nhiều yếu tố tín hiệu khác nhưng chủ yếu vẫn là hình ảnh. Thị giác được
đánh giá là anh cả của ngũ quan. Người Việt Nam coi đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Thính
giác có tính năng không kém nhưng chỉ đóng vai trò bổ trợ cho đôi mắt:”Trăm nghe không
bằng một thấy”.
Một thông điệp truyền hình bao gồm các yếu tố: hình ảnh, âm thanh, màu sắc, ngôn ngữ, nó
khai thác được khả năng của cả hai giác quan trên nên đạt được hiệu quả vượt bậc và cho đến
nay là hình thức quảng cáo được dùng nhiều nhất được dùng trong quang cáo thương mại.
Quảng cáo truyền hình là hình thức quảng cáo khá tốn kém, bị giới hạn về thời gian (giờ phát
sóng, thời điểm phát sóng), không gian (kênh truyền hình). Chính vì thế mà quảng cáo truyền
hình đòi hỏi sự sáng tạo, ấn tương sâu sắc trong một thời gian ngắn.
b. Chức năng của quảng cáo truyền hình.
Quảng cáo truyền hình có 4 chức năng:
*Chức năng kinh tế:
Trong thời đại cạnh tranh gay gắt ngày nay, nó thôi thúc sự tiêu thụ của khách hàng. Nó khai
thác những nhu cầu tiềm ẩn của người tiêu thụ, góp phần định hướng tiêu dùng, hỗ trợ đắc lực
cho việc lựa chọn sản phẩm của khách hàng, nâng cao mức sinh hoạt cho người tiêu dùng.
Nó góp phần đắc lực trong cân bằng cung cầu cũng như phân phối lợi tức của xã hội.
*Chức năng thương mại:
Quảng cáo truyền hình những thông tin với xã hội về vai trò của doanh nghiệp, đường lối hoạt
động của doanh nghiệp. Quảng cáo thúc đẩy doanh nghiệp không ngừng cải tiến hoạt động để
phục vụ khách hàng và xã hội tốt hơn. Nó tạo danh tiếng cho doanh nghiệp, xây dựng thương
hiệu, nâng cao tinh thần của nhân viên.
*Chức năng xã hội:
Quảng cáo truyền hình mở rộng tri thức, nâng cao mức độ suy nghĩ , phán đoán cho người

tiêu dùng, giúp khách hàng trở nên khôn ngoan hơn, tiết kiệm thời gian tìm kiếm thông tin về
sản phẩm, dịch vụ và doanh nghiệp.
*Chức năng văn hóa:
Quảng cáo truyền hình mang đến luồng sinh khí mới cho đời sống văn hóa. Qua đó chúng ta
bắt mạch được xã hội, hơi hướng của thời đại.
3. Các hình thức quảng cáo truyền hình:
Sau khi các chủ thể quảng cáo đã bằng lòng về một đài truyền hình, họ bắt đầu nghĩ đến
những hình thức quảng cáo hiệu quả nhất với ngân sách của mình.
Có hai loại quảng cáo:
- Quảng cáo để giới thiệu sản phẩm ( trong trường hợp sản phẩm mới ra lò hay quay trở
lại thị trướng sau một thời gian vắng mặt).
- Quảng cáo để nâng cao uy tín và danh tiếng cho doanh nghiệp.
a. Quảng cáo để giới thiệu sản phẩm:
Lúc mới được tung ra thị trường, thương phẩm cần được giới thiệu ồ ạt, nhất là khi muốn
cạnh tranh, đương đầu với các đối thủ. Nhưng sau đó, sản phẩm chỉ cần được nhắc nhở là đủ,
trừ khi người chế tạo cho thêm một chức năng nào khác và giới thiệu nó với thị trường.
b. Quảng cáo cho uy tín doanh nghiệp:
Tên tuổi uy tín của doanh nghiệp là tài sản vô hình của doanh nghiệp, nó làm cho sản phẩm
của doanh nghiệp có thể bán chạy hơn, đắt hơn. Việc không ngừng nâng cao uy tín, bồi đắp
giá trị thương hiệu sản phẩm và danh tiếng của doanh nghiệp là chiến lược lâu dài và cần
được quan tâm đúng mức.
Truyền hình được coi như môi thể lý tưởng cho loại này vì nó sử dụng vừa hình ảnh, vừa âm
thanh, vừa động tác và có độ truyền đạt đến quảng đại quần chúng. Để thu hoạch được hảo
ý của khán thính giả, doanh thường nói về mình qua những chủ đề như sự lương thiện, khả
năngng mướn nhân viên, có nhiều cổ đông, yêu đất nước, chuộng tự do, đi đầu về kỹ thuật,
cung cấp mặt hàng có chất lượng cao vv Cùng lúc, họ cũng đề ra những mục đích cao đẹp
hay "sứ mạng" của họ nữa.
II. Những đối tượng tham gia vào hoat động quảng cáo truyền hình.
1.Chủ thể quảng cáo.
a. Khái niệm:

Chủ thể quảng cáo truyền hình là người trả tiền để thực hiện phim quảng cáo trên môi thể
truyền hình và thừa hưởng những kết quả mà quảng cáo mang lại.
b. Phân loại:
Có thể chia làm các loại chủ thể như sau:
- Chủ thể là một cá nhân.
- Chủ thể là một tập thể.
- Chủ thể là một pháp nhân (thường là công ty, doanh nghiệp).
c. Phân công trách nhiệm trong hoạt động quảng cáo truyên hình:
Hoạt động quảng cáo liên quan đến 4 đại diện:
- Tổng giám đốc công ty.
- Giám đốc quảng cáo.
- Giám đốc phân phối sản phẩm.
- Giám đốc tiếp thị (marketing).
Tùy theo đường lối tổ chức của mỗi công ty, doanh nghiệp mà có thể có những nhân vật khác
nhau tham dự và quyết định phương kế quảng cáo. Ở các hãng nhỏ, chỉ cần một hai người
kiêm nhiệm nhiều chức vụ nhưng ở các hãng lớn tầm cỡ quốc gia, quốc tế thì mọi sản phẩm
đều phải có một đơn vị quảng cáo độc lập, riêng biệt chuyên trách.
Trong 4 đại diện tham gia vào hoạt động quảng cáo kể trên, thì giám đốc quảng cáo là người
chịu trách nhiệm trực tiếp điều hành công việc.
2.Hãng quảng cáo.
a. Khái quát về hãng quảng cáo.
Các hãng quảng cáo đóng vai trò đầu tàu trong công nghệ quảng cáo. Chúng thực hiện các đồ
án quảng cáo của doanh nghiệp.
Ban đầu chúng là những đại lý, môi giới đóng vai trò trung gian giữa chủ thể quảng cáo và
môi thể, thu nhập là hoa hồng.
Ngày nay, các hãng quảng cao bán năng lực và sự hiểu biết về công việc quảng cáo cho chủ
thê quảng cáo.
Hãng quảng cáo không cần nhiều máy móc, thiết bị, bất động sản, vốn lớn nhất của một hãng
quảng cáo là con người: năng lực sáng tạo, kỹ thuật chuyên môn, sự gắn bó với nghề nghiệp,
kinh nghiệm ngoại giao Những hãng có đầy đủ những yếu tố đó sẽ giữ được khách hàng.

b.Phân loại hãng quảng cáo:
Tùy theo nguồn vốn và phương pháp làm việc, có thể có những loại hình hãng quảng cáo sau:
-Hãng phục vụ toàn diện (Full-Service Agency) thường là những hãng lớn, có tầm cỡ quốc
tế. Họ phụ trách mọi lãnh vực từ hành chánh đến tiếp thị, từ nghiên cứu đến soạn thảo và thực
hiện.
-Hãng sáng tác: giới hạn công việc của họ trong lĩnh vực nghệ thuật. Loại hãng này cung cấp
ý kiến mới và độc đáo. Xí nghiệp sử dụng dịch vụ của loại hãng này phải tự đảm đương hay
nhờ người khác đảm trách những phần việc còn lại.
-Hãng mua môi thể (Media-Buying Service) hãng này chuyên mua không gian (kênh truyền
hình) và thời gian (giờ phát truyền hình) của các môi thể và bán lại cho chủ quảng cáo. Khi
lập phương án quảng cáo, chủ quảng cáo tùy thuộc vào họ để biết phải phân chia ngân sách
trong những điều kiện nào. Những hãng này có thể cung cấp không gian và thời gian quảng
cáo rẻ tiền vì họ đã bao thầu trước ở những môi thể.Tuy nhiên, ngược lại, họ cũng có thể lợi
dụng vị trí ưu tiên của mình nếu không có một sự cạnh tranh nào đáng kể từ phía các đồng
nghiệp của họ.
-Hãng quảng cáo song phươnghay giao hỗchuyên giúp các hãng thực hiện chương trình
quảng cáo trên mạng Internet, truyền hình song phương hay giao hỗ nghĩa là loại quảng cáo
các phương tiện truyền thông, nơi người quảng cáo có thể đối thoại để trao đổi thêm với
người nhận quảng cáo.
-Hãng quảng cáo nội-xí nghiệp (In-house Agency) có nghĩa là những hãng ở bên trong một
đại xí nghiệp. Nó là phân bộ quảng cáo của một xí nghiệp lớn, hoặc vốn có một chủ trương
quảng cáo riêng của mình hoặc không muốn bỏ tiền quảng cáo cho người khác.
3. Đài truyền hình.
Truyền hình được coi như môi thể đánh dấu thế kỷ 20.Kỹ thuật truyền hình không do một
người làm ra mà là kết quả của một chuỗi phát minh và cải tiến không ngừng trên nửa thế kỷ
từ 1890 đến 1950. Chỉ trong vòng 50 năm (1950-2000), truyền hình phát sóng đã trở thành
môi thể truyền thông đại chúng mà nội dung vô cùng phong phú, kỹ thuật vô cùng đa dạng và
phạm vi hoạt động vô cùng rộng lớn từ địa phương, khu vực cho đến tầm cỡ địa cầu.
Kể từ khi truyền hình xuất hiện, nó đã đoạt khách hàng của các môi thể cũ như báo chí, truyền
thanh và ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống xã hội, kinh tế, chính trị và giáo dục khắp nơi.

4. Khán thính giả, người tiêu thụ.
Đối với người chủ quảng cáo và hãng quảng cáo, khán thính giả truyền hình phải là khán giả
đích nhắm, nói cách khác, khán giả có ích. Họ là đối tượng của những cuộc điều tra định tính
và định lượng tiền quảng cáo và hậu quảng cáo.
Trước khi đi vào lĩnh vực đó, thiết tưởng chúng ta cũng nên có một cái nhìn tổng quát để xem
khán thính giả đó lá những ai, thói quen xem truyền hình của họ như thế nào và họ xem
truyền hình ra làm sao.

Toàn thể khán thính giả truyền hình chưa hẳn là đối tượng của người quảng cáo khi ta lý luận
trên quan điểm phân đoạn thị trường (market segmentation) và quần chúng đích nhắm
(target). Tuy nhiên khán thính giả nếu không thuộc vào một phân đoạn này thì cũng thuộc vào
một phân đoạn khác nên thái độ của họ đối với quảng cáo truyền hình là một điều mà các nhà
quảng cáo bắt buộc phải quan tâm.

Phần II: Thực trạng và xu hướng của quảng cáo truyền hình Việt Nam.
I. Ý nghĩa của quảng cáo truyền hình với đời sống xã hội.
1. Phản ánh thời đại.
Sự thành công của một thương điệp không chỉ phát xuất từ một ý nghĩ độc đáo hay
một kỹ thuật tối tân. Phim quảng cáo truyền hình phải biết đặt mình trong bối cảnh thời đại
của nó. Để thực hiện mục đích thương mại, người làm phim quảng cáo cần "bắt mạch "
được xã hội hiện tại, nhất là hiểu được lớp trẻ những người tiên phong trong việc chuyển
hướng lối sống và tiếp thu trào lưu mới. Màn ảnh nhỏ là nơi phản ảnh nhạy cảm những suy
nghĩ hành động của những người cùng chung thế hệ. Thương điệp truyền hình (và nhất là
những chương trình truyền hình) trước tiên ghi nhận (với đôi chút kịch hóa, lãng mạn hóa để
nhấn mạnh một vài điểm cần thiết) những đòi hỏi bức xúc của thời đại. Sau đó, nó phát lại
những tín hiệu đó cho xã hội.
Dưới áp lực của những đòi hỏi thuần túy thương mại, một chương trình về thời sự
chẳng hạn không còn giữ được tính cách trang trọng của nó nữa mà phải mang thêm tính chất
tiêu khiển để lôi cuốn người xem. Những chương trình có tính cách giáo dục và kiến thức phổ
thông phải được trình bày như một cuộc vui chơi hơn là học hành. Các nhà quảng cáo tìm đủ

cách để đưa lên màn ảnh nhỏ những câu trả lời phù hợp với ước mong của người tiêu thụ. Nói
cách khác, chỉ cần xem truyền hình, hầu như ta có thể nắm bắt được nhưng biến động của thời
đại.
2. Báo hiệu những chuyển hướng
Phản ánh thời đại chỉ là một chức năng của ngành quảng cáo. Quảng cáo còn báo
trước những chuyển hướng của xã hội. Thêm một điều nữa, sáng tạo, sự đổi mới chính là lẽ
sống của ngành quảng cáo vì loại quảng cáo " dậm chân tại chỗ " không thể nào lôi kéo sự
chú ý của người xem.
3. Sáng tạo thời trang
Riêng về thời trang, có thể quảng cáo truyền hình không hẳn sáng tạo ra nhưng ít nhất
cũng khám phá ra rất sớm và phổ biến nó trong quần chúng nhờ sức mạnh truyền thông của
nó. Một mẫu áo được mặc bởi một phóng viên hay tài tử trong phim truyện hay phim quảng
cáo ngày trước ngày sau đã có thể thấy được nhiều người mặc ngoài đường phố. Thông
thường, con người không muốn đứng bên lề thời trang vì e ngại trở thành chậm tiến, lỗi thời.
Quảng cáo truyền hình là phương tiện đưa họ trở về với đám đông. Những ảnh hưởng vừa kể
trên thâm nhập vào mỗi từng lớp xã hội và định hướng cho hành động của các thành viên.
4. Ảnh hưởng đến phong tục tập quán
Khán thính giả truyền hình thường cứ tưởng tượng những gì họ thấy trên truyền hình
là sự thực ngoài đời cả và suy diễn sự việc theo cung cách đó vì vậy tạo định kiến. Phụ nữ là
nhân vật trung tâm của các quảng cáo mỹ phẩm và đồ gia dụng trong khi đó đàn ông quảng
cáo đồ điện, địa ốc, rượu và thuốc lá. Đàn ông luôn luôn được trình bày ở tư thế giải thích,
thuyết minh cho kẻ khác trong khi phụ nữ ở trong tư thế nghe ngóng và tán thưởng. Riêng về
phim quảng cáo về ô-tô đàn ông thường giữ tay lái và phụ nữ chỉ đóng vai hành khách. Nhiều
trẻ em và thanh niên bị ảnh hưởng lối sống ngỗ ngược, không hợp với đạo đức truyền thống:
anh em tranh nhau đồ ăn, đi học muộn
Tuy thế, có các điểm ưu việt của truyền hình trong lĩnh vực giáo dục rất đáng
kể.Truyền hình trước tiên là một cuốn sách giáo khoa vô cùng sinh động. Quảng cáo truyền
hình về dụng cụ thể thao có thể dạy cho thiếu nhi niềm hy vọng và sự kiên trì khi đưa ra hình
ảnh một lực sĩ quyết tâm và can trường. Quảng cáo về một hiệu nước khoáng cũng gợi cho
chúng suy nghĩ về vấn đề bảo vệ môi sinh. Chương trình thám hiểm, văn hóa, y dược kèm

theo quảng cáo đều có giá trị giáo dục. Các chương trình quảng cáo giáo dục trẻ em về tình
cảm gia đình, phép kính yêu bậc trên như các quảng cáo của Knour, PS.
Còn về phụ nữ thì phải nói chỉ riêng việc quảng cáo khuyến khích sử dụng đồ dùng
điện khí trong nhà như bếp điện. lò siêu âm, máy giặt, đã đưa người phụ nữ ra khỏi cảnh
loanh quanh bếp núc, giặt giũ, vai trò mà xưa nay dù ở Đông hay Tây. Thoát được những trói
buộc đó, phụ nữ đã có thể có cơ hội học tập hoặc kiếm Phản ánh thời đại chỉ là một chức năng
của ngành quảng cáo. Quảng cáo còn báo trước những chuyển hướng của xã hội. Thêm
một điều nữa, sáng tạo, sự đổi mới chính là lẽ sống của ngành quảng cáo vì loại quảng cáo "
dậm chân tại chỗ " không thể nào lôi kéo sự chú ý của người xem.
Riêng về thời trang, có thể quảng cáo truyền hình không hẳn sáng tạo ra nhưng ít nhất
cũng khám phá ra rất sớm và phổ biến nó trong quần chúng nhờ sức mạnh truyền thông của
nó. Một mẫu áo được mặc bởi một phóng viên hay tài tử trong phim truyện hay phim quảng
cáo ngày trước ngày sau đã có thể thấy được nhiều người mặc ngoài đường phố. Thông
thường, con người không muốn đứng bên lề thời trang vì e ngại trở thành chậm tiến, lỗi thời.
Quảng cáo truyền hình là phương tiện đưa họ trở về với đám đông. Những ảnh hưởng vừa kể
trên thâm nhập vào mỗi từng lớp xã hội và định hướng cho hành động của các thành viên.
Khán thính giả truyền hình thường cứ tưởng tượng những gì họ thấy trên truyền hình
là sự thực ngoài đời cả và suy diễn sự việc theo cung cách đó vì vậy tạo định kiến. Phụ nữ là
nhân vật trung tâm của các quảng cáo mỹ phẩm và đồ gia dụng trong khi đó đàn ông quảng
cáo đồ điện, địa ốc, rượu và thuốc lá. Đàn ông luôn luôn được trình bày ở tư thế giải thích,
thuyết minh cho kẻ khác trong khi phụ nữ ở trong tư thế nghe ngóng và tán thưởng. Riêng về
phim quảng cáo về ô-tô đàn ông thường giữ tay lái và phụ nữ chỉ đóng vai hành khách. Nhiều
trẻ em và thanh niên bị ảnh hưởng lối sống ngỗ ngược, không hợp với đạo đức truyền thống:
anh em tranh nhau đồ ăn, đi học muộn
Tuy thế, có các điểm ưu việt của truyền hình trong lĩnh vực giáo dục rất đáng
kể.Truyền hình trước tiên là một cuốn sách giáo khoa vô cùng sinh động. Quảng cáo truyền
hình về dụng cụ thể thao có thể dạy cho thiếu nhi niềm hy vọng và sự kiên trì khi đưa ra hình
ảnh một lực sĩ quyết tâm và can trường. Quảng cáo về một hiệu nước khoáng cũng gợi cho
chúng suy nghĩ về vấn đề bảo vệ môi sinh. Chương trình thám hiểm, văn hóa, y dược kèm
theo quảng cáo đều có giá trị giáo dục. Các chương trình quảng cáo giáo dục trẻ em về tình

cảm gia đình, phép kính yêu bậc trên như các quảng cáo của Knour, PS.
Còn về phụ nữ thì phải nói chỉ riêng việc quảng cáo khuyến khích sử dụng đồ dùng
điện khí trong nhà như bếp điện. lò siêu âm, máy giặt, đã đưa người phụ nữ ra khỏi cảnh
loanh quanh bếp núc, giặt giũ, vai trò mà xưa nay dù ở Đông hay Tây. Thoát được những trói
buộc đó, phụ nữ đã có thể có cơ hội học tập hoặc kiếm việc làm thêm, phát triển được khả
năng và cá tính của mình.
5. Phổ biến một nền văn hóa thương nghiệp
Các đoạn phim quảng cáo được lặp đi lặp lại trở thành một động cơ thúc đẩy "văn
hóa" thương nghiệp. Cách đây không lâu, quảng cáo chỉ là phương tiện để khuyến khích
người ta tiêu thụ, nhất là trong thời đại kinh tế tiêu thụ hàng loạt mà mức tiêu thụ đồng nghĩa
với thước đo của phồn vinh. Khuynh hướng mới trong tiếp thị đã mở rộng tầm mắt cho người
quảng cáo. Ngày nay tiếp thị xoay quanh người mua, coi sự thoả mãn, và hơn thế nữa, hạnh
phúc của người này mới là mục tiêu của hành động tiếp thị.
6. Tạo thành những nếp sống
Cách sống của con người hiện đại đã thay đổi rất nhiều. Đã đành mỗi người có một lối
sống riêng vì cuộc sống vốn muôn màu muôn vẻ nhưng ta không tránh được hiện tượng
những người có cùng chung lối sống. Trong ngôn ngữ tiếp thị ta gọi nó là phân tiết của thị
trường. Khi mà chính quảng cáo phải phân tiết hóa, cá biệt hóa để ảnh hưởng đến những phân
tiết thị trường, nó sẽ ảnh hưởng đến quan điểm về giá trị của thành viên trong phân tiết đó và
phản ứng ngược chiều từ phía những người này đối với nó cũng không kém phần quan trọng.
II. Thực trạng của các đối tượng tham gia hoạt động quảng cáo truyền hình ở Việt Nam.
1. Chủ thể quảng cáo truyền hình ở Việt Nam.
Trong khi trên thế giới, nhất là ở những nước có công nghệ quảng cáo phát triển, các
doanh nghiệp đã và đang đau đầu trước câu hỏi liệu quảng cáo truyền hình đã hết thời? Thì ở
Việt Nam, quảng cáo truyền hình vẫn là một hình thức quảng cáo đem lại hiệu quả truyền
thông cao.
Chi phí cho quảng cáo truyền hình vẫn là khá cao so với các hình thức quảng cáo
khác. Nhưng khi truyền hình vẫn giữ thế mạnh trong lĩnh vực truyền thông như ở thị trường
Việt Nam thì dù chi phí làm một bộ phim quảng cáo lên đến cả tỷ đồng, tiền mua sóng truyền
hình khoảng: 30-50 triệu đồng cho30s quảng cáo, các doanh nghiệp vẫn đua nhau làm phim

quảng cáo. Vì họ cho rằng với những ưu điểm hình ảnh, âm thanh, màu sắc quảng cáo
truyền hình sẽ tác động đến mọi giác quan của khán giả, khách hàng để giúp cho sản phẩm
của doanh nghiệp được biết đến nhiều nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất tại Việt Nam.
Ước tính ở Việt Nam có 30,000 phim quảng cáo /năm. Mỗi ngày người xem được
thưởng thức gần 10 phim quảng cáo.
Hiện nay, ở Việt Nam, quảng cáo vẫn có vai trò lớn trong việc xây dựng, phát triển
thương hiệu của công ty, sản phẩm, có thể thấy rõ điều này qua các quảng cáo truyền hình
thành công của: X-Men, OMO, PS,
Những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã có ý thức nâng lên rõ rệt về
quảng cáo. Không chỉ các công ty lớn hăng hái tham gia vào thị trường quảng cáo truyền hình
mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tim đến với hình thức này. Tuy nhiên, do còn nhiều
hạn chế về khả năng tài chính nên nhiều phim quảng cáo tra tấn khách hàng ra đời hoặc là có
được phim quảng cáo hay nhưng không có điều kiện phát sóng thường xuyên để gây ấn tương
đối với khách hàng, không đem lại hiệu quả như ý và vẫn lép vế các đối thủ đại gia có lợi thế
về nguồn vốn.
Chính vì vậy, mới có thực tế thuyền nào, sóng nấy ở thị trường nước ta hiện nay. Các
doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp lớn thì lựa chọn các đài truyền hình trung ương, các
đài thành phố lớn. Còn doanh nghiệp nhỏ tận dụng các cơ hội do các nhà đài địa phương,
truyền hinh số, truyền hình cáp đưa ra.
Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa có bộ phận chuyên trách đủ sức làm các
phim quảng cáo cho doanh nghiệp mình mà họ đi thuê các doanh nghiệp quảng cáo chuyên
nghiệp.
2.Các hãng quảng cáo truyền hình ở Việt Nam.
Một thực tế đáng tiếc là thị trường quảng cáo truyền hình Việt Nam, các công ty
quảng cáo trong nước nhiều (hàng ngàn công ty) nhưng chỉ chiếm 20% doanh thu từ thị
trường quảng cáo. Còn chỉ với trên dưới 30 công ty nước ngoài lại chiếm tới 80% doanh thu.
Thị trường quảng cáo truyền hình Việt Nam bị các công ty nước ngoài khống chế. Hầu
hết các công ty quảng cáo Việt Nam chỉ làm thuê cho các công ty nước ngoài ở một số công
đoạn.
Nhiều doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam thường ra đời theo kiểu thấy doanh nghiệp

khác làm ăn có lời lãi cũng tham gia vào thị trường kinh mà không điều tra thị trường, không
lên kế hoạch phát triển lâu dài. Do vậy, các doanh nghịêp này chỉ duy trì được vài ba tháng
đến một năm thì hoạt động rời rạc và đi đến giải thể.

Lĩnh vực quảng cáo đối với các doanh nghiệp Việt Nam hầu như còn mới mẻ, doanh
nghiệp trong ngành quảng cáo mới chỉ có trên dưới 10 năm hoạt động, không chỉ thiếu vốn,
máy móc, mà còn thiếu nhân lực, sự chuyên nghiệp.
Hiện nay, quay hình, dựng phim, kỹ xảo cho phim quảng cáo truyền hình, các công
ty quảng cáo Việt Nam phần lớn phải thuê chuyên gia nước ngoài sang hay đưa người mẫu ra
nước ngoài quay hoặc do các công ty nước ngoài tại Việt Nam thực hiện. Chỉ số ít các công ty
Việt Nam thực hiện được nhưng phim quảng cáo có tính chuyên nghiệp cao như: Storm Eye,
Đất Việt, Ánh Việt, Đông Tây Promotion, Visual.com.
Ở Việt Nam thiếu ngoại cảnh hoành tráng, công nghệ tráng rửa phim chưa cao. Để
quảng cáo cho dầu gội đầu X-Men, phía khách hàng yêu cầu phim quảng cáo phải thể hiện
được đẳng cấp sản phẩm, vì thế Storm Eye đã phải quay ngoại cảnh ở một sân bay quốc tế
nước ngoài, dàn diễn viên, đạo diễn, thuê bên ngoài,chi phí trọn gói lên đến 70,000 USD.
Hiện nay, Việt Nam rất thiếu diễn viên đóng phim quảng cáo chuyên nghiệp. Không
như phim truyện, phim quảng cáo không nhất thiết có sự hiện diện của các dễn viên nổi
tieeng. Điều quan trọng là tìm được sự đồng cảm với khán giả, làm họ thấy được mình là một
phần của giới tiêu dùng sản phẩm. Tuy nhiên, các ngôi sao thường được mời đóng quảng cáo
như là một biểu tưởng cho sản phẩm: Mỹ Tâm-người mẫu quảng cáo cho Lipice, Sunsilk;
Lam Trường- quảng cáo cho Oishi, Phương Thanh- quảng cáo cho Coca-cola Các ngôi sao
không phải lúc nào cũng biểu đạt tốt và hình tượng của họ cần được chăm chút, quan tâm liên
tục vì là người của công chúng nên nếu có ảnh hưởng xấu sẽ gây thiệt hại lớn cho hình ảnh
doanh nghiệp, sản phẩm.
Các diễn viên chuyên nghiệp đóng quang cáo là cần thiết nhưng ngành công nghiệp
quảng cáo lại luôn đòi hỏi đổi mới, đã thiếu lại càng thiếu khi mà các gương măt luôn cần
thay đổi cho các chương trình quảng cáo sinh động lôi cuốn khán giả. Nhiều quảng cáo đã tạo
được ấn tượng về sự gần gũi khi mời các diễn viên nghiệp dư tham gia phim quảng cáo Song
thu nhập không ổn đinh trong khi công viêc đóng phim quảng cáo lại khá vất vả nên không

nhiêu diễn viên nghiệp dư gắn bó với công nghệ quảng cáo truyền hình.
Vấn đề ngân sách cho phim quảng cáo là vấn đề nan giải với các doanh nghiệp quảng
cáo Việt Nam. Chỉ với con số vài chục triệu đồng, các doanh nghiệp quảng cáo có thể làm
phim quảng cáo tĩnh, quay ở trong nhà rồi nhờ hậu trường ráp với ngoại cảnh hoặc thuê máy
quay phim nghiệp dư rồi tự biên, tự diễn mọi chuyên phải lựa cơm gắp mắm. Nhưng bên cạnh
đó, những năm gần đây, ở Việt Nam đã có những công ty đầu tư cả hàng trăm triệu đô la trang
bị máy móc, làm hậu trường cho phim quảng cáo. Hai tên tuổi phải kể đến là: HKPOST
HOUSE, PIXELGARDEN.
Gần đây, các công ty quảng cáo Việt Nam đã có những ý tưởng sáng tạo và cách thức
thực hiện chuyên nghiệp hơn dù còn nhiều hạn chế so với các doanh nghiệp nước ngoài. Các
chuyên gia đánh giá quảng cáo Việt Nam đang ở giai đoạn tương đương với thập niên 50 của
quảng cáo thế giới.
Khó khăn đã không ít nhưng các doanh nghiệp quảng cáo Việt Nam con chịu nhiều
ràng buộc từ phía luật pháp: hạn chế về thời gian, chi phí cho quảng cáo Do vậy thực tế thời
gian qua có hiện tượng quảng cáo trên truyền hình vẫn chưa đúng quy định:
Mặc dù trong năm 2004, Bộ Văn hoá Thông tin đã có văn bản chấn chỉnh những vi
phạm về hoạt động quảng cáo trên truyền hình nhưng tình hình vi phạm không giảm mà còn
có chiều hướng gia tăng. Cụ thể trong một số chương trình phim truyện hoặc Chào buổi sáng,
Dự báo thời tiết của Đài truyền hình Việt Nam chưa có dấu hiệu bằng hình ảnh, tiếng nói hoặc
chữ viết phân biệt mục quảng cáo với các chương trình nội dung.
Pháp lệnh quảng cáo quy định rõ trên phông sân khấu không được thể hiện quá hai sản
phẩm quảng cáo của một nhà tài trợ hoặc quá một sản phẩm quảng cáo của nhiều nhà tài trợ.
Nhưng Đài Truyền hình Việt Nam và một số Đài Phát thanh Truyền hình địa phương như Hà
Nội, Hà Tây thường xuyên vi phạm ở các chương trình vui chơi giải trí.
Thời lượng ngắt để quảng cáo cho mỗi chương trình vui chơi giải trí tối đa là 5 phút,
nhưng các chương trình Chiếc nón kỳ diệu, Hãy chọn giá đúng, Hành trình văn hoá, Ai là
triệu phú trên Đài Truyền hình Việt Nam, đã vượt quá mức thời gian này.
Chính phủ cũng đã ban hành quy định nêu rõ phải khuyến khích nuôi con bằng sữa mẹ, cho
nên mỗi sản phẩm quảng cáo sữa dành cho trẻ sơ sinh bắt buộc phải có câu: “Sữa mẹ là tốt
nhất cho sự phát triển của trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ”, nhưng nhiều sản phẩm quảng cáo đã bỏ

quên.
Hay như chương trình “Sống khoẻ mỗi ngày”, đã quảng cáo nhiều loại thuốc chữa
bệnh bán theo đơn của thầy thuốc, gây nhầm lẫn cho công chúng về cách sử dụng thuốc.
Quảng cáo trên sóng phát thanh và truyền hình cũng là một nhu cầu hưởng thụ văn
hoá của nhân dân, và cũng là một hoạt động thương mại có lợi ích, nhưng hoạt động quảng
cáo phải đảm bảo tính nề nếp và tính nghiêm mình của pháp luật. Điều này đòi hòi từng đơn
vị nhà Đài phải nghiêm chỉnh quy định pháp luật về quảng cáo.
Không có những viên gạch đầu tiên làm sao có được ngôi nhà đẹp đẽ. Các doanh
nghiệp quảng cáo Việt Nam đang từng bước đi vào chuyên nghiệp hóa. Các doanh nghiệp
quảng cáo Việt Nam không thể mãi đứng ngoài nhường sân cho các doanh nghiệp nước ngoài
họ đã nhập cuộc và đang dần dần tìm được chỗ đứng xứng đáng.
3.Đài truyền hình.
Trong quá trình xã hội hóa, nhà đài vừa muốn có chương trình, hay để phát sóng
nhưng đồng thời cũng muốn có nguồn thu từ tiền tài trợ, quảng cáo do công ty truyền thông
khai thác.
Trong cuộc đàm phán để hợp tác giữa công ty truyền thông và đài truyền hình, các nhà
đài bao giờ cũng có ưu thế. Các đài mỗi năm tự đưa ra bảng giá nhung đơn giá của quảng cáo
trên sàn giao dịch khác với những con số công khai do nhiều nguyên nhân khách quan của đời
sống kinh tế.
Ở Việt Nam hiên nay, đài truyền hình vẫn độc quyền, các nhà đài có quyên rât lớn trên
thị trường quảng cáo truyền hình và truyền hình vẫn là môi thể hiệu quả để thực hiên các
chiến lược quảng cáo.
Hệ thống các đài truyền hình từ trung ương đến địa phương được trang bị các máy
móc hiện đại phục vụ đắc lực cho công tác chuyên môn thu phát sóng và cac dịch vụ truyền
hình như quảng cáo truyền hình. Các đài trung ương và thành phố lớn là môi thể mà các
doanh nghiệp lớn mạnh thường xuyên hợp tác trong các chiến lược quảng cáo. Còn các đài
địa phương là điểm nhắm của cac doanh nghiệp nhỏ hạn chế về khả năng tài chính.
Những năm gần đây, truyền hình kỹ thuật số, truyền hình cáp đã làm phong phú thêm
khả năng quảng cáo truyền hình đến được khán giả mục tiêu. Đặc biệt có những kênh chỉ
dành cho giải trí và các lĩnh vực chuyên biệt là nơi khách hàng dễ đón nhận các quảng cáo

hơn.
Các đài truyền hình luôn cập nhật những tiến bộ khoa học- kỹ thuật tạo ra nhiều hình
thức mới lạ, sáng tạo đáp ứng ngày càng nhiều và tốt nhu cầu của các doanh nghiệp cũng như
khán giả truyền hình.
4.Khán giả
Có không ít người nói vui rằng: quảng cáo truyền hình Việt Nam ngoài tác dụng
quảng bá thương hiệu, lôi kéo khách hàng còn có tác dụng dỗ trẻ nín khóc.
Không phải ngẫu nhiên tôi lại đưa nhận xét trên, quảng cáo truyền hình có ảnh hưởng
lớn đến đời sống xã hội như đã nêu ở phần I, mỗi tầng lớp, lứa tuổi có cảm nhận và thái độ
khác nhau nhưng nhạy cảm hơn cả là trẻ em . Trẻ con rất thích xem phim quảng cáo. Những
lời ca, những câu thoại, hình ảnh, hành vi rất dễ được trẻ nhập tâm, trẻ sẽ học theo cách đó và
ứng xử theo cách đó! Do vậy, có những quảng cáo đem đến cho trẻ những bài học bổ ích:
quảng cáo Mì Unif có cậu bé ngoan giúp mẹ mua hàng. Sữa Cô gái Hà Lan khuyến khích óc
sáng tạo của trẻ thơ khi giới thiệu hình ảnh hai em bé nghĩ ra đuợc ra một dây chuyền phức
tạp để lấy đồ chơi đang cất ở nơi rất cao. Sữa Nuti đưa ra hình ảnh đẹp của em bé bị bạn xấu
bắt nạt nhưng khi có cơ hội em không tìm cách trả thù mà vui vẻ tha thứ. Hãng S-Phone có
khúc nhạc du dương nói thay tình yêu của cô gái câm, vui nhộn với anh chàng hoa chân múa
tay kể chuyện hoặc ông bố đang chơi trò cưỡi ngựa với con thì được điện thoại trao tay. "Bản
lĩnh đàn ông" được bia Laser nhấn mạnh khi chàng trai dũng cảm dùng chai bia giả làm họng
súng uy hiếp bọn cướp và trở thành người hùng trong mắt cô gái Trẻ em cũng dễ học theo
những thói hư: như hình ảnh mẫu quảng cáo một em bé dùng sơn cọ vẽ đầy tường để cho
mẹ… lau vì nhà có sử dụng loại nước sơn tường “quá xịn” hay những em bé tha hồ nghịch
nước bẩn, chơi đá banh trên những mảnh vườn đầy bùn sình mà phụ huynh cũng không phải
lo sợ gì cả vì đã có “xà phòng diệt khuẩn”
Với những kiểu quảng cáo phản cảm, đã có khoảng 25% số người được chúng tôi hỏi
thử đã đưa ra ý kiến “không muốn xem lại mẫu quảng cáo ấy thêm một lần thứ hai” và
khoảng 15% bày tỏ ý định không muốn sử dụng sản phẩm mang hình thức quảng cáo đó.
Thanh niên rất nhạy cảm với quảng cáo, họ học theo cách ăn mặc, sử dụng đồ đạc,
phương tiện tạo nên các làn sóng tiêu dùng trên thị trường.
Còn người lớn thì không ít người bực mình khi đang coi một chương trình hay một bộ

phim mà bị chen ngang tới 10 phút quảng cáo, người ta có thể cầm remote bấm ngay qua
kênh khác mà không cần đắn đo như một phản xạ cũng tự nhiên như các mẩu quảng cáo tự
nhiên xuất hiện trong các chương trình họ đang coi.
Hầu hết mọi người cho biết họ không tẩy chay quảng cáo truyền hình nhưng quảng
cáo nên có nội dung phù hợp với văn hóa dân tộc, có tính giáo dục và phát sóng hợp thơi
điểm.
5. So sánh hiệu năng truyền thông của truyền hình với các phương tiện khác
Quảng cáo không chỉ được thực hiện bằng truyền hình mà còn thực hiện vói sự giúp
sức của nhiều môi thể (Media) khác, có tính chất đại chúng (Mass Media) hay phi đại chúng:
- Quảng cáo do những người không chuyên môn như truyền miệng như mách nước,
chỉ dẫn, đồn đãi trong gia đình, giữa thân hữu, thày trò.
- Quảng cáo bằng cách gói hàng (packaging), thương phẩm tự quảng cáo cho nó.
- Quảng cáo do những người làm tiếp thị qua những phương thức như thư tín trực
tiếp (Direct Mail hay DM), truyền đơn thương mại (Advertising Leaflet),bích chương dán
ngoài trời (Outdoor Poster) hay các tấm biển (Billboards) trên sân vận động , trên bến xe hay
trong các phương tiện giao thông ( Transportation Facilities) như trên xe điện, xe buýt, cạnh
các quầy bày hàng (Point Of Purchase hay POP), bằng cách in trong các tập danh mục điện
thoại (Telephone Directory) hay trong các phòng triển lãm (Exhibition, Show Room).
- Quảng cáo cá nhân bằng những môi thể điện tử như trò chơi điện tử (Games), môi
thể mới như truyền hình bằng mạng dây cáp (CATV), truyền hình vệ tinh (Broadcasting
Satellite), mạng Internet (Internet Site).
- Quảng cáo đại chúng bằng 4 môi thể truyền thông đại chúng : báo chí (Newspapers),
tạp chí (Magazines), truyền thanh (Radio) và truyền hình bằng sóng điện (Television).
Đồ biểu 2.3: Bảng so sánh ưu khuyết điểm của các môi thể quảng cáo
Môi thể Ưu điểm Khuyết điểm
Nhật báo -Địa bàn rộng
-Bao trùm nhiều lớp người
-Giá rẻ
-Co giãn
-Tạo phong trào nhanh chóng

-Tiêu thụ nhanh
-Không lâu dài
-Không bộc lộ ra ngoài
-Không gây ấn tượng mạnh vì trình
bày kém mỹ thuật
-Không lôi cuốn
Tạp chí -Trình bày mỹ thuật gợi chú ý
-Đối tượng độc giả rõ ràng
-Trình độ người đọc cao
-Giữ được lâu dài
-Có thể đưa ra tin tức có chất
lượng
-Mất nhiều thời giờ để gây phong
trào
-Thiên về hình ảnh
-Mất thời giờ để tạo ấn tượng
-Giá cả trung trung
Truyền hình -Uyển chuyển vì dùng được cả
hình ảnh, chữ viết, âm thanh, động
tác
-Được trọng vọng
-Tầm phóng xa
-Bao trùm phạm vi lớn
-Giá tương đối thì rẻ
-Cần lập đi lập lại
-Không dùng được lâu dài
-Giá tuyệt đối thì đắt
-Tản mạn thông tin
-Hỗn tạp
Truyền thanh -Tuyển chọn được đích nhắm

-Giá rẻ
-Nhu nhuyễn
-Trực tiếp trò chuyện với khách
hàng
-
-Không gây được ấn tượng
-Giới hạn trong vòng âm thanh
-Không tập trung sự chú ý của
người nghe
-Không được trọng vọng.
Ngoài trời (Outdoor) -Khu vực rộng
-Thay đổi được nhiều lần
-Giá rẻ
-Phương tiện phụ đáng lưu ý
-Có tính địa phương
-Không được trọng vọng (nhưng có
thể cải tiến)
-Thời gian chế tác lâu la
-Khó đo lường hiệu năng
Giao thông -Độ lộ xuất lớn
-Giá thành rẻ
-Có tính địa phương
-Bao trùm phạm vi hẹp
-Đích nhắm (hành khách) mà thôi
-Hỗn tạp
Trong tiệm (Indoor
POP)
-Tập trung sự chú ý lớn
-Có tính thuyết phục
-Giá rẻ

-Nhu nhuyễn
-Đích nhắm (khách đến tiệm) mà
thôi
-Dễ gây lẫn lộn
-Hỗn tạp
Xuất xứ : Baker, Monye, Sylvester, The Handbook of International Marketing
Communication, USA, 2000.
Ngoài sự cách biệt về giá cả, còn có sự cách biệt về hiệu năng. Truyền hình bằng sóng
điện không những là môi thể ít tốn kém nhất mà còn là môi thể có nhiều hiệu năng nhất trong
việc thông tin và thuyết phục khách hàng. Hãy thử so sánh thêm truyền hình với các môi thể
khác:
* So sánh với ấn phẩm
Nhật báo và tạp chí là những ấn phẩm, có khả năng truyền đạt qua chữ viết và hình
ảnh. Phần chính yếu của ấn phẩm vẫn là ký sự bằng văn tự, những hình ảnh tĩnh chỉ đóng vai
trò hỗ trợ. Truyền hình thì khác: chủ yếu là hình ảnh động. Bao nhiêu thứ như chữ viết, ngôn
ngữ, âm nhạc, âm hưởng bổ túc hiệu năng của hình ảnh. Nhờ hình ảnh, truyền hình mang
đến cho người xem sự sống động, hiện thực của việc xảy ra trước mặt. Điều đó không thể nào
tái hiện được qua nhật báo hoặc tạp chí. Đối với quảng cáo chủ (sponsor), truyền hình như
đem thương phẩm phô bày ra trước mắt khách hàng, mục tiêu của thương điệp.
Điểm khác nhau thứ hai giữa ấn phẩm và truyền hình là ấn phẩm có thể đem đi theo
trong xe, lên máy bay xem, giữ gìn lâu dài trong nhà, trong thư viện, chuyền tay người này
người kia xem. Thương điệp qua truyền hình thoặt đến, thoặt đi, không giữ gì được mà có giữ
được thì cũng khá cầu kỳ, mất công.
* So sánh với phóng thanh
Ban đầu, phóng thanh và truyền hình vẫn đi đôi với nhau. Hai môi thể có nhiều điểm
tương đồng như việc nghe và xem đều không phải bỏ tiền ra, và nhiều nhà sản xuất thương
điệp vừa làm ở đài phát thanh lẫn đài truyền hình. Có thể xem truyền hình như cánh tay nối
dài của phát thanh. Tuy nhiên, người ta có thể nghe ra-di-ô khắp mọi nơi, trong lúc đang lái
xe, khi làm cơm và ngay cả khi dang ngủ. Ngược lại, xem truyền hình dù có thể làm việc khác
cùng lúc nhưng điều đó đòi hỏi một sự tập trung tối thiếu cho nên nhiều thương điệp, nếu

phóng ra vào lúc người xem bận tay, thường có khuynh hướng chú trọng vào lời nói hơn là
hình ảnh.
Phát thanh và truyền hình hay dùng thủ pháp "quảng cáo liên hợp"(IC hay Integrated
Commercial), trong đó nội dung chương trình thông tin hay giải trí nói chung và thương
điệp quyện vào nhauthành một. Điều này không được cho phép trong trường hợp ấn phẩm
bởi vì trên mặt báo, quảng cáo và ký sự bắt buộc phải tách riêng. Lý do đơn giản là nếu một
ấn phẩm dùng lối quảng cáo hội nhập như thế, môi thể ấn loát sẽ mất sự tín nhiệm của độc
giả. Khán thích giả truyền hình dễ dàng hơn về vấn đề này, có lẽ vì trong suốt mấy ngàn năm,
vài trò "văn kiện chính thức" của chữ viết đã in dấu sâu đậm nơi người đọc.Hơn nữa, ta khó
lòng tưởng tượng có thể có chủ quảng cáo tham gia vào việc soạn ký sự cho tờ báo hoặc tạp
chí được. Việc này xảy ra dễ dàng hơn đối với lời rao hàng trên làn sóng phát thanh hoặc
truyền hình.Dù sao, chúng ta thấy trong các nuớc Âu Mỹ, người ta rất nhạy cảm về việc "
đồng hóa quảng cáo với ký sự " (publicité rédactionnelle(P)) vì họ nghĩ đó là việc kém
nghiêm túc nếu không nói là có dụng ý xấu vì đầu óc khoa học (cartésien (P)) của họ muốn
phân biệt " hư " và " thực ". Nhật Bản dễ dãi hơn cho nên nhiều nhà nghiên cứu phương Tây
vẫn lên tiếng chỉ trích hiện tượng này.
Xem truyền hình hay nghe phát thanh là một hành động có tính chất cá nhân lẫn tập
thể nhưng xem báo hay tạp chí hầu như là một hành động đơn lẻ. Dĩ nhiên khi hành động đơn
lẻ thì có độ chú ý cao hơn. Riêng lúc xem báo cũng như nghe truyền thanh chỉ có thị giác
hoặc thính giác làm việc. Trong khi ấy, xem truyền hình phải vận dụng cả hai giác quan nên
khả năng thu nhận tín hiệu tăng gấp bội. Lucas và Britt (Advertising Psychology and
Research, Nghiên Cứu Tâm Lý Quảng Cáo,1950) cho biết là trước câu hỏi nếu chỉ có quyền
giữ được một giác quan mà thôi thì người ta sẽ phải giữ lại giác quan gì, phần đông nguời
được hỏi đều đáp sẽ chọn giữ lại thị giác đến cuối. Hai nhà nghiên cứu trên đã dẫn lời phát
biểu của nhà tâm lý học Metfessel như sau " Tri thức mà một người bình thường tiếp thu được
có đến 65% qua đường thị giác, 25% bởi thính giác và 10% còn lại bằng hoặc xúc giác, vị
giác hay khứu giác". Từ đó, họ đánh giá cao vai trò của môi thể truyền hình vì nó có khả năng
chuyển tín hiệu đến hai giác quan mạnh nhất (thị, thính giác) cùng một lúc.
HL Hollingworth (The Psychology of the Audience, Tâm Lý Khán Giả 1935) đã lập đồ
biểu như sau:

Đồ biểu 2.4: Độ ghi nhớ tín hiệu theo giác quan thụ tín
Độ ghi nhớ (%)đo ngay
sau lúc tiếp tín hiệu
Độ ghi nhớ (%) tàn
dư 3 hôm sau
Chỉ sử dụng thính giác 71 10
Chỉ sử dụng thị giác 72 20
Sử dụng thị giác lẫn thính giác 86 65
Để đạt được hiệu quả tối đa, gần đây các nhà quảng cáo đã chọn lối sử dụng hiệp đồng
các môi thể ví dụ như sử dụng cùng lúc quảng cáo truyền hình và truyền thanh. Nhà nghiên
cứu Osugi của đài truyền hình Tokyo đã báo cáo trong tập tài liệu của JNN Data Bank về một
chiến dịch rất thành công thực hiện vào năm 1995 sử dụng quảng cáo truyền hình và truyền
thanh đồng loạt. Ông đã cho biết không những khán thính giả để mắt tới hai thương điệp trên
hai môi thể khác nhau đã có thể nhận diện mặt hàng thêm nhiều thiện cảm với món hàng và
có ý định tiêu dùng rõ rệt hơn. Lối sử dụng hỗn hợp môi thể (Media Mix) nếu khéo léo (nghĩa
là biết đo lường thời gian phát thanh hay phóng ảnh và " trám" được một xó kẹt nào đó mà
không môi thể nào dùng tới được (no man land) có thể vừa đạt được hiệu quả thương mại
tốt đẹp hơn vừa đỡ phải chi tiêu vô lý bởi vì, như chúng ta đều biết, chi phí quảng cáo truyền
hình tốn hơn chi phí quảng cáo truyền thanh gấp bội.
Kỹ thuật đa môi thể giúp ta đột phá mọi biên giới vật chất nhưng cũng nhờ nó chúng
ta phá được biên giới chia cách tân hồn con người. Điều này có nghĩa là mọi thương điệp phải
tìm được thế bình quân giữa trí óc (kỹ thuật) và con tim
III. Xu hướng của quảng cáo truyền hình Việt Nam.
Sự nổi lên của Internet tốc độ cao, cùng với sự phổ biến của những website chia sẻ
video như YouTube đã khiến cho thời lượng ngồi trước TV của giới trẻ toàn thế giới bị thu
ngắn dần.
Trong những năm tới, sẽ ngày càng có nhiều khán giả ưa chuộng tính cơ động và linh
hoạt của online video. Họ sẽ từ bỏ truyền hình thông thường do chán ngấy lịch phát sóng cố
định và những mẩu quảng cáo chen ngang đầy khó chịu, nếu bạn bỏ lỡ một sự kiện, bạn sẽ
không có cơ hội tua ngược lại và xem chúng. Trong khi ấy, Internet làm những việc này một

cách ưu việt".
Thời hoàng kim của quảng cáo trên truyền hình được dự báo sắp đến ngày tàn lụi bởi
tầm ảnh hưởng rộng rãi của những trang web nhận ký cá nhân. Blog được các cư dân mạng
lựa chọn như là một kênh thông tin đáng tin cậy khi muốn mua sắm.
Blog ảnh hưởng đến quyết định mua sắm của người tiêu dùng.
Blog đang gây sốt trong cộng đồng Internet bởi tính chất thân thiện, gần gũi và hữu ích của nó
với những người muốn chia sẻ những trải nghiệm trong cuộc đời của mình.
Khán giả đã sinh nhàm chán với cơn mưa TVC cứ hiện lên trước, trong, sau các chương trình
họ đang thích thú theo dõi. Vậy phải chăng khán giả đang bội thực với phim quảng cáo trên
truyền hình (TVC: Television Commercial), phải chăng đã đến thời kỳ thoái vị của quảng cáo.

Ở trên thế giới thì chuyện đó là có thật. Trong báo cáo nhan đề Why TV advertising
doesn’t work for mature brands (Tại sao quảng cáo trên truyền hình không sinh hiệu quả cho
các thương hiệu đã nổi tiếng), Shore viết rằng ở góc độ hiệu quả tính trên mức đầu tư (return
on investment, ROI) thì quảng cáo trên truyền hình hầu như chẳng có ích lợi gì cho những sản
phẩm đã được người tiêu dùng chấp nhận. Theo nhà phân tích này thì số tiền Coca-cola chỉ
thu được một ROI cực kỳ khiêm tốn là 0,48 từ mỗi đồng đôla chi cho quảng cáo.

Chính sự quá tải quảng cáo trên màn ảnh nhỏ mới là nguyên nhân chính của sự suy
yếu về ROI. Khán giả đã sinh nhàm chán với cơn mưa TVC cứ hiện lên trước, trong, sau các
chương trình họ đang thích thú theo dõi. Hiện nay các nhà làm quảng cáo đang đau đầu suy
nghĩ hướng đi hiệu quả cho quảng cáo truyền hình.

Nhưng đó chỉ là bệnh của các nước phát triển khi mà kỹ thuật marketing và
quảng cáo của họ đã đạt đến đỉnh cao, còn ở Việt Nam khi mà trình độ quảng cáo còn ở
dạng “còi” thì quảng cáo trên tivi vẫn còn đất sống dài dài chứ không đến nỗi bi quan như ta
tưởng. Nói gì thì nói, phim quảng cáo vẫn đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược
marketing và xây dựng thương hiệu cho công ty, cho sản phẩm.
Để xem TV trên sản phẩm và các dịch vụ trên các phương tiện hiện đại, sản phẩm của
công nghệ cao, người tiêu dùng sẽ phải trả tiền, trong khi họ có thể xem miễn phí thoải mái

trên các kênh truyền hình. Đó là một vấn đề nhạy cảm ở thị trường Việt Nam.
Quảng cáo truyền hình như "Một cõi đi về" cùa con người sau những giây phút nhọc
nhằn trong hãng xưởng và là điểm cùng chia sẻ thông tin giửa họ và những thành viên trong
gia đình, ngoài xã hội.

Một số nhà nghiên cứu cũng cho rằng quảng cáo truyền hình đã đến lúc cáo chung và
sẽ được thay thế bởi quảng cáo trên mạng.
Thế thì quảng cáo trên mạng và quảng cáo truyền hình có xung khắc với nhau và cái
mới có đuổi cái cũ đi không? Tôi muốn đưa ra những điểm sau nhăm chứng tỏ quảng cáo
truyền hình có thể tồn tại trong giai đoạn công nghệ phát triển:
1) Những người thích sử dụng mạng Internet (Netsurfer) thường cũng là người thích
xem truyền hình.
Như đã chứng minh, người yêu thích điện toán, được coi như những người dẫn đầu
dư luận đối với quần chúng trong tương lai (New Opinion Leaders) thường cắt bớt thời giờ
sinh hoạt để tìm đến với truyền hình cũng như các phương tiện truyền thông khác.
2) Trong thời điểm hiện tại, hình thức và nội dung của quảng cáo trên mạng chưa
được phong phú và giúp ta tiêu khiển bằng nội dung quảng cáo trên truyền hình.
Quảng cáo trên mạng hãy còn dùng nhiều hình ảnh tĩnh hay ít biến hóa, chưa lồng
tiếng nói và âm thanh. Quảng cáo trên truyền hình đa dạng hơn và kèm theo những chương
trình phim ảnh, ca nhạc, thể thao, thời sự, đố vui
3) Xem quảng cáo trên mạng là một hành động có tính cách đơn lẻ, trong khi xem
quảng cáo truyền hình vừa là hành động cá nhân vừa là hành động tập đoàn (với gia đình,
với bạn bè, với đoàn thể) và sự giao lưu với những người cùng xem một chương trình gây nên
hiệu qủa tập thể lớn gấp bội hiệu qủa cá nhân.Khi xé lẻ ra, cá nhân có nhiều khả năng "động
vật hóa"(Animalization) vì sống thui thủi với môi thể truyền thông cá nhân (vi tính, điện thoại
cầm tay, mạng Net ) vô danh, lạnh lẽo, không có chút hơi ấm của sự "mắt trong mắt, tay
trong tay", và như thế, thụt lùi lại so với tiến trình xã hội.
4) Khả năng dung hợp giữa mạng và truyền hình có thể thực hiện được.
Người ta đã từng dung hợp phát truyền thanh và máy ghi âm (Radio-Taperecorder),
điện thoại di động với máy chụp ảnh, với mạng Internet vv và đã thực hiện được máy truyền

hình kết hợp với kho dữ liệu (database ) ví dụ trong lúc xem một trận bóng đá có thể dùng
những cửa sổ (windows) để tra cứu về số liệu cá nhân như chiều cao, số cân, tuổi tác,thành
tích của một tuyển thủ. Như thế, truyền hình và mạng không đối chọi với nhau mà còn có thể
hoà hợp với nhau, giúp đỡ lẫn nhau.
5) Mỗi môi thể đều có nhiệm vụ riêng của nó.
Trong một xã hội mà thành phần khách hàng đã phân hóa (segmented) thành những
tầng lớp nhỏ và hàng hóa lại đa dạng, quảng cáo trên truyền hình tuy tiến nhanh và tiến mạnh
đã không làm biến mất quảng cáo trên báo chí, quảng cáo ngoài trời hay trên các phương tiện
giao thông.Cùng một lý do đó, quảng cáo truyền hình sẽ tiếp tục sống, tuy rằng, với những
điều kiện sinh hoạt mới và kỹ thuật mới, nó bắt buộc phải đuổi kịp để đáp ứng nhu cầu thời
đại.
6) Kỹ thuật mạng giúp đở quảng cáo truyền hình rất đắc lực trong việc quản lý.
Sự giao lưu qua điện thư và sự quảng cáo các mặt hàng liên quan tới ngươi nổi tiếng
trên mạng đến cá nhân hay cho các hội đoàn Người Hâm Mộ (Fan Club) cũng tăng cường
sự hiểu biết của người làm quảng cáo về thị hiếu của đám đông.
Quả thật có một sự phi đại chúng hóa (Demassification) kèm theo khuynh hướng cá
nhân hóa và tự do tuyển chọn. Truyền hình đại chúng (Broadcasting) cùng với sự trưởng
thành của các môi thể mới và môi thể điện tử, đã thu nhỏ lại thành truyền hình giới hạn
(Narrowcasting) và ở một cực đoan, sẽ cá nhân hóa hoàn toàn (Pointcasting). Tuy có giao lưu
trên mạng (Webcasting) những con người sống với môi thể cá nhân e sẽ sống trong một
không gian giả tưởng (Virtual Space), lạnh lẽo và thiếu tình người. Lúc ấy, họ sẽ đi tìm sự
quân bình tinh thần cho mình và tất nhiên, đề kháng lại khuynh hướng đó. Cho dù con số đài
nhờ vệ tinh và dây cáp có thể tăng lên rất nhiều nhưng sau một thời gian hồ hởi, người ta sẽ đi
thụt lùi và giữ cho mình một số đài thích nhất. Hạn chế về sức khỏe và thời giờ không cho
phép họ ôm đồm. Hơn nữa, truyền hình tự nó cũng đã có bao cố gắng để sửa đổi. Nào là tiêu
chuẩn hóa, nào là chế ra màn ảnh phẳng, đường nét rõ, nào là thu nhỏ thành truyền hình xách
tay.
Phần III: KIẾN NGHỊ
Trong một thời đại kinh doanh toàn cầu (Global Business), quảng cáo phải có tính
cách toàn cầu (Global Advertising) và Xuyên Văn Hóa (Cross-Cultural Advertising). Gần

đây, câu hỏi "Quảng cáo Truyền hình Xuyên Văn Hóa có thể thực hiện được không? Bên
cạnh những thương điệp có tính cách cá biệt hóa (differenciated) không thể thiếu được khi
trình bày một thương phẩm cá biệt cho một loại hình người tiêu thụ, còn có những thương
điệp tiêu chuẩn hóa (standardized) có tính cách xuyên quốc gia (transnational) và xuyên văn
hóa (cross-cultural) thích hợp cho nhiều tầng lớp trong nhiều quốc gia. Cá biệt hóa là lúc nhấn
mạnh vào một đặc điểm có tính cách địa phương hay cục bộ, còn tiêu chuẩn hóa là đưa ra một
yếu tố mà ai cũng chấp nhận dễ dàng.
Ở Việt Nam không ít công ty quá lạm dụng lòng yêu nước trong quảng cáo: hàng Việt
cho người Việt, vì thương hiệu Việt, tôn vinh thương hiệu Việt Thiết nghĩ ai cung có lòng
yêu nước nhưng trong giai đoan hội nhập các doanh nghiệp Việt Nam nên có cái nhin xa hơn,
chiến lược hơn đê thương hiệu Việt không chỉ là của người Việt.
Để sự chuyển hoán một quảng cáo quốc nội thành một quảng cáo quốc tế hay toàn cầu
được thành công, dù ít dù nhiều cũng dựa trên nhiều điều kiện :
1)Nhãn hiệu của hãng ấy được chấp nhận đến mức độ nào?
2)Khẩu hiệu trong thương điệp có thể chuyển đi trực tiếp được không?
3)Trình độ văn hóa của người tiêu thụ ở khu vực đó thế nào?
4)Thái độ của ngưòi nước đó đối với quốc gia phát thông tin tốt hay xấu?
5)Tinh thấn ái quốc của khu vực nhận tin có cực đoan hay không?
6)Nhân viên quảng cáo ở cơ sở hải ngoại đó có lành nghề không?
7)Mức sinh hoạt của khu vực sở tại cao thấp thế nào?
8)Môi thể truyền thông sở tại có độc lập đối với chính phủ không?
9)Phong tục tập quán của người vùng đó thế nào?
10 )Thái độ dân chúng đối với viên chức chính quyền như thề nào
Các quảng cáo của chúng ta nên nhấn mạnh điểm nổi bật của sản phẩm, riêng có của
sản phẩm (bột giặt chuyên dùng cho máy, sữa tắm cho trẻ em, ) như các hãng có uy tín và
kinh nghiệm trên thế giới, tránh thai đố không khiêm nhường như một số quảng cáo hiện nay:
dành cho mọi người, mọi nhà, ai thấy cũng mê, hoàn hảo đến từng chi tiết
Một sự hài hòa giữa tình cảm và lý trí, một đường lối quảng cáo lấy con người làm
trung tâm là điều những thế hệ mai sau đòi hỏi ở qungrcáo trong tương lai. Quảng cáo trong
tương lai cần lưu y những điểm sau:

• Quảng cáo nâng cao giá trị của những thương phẩm và dịch vụ mới trong lãnh
vực công nghệ thông tin, bảo vệ môi trường sinh thái, bảo hiểm xã hội, y dược và giáo dục.
• Quảng cáo đánh giá lại những thương phẩm và dịch vụ đã có nhưng đang và sẽ
đóng vai trò quan trọng trong các quốc gia trên đường phát triển, yếu kém về thu nhập.Song
song với nó, quảng cáo gióng tiếng chuông cảnh tỉnh để bảo vệ môi sinh và tiết giảm tiêu phí
tài nguyên thiên nhiên.
• Quảng cáo nâng cao giá trị của những phương pháp mới trong việc chế tạo các
loại thương phẩm và dịch vụ đã có. Những phương pháp gọi là mới này cũng lại có mục đích
tiết giảm tiêu phí tài nguyên và chống ô nhiễm.
Bạn có thể coi vô tuyến là một chiến luỹ cho quảng cáo của các công ty lớn.
Nhưng nhờ có sự phát triển của truyền hình cáp và khả năng truyền sóng tới các vùng
cụ thể, quảng cáo trên truyền hình có thể cũng rất hữu hiệu với các công ty nhỏ. Cần
thận trọng đối với quảng cáo trên truyền hình vì nó có thể dễ dàng phản tác dụng - một
quảng cáo tồi trên truyền hình không những biến bạn thành trò cười mà còn làm mất
khách hàng.
Truyền hình là một phương tiện thông tin bằng hình ảnh. Bạn phải chuyển thông điệp
của bạn bằng hình ảnh - khán giả truyền hình vẫn có thể biết được quảng cáo về sản phẩm gì
khi không có bất kỳ một âm thanh nào. Chính vì thế, hình ảnh là phần quan trọng nhất trong
quảng cáo của bạn. Bản thảo - những từ ngữ được sử dụng trong phần quảng cáo này - là phần
ít quan trọng nhất.
Một quảng cáo trên truyền hình thành công được đánh giá thông qua xúc cảm của
khán giả. Khán giả truyền hình hiếm khi nhớ chi tiết một quảng cáo nhưng họ có thể hồi
tưởng lại những điều đoạn quảng cáo đó làm họ cảm nhận được. Đảm bảo rằng khán giả phải
được thúc giục mua sản phẩm sau khi xem quảng cáo của bạn.
Phải chớp lấy thời cơ. Bạn chỉ có khoảng 2 phút để thu hút được sự quan tâm của khán
giả truyền hình, do vậy phải sử dụng hình ảnh mở đầu gây ấn tượng - hình ảnh gây ấn tượng
có hiệu quả phải tương xứng với tiêu đề . Tiếp đó bạn phải giành tổng cộng khoảng 5 giây để
thông tin với khán giả về sản phẩm được quảng cáo - Nếu thông tin không rõ ràng, bạn sẽ mất
khán giả của toàn bộ phần quảng cáo.
Đưa ra những thông điệp đơn giản. Tập trung vào những lợi ích. Và nhớ phải tập trung

diễn đạt chúng bằng hình ảnh. Bạn có thể thực hiện điều này bằng cách đưa ra sản phẩm thay
vì chỉ nói.
Bạn phải thể hiện bằng hình ảnh tên của công ty và sản phẩm. Đưa tên, đi kèm với
biểu tượng, địa chỉ và số điện thoại của công ty lên trên màn hình. Tót nhất là là có ai đó đọc
to các thông tin đó cùng một lúc.
Không thể bỏ qua lời kêu gọi hành động. Thuyết phục khán giả hành động - Gọi cho
chúng tôi!!!; Hãy tới thăm đại lý bán hàng của chúng tôi trong khu vực; So sánh chất lượng;
Đến với chúng tôi. v.v.
Có hàng trăm, thậm chí hàng ngàn mẫu quảng cáo "tra tấn" người xem hàng ngày với
đủ hình thức, từ ngôn từ đến hình ảnh đa sắc. Vậy, làm thế nào để thông điệp của doanh
nghiệp chạy vào não của khách hàng trong thời gian ngắn nhất? Tất nhiên, ngoài việc nắm bắt
những yếu tố của thông điệp quảng cáo như đã trình bày ở trên, người làm marketing cũng
hiểu rõ mục đích và khả năng ngân sách mà doanh nghiệp dành cho quảng cáo. Một khi đã
hiểu rõ mục đích của mình, doanh nghiệp sẽ biết cách để phân bổ ngân sách quảng cáo hợp lý.
Tuy nhiên, điều quan trọng là cần nắm vững các ưu, khuyết điểm của từng loại phương tiện
truyền thông. Truyền hình vẫn được xem là kênh quảng cáo hiệu quả nhất. Ở đó, những thông
điệp có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến mọi giác quan của con người, từ ngôn từ, âm
thanh đến hình ảnh. Ưu điểm là thế, tuy nhiên, chi phí cho quảng cáo trên truyền hình khá đắt
so với báo giấy. Do đó, nó đòi hỏi các mẫu quảng cáo phải thật sáng tạo, sâu sắc và dễ hiểu
Chi phí quảng cáo trên báo giấy rẻ hơn. Bạn hãy tận dụng báo chí để truyền đi thông điệp cụ
thể của mình bằng một bài viết hoặc hình ảnh có thể làm rung động tâm trí khách hàng.
Điều quan trọng là phải chọn thời điểm phát sóng hoặc xem ngày phát hành báo chí
phù hợp, nếu không muốn mẫu quảng cáo trở nên lãng phí. Ví dụ, bạn muốn chuyển thông
điệp đến các quý ông, đừng quảng cáo trong chương trình chiếu phim Hàn Quốc mà nên cho
xuất hiện trong tâm trận đấu bóng đá hoặc trước, trong, sau chương trình thời sự. Và ngược
lại!
Nói một cách khái quát, quảng cáo là sản phẩm văn hóa, sản phẩm của trí tuệ và cái
sản phẩm văn hóa trí tuệ ấy phải gắn liền đời sống văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Các doanh nghiệp muốn có một chương trình quảng cáo tốt cần phải có một chiến lược cụ thể,
họ phải biết được đối tượng quảng cáo của mình là những ai, nội dung mà họ muốn giới thiệu

tới khách hàng là gì và cuối cùng, họ phải có một tầm nhìn lâu dài cho việc thực hiện quảng
cáo của công ty cũng như phải tôn trọng khách hàng của họ.
Quảng cáo là một phần không thể thiếu của xã hội văn minh, vì thế, sự tinh tế và tính
thẩm mỹ trong quảng cáo đóng vai trò quan trọng để chuyển tải nội dung. Quảng cáo mang
tính thẩm mỹ cao, nhiều sắc màu văn hóa ẩn chứa trong nội dung thì sẽ được đón nhận như
một sản phẩm nghệ thuật, tạo ra hiệu quả kinh tế. Ngược lại, quảng cáo thiếu chọn lọc sẽ gây
phản cảm.
Một xã hội đang phát triển rất cần định hình thật tốt về quảng cáo để trở thành xã hội
tiêu dùng phong phú nhưng có bản sắc. Các yếu tố dẫn đến thành công trong quảng cáo hiện
đại là: mới lạ, hấp dẫn, sinh động, có thẩm mỹ cao… Nhưng đây là lĩnh vực dễ bị “vượt
rào”, khó kiểm soát. Do đó, ở nước ta rất cần sự quan tâm, sâu sát hơn nữa của cơ quan chức
năng để quảng cáo trở thành hệ thống bài bản, giữ được nét văn hóa cộng đồng, phổ biến
nhưng được sàng lọc kỹ. Tiêu chí thẩm mỹ và văn hóa quảng cáo là hết sức cần thiết, phải
được đặt trong lộ trình công nghiệp hóa, xem như một tiêu chuẩn của xã hội phát triển hài
hòa, trước hết phải là sự hoàn thiện từng bước ở các thành phố lớn. Lộ trình mới cho quảng
cáo - nếu có - sẽ là những quy định vừa chuẩn mực vừa khả thi để giữ được nguyên tắc, có
điều luật và mức xử phạt ở từng khu vực được hoặc không được quảng cáo. Đa dạng hóa các
loại hình nhưng giữ được trật tự, đề cao việc quảng bá văn hóa trong quảng cáo.
Quảng cáo trên truyền hình mất đi tính hiệu quả vì sự gia tăng chóng mặt số lượng các
quảng cáo, số lượng các kênh truyền hình cũng như việc giảm thời lượng xem truyền hình của
người xem. Kết quả là các nhà tiếp thị phải quan tâm tới những phương thức khác để thu hút
sự chú ý của mọi người.
Dưới đây là một số giải pháp:
- Nhà tài trợ. Thông qua chương trình tài trợ, các công ty có thể đặt logo của mình trên
các sân vận động, in trên quần áo vận động viên, hay trên sân khấu trình diễn, để thu hút sự
chú ý của mọi người.
- Được đề cập tới trong các show truyền hình, các buổi trò chuyện trước công chúng,
thường đề cập một cách gián tiếp tới các nhãn hiệu nổi tiếng và các lời khuyên mua sắm.
- Sắp đặt, bố trí sản phẩm. Trong bộ phim 007 nổi tiếng, Die Another Day, điệp viên
James Bond lái chiếc xe Aston Martin, sử dụng điện thoại di động Sony và đeo chiếc đồng hồ

sang trọng hiệu Omega. Các sản phẩm cũng được đề cập tới trong các cuốn truyện 007.
- Xúc tiến trên đường phố. Nhiều hãng điện thoại di động đã thuê những nam nữ diễn
viên nổi tiếng đi lại trong những khu vực đông người và đề nghị người qua đường chụp cho
họ một tấm hình sử dụng chiếc điện thoại di động mới. Rõ ràng rằng người chụp ảnh sẽ rất ấn
tượng và nói với mọi người về chiếc điện thoại di động có chụp hình đó.
- Chứng thực của những nhân vật nổi tiếng. Lời chứng thực chất lượng sản phẩm của
siêu sao bóng rổ Michael Jordon đã giúp doanh số bán hàng của Nike tăng vọt. Hay lời chứng
thực bất ngờ của cựu thượng nghị sỹ Mỹ Bob Dole đã khiến cả nước Mỹ quan tâm tới Viagra.
KẾT LUẬN
Tôi là sinh vên học chuyên ngành quảng cáo, tôi yêu lĩnh vực mà tôi dã may mắn được
tiếp cận, học tâp và nghiên cứu. Chính lẽ đó tôi chọn đề tài: “Quảng cáo truyền hình – thực
trạng và xu hướng” để nghiên cứu.
Lần đầu tiến hành nghiên cứu một vấn đề thực sự còn nhiều thiếu sót mặc du tôi đã nỗ
lực tim kiếm và nghiên cứu tài liệu và có được những suy nghĩ riêng về vấn đề nghiên cứu.
Đề tài này không có mong ươc gì cao xa, tác giả đề tài hy vọng qua nó bản thân hiểu
sâu sắc hơn về quảng cáo truyền hình một lĩnh vực còn khá mới mẻ và nhiều tiềm năng.
Ngoài ra, mong rằng những ai có tâm huyết và quan tâm đến lĩnh vực quảng cáo truyên hình
qua đề tài này có thêm những cái nhìn mới mẻ và bổ ích, đồng thời có những ý kiến đồng tình
hay đóng góp nhận định của riêng mình để vấn đề được xem xét toàn diên và đúng đắn hơn.
Thấy được thực trạng của vấn đề đã khó, qua phân tích và tim hiểu để có được giải
pháp cho vấn đề, dự đoán xu hướng của vấn đề lại càng khó. Tuy vậy tôi mạnh dạn đi vào tìm
hiểu về quảng cáo truyền hình vì nó đang rất thời sự, được mọi người quan tâm và có nhiều
nhận định khác nhau, một cái nhìn chung cho vấn đề là cần thiêt để mỗi thành phần tham gia
vào đó có hướng đi, cách làm đúng đắn và hiệu quả.
Một vấn đề không thể được xem xét toàn diện bởi một cá nhân, đề tài nay được hoàn
thành với sự tham khảo nhiều tài chuyên môn, các bài báo chuyên ngành, ý kiến đóng góp của
các bạn sinh viên. Đặc biệt xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo NGUYỄN MINH HIỀN
đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo để tôi hoàn thành đề tài này.
Đề án là bước khởi đầu cho những đề tài nghiên cứu về sau của qua trình học tập,
phát triển sự nghiệp, dù không tránh khỏi thiếu sót nhưng tôi cảm thây hạnh phúc vì đã có

thêm được nhiều kiến thức, kinh nghiệm, biết nhìn nhận vẩn đề một cách khoa học.
Cuối cùng xin cảm ơn các bạn đã đọc và cùng trăn trở về quảng cáo truyền hình với
tôi. Rất mong có được nhiều ý kiến đóng góp của các bạn. Chúc mọi người luôn mạnh khỏe
và thành công!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang web: kinhdoanh.com
thuonghieuviet.com
chungta.com
dantri.com.vn
Giáo trình: Quản trị quảng cáo
Quảng cáo truyền hình trong kinh donh
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
Phần I: Những lý thuyết cơ bản về quảng cáo truyền hình 2
I.Quảng cáo truyền hình - Đặc điểm và chức năng 2
1. Khái niệm 2
2. Đặc điểm và chức năng của quảng cáo truyền hình 2
3. Các hình thức quảng cáo truyền hình: 3
II. Những đối tượng tham gia vào hoat động quảng cáo truyền hình 3
1.Chủ thể quảng cáo 3
2.Hãng quảng cáo 4
3. Đài truyền hình 5
4. Khán thính giả, người tiêu thụ 5
Phần II: Thực trạng và xu hướng của quảng cáo truyền hình Việt Nam 6
I. Ý nghĩa của quảng cáo truyền hình với đời sống xã hội 6
1. Phản ánh thời đại 6
2. Báo hiệu những chuyển hướng 6
3. Sáng tạo thời trang 6
4. Ảnh hưởng đến phong tục tập quán 6

5. Phổ biến một nền văn hóa thương nghiệp 8
6. Tạo thành những nếp sống 8
II. Thực trạng của các đối tượng tham gia hoạt động quảng cáo truyền hình ở Việt Nam.8
1. Chủ thể quảng cáo truyền hình ở Việt Nam 8
2.Các hãng quảng cáo truyền hình ở Việt Nam 9
3.Đài truyền hình 11
4.Khán giả 11
5. So sánh hiệu năng truyền thông của truyền hình với các phương tiện khác 12
III. Xu hướng của quảng cáo truyền hình Việt Nam 16
Phần III: KIẾN NGHỊ 19
KẾT LUẬN 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO 24

×