1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================
PHÙNG THANH HOA
PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Ở THÁI NGUYÊN TRONG THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Hà Nội - 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=====================
PHÙNG THANH HOA
PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Ở THÁI NGUYÊN TRONG THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
MÃ SỐ:60.22 85
Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS Nguyễn Thanh Tuấn
Hà Nội - 2013
3
MỤC LỤC
Contents
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1
MỞ ĐẦU 6
1. Tính cấp thiết của đề tài 6
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 14
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 14
5. Phương pháp nghiên cứu 15
6. Ý nghĩa của luận văn 15
7. Kết cấu của luận văn 15
NỘI DUNG 16
Chương 1: KHÁI LUẬN VỀ GCCN, CNH, HĐH VÀ PHÁT HUY VAI TRÕ
CỦA GCCN TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CNH, HĐH Ở THÁI NGUYÊN
16
1.1. Khái luận về GCCN, phát huy vai trò của GCCN và CNH, HĐH ở Thái
Nguyên 16
1.1.1. Khái luận về GCCN, phát huy vai trò của GCCN 16
1.1.2. CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 26
1.2. Đặc điểm và tính tất yếu phát huy vai trò của GCCN ở Thái Nguyên
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước 33
1.2.1. Đặc điểm của GCCN ở Thái Nguyên trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước 33
1.2.2.Tính tất yếu tiếp tục phát huy vai trò của GCCN ở Thái Nguyên trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH,H ĐH đất nước………………………………………….33
4
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM TIẾP TỤC PHÁT HUY
VAI TRÕ CỦA GCCN Ở THÁI NGUYÊN TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CNH, HĐH ĐẤT NƯỚC. 49
2.1. Thực trạng phát huy vai trò của GCCN ở Thái Nguyên trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước 49
2.1.1. Quá trình thực hiện vai trò của GCCN ở Thái Nguyên 49
2.1.2. Vai trò cơ bản của GCCN ở Thái Nguyên trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước 53
2.1.3. Một số hạn chế trong quá trình phát huy vai trò của GCCN ở Thái
Nguyên hiện nay. 56
2.2. Một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của GCCN ở Thái
Nguyên trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 61
2.2.1. Nhóm giải pháp về ý thức chính trị, tư tưởng 61
2.2.2. Nhóm giải pháp về tiếp tục phát triển, phát huy nguồn nhân lực, tạo việc
làm và thu nhập. 67
2.2.3. Nhóm giải pháp về tổ chức đoàn thể 73
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
PHỤ LỤC 86
5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. CNH: Công nghiệp hóa
2. CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
3. CNTB: Chủ nghĩa tư bản
4. CNXH: Chủ nghĩa xã hội
5. GCCN: Giai cấp công nhân
6. HĐH: Hiện đại hóa
7. LLSX: Lực lượng sản xuất
8. PTSX: Phương thức sản xuất
9. TBCN: Tư bản chủ nghĩa
10. TLSX: Tư liệu sản xuất
11. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam hiện nay, GCCN
không chỉ là giai cấp lãnh đạo mà còn là lực lượng đi đầu, trực tiếp thực hiện thắng
lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, vấn đề xây dựng GCCN không ngừng
lớn mạnh về mọi mặt là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, Nhà nước của
GCCN và toàn thể nhân dân. Nghị quyết lần thứ bảy (khóa VII) của Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Cùng với quá trình phát triển công
nghiệp và nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH đất nước, cần xây dựng GCCN
phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có
trình độ học vấn tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao
động đạt năng suất, chất lượng hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử
của mình.” [20, 581]
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi nằm trong vùng trung du và miền núi Bắc
bộ, nơi có vị trí địa lí, chính trị quan trọng. Tỉnh có hàng vạn cán bộ khoa học kĩ
thuật trong các trường đại học cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, và công nhân kỹ
thuật, công nhân lành nghề trong các nhà máy, doanh nghiệp trung ương và địa
phương. Đặc biệt, khu công nghiệp Gang Thép Thái Nguyên và khu công nghiệp
Sông Công đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp CNH, HĐH hội nhập
kinh tế quốc tế trên địa bàn tỉnh.
Mặc dù vậy, Thái Nguyên vẫn chưa thoát khỏi tình trạng một tỉnh nghèo;
công nghiệp chưa phát triển hết tiềm năng và không tránh khỏi nguy cơ bị tụt hậu.
Vì vậy, để đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững sự ổn định kinh
tế, chính trị, xã hội trên địa bàn tỉnh, Thái Nguyên cần phải tập trung nghiên cứu
các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, nhất là các nhân tố được xác định là
động lực, đóng vai trò chính trong sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh.
GCCN ở Thái Nguyên là một bộ phận của GCCN Việt Nam, trong những
năm qua đã có những bước phát triển đáng kể cả về số lượng và chất lượng gắn với
7
quá trình CNH, HĐH của tỉnh cũng như cả nước. GCCN ở Thái Nguyên có những
đóng góp to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nhưng bên cạnh đó đội
ngũ này vẫn còn có những hạn chế, chưa phát huy hết vai trò của mình. Vì vậy, để
đưa Thái Nguyên đến năm 2020 trở thành “một trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo
dục, y tế của Trung du miền núi phía Bắc” thì việc nghiên cứu và đề xuất những
giải pháp nhằm phát huy vai trò của GCCN trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong sự
nghiệp CNH, HĐH là một vấn đề cấp thiết về lý luận và thực tiễn.
Chính vì những lí do trên mà tác giả chọn đề tài: "Phát huy vai trò của giai
cấp công nhân ở Thái Nguyên trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước" làm luận văn tốt nghiệp cao học, với hy vọng góp một chút sức lực nhỏ bé
của mình vào việc nghiên cứu vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
GCCN, phát huy vai trò của GCCN là một trong những yếu tố có ý nghĩa
quan trọng, trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trong những năm gần đây đã có
nhiều công trình khoa học tập trung nghiên cứu những vấn đề này.
Thứ nhất, các công trình khoa học bàn chung về GCCN trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước
- Cao Văn Lượng (chủ biên), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển
giai cấp công nhân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001: Tác phẩm khái quát một
số vấn đề lý luận về GCCN, sự phát triển và biến đổi sâu sắc về mọi mặt của GCCN
dưới tác động của CNH, HĐH, của sự phát triển khoa học kỹ thuật; thực trạng của
công nhân lao động ở nước ta hiện nay cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu. Tác giả
khẳng định khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp thì trình độ trí thức của công nhân sẽ ngày càng được nâng cao. Bộ phận
này chính là lực lượng nòng cốt của GCCN hiện nay. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra
những chính sách và giải pháp cơ bản xây dựng, củng cố và tăng cường vị trí của
GCCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Dương Xuân Ngọc (chủ biên), “GCCN Việt Nam trong sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. Đây là một công trình
8
nghiên cứu khá toàn diện về GCCN Việt Nam. Từ lý luận đến thực tiễn, tác giả đã
đề cập đến GCCN, thực trạng và xu hướng biến đổi của GCCN Việt Nam trong sự
nghiệp CNH, HĐH. Từ đó đề ra phương hướng, mục tiêu, giải pháp xây dựng
GCCN Việt Nam.
- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2007. Công trình này
gồm các tham luận khoa học bàn về vị trí, vai trò của GCCN; mối quan hệ giữa
GCCN và tổ chức Công đoàn; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với GCCN trong quá
trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Các bài tham luận đã đề xuất các giải pháp
nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để nâng cao ý thức chính trị cho GCCN
trong giai đoạn hiện nay.
- Đặng Ngọc Tùng, “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh đáp
ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước”, Tạp Chí Cộng sản, số 784, tháng 2/2008.
Bài viết đã chỉ ra rằng, GCCN nước ta hiện nay tuy có bước phát triển về số lượng,
đa dạng về cơ cấu, chất lượng đội ngũ được nâng lên (biểu hiện là xuất hiện bộ phận
công nhân trí thức), nhưng nhìn chung GCCN chưa đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Do vậy, xây dựng GCCN Việt Nam lớn
mạnh là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách.
- Hoàng Chí Bảo, Nguyễn Viết Thông, Bùi Đình Bôn (chủ biên), “Một số
vấn đề lý luận về GCCN Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường, đẩy mạnh
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2012. Cuốn sách đề cập
tới xu hướng phát triển của GCCN trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Mối quan hệ giữa GCCN với các giai cấp, tầng lớp khác trong xă hội, đặc biệt là
trong liên minh GCCN với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; Vai trò làm chủ
của GCCN, quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động; Tổ chức và
hoạt động của tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên trong các loại hình
doanh nghiệp; những âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” và tuyên truyền phản
động của các thế lực thù địch đối với GCCN; cuối cùng là giải pháp và kiến nghị
9
nhằm thúc đẩy, nâng cao chất lượng nghiên cứu, phát triển lý luận về GCCN Việt
Nam trong thời gian tới.
- Liên đoàn Lao động tỉnh Thái Nguyên (2012), “Xây dựng đội ngũ công
nhân tỉnh Thái nguyên đáp ứng mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Báo cáo đã chỉ ra những kết quả đã đạt được sau hơn 25 năm thực hiện đường lối
đổi mới đất nước thì GCCN ở Thái Nguyên đã phát triển nhanh chóng cả về số
lượng và chất lượng phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH, góp phần thúc đẩy kinh tế
của tỉnh tiếp tục tăng trưởng và phát triển ổn định; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực, hệ thống các khu cụm công nghiệp được mở rộng; các lĩnh vực văn
hoá - xã hội phát triển; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững; bộ
mặt nông thôn và thành thị có nhiều đổi thay; hệ thống chính trị được củng cố; dân
chủ được phát huy; kinh tế đối ngoại ngày càng được mở rộng, thu hút đầu tư không
ngừng tăng.
Thứ hai, các công trình khoa học bàn về phát huy vai trò của GCCN
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
- Viện Công nhân và Công đoàn, “Một số vấn đề cơ bản về xây dựng và phát
huy vai trò của giai cấp công nhân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
Nxb Lao động, Hà Nội, 2004. Cuốn sách đã đề cập tới những vấn đề cơ bản trong
việc xây dựng GCCN trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Đồng thời, tác giả cũng
đưa ra được một số biện pháp để phát huy vai trò của GCCN thời kỳ CNH, HĐH
đất nước.
- Dương Văn Sao“Xây dựng, phát huy vai trò GCCN, nhân tố quyết định
thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH” (2007), Tạp chí Lao động và Công đoàn
số 376, tháng 3 (kỳ 2) - 2007. Tác giả đã khẳng định GCCN là nhân tố quyết định
thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, từ đó đề xuất một số chủ
trương, chính sách nhằm phát huy vai trò GCCN trong giai đoạn hiện nay.
- Liễu Khả Bạch-Vương Mai- Diêm Xuân Chi, “Vị trí và vai trò của giai
cấp công nhân đương đại”, Nxb Công nhân Trung Quốc, Người dịch Nguyễn Ngọc
Lân, Hà Nội, 2008. Đây là một công trình nghiên cứu toàn diện về GCCN trong giai
10
đoạn hiện nay. Qua việc phân tích thực trạng, xu hướng biến đổi của GCCN cùng
với sự biến đổi và phát triển của điều kiện kinh tế- xã hội, các tác giả đã đưa ra khái
niệm khá rộng về GCCN bao gồm “quảng đại người có thu nhập từ lương”, “hoạt
động trong các ngành nghề”, từ “các chuyên gia học giả thuộc lĩnh vực khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội mũi nhọn, các giáo sư uyên bác, các bác sỹ tài ba, và
những người quản lý xã hội các cấp… đều thuộc phạm trù giai cấp công nhân” [5,
34]. Bởi vậy, GCCN hiện nay là “một cộng đồng lớn và phức tạp”, có sự phân hóa,
phân tầng sâu sắc. Từ khái niệm, các tác giả cũng chỉ ra một trong những đặc điểm
lớn nhât của GCCN hiện nay là được “trí thức hóa, trí tuệ hóa”. Đặt trong mối quan
hệ với sự phát triển của kinh tế tri thức, các tác giả khẳng định, trình độ tri thức,
công nghệ của công nhân ngày một tăng lên là một tất yếu. Do vậy, họ có vai trò
đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế tri thức và phát triển sản xuất xã hội.
Các tác giả khẳng định GCCN “không chỉ là người sáng tạo ra ra của cải và giá trị
xã hội chủ yếu mà còn chiến đấu hăng hái trong lĩnh vực kinh tế tri thức”. Họ cũng
“là người đại diện quan trọng cho lực lượng sản xuất tiên tiến, trước sau như một,
họ luôn là lực lượng cơ bản thúc đẩy sản xuất phát triển” [5, 39].
Với vị trí và vai trò đó, các tác giả đã đề xuất những giải pháp cơ bản để bảo
vệ quyền lợi cơ bản, hợp pháp của công nhân, từ đó tạo điều kiện và môi trường để
họ tiếp tục phát huy vai trò to lớn của mình đối với sự phát triển kinh tế- xã hội.
- “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011- 2020”, Báo cáo
tổng hợp đề tài cấp Nhà nước, mã số KX.04.15/06-10, Chủ nhiệm đề tài Đặng Ngọc
Tùng, Hà Nội, 2010. Đây là một đề tài nghiên cứu công phu, toàn diện và có những
kết luận mang tính khái quát cao về GCCN Việt Nam, nhất là trong giai đoạn hiện
nay. Đề tài đã tập trung phân tích, luận giải những vấn đề cơ bản, cốt lõi của GCCN
từ khái niệm, vị trí, vai trò, thực trạng và xu hướng biến đổi của GCCN Việt Nam
giai đoạn 2010- 2020. Đề tài cũng khẳng định cùng với thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, GCCN Việt Nam sẽ ngày càng
trí thức hóa. Từ đó, đề tài đã đề xuất những quan điểm, giải pháp toàn diện và có
11
tính khả thi để Đảng và Nhà nước xây dựng và phát huy vai trò của GCCN Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Nguyễn Mạnh Thắng, “Xây dựng, phát huy vai trò GCCN Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” (2011), Tạp chí Cộng sản, tháng 9/2011.
Bài viết đã chỉ ra một số những đặc điểm cũng như hạn chế của GCCN Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới. Từ đó, tác giả đã đưa ra một số giải pháp cơ bản trước mắt để
xây dựng, phát triển GCCN Việt Nam đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
Thứ ba, các công trình khoa học bàn về xu hướng biến đổi của GCCN
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước.
- Viện công nhân và công đoàn – Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, “Xu
hướng biến động giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ
XXI”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2001. Đây là kỷ yếu hội thảo khoa học tập hợp các
bài viết phân tích các điều kiện quy định và các yếu tố tác động đến GCCN; từ đó
dự báo những xu hướng biến động (hay biến đổi có tính không thường xuyên) của
GCCN Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI.
- Phan Thanh Khôi, “Trí thức hóa công nhân một số vấn đề lý luận và thực
tiễn; và Nội dung và chủ thể, quan điểm và giải pháp trí thức hóa công nhân ở nước
ta hiện nay”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, số 323 + 324 + 329, năm 2005. Tác
giả chỉ ra và phân tích những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, của tư
tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước về GCCN và khẳng định trong những
năm qua cùng với sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước, GCCN biến đổi không
ngừng và ngày càng trí thức hóa. Đây là một xu thế khách quan, tất yếu của quá
trình phát triển GCCN hiện nay. Từ đó, tác giả phân tích những nội dung cơ bản của
quá trình trí thức hóa công nhân và những giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh quá
trình trí thức hóa công nhân, góp phần để GCCN thể hiện vai trò lãnh đạo của mình
trong công cuộc xây dựng đất nước.
- Phạm Ngọc Dũng, “Trí thức hóa công nhân Việt Nam”, Tạp Chí Khoa học
xã hội, số 12 (năm 2006), tr.13-20. Tác giả khẳng định kinh tế tri thức phát triển đến
đâu thì lao động trí tuệ thay thế dần lao động cơ bắp đến đó, bởi vậy, trí thức thức
12
hóa đội ngũ công nhân là một xu thế mang tính tất yếu khách quan. Tác giả đã chỉ
ra và phân tích những đặc điểm cơ bản của công nhân trí thức như có trình độ khoa
học công nghệ cao; có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi nghề nghiệp; có
khả năng sáng tạo tri thức mới… Trên cơ sở đó tác giả chỉ ra ở Việt Nam đang
hướng vào nền kinh tế tri thức và được xác định trong đường lối của Đảng và Nhà
nước với những mục tiêu và chính sách cụ thể. Song tác giả cũng chỉ ra một vài tồn
tại của Việt Nam trước nền kinh tế tri thức, nguyên nhân cơ bản của những tồn tại
đó và đưa ra một số giải pháp cụ thể đẩy mạnh trí thức hóa công nhân ở Việt Nam.
- Nguyễn Thanh Tuấn, “Giai cấp công nhân và xu hướng biến đổi của giai
cấp công nhân Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, Số 397+ 398
+ 399, tháng 2-3/2008, tr.8; tr.5 . Tác giả đã phân tích vai trò to lớn của GCCN Việt
Nam trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tác giả khẳng định
GCCN Việt Nam là lực lượng sản xuất chủ yếu, hàng đầu tại tất cả các thành phần
kinh tế và khu vực kinh tế, nhất là khu vực công nghiệp và dịch vụ; là giai cấp góp
phần rất quan trọng và không thể thiếu vào quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN; là LLSX trực tiếp và hàng đầu trong quá trình
đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội theo hướng CNH, HĐH gắn với phát triển kinh
tế tri thức và hội nhập quốc tế; là cơ sở xã hội- giai cấp nòng cốt của khối đại đoàn
kết toàn dân và của hệ thống chính trị. Tác giả cũng đã phân tích những tác động
của kinh tế thị trường, của quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức
và hội nhập quốc tế theo cả hai chiều hướng tiến bộ và thoái bộ đến việc thực hiện
vai trò của GCCN. Trên cơ sở đó tác giả dự báo về xu hướng biến đổi của GCCN
trong thời gian tới để từ đó có những quan điểm và giải pháp thúc đẩy vai trò của
GCCN theo chiều hướng tiến bộ.
- Văn Tạo,“Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân- kinh tế tri thức và công
nhân tri thức”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Đây là một công trình nghiên
cứu khá sâu sắc về GCCN và đội ngũ công nhân tri thức. Tác giả đã hệ thống hóa
những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng, của các chuyên gia đầu ngành về GCCN. Tác giả chỉ ra rằng cùng
13
với sự nghiệp đổi mới cần phải đổi mới tư duy về GCCN, cần đặt vấn đề công nhân
trong phạm trù dân tộc và nhìn nhận theo quan điểm lịch sử; cần coi trọng vị trí và vai
trò của GCCNvới tư cách là LLSX của xã hội; cần khẳng định những yếu tố bất biến
trong định nghĩa về giai GCCN, đồng thời coi trọng tìm ra những yếu tố khả biến cần
thay đổi, bổ sung… từ đó tác giả đi tới một định nghĩa mới về GCCN Việt Nam.
Tác giả đã dành một phần rất quan trọng của cuốn sách để phân tích, làm rõ
mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế tri thức và công nhân tri thức. Tác giả chỉ ra
rằng kinh tế tri thức đã bắt đầu hình thành ở Bắc Mỹ, Nhật Bản và một số nước Tây
Âu. Ở Việt Nam cũng đã xuất hiện một số yếu tố ban đầu của kinh tế tri thức. Với
tinh thần năng động, sáng tạo và nhạy bén với cái mới đã Đảng và Nhà nước đã tiếp
cận về mặt tư duy và dự kiến phương châm đi tắt, đón đầu tiến vào kinh tế tri thức.
Tác giả đã phân tích các đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức. Từ đó, tác giả khẳng
định cùng với sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức, công nhân tri thức xuất
hiện ngày càng đông đảo và là nhân tố quyết định hướng đi của lịch sử xã hội cũng
như hướng đấu tranh cho tiến bộ xã hội. Công nhân tri thức không mất đi mà ngày
càng phát triển cả về số lượng và chất lượng, ngày càng thể hiện vai trò to lớn của
mình cùng với sự phát triển của kinh tế tri thức. Bởi vậy, công nhân tri thức - nhân
tố mới trong GCCN- không chỉ là sản phẩm mà còn là chủ thể của kinh tế tri thức.
Tác giả cũng đã chỉ ra và hệ thống hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế tri thức và công nhân tri thức. Chỉ ra
vị trí, vai trò của GCCN Việt Nam trong nền kinh tế tri thức và khẳng định GCCN
Việt Nam sẽ tiến nhanh trong điều kiện kinh tế tri thức. Trên cơ sở đó, tác giả đề
xuất những giải pháp để xây dựng và phát triển GCCN Việt Nam.
- Trần Thị Như Quỳnh, “Công nhân trí thức ở Thành phố Hồ Chí Minh thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2011. Tác giả đã chỉ ra và phân tích
những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng ta về GCCN và đội ngũ công nhân trí thức. Từ đó tác giả đi đến khái niệm
công nhân trí thức và phân tích những đặc điểm cơ bản của đội ngũ công nhân trí
14
thức hiện nay. Tác giả đã phân tích thực trạng và những vấn đặt ra trên các khía
cạnh: đặc điểm hình thành, vai trò và việc phát huy vai trò của công nhân trí thức,
nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong vệc phát huy vai trò của công
nhân trí thức ở Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Trên cơ sở
đó tác giả đề xuất những quan điểm và giải pháp để phát triển công nhân trí thức ở
thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
Tất cả các công trình khoa học trên làm tiền đề để tác giả kế thừa. Tuy nhiên,
cho đến nay chưa có công trình khoa học nào đi sâu vào nghiên cứu về việc phát
huy vai trò GCCN ở Thái Nguyên trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
trên phương diện chính trị, xã hội để từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm
phát huy hơn nữa vai trò của GCCN trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội
theo hướng đẩy mạnh CNH,HĐH trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề về phát huy vai trò
của GCCN trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu GCCN trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên từ giữa thập niên 1990 đến nay.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
4.1. Mục đích
Làm rõ cơ sở khoa học về phát huy vai trò của GCCN, thực trạng của GCCN
ở Thái Nguyên, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát
huy vai trò của GCCN ở Thái Nguyên trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ một số quan niệm và mối quan hệ cơ bản như: quan niệm GCCN
Việt Nam; quan niệm CNH, HĐH; mối quan hệ giữa CNH, HĐH với sự phát triển
của GCCN; vai trò và phát huy vai trò của GCCN ở Thái Nguyên trong thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước.
15
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát huy vai trò của GCCN
ở Thái Nguyên trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng ta về GCCN, vai trò và phát huy vai trò
của GCCN và CNH, HĐH.
5.2. Phương pháp phân tích, đánh giá: Vận dụng tổng hợp phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; coi trọng phương pháp logíc - lịch sử; kết
hợp với các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê,
5.3. Phương pháp (hay kỹ thuật) tiến hành nghiên cứu: khảo cứu tài liệu;
chuyên gia (bằng tư vấn và thảo luận); phương pháp phỏng vấn sâu của xã hội học.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần tạo lập cơ sở khoa học để các
cấp lãnh đạo, quản lý ở tỉnh Thái Nguyên tham khảo, vận dụng trong quá trình
hoạch định, triển khai, thực hiện chủ trương, biện pháp nhằm tiếp tục phát huy vai
trò của GCCN trên địa bàn toàn tỉnh.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ giảng dạy và nghiên
cứu về GCCN tại các trường chính trị tỉnh, thành phố.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn được chia làm 2 chương với 4 tiết.
16
NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI LUẬN VỀ GCCN, CNH, HĐH VÀ PHÁT HUY VAI TRÕ
CỦA GCCN TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CNH, HĐH Ở THÁI NGUYÊN
1.1. Khái luận về GCCN, phát huy vai trò của GCCN và CNH, HĐH ở
Thái Nguyên
1.1.1. Khái luận về GCCN, phát huy vai trò của GCCN
1.1.1.1. Về giai cấp công nhân và giai cấp công nhân Việt Nam
* Về GCCN
Khái niệm GCCN được đề cập đến ngay sau khi GCCN xuất hiện trên vũ đài
chính trị. Có rất nhiều nhà nghiên cứu tuỳ thuộc lập trường giai cấp, thái độ chính
trị, trình độ học vấn và phương pháp tiếp cận khác nhau đã đưa ra nhiều ý kiến
không giống nhau, thậm chí trái chiều nhau. Song chỉ có quan điểm của các nhà
kinh điển của CNXH khoa học mới mang tính khách quan và khoa học nhất. Trong
rất nhiều tác phẩm của mình các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã dùng
nhiều khái niệm, mệnh đề khác nhau để một mặt cho thấy đó là những từ ngữ đồng
nghĩa nhưng mặt khác như là những giải thích định nghĩa về những nét, giá trị, góc
độ, thuộc tính khác nhau của GCCN:
- Nếu gắn với từ công nhân thì đó là GCCN đại cơ khí, GCCN hiện đại,
GCCN công xưởng nhà máy, công nhân thành thị.
- Nếu gắn với công nghiệp thì đó là người lao động công nghiệp, là sản phẩm
của nền đại công nghiệp, con đẻ của công nghiệp hiện đại, trực tiếp do công nghiệp
sinh ra.
- Nếu gắn với vô sản thì đó là giai cấp vô sản, trần như nhộng, giai cấp vô
sản công nghiệp.
- Nếu gắn với lao động thì đó là giai cấp lao động làm thuê, giai cấp lao
động làm thuê thế kỷ XIX, giai cấp sống dựa vào bán sức lao động của mình.
- Nếu gắn với vị trí lịch sử, tương lai thì đó là giai cấp vô sản cách mạng, giai
cấp thống trị lãnh đạo xã hội, giai cấp vô sản trí thức, GCCN lao động trí óc…
17
- Nếu bàn tới GCCN gắn với sự tha hóa không mong đợi về nó thì đó là giai
cấp vô sản lưu manh, GCCN quý tộc, kẻ nấp bóng tư sản, kẻ theo đuôi tư sản.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng nêu lên những đặc điểm,
tính chất chủ yếu của GCCN đồng thời dự báo tương lai của giai cấp này. Do đào
luyện trong môi trường công nghiệp trong mối quan hệ lao động nói riêng và quan
hệ xã hội nói chung trong xã hội tư bản nên GCCN có những đặc điểm, tính chất mà
các giai cấp, tầng lớp khác không có hoặc ít có; tập trung lực lượng vào các doanh
nghiệp, nhà máy, khu công nghiệp thành phố; tính tổ chức kỷ luật cao; đấu tranh
mạnh mẽ, triệt để cách mạng; tính tiên tiến về kinh tế, chính trị.
Ngay từ năm 1844, khi bắt đầu nghiên cứu GCCN trong tác phẩm: “Gia đình
thần thánh”, C.Mác đã đặt ra câu hỏi “Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản thực sự là gì
và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó giai cấp vô sản buộc phải làm gì về
mặt lịch sử ” [35, 56]
Trong lời nói đầu tác phẩm “Phê phán triết học pháp quyền Hêghen” C.Mác
đã chỉ ra nguồn gốc kinh tế xã hội và xu hướng phát triển của giai cấp vô sản. Theo
Mác giai cấp vô sản Đức là con đẻ của nền đại công nghiệp non trẻ đang hình thành
ở Đức. Quan điểm của C.Mác không những chỉ rõ giai cấp vô sản không những
được hình thành từ chủ nghĩa tư bản công nghiệp mà còn là lực lượng đại diện cho
LLSX tiến bộ đang trong giai đoạn hình thành và phát triển.
Trong tác phẩm “Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh” Ph.Ăngghen đã khẳng
định: “GCCN Anh là kết quả chủ yếu của cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh. Lịch
sử GCCN Anh bắt đầu từ nửa cuối thế kỉ XVIII. Công nghiệp nhỏ đã làm nảy sinh
giai cấp tư sản, công nghiệp lớn đã làm nảy sinh GCCN. Công nhân công nghiệp là
hạt nhân của phong trào công nhân” [1, 354]
Trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, Ph.Ăngghen đã
đưa ra định nghĩa giai cấp vô sản: “Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn
toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán sức lao động của mình chứ không phải sống bằng
lợi nhuận của bất cứ số tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc hay đau khổ,
sống và chết toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức
18
là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến
động của cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại giai cấp vô sản hay giai
cấp của những người vô sản là giai cấp lao động làm thuê trong thế kỉ XIX…Giai
cấp vô sản là do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra” [ 2, 456-457]
Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
trình bày tương đối đầy đủ về khái niệm GCCN và sứ mệnh lịch sử của nó. Về đặc
trưng của giai cấp vô sản: Giai cấp vô sản là những người công nhân làm thuê hiện
đại vì bị mất các TLSX của bản thân nên buộc phải bán sức lao động của mình để
sống. Từ đó các ông khẳng định “Trong tất cả các giai cấp hiện đại đang đối lập
với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Các
giai cấp đều suy tàn tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai
cấp vô sản trái lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [36, 610].
Khẳng định vai trò lịch sử của GCCN C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Giai cấp tư sản
không những đã rèn vũ khí giết mình mà còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy
những người công nhân hiện đại, những người vô sản” [36, 605]. C.Mác và
Ph.Ăngghen không phủ nhận vai trò to lớn của giai cấp tư sản trong lịch sử. “Trong
quá trình thống trị chưa đầy một thế kỉ đã tạo ra những lưc lượng xã hội nhiều hơn
tất cả các thế kỉ trước đây gộp lại” [36, 603]. Tuy vậy, trong xã hội tư bản hiện đại
với sự phát triển mạnh mẽ của LLSX và giờ đây giai cấp tư sản “ giống như một tay
phù thuỷ không còn đủ sức trị những âm binh mà y triệu lên” [36, 604], do đó
CNTB đã trở lên chật hẹp không còn đủ để chứa đựng những của cải đã tạo ra trong
lòng nó nữa “ giai cấp tư sản đã sản sinh ra những người đào huyệt chôn chính nó.
Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như
nhau”[36, 613]
Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để bàn
về GCCN như: giai cấp vô sản, giai cấp hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao
động của mình, lao động làm thuê thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp công
nhân đại công nghiệp…như những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị một khái niệm:
GCCN - con đẻ của nền đại công nghiệp TBCN, giai cấp đại diện cho lực lượng sản
19
xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại. Các ông còn dùng những thuật ngữ
có nội dung hẹp hơn để chỉ các loại công nhân trong các ngành khác nhau, trong
những giai đoạn phát triển khác nhau của công nghiệp: công nhân khoáng sản, công
nhân công trường thủ công, công nhân công xưởng, công nhân nông nghiệp,…
C.Mác và Ph.Ăngghen chưa nêu thành một định nghĩa hoàn chỉnh về GCCN nhưng
qua những tác phẩm của mình với những cách tiếp cận khác nhau, các ông đã nêu lên
một cách khái quát nhất những đặc trưng cơ bản, những thuộc tính bản chất của
GCCN. Dù GCCN có bao gồm những công nhân làm những công việc khác nhau
như thế nào, thì theo các ông vẫn chỉ có hai tiêu chí cơ bản để xác định và phân biệt
GCCN với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác.
Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất,
Đó là những người lao động trong nền sản xuất công nghiệp. Họ là những
người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất
công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá ngày càng cao. Đã là công nhân hiện
đại thì phải gắn với nền đại công nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm của nền đại công
nghiệp. GCCN hiện đại là hạt nhân, bộ phận cơ bản của mọi tầng lớp công nhân.
Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của GCCN
Chúng ta phải xem xét trong hai trường hợp sau:
- Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, GCCN là những người vô sản hiện đại,
không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản
và bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư mà GCCN tạo ra bị nhà
tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu chí này mà người công nhân dưới CNTB
được gọi là giai cấp vô sản.
- Sau cách mạng vô sản thành công, GCCN trở thành giai cấp cầm quyền. Nó
không còn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở thành giai cấp thống trị, lãnh
đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội XHCN. GCCN
cùng với toàn thể nhân dân lao động làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu đã công hữu
hoá. Như vậy, họ không còn là những người vô sản như trước và sản phẩm thặng dư
do họ tạo ra làm nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội XHCN.
20
Trong xã hội TBCN, GCCN là một trong những giai cấp cơ bản, chủ yếu đối
lập với giai cấp tư sản là giai cấp bị giai cấp tư sản tước đoạt hết tư liệu sản xuất,
buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, và bị bóc lột giá trị thặng dư.
Họ là người được tự do về thân thể và có quyền bán sức lao động tuỳ theo cung -
cầu hàng hoá sức lao động. Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hoá về
vật chất và tinh thần. Sự tồn tại của họ phụ thuộc vào cung - cầu hàng hoá sức lao
động, phụ thuộc vào kết quả sức lao động của chính họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng
dư, nhưng giá trị thặng dư lại giai cấp tư sản chiếm đoạt.
Theo V.I. Lênin, GCCN là giai cấp thống trị về chính trị, là giai cấp lãnh đạo
toàn xã hội trong cuộc đấu tranh lật đổ CNTB, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội
mới, trong cuộc đấu tranh giải phóng tất cả các giai cấp. Xu hướng phát triển của
GCCN là đi tới tự thủ tiêu mình với tư cách là giai cấp vô sản. V.I. Lênin coi công
nhân là những người lao động chuyên nghiệp, làm việc trong các nhà máy xí
nghiệp, làm việc trong nền đại công nghiệp. Bằng những hoạt động sáng tạo không
biết mệt mỏi trên lĩnh vực lý luận, thực tiễn trong hoàn cảnh lịch sử mới V.I.Lênin
đã cụ thể hóa và phát triển lý luận về GCCN.
* Về GCCN Việt Nam
Ở nước ta, giáo trình “Chủ nghĩa xã hội khoa học” do Hội đồng Trung ương
chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác-Lênin viết: GCCN
là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát
triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của LLSX có tính chất xã
hội hóa ngày càng cao; là LLSX cơ bản tiên tiến, trực tiếp tham gia vào quá trình
sản xuất, tái tạo ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ
yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên CNXH. Ở các nước TBCN, GCCN là
những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất và bị giai cấp tư
sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước XHCN, họ là những người cùng với nhân
dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động
vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ.
21
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra một số định nghĩa về GCCN.
Chẳng hạn PGS.TS Dương Xuân Ngọc trong cuốn “Giai cấp công nhân trong sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước” đã đưa ra định nghĩa về GCCN:
“GCCN là một tập đoàn người ổn định, hình thành và phát triển gắn với nền sản
xuất công nghiệp ngày càng hiện đại với trình độ phát triển của LLSX ngày càng xã
hội hóa, quốc tế hóa cao và rộng lớn; là LLSX cơ bản và tiên tiến của thời đại hiện
nay, là động lực chủ yếu và là lượng lãnh đạo quá trình chuyển biến cách mạng từ
CNTB lên CNXH ở mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Trong các
nước tư bản chủ nghĩa do không có hoặc cơ bản không có tư liệu sản xuất chủ yếu
của xã hội, họ phải bán sức lao động, làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư
sản bóc lột giá trị thặng dư, trong các nước XHCN họ cùng với nhân dân lao động
làm chủ các tư liệu sản xuất là chủ yếu và cùng nhau lao động hợp tác sáng tạo vì
lợi ích chung của xã hội và vì lợi ích của chính mình” [39, 35].
G.S Nguyễn Văn Tạo trong tác phẩm: “Một số vấn đề về giai cấp công nhân
và công đoàn Việt Nam” cho rằng: “GCCN Việt Nam hiện nay là một tập đoàn
những người lao động có thu nhập chủ yếu bằng lao động làm công ăn lương sống
và làm việc gắn với sản xuất kinh doanh, dịch vụ công nghiệp. Do lao động và quản
lý một nền công nghiệp hiện đại, then chốt của nền kinh tế quốc dân và đại diện cho
LLSX tiên tiến trong xã hội nên GCCN Việt Nam có vai trò đi tiên phong trong tiến
trình phát triển lịch sử của xã hội Việt Nam”[42, 39].
Cuốn “Đổi mới chính sách đối với công nhân và thợ thủ công” của trung tâm
nghiên cứu thông tin lý luận - Tổng liên đoàn lao động Việt Nam đưa ra định nghĩa:
“GCCN Việt Nam là một tập đoàn xã hội những người lao động ở Việt Nam, có thu
nhập chủ yếu bằng lao động làm công ăn lương, sống và làm việc gắn với sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ công nghiệp. Do nắm giữ những cơ sở vật chất kỹ thuật then
chốt và đại diện cho LLSX tiên tiến của xã hội nên GCCN tất yếu có vai trò đi tiên
phong trong tiến trình phát triển của lịch sử hiện đại”[ 49, 113].
Tác giả Đan Tâm trong bài: “Vai trò của GCCN Việt Nam hiện đại - một
cách tiếp cận” lại khẳng định: “GCCN Việt Nam là cộng đồng xã hội những người
22
làm công ăn lương, nguồn thu nhập chủ yếu bằng tiền công; trực tiếp tham gia vào
quá trình sản xuất công nghiệp, tạo ra sản phẩm công nghiệp hoặc có tính công
nghiệp; nắm giữ những cơ sở vật chất kỹ thuật then chốt của xã hội và tiêu biểu cho
phương thức sản xuất tiên tiến của xã hội” [43, 29].
Gần đây, Nghị quyết trung ương 6, khoá X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đưa ra khái niệm về GCCN Việt Nam như sau: “GCCN Việt Nam là một lực lượng
xã hội to lớn, đang phát triển bao gồm những người lao động chân tay và lao động
trí óc, làm công ăn lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công
nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp” [19, 23].
Các định nghĩa đã nêu đều thống nhất khi tập trung đề cập đến khía cạnh bản
chất của GCCN, là người lao động công nghiệp gắn với khoa học kỹ thuật công
nghệ cao, địa vị kinh tế - xã hội, vai trò và sứ mệnh lịch sử của GCCN. Từ những
định nghĩa trên ta có thể thấy được những đặc trưng bản chất nhất của GCCN:
- GCCN vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của nền sản xuất hiện đại, họ đại
diện cho PTSX tiên tiến, có lợi ích cơ bản đối lập với lợi ích cơ bản của giai cấp tư
sản, có hệ tư tưởng độc lập và tiên tiến
- GCCN có mặt trong tất các nền kinh tế, địa vị kinh tế - xã hội của họ tùy
thuộc vào chế độ xã hội đương thời (CNTB và CNXH). Địa vị kinh tế – xã hội đó
quy định các mối quan hệ và vai trò của GCCN trong xã hội.
- GCCN có sứ mệnh lịch sử là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng
xã hội mới – XHCN và cộng sản chủ nghĩa, giải phóng mình đồng thời giải phóng
toàn nhân loại khỏi sự phân chia giai cấp, khỏi sự đấu tranh giai cấp, đưa con người
đến với chân trời tự do hạnh phúc.
Từ những đặc trưng bản chất của GCCN, có thể nêu một số nhận định về
GCCN Việt Nam như sau:
Thứ nhất, sinh ra và lớn lên từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, có
truyền thống yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc, dù còn non trẻ, nhỏ bé, song giai cấp
công nhân Việt Nam đã sớm trở thành giai cấp duy nhất được lịch sử, dân tộc thừa
23
nhận và giao phó sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ sau các phong trào cứu
nước theo lập trường Cần Vương, lập trường tư sản và tiểu tư sản thất bại.
Thứ hai, ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa mới lớn lên, đã tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của GCCN quốc tế, nhanh chóng trở thành lực
lượng chính trị tự giác và thống nhất, được Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, đã sớm
giác ngộ mục tiêu lý tưởng, chân lý của thời đại: độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, GCCN Việt Nam luôn có tinh thần và bản chất cách mạng triệt để.
Thứ ba, do xuất thân từ nông dân lao động, bị thực dân phong kiến bóc lột,
bần cùng hóa nên GCCN nước ta có mối quan hệ máu thịt với giai cấp nông dân và
các tầng lớp lao động khác. Qua thử thách của cách mạng, liên minh GCCN nông
dân và tầng lớp trí thức đã trở thành động lực và là cơ sở vững chắc cho khối đại
đoàn kết dân tộc.
Thứ tư, từ khi trở thành giai cấp cầm quyền, GCCN Việt Nam luôn phát huy
bản chất cách mạng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, luôn là lực lượng đi đầu và
lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH xây dựng và phát triển nền kinh
tế công nghiệp và nền kinh tế tri thức hiện đại.
Thứ năm, quá trình “trí thức hoá” GCCN Việt Nam diễn ra mạnh mẽ, từng
bước hình thành GCCN trí thức Việt Nam. Việc hình thành GCCN trí thức không có
nghĩa đơn thuần chỉ là sự bổ sung vào lực lượng GCCN những công nhân có trình độ
cao mà là GCCN được nâng cao về trình độ và có sự thay đổi về tính chất lao động -
lao động điều khiển những công nghệ tự động hoá của nền kinh tế tri thức.
Trên cơ sở khái niệm GCCN nói chung, căn cứ những đặc trưng của GCCN
Việt Nam gắn với thực tiễn cách mạng Việt Nam, đồng thời kế thừa các công trình
nghiên cứu trước đây về GCCN Việt Nam, theo tác giả luận văn, có thể quan niệm
GCCN Việt Nam: Là một tập đoàn gồm những người lao động trên lĩnh vực công
nghiệp với trình độ kỹ thuật - công nghệ ngày càng hiện đại và xã hội hóa ngày
càng cao; thu nhập chủ yếu là tiền công; là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH –
HĐH đất nước nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng,
văn minh”; GCCN Việt Nam thông qua chính Đảng của mình là Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã và đang lãnh đạo toàn bộ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc XHCN, giữ
24
vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới
vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
1.1.1.2. Về vai trò và phát huy vai trò của GCCN
Vai trò là một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền lợi và nghĩa vụ được
gắn liền với một vị thế xã hội nhất định. Vai trò không có tính chất tưởng tượng, bắt
chước cứng nhắc và nhất thời. Vai trò của một người có nghĩa là người đó phải đảm
nhận hay thể hiện đầy đủ các hành vi, nghĩa vụ, hệ thống chuẩn mực trên cơ sở vị
thế của người đó. Đồng thời, họ cũng nhận được những quyền lợi xã hội tương ứng
với việc thực hiện vai trò của họ. Mỗi cá nhân có nhiều vị thế, và do đó có nhiều vai
trò khác nhau ở gia đình và ngoài xã hội.
Vị thế và vai trò của cá nhân trong xã hội bắt nguồn từ vị trí kinh tế, chính trị,
xã hội của họ, từ địa vị của các cá nhân thuộc các giai cấp và các nhóm xã hội khác
mà quy định nên. Tuỳ theo vai trò của mình mà cá nhân sẽ có cách ứng xử, hành vi,
tác phong, hành động tương ứng với vai trò mà cá nhân đảm trách. Vị thế và vai trò
luôn gắn bó mật thiết với nhau. Không thể nói tới vị thế mà không nói tới vai trò và
ngược lại. Vai trò và vị thế là hai mặt của một vấn đề. Vị thế của cá nhân được xác
định bằng việc trả lời cho câu hỏi: người đó là ai? Và vai trò của các nhân được xác
định bằng cách trả lời câu hỏi: người đó phải làm gì? Vai trò phụ thuộc vào vị thế
(vị thế nào vai trò ấy). Một vị thế có thể có nhiều vai trò. Trong mối quan hệ giữa vị
thế và vai trò thì vị thế thường ổn định hơn, ít biến đổi hơn, còn vai trò thì biến
động hơn. Thông thường thì sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào sự biến đổi của vị
thế. Vị thế biến đổi thì vai trò cũng biến đổi.
Từ quan niệm về vai trò như vậy, có thể khái quát vai trò của GCCN như
sau:
Thứ nhất, GCCN Việt Nam, thông qua Đảng Cộng sản Việt Nam, là lực
lượng lãnh đạo sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, xét về tương quan lực lượng xã hội,
GCCN vẫn là giai cấp lãnh đạo cách mạng, mà không có một giai tầng nào có thể
thay thế được. Trí thức Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình đẩy
25
mạnh CNH, HĐH nhưng trí thức không thể là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Đội ngũ trí thức Việt Nam là trí thức của GCCN Việt Nam, đứng trên lập
trường của GCCN, theo đường lối chính trị của GCCN Việt Nam, đã và đang có
những đóng góp hết sức to lớn vào sự phát triển của đất nước. Vai trò ấy cần phải
được khẳng định một cách rõ ràng rằng: Không có trí thức không thể xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, cũng như hiện nay, không thể
hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nếu không có trí thức. Nhưng lãnh đạo
quá trình ấy vẫn phải là GCCN thông qua chính đảng của nó là Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Đương nhiên, trong điều kiện phát triển nhanh chóng của kinh tế tri thức, khi
khoa học đang trở thành LLSX trực tiếp thì bản thân GCCN và Đảng của nó phải
không ngừng tự vươn lên trình độ cao của trí tuệ để đảm đương một cách xứng đáng
vai trò của mình, nhất là trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Mặt khác, GCCN
thông qua Đảng lãnh đạo phải đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức, có chính
sách thu hút trí thức tạo điều kiện cho tri thức phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục
vụ lợi ích xã hội và của dân tộc, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH.
Thứ hai, GCCN là lực lượng lao động cơ bản và đi đầu trong sự nghiệp đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước
GCCN là “con đẻ của nền đại công nghiệp”, là một trong những yếu tố cơ bản
nhất của LLSX. Vì vậy, sự phát triển và hoàn thiện về mọi mặt của GCCN sẽ tác
động trở lại tạo điều kiện thúc đẩy nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Trong
những năm đổi mới đã chứng tỏ GCCN Việt Nam là lực lượng chủ yếu đi đầu trong
sự nghiệp CNH, HĐH.
CNH, HĐH đất nước muốn thành công đòi hỏi phải hội tụ nhiều yếu tố
khách quan, chủ quan như: đường lối, chính sách phát triển kinh tế đúng đắn phù
hợp điều kiện trong nước và quốc tế; có vốn, khoa học - kỹ thuật công nghệ hiện
đại, tài nguyên thiên nhiên, thông tin Trong những điều kiện, yếu tố ấy thì
người công nhân có vai trò quan trọng nhất. Không ai có thể thay thế được người
công nhân trong quá trình sản xuất. Thực tế lịch sử đã chứng minh GCCN là lực
lượng tiên phong trong sản xuất vật chất. Đội ngũ của họ ngày càng được bổ
sung những người lao động có trình độ học vấn và tay nghề ngày càng cao, thích
ứng với cơ chế thị trường, tiếp cận nhanh với khoa học tiên tiến, công nghệ hiện