Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

nâng cao chất lượng tín dụng đối với công ty cp xnk vật tư nông nghiệp và nông sản tại chi nhánh nhno&ptnt bách khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.62 KB, 86 trang )

Luận văn tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
* Tính cấp thiết của đề tài
Trong số các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại hiện nay, tín dụng là
hoạt động sinh lợi chủ yếu nhất, thường chiếm tới 70-80% tổng thu nhập của
ngân hàng. Đặc biệt với điều kiện của nước ta hiện nay, khi mà thị trường tài
chính mới bắt đầu hình thành và phát triển, các hoạt động đầu tư sinh lợi khác
ngoài tín dụng chưa nhiều nên tín dụng càng có vai trò quan trọng đối với
ngân hàng. Thế nhưng, tín dụng cũng là lĩnh vực đem lại cho ngân hàng nhiều
rủi ro nhất. Do đó nghiên cứu về các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng,
giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn cho khoản vay là một trong những nội
dung quan trọng mà các nhà làm ngân hàng luôn phải lưu tâm.
Trong bối cảnh nước ta hiện nay, với tốc độ phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế cùng với xu thế hội nhập toàn cầu thì nâng cao chất lượng tín dụng đã
thực sự trở thành nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân
hàng.
* Mục đích nghiên cứu
Nhận thấy đây là vấn đề thực sự rất quan trọng và có tính thực tiễn rất
cao, trong quá trình thực tập tìm hiểu thực tế tại chi nhánh NHNo&PTNT
Bách Khoa, em đã dành nhiều thời gian nghiên cứu và quyết định chọn đề tài
“Nâng cao chất lượng tín dụng đối với công ty CP XNK vật tư nông nghiệp
và nông sản tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa” để đưa ra một số giải
pháp về vấn đề này.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của chuyên đề gồm ba phần chính:
Chương 1: Tín dụng và chất lượng tín dụng ở ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng tín dụng với công ty CP XNK vật tư nông
nghiệp và nông sản tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
1
Luận văn tốt nghiệp


Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi
nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa đối với công ty CP XNK vật tư nông
nghiệp và nông sản
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về thực trạng quan hệ tín dụng giữa công ty cổ phần xuất
nhập khẩu vật tư nông nghiệp và nông sản
Số liệu được tổng hợp từ báo cáo tài chính của chi nhánh và công ty
trong ba năm, từ 2004 đến 2006
*Phương pháp nghiên cứu
Bằng phương pháp phân tích thống kê kết hợp với phương pháp biện
pháp duy vật biện chứng để phân tích và phát triển vấn đề.
Với thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế, chắc rằng báo cáo
chuyên đề của em không tránh khỏi những sai sót và nhầm lẫn, rất mong được
sự góp ý của thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng- Tài chính cũng như các anh
chị đang làm việc tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa để giúp em có sự
hiểu biết hoàn thiện hơn và sâu sắc hơn về vấn đề này.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Văn Nam, phó hiệu trưởng nhà
trường cùng tập thể cán bộ phòng tín dụng tầng 4, toà nhà Vietnamtea - chi
nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa đã tận tình hướng dẫn, cung cấp tài liệu và
đóng gớp ý kiến để em hoàn thành đề tài này!
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
2
Luận văn tốt nghiệp
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNo&PTNT : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
CP : Cổ phần
XNK : Xuất Nhập khẩu
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
3

Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG Ở
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Ngân hàng và tín dụng ngân hàng
1.1.1 Khái niệm ngân hàng
Ngân hàng ra đời khởi đầu từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ
vật quý cho những người chủ sở hữu nó, tránh gây mất mát. Đổi lại, người
chủ sở hữu sẽ phải trả cho người giữ một khoản tiền công. Khi công việc này
mang lại nhiều lợi ích cho những người gửi, các đồ vật cần gửi ngày càng
phong phú đa dạng hơn, và đại diện cho các vật có giá trị như vậy là tiền, dần
dần, ngân hàng trở thành nơi giữ tiền cho những người có tiền. Khi thương
mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn, tức là phát sinh nhu cầu vay
tiền ngày càng lớn trong xã hội. Khi có trong tay một lượng tiền, những người
giữ tiền nảy ra nhu cầu cho vay số tiền đó, vì lượng tiền trong tay họ không
phải bao giờ cũng bị đòi trong cùng một thời gian, nghĩa là có sự chênh lệch
lượng tiền cần gửi và lượng tiền cần rút của những người gửi tiền
Có thể nói ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối
với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng.
Tuy nhiên để có thể hiểu được thực chất khái niệm về ngân hàng hoàn toàn
không đơn giản. Rất nhiều tổ chức khác có chức năng giống ngân hàng thậm
chí sâu rộng hơn, và vì vậy rất dễ gây nhầm lẫn.
Theo những gì mà Peter S.rose viết trong cuốn Quản trị Ngân hàng
thương mại thì Ngân hàng được hiểu “ là loại hình tổ chức tài chính cung cấp
một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết
kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so
với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế ” Sự đa dạng trong
các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng được gọi là các
“Bách hoá tài chính”
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
4

Luận văn tốt nghiệp
Trong khi đó theo luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thì “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực
hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên
quan”. Trong đó “hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số
tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
Nói tóm lại có thể hiểu một cách sơ lược về ngân hàng đó là một doanh
nghiệp mà đối tượng kinh doanh của nó là tiền tệ, đóng vai trò là một trung
gian tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng bao gồm
tiết kiệm, tín dụng, dịch vụ thanh toán và các loại hình dịch vụ khác.
Ngày nay, có rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm các công ty tài chính,
công ty chứng khoán, quỹ tương hỗ, và các công ty bảo hiểm đang cố gắng
cung cấp các dịch vụ của ngân hàng, chính vì vậy, bên cạnh phát triển về quy
mô các ngân hàng đã nỗ lực mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về
lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm,
đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện thêm nhiều dịch vụ mới khác để đáp
ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng.
1.1.2 Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
Hoạt động ngân hàng ngày nay đang không ngừng phát triển. Sự phát
triển đó có thể được nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự ra đời của
các sản phẩm dịch vụ mới cho tới sự xuất hiện của các tập đoàn ngân hàng có
quy mô lớn toàn cầu được tạo ra từ làn sóng sát nhập hợp nhất. người ta phân
chia các nghiệp vụ của NHTM theo nhiều tiêu thức khác nhau nhưng một
trong những phương pháp phân chia khá phổ biến và có hiệu quả nhất là căn
cứ trên cơ sở Bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Bao gồm các nghiệp vụ:
- Nghiệp vụ huy động vốn (Nghiệp vụ Nợ)
- Ngiệp vụ sử dụng nguồn vốn (Nghiệp vụ Có)
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
5

Luận văn tốt nghiệp
- Nghiệp vụ trung gian
- Nghiệp vụ ngoài Bảng cân đối kế toán (nghiệp vụ ngoại bảng).
1.1.2.1 Nghiệp vụ huy động vốn (nghiệp vụ Nợ)
Để có thể hoạt động một cách trôi chảy, ổn định và hiệu quả thì bất kỳ
một ngân hàng thương mại nào cũng phải tạo lập cho mình một nguồn vốn
nhất định. Có nguồn vốn dồi dào, giá thấp là điều kiện quan trọng để ngân
hàng thu được lợi nhuận cao trong tương lai. Bên cạnh nguồn vốn ban đầu
của ngân hàng là vốn chủ sở hữu thì phần lớn vốn mà ngân hàng có được là
thông qua việc huy động và đi vay. Đây mới là nguồn vốn chính của ngân
hàng, vì vậy ngân hàng có hai nghiệp vụ về nguồn là huy động vốn và đi vay.
1.1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng nguồn vốn (nghiệp vụ Có)
Sau quá trình huy động, nguồn vốn sẽ được ngân hàng sử dụng vào rất
nhiều mục đích khác nhau. Một trong số các nguyên tắc trong hoạt động của
ngân hàng là thực hiện dự trữ một phần dưới dạng tiền thanh khoản như tiền
mặt, vàng, bạc, kim khí quý phần còn lại sẽ được sử dụng để vào các nghiệp
vụ cho vay, đầu tư nhằm tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Lợi nhuận của ngân
hàng xuất phát từ chênh lệch lãi suất cho vay và huy động, từ hoạt động đầu
tư và các hoạt động dịch vụ, mục tiêu là phải đảm bảo lợi nhuận đủ để bù đắp
các chi phí hoạt động và có lãi. Nghiệp vụ sử dụng vốn của ngân hàng khá đa
dạng, phong phú. Căn cứ vào tính chất nghiệp vụ có 3 nghiệp vụ chính là:
- Nghiệp vụ chiết khấu: là quá trình ngân hàng mua lại các loại giấy tờ
có giá như tín phiếu kho bạc, thương phiếu, các giấy nợ như trái khoán, hối
phiếu chấp nhận thanh toán với mức giá thấp hơn mệnh giá, qua đó hưởng
một mức lợi tức chiết khấu tương ứng với chi phí vốn và những rủi ro mà
ngân hàng phải chịu khi sở hữu các loại giấy tờ có giá này. Sau khi thực hiện
nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng có thể giữ lại đến khi đáo hạn để hưởng toàn
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
6
Luận văn tốt nghiệp

bộ lợi nhuận hoặc thực hiện tái chiết khấu hoặc bán lại trên thị trường tiền tệ
và thị trường vốn nếu có nhu cầu về vốn.
- Nghiệp vụ đầu tư tài chính: là nghiệp vụ ngân hàng tiến hành mua bán
các loại chứng khoán kể cả niêm yết và chưa niêm yết với mục đích để thu lợi
tức bao gồm cổ tức của chứng khoán do các công ty cổ phần đưa ra và lợi
nhuận thu được từ việc bán lại chứng khoán với mức giá cao hơn so với mức
giá mua vào.
- Nghiệp vụ cho vay: đây là nghiệp vụ rất quan trọng, là hoạt động chủ
yếu mang lại thu nhập cho ngân hàng (khoảng 70-80% trên tổng thu nhập).
Tuy nhiên đây cũng là một nghiệp vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất như rủi ro tín
dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản Hiện nay, các ngân
hàng đang có chiều hướng dịch chuyển sang các hoạt động dịch vụ, tăng thu
nhập từ hoạt động này, qua đó giảm bớt được tỷ lệ thu nhập từ hoạt động cho
vay, giảm được rủi ro cho hoạt động của ngân hàng.
1.1.2.3. Nghiệp vụ trung gian
Đó là các hoạt động dịch vụ của ngân hàng. Hiện nay, đây là hướng
phát triển mới của các ngân hàng, thông qua việc thực hiện các dịch vụ cho
khách hàng ngân hàng thu được phí dịch vụ. Trong tình hình môi trường cạnh
tranh ngày càng gay gắt và nhu cầu khách hàng ngày càng đa dạng, thì việc
nâng cao chất lượng và số lượng dịch vụ là vấn đề quan trọng cần lưu tâm.
Một số dịch vụ hiện nay được các ngân hàng đưa ra:
- Dịch vụ thanh toán hộ (thu hộ - chi hộ)
- Dịch vụ chuyển tiền cho khách hàng
- Dịch vụ trả lương qua tài khoản ngân hàng
- Dịch vụ thẻ
- Dịch vụ bảo quản các tài sản và chứng từ có giá cho khách hàng
- Dịch vụ môi giới bất động sản, môi giới đầu tư chứng khoán
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
7
Luận văn tốt nghiệp

- Dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp
- Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm
Bên cạnh đó, còn rất nhiều dịch vụ khác đang được các ngân hàng khẩn
trương xây dựng và đưa vào triển khai trong thời gian tới, hứa hẹn sẽ là những
bước đột phá không chỉ trong hệ thống phạm vi của ngành mà là sự đột phá
mang tầm quốc tế.
1.1.2.4. Các nghiệp vụ ngoại bảng
Trước đây, hoạt động ngân hàng còn chậm chạp và thiếu chủ động, do
đó chỉ thực hiện chủ yếu các nghiệp vụ nội bảng như cho vay, đầu tư Tuy
nhiên trong bối cảnh hiện nay, khi mà môi trường cạnh tranh ngày càng gay
gắt với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các công ty tài chính, công ty bảo
hiểm. Để đảm bảo tính hiệu quả và nâng cao khả năng cạnh tranh, ngân hàng
đã mở rộng thêm hoạt động ngoại bảng:
- Hoạt động uỷ thác đầu tư: khách hàng có nguồn vốn nhàn rỗi, nhưng
không có thời gian, điều kiện để đầu tư hiệu quả có thể uỷ thác để ngân hàng
quản lý hộ và ngân hàng sẽ có trách nhiệm thực hiện đầu tư khoản tiền nhàn
rỗi đó để tỷ suất sinh lời là cao nhất.
- Hoạt động bán các khoản nợ: trong hoạt động ngân hàng, luôn tiềm ẩn
rủi ro phát sinh những khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi, đây là nguyên nhân
chính gây ra tình trạng hoạt động kém hiệu qủa của ngân hàng. Để giải quyết
tình trạng này, ngân hàng thực hiện bán quyền sở hữu về các khoản thu nhập
hoặc quyền sở hữu hoàn toàn đối với các khoản vay của mình cho các công ty
chuyên thực hiện đòi nợ, hoặc các công ty quản lý nợ và tài sản. Đây là giải
pháp phổ biến mà hiện nay các ngân hàng đang áp dụng trong việc giải quyết
các khoản nợ khó đòi, ngân hàng sẽ nhanh chóng thu hồi được một phần giá
trị của khoản vay, giảm được tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn, góp phần lành mạnh
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
8
Luận văn tốt nghiệp
hoá tình hình tài chính của ngân hàng, hạn chế rủi ro mà ngân hàng sẽ gặp

phải.
- Hoạt động chứng khoán hóa: cũng giống như việc cổ phần hoá một
doanh nghiệp, chứng khoán hoá tài sản là việc phát hành chứng khoán đối với
những nhóm tài sản nhất định, có giá trị rất lớn, chủ yếu là các khoản nợ. Qua
đó, ngân hàng có được các khoản thu phí từ các dịch vụ như dịch vụ quản lý,
kiểm tra, giám sát, thu nợ; đồng thời giúp ngân hàng đẩy nhanh được tốc độ
chu chuyển, vòng quay của vốn tín dụng, làm tăng hiệu quả hoạt động của
ngân hàng.
- Hoạt đông bảo lãnh: đây là hoạt động khá phổ biến hiện nay. Có rất
nhiều nhu cầu về bảo lãnh như bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu,
bảo lãnh thanh toán Khi thực hiện bảo lãnh ngân hàng sẽ cam kết dưới hình
thức hợp đồng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng của mình khi mà khách hàng không thực hiện
đúng nghĩa vụ như cam kết.
1.1.3 Hoạt động tín dụng của ngân hàng
1.1.3.1 Khái niệm
Theo nghĩa nguyên thuỷ của khái niệm tín dụng (credit) là tin mà đưa
tiền cho sử dụng, có nghĩa là sự tin tưởng và tín nhiệm lẫn nhau.
Còn theo quan điểm của K.Marx, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm
thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng. Sau một thời gian
nhất đinh, lượng giái trị này quay lại nhưng có giá trị lớn hơn lượng giá trị
ban đầu. Như vậy theo quan điểm này thì khái niệm tín dụng có ba nội dụng
chính, đó là tính chuyển nhượng tạm thời của một lượng giá trị, tính thời hạn
và tính hoàn trả.
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
9
Luận văn tốt nghiệp
Trong mối quan hệ tín dụng, người đi vay và người cho vay sẽ thỏa
thuận trước với nhau về những điều kiện vay như thời gian cho vay, thời gian
hoàn trả, lãi suất… Người cho vay tin tưởng rằng người đi vay sẽ sử dụng vốn

vay đúng mục đích, đúng theo những điều kiện đã thỏa thuận, làm ăn có lãi và
hoàn trả cả gốc và lãi theo đúng thời hạn cam kết.
Như vậy tín dụng ngân hàng được hiểu là một giao dịch về tài sản (tiền
hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và
bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay
chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo
thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho
bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Tín dụng hoàn toàn khác các nghiệp vụ tài trợ dạng cấp vốn của nhà
nước cho doanh nghiệp. Trong quan hệ tín dụng, quyền sử dụng tạm thời tách
rời quyền sở hữu. Có thể nói hoạt động tín dụng là hoạt động tiêu biểu của
hầu hết các ngân hàng, hoạt động này đòi hỏi ngân hàng phải tìm mọi cách để
kiểm soát được khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, ít nhất cũng là dự tính,
để phán đoán khả năng này.
1.1.3.2 Đặc trưng của tín dụng ngân hàng
Là một hình thức của tín dụng nên tín dụng ngân hàng mang những đặc
trưng chung của tín dụng như:
- Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay: đây là giai đoạn vốn tiền tệ
chuyển từ ngân hàng đến với người vay.
- Sử dụng vốn: người đi vay sau khi nhận được vốn vay sẽ sử dụng vào
những mục đích khác nhau như sản xuất hoặc tiêu dùng. Tuy nhiên, người đi
vay chỉ được quyền sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định chứ không
được toàn quyền sở hữu.
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
10
Luận văn tốt nghiệp
- Hoàn trả tín dụng: Đây là giai đoạn kết thúc một chu trình quay vòng
của vốn vay. Vốn tín dụng được quay trở lại hình thức cấp tín dụng ban đầu
nhưng lại có thêm một phần giá trị tăng thêm, tức là người đi vay phải hoàn
trả đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng.

Ngoài ra nó còn mang những đặc trưng riêng mà các hoạt động tín dụng
khác không có:
- Hoạt động tín dụng ngân hàng chủ yếu xuất phát từ hoạt động huy động
vốn, tức là sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi huy động từ tổ chức dân cư để thực
hiện nghiệp vụ cho vay.
- Hoạt động tín dụng ngân hàng chứa đựng rất nhiều rủi ro, không chỉ
đơn thuần là rủi ro tín dụng (rủi ro mà khách hàng không trả được nợ) mà còn
có rất nhiều rủi ro khác như rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản
1.1.3.3 Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng
Đối với ngân hàng: đây là hoạt động cơ bản, mang lại thu nhập chính
cho mỗi ngân hàng. Vì vậy, hoạt động tín dụng là hoạt động quyết định sự tồn
tại và phát triển của các ngân hàng, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị
trường hiện nay với tính cạnh tranh ngày càng gay gắt. Hoạt động tín dụng
thường chiếm tỷ trọng lớn so với tổng tài sản có của ngân hàng (từ 70-80%).
Thu nhập từ hoạt động này chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng thu nhập của
ngân hàng. Mặc dù hiện nay có xu hướng tăng lợi nhuận từ các hoạt động
ngoại bảng và hoạt động dịch vụ, song thu nhập từ hoạt động tín dụng vẫn ở
mức rất cao, ở các nước phát triển là 60%, còn ở những nước đang phát triển
thì lên tới 90%. Như vậy có thể thấy vai trò quan trọng đặc biệt của tín dụng
ngân hàng là đối với ngân hàng, là nguồn thu nhập chính, tạo nên sự hiệu quả
trong hoạt động của ngân hàng.
Đối với khách hàng: Trong nền kinh tế hiện nay, vốn là một yếu tố rất
quan trọng. Với bất kỳ một doanh nghiệp, tổ chức hay cá nhân nào đang thực
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
11
Luận văn tốt nghiệp
hiện quá trình hoạt động kinh doanh thì nhu cầu về vốn là luôn thường trực.
Khi có đủ vốn, họ sẽ dễ dàng hơn trong các hoạt động đầu tư hay xây dựng
của mình, ngược lại khi thiếu vốn, họ sẽ gặp khó khăn trong thanh khoản,
trong các quyết định của mình. Ngay cả khi có nguồn vốn nhàn rỗi thì doanh

nghiệp cũng mất đi chi phí cơ hội của vốn. Vì vậy, các doanh nghiệp thiếu
vốn phải tìm kiếm nguồn vốn khác đề bù đáp sự thiếu hụt và các doanh
nghiệp thừa vốn tạm thời, có nguồn vốn nhàn rỗi thì lại có nhu cầu cho vay.
Tuy nhiên do thông tin là không hoàn hảo, tìm kiếm được những cá nhân thừa
vốn hoặc thiếu vốn để vay hoặc cho vay là một vấn đề rất khó khăn. Chính vì
thế, tín dụng ngân hàng trở thành một công cụ rất quan trọng, là cầu nối giữa
những người có nhu cầu vay vốn với những người có nhu cầu cho vay. Việc
đáp ứng nhu cầu vốn sẽ trở nên hiệu quả hơn trong nền kinh tế. Hơn thế nữa,
hoạt động tín dụng ngân hàng có sự đáp ứng tối ưu vốn cả về quy mô và tính
kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tiền tệ được luân chuyển một
cách liên tục và hiệu quả.
Đối với nền kinh tế: với nền kinh tế, tín dụng ngân hàng có rất nhiều vai
trò khác nhau. Một mặt nó tạo ra thu nhập cho ngân hàng, nhưng mặt khác nó
cũng góp phần tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Hơn thế nó còn là
công cụ để nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông, thực hiện
chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng góp phần vào quá
trình cơ cấu lại nền kinh tế. Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế tồn tại những
ngành có xu hướng phát triển đối lập. Những ngành đã xuất hiện từ lâu, có
nhiều thuận lợi và thế mạnh, tuy nhiên có một số ngành khác lại hạn chế phát
triển. Tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia mà có những chiến lược phát triển khác
nhau, và việc phát triển ngành nghề nào, hạn chế ngành nghề nào cũng là đặc
trưng riêng của mỗi nước. Và từ đó xác lập nên cơ cấu kinh tế của từng nước.
Vấn đề này được giải quyết nhờ có vốn, đơn giản là vốn được đầu tư vào
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
12
Luận văn tốt nghiệp
ngành nghề nào thì ngành nghề đó có nhìều cơ hội để phát triển. Và tín dụng
của ngân hàng chính là phương thức để đáp ứng mục tiêu đó.
Hoạt động tín dụng ngân hàng cấp vốn cho nền kinh tế đã góp phần rất
lớn đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và thiết lập môi trường

cạnh tranh lành mạnh. Trong bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào,
doanh nghiệp cũng đều có nhu cầu vốn để đầu tư máy móc thiết bị, mua
nguyên vật liệu, đổi mới công nghệ, nghiên cứu, triển khai sản phẩm mới,
hoạt động marketing… Chính từ việc vay vốn từ ngân hàng, với áp lực trả nợ
đầy đủ, đúng hạn buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích,
làm ăn thực sự có hiệu quả hơn, tăng hiệu quả của vốn vay, từ đó thu được lợi
nhuận đủ để trả nợ cho ngân hàng và gia tăng giá trị vốn chủ sở hữu
Hoạt động tín dụng ngân hàng còn đóng vai trò là đòn bẩy kinh tế, góp
phần thúc đẩy quá trình mở rộng và giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế. Có thể
nói, xu hướng hội nhập ngày càng sâu rộng trong nền kinh tế hiện nay. Quan
hệ làm ăn giữa các đối tác trong và ngoài nước ngày càng phổ biến. Vì thế
hoạt động thanh toán quốc tế cũng ngày càng mở rộng, cho vay để thanh toán,
mở L/C, chiết khấu bộ chứng từ thực hiện tín dụng trong nước và quốc tế đã
không còn là điều xa lạ và đã góp phần đưa nền kinh tế trong nước gần hơn
với nền kinh tế thế giới.
1.1.3.4 Phân loại tín dụng
Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản cho vay theo các nhóm dựa
trên rất nhiều tiêu thức khác nhau
* Căn cứ vào thời gian cho vay
Theo căn cứ này tín dụng được chia ra làm 3 loại sau:
- Tín dụng ngắn hạn là loại cho vay chỉ có thời hạn đến 12 tháng và
được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và
các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
13
Luận văn tốt nghiệp
- Tín dụng trung hạn là loại cho vay có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố
định,cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh,
xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Bên

cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành
vốn lưu động thường xuyên cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp mới thành lập.
- Tín dụng dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối
đa có thể lên tới 20 – 30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên tới 40 năm.
Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài
hạn như xây dựng nhà ở; mua sắm các thiết bị, phương tiện vân tải có quy mô
lớn; xây dựng các xí nghiệp mới.
* Căn cứ vào mục đích sử dụng khoản vay
Dựa vào căn cứ này tín dụng thường được chia ra làm các loại sau:
- Tín dụng bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản như nhà ở, đất đai, các bất động sản trong lĩnh vực
công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Tín dụng công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Tín dụng nông nghiệp là loại cho vay để trang trải cho các chi phí sản
xuất trong ngành nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng,
thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu…
- Tín dụng cho các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các ngân
hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài
chính khác.
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
14
Luận văn tốt nghiệp
- Tín dụng cá nhân là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá
nhân như mua sắm các vật dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để trang trải
các chi phí sinh hoạt thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín
dụng (credit card)
- Tín dụng Cho thuê là hình thức tín dụng bằng tài sản thực. Tài sản thuê

bao gồm bất động sản và động sản, trong đó chủ yếu là dây chuyền công
nghệ, máy móc thiết bị.
* Căn cứ vào phương thức tài trợ
Theo căn cứ này tín dụng được chia làm các loại sau:
- Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá: là nghiệp vụ ngân
hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương
phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu
hoặc một giấy nợ chưa đến hạn.
- Cho vay: là nghiệp vụ ngân hàng đưa tiền cho khách hàng của mình
vay với cam kết khách hàng sẽ trả cả gốc và lãi cho ngân hàng đúng theo thời
gian đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.
- Bảo lãnh: là nghiệp vụ của ngân hàng với cam kết dưới hình thức
thư bảo lãnh là ngân hàng sẽ thay khách hàng thực hiện nghĩa vụ tài
chính khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
- Cho thuê: là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân hàng mua
tài sản, sau đó đem cho khách hàng thuê theo thời hạn đủ để ngân hàng
thu hồi được gốc và một phần lợi nhuận.
*Căn cứ vào phương thức cấp tín dụng
Theo căn cứ này tín dụng được chia làm các loại sau:
- Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay đối với những khách hàng có số dư
tiền gửi tại ngân hàng, cho phép khách hàng được quyền chi trội (vượt)
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
15
Luận văn tốt nghiệp
quá số dư trên tài khoản đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời
gian xác định.
- Cho vay từng lần: là hình thức cho vay đối với khách hàng không có
nhu cầu thường xuyên, không đủ điều kiện cấp hạn mức thấu chi. Mỗi một
lần vay lập một bộ hồ sơ vay vốn hoàn toàn độc lập với những lần vay
khác.

- Cho vay theo hạn mức là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả
thuận cấp cho khách hàng một mức hạn mức tín dụng. Đó là dư nợ tối đa
mà khách hàng có thể thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định.
- Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. Đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại,
hàng hoá quay vòng nhiều lần, có nhu cầu vay vốn vào những thời điểm nhất
định thường tham gia vào nghiệp vụ này.
- Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng cho phép
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời gian tín dụng đã thoả thuận
trong hợp đồng.
- Cho vay gián tiếp: là việc ngân hàng thực hiện cho vay thông qua
các tổ chức trung gian. Việc cho vay này hạn chế khách hàng sử dụng vốn
vay sai mục đích.
* Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại:
- Tín dụng không có bảo đảm( cho vay tín chấp) là loại cho vay không có
tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự đảm bảo của người thứ ba, mà việc cho vay
chỉ dựa vài uy tín của bản thân khách hàng. Với những khách hàng tốt, trung
thực trong kinh doanh, thu nhập ổn định, có khả năng tài chính mạnh, quản trị
có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân
khách hàng mà không cần có một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
16
Luận văn tốt nghiệp
- Tín dụng có bảo đảo là loại cho vay dựa trên các biện pháp bảo đảm
như thế chấp, cầm cố tài sản, giấy tờ có giá hoặc có sự bảo lãnh trả nợ của bên
thứ ba. Với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng thì khi vay
vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng
có thêm một nguồn thứ 2, bổ sung cho nguồn thu nợ thú nhất thiếu chắc chắn.
1.2 Chất lượng tín dụng ở Ngân hàng thương mại

1.2.1 Khái niệm chất lượng tín dụng
Nâng cao chất lượng tín dụng là điều kiện để bất cứ một tổ chức tín dụng
nào đứng vững và phát triển trong nền kinh tế. Chất lượng tín dụng đóng vai
trò lớn, quyết định trực tiếp đến khả năng sinh lời và an toàn của ngân hàng.
Tuy nhiên việc đánh giá chất lượng tín dụng của một ngân hàng rất phức
tạp. Không hẳn là chỉ đánh giá trên góc độ ngân hàng như trước đây, tức là
chỉ xem xét chất lượng tín dụng trên cơ sở đo lường những tổn thất phát sinh
trực tiếp từ rủi ro đối với mỗi món vay. Tín dụng như đã tìm hiểu ở trên thực
chất là mối quan hệ giữa hai chủ thể là ngân hàng và khách hàng. Do đó, hoạt
động tín dụng được đánh giá là có chất lượng khi nó thoả mãn được nhu cầu
của cả hai chủ thể trên, bên cạnh đó nó cũng phải đảm bảo phù hợp với sự
phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy chất lượng tín dụng có thể hiểu một cách khái quát nhất là sự
đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng, đồng thời phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội.
Chất lượng tín dụng được thể hiện ở các khía cạnh:
Về phía ngân hàng, chất lượng tín dụng được thể hiện ở chất lượng các
khoản vay, mức độ rủi ro của các khoản vay. Nâng cao chất lượng tín dụng
đối với ngân hàng là phải đảm bảo khách hàng trả nợ đầy đủ, đúng hạn thông
qua những biện pháp bảo đảm của mình, nhưng đồng thời vẫn phải đảm bảo
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
17
Luận văn tốt nghiệp
được tính cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Mặc dù ngân hàng luôn
cố gắng đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, tuy nhiên để đảm bảo chất
lượng tín dụng, thì việc đáp ứng đó phải phù hợp với năng lực của mỗi ngân
hàng. Vì với mỗi ngân hàng có một khẩu vị rủi ro khác nhau, mặc dù vậy
nhưng mục tiêu cao nhất và cuối cùng của các ngân hàng vẫn là sự an toàn và
khả năng sinh lợi.
Về phía khách hàng, khách hàng là người có nhu cầu về vốn, và nguồn

vốn đó chỉ được coi là hiệu quả khi nó được sử dụng kịp thời với các chi phí
hợp lý. Khi vay vốn ở ngân hàng, khách hàng sẽ được ngân hàng đáp ứng tối
đa nhu cầu hợp lý của mình. Và sự đáp ứng một cách kịp thời và đầy đủ vốn
cho khách hàng chính là phản ánh chất lượng của tín dụng, nguồn vốn đi vay
sẽ được sử dụng có hiệu quả và sinh lời. Bên cạnh đó, sự phù hợp của các yếu
tố như lãi suất, kỳ hạn hay các biện pháp bảo đảm cũng là cơ sở đánh giá chất
lượng tín dụng. Trên cơ sở đó mới giúp khách hàng tạo ra được lợi nhuận để
đảm bảo khả năng hoàn trả của mình.
Không chỉ xem xét trên góc độ từ phía ngân hàng và khách hàng, chất
lượng tín dụng cũng cần được nhìn nhận từ góc độ của nhà nước.
Về phía Nhà nước, mục tiêu cơ bản về lâu về dài của nhà nước cũng là
nâng cao hiệu quả quản lý của mình, chính vì vậy chất lượng tín dụng phải
thoả mãn được các mục tiêu phát triển chung của Nhà nước về mặt kinh tế -
xã hội. Nguồn vốn được cấp từ phía ngân hàng phải được sử dụng vào mục
đích hợp pháp và có hiệu quả. Góp phần đẩy mạnh quá trình sản xuất và lưu
thông hàng hoá, giảm tỷ lệ thất nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng hiệu quả
xã hội
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
18
Luận văn tốt nghiệp
1.2.2 Ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng tín dụng
1.2.2.1. Với bản thân ngân hàng
Mất an toàn trong cho vay, nếu xẩy ra sẽ có những tác hại rất lớn đến
sự tồn tại và phát triển của NHTM. Mục tiêu quan trọng và cuối cùng của mỗi
ngân hàng là lợi nhuận. Trong đó, hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu, là
nguồn đem lại lợi nhuận lớn nhất cho mỗi ngân hàng. Chính vì vai trò sống
còn của chất lượng tín dụng với ngân hàng nên để thu được lợi nhuận tối đa
thì ngân hàng có các chính sách tín dụng hợp lý để nâng cao chất lượng tín
dụng.
Với khách hàng chất lượng tín dụng là sự đáp ứng tối đa nhu cầu vốn

vay hợp lý một cách đầy đủ và kịp thời, nhưng vẫn phải phù hợp với khả năng
và thực lực của ngân hàng. Đảm bảo an toàn tín dụng phải đi đôi với sự mở
rộng của quy mô tín dụng thì mới tạo điều kiện cho ngân hàng phát triển bền
vững. Do đó với ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng mang ý nghĩa hết
sức quan trọng.
- Chất lượng tín dụng cao không chỉ góp phần mở rộng quy mô của tín
dụng, tăng trưởng thị phần của ngân hàng mà còn nâng các hoạt động của
ngân hàng lên một tầm cao mới, nhất là trong các nghiệp vụ thanh toán của
ngân hàng. Một doanh nghiệp khi có nhu cầu vay vốn, trước tiên phải tiến
hành lựa chọn ngân hàng để cung ứng vốn cho mình. Và căn cứ quan trọng để
có thể lựa chọn ngân hàng đó là uy tín và thương hiệu của ngân hàng, ngân
hàng càng có quan hệ tín dụng tốt với nhiều doanh nghiệp trên thị trường thì
càng có nhiều uy tín. Mà uy tín của ngân hàng được đánh giá trên cơ sở chất
lượng tín dụng của ngân hàng. Như vậy, có nghĩa là những ngân hàng có chất
lượng tín dụng tốt sẽ được các doanh nghiệp ưu tiên lựa chọn. Nhờ đó mà thị
phần của ngân hàng sẽ gia tăng nhanh chóng, từng bước khẳng định được uy
tín và thương hiệu của mình.
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
19
Luận văn tốt nghiệp
- Nâng cao chất lượng tín dụng còn góp phần hạn chế được những rủi
ro tín dụng, các khoản vay đều đảm bảo trả đầy đủ và đúng hạn, từ đó đảm
bảo sự tăng trưởng trong thu nhập của ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín
dụng có nghĩa là hạn chế tối đa những khoản nợ quá hạn và nợ khó đòi, tránh
tình trạng tổn thất hoặc mất vốn của ngân hàng. Chất lượng tín dụng cao cũng
là yếu tố quyết định đến mức lợi nhuận của ngân hàng thông qua việc tăng
cường thế mạnh cho các sản phẩm tín dụng (về lãi suất, kỳ hạn, phương thức
thanh toán) của ngân hàng và giảm thiểu các chi phí phát sinh không cần thiết
(chi phí tái thẩm định, chi phí xử lý tài sản bảo đảm )
- Nâng cao chất lượng tín dụng làm tăng uy tín và thương hiệu của

ngân hàng. Nó cho phép làm giảm nợ xấu đến mức thấp nhất, nhờ đó góp
phần làm lành mạnh hoá được tình hình tài chính, đảm bảo sự an toàn cho cả
ngân hàng. Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, hoạt động tín dụng của ngân
hàng được dựa trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau, chính vì vậy uy tín của ngân
hàng đối với khách hàng là rất quan trọng, là căn cứ để khách hàng lựa chọn
ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn của mình. Với chất lượng tín dụng tốt, ngân
hàng có thể tạo cho mình một chỗ đứng vững chắc trên thương trường
1.2.2.2. Với khách hàng
Bất cứ một doanh nghiệp nào, khi bắt đầu hoạt động sản xuất kinh
doanh đều muốn sử dụng vốn vay, vì khi sử dụng vốn vay sẽ tạo được đòn
bẩy tài chính. Do vậy, rất nhiều doanh nghiệp có cơ cấu vốn là sự kết hợp của
vốn tự có và nguồn vốn đi vay, cơ cấu vốn hợp lý sẽ góp phần giúp doanh
nghiệp có được chi phí vốn rẻ hơn. Với mức vốn chủ sở hữu khiêm tốn ban
đầu, rất khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh, vốn luôn là vấn đề được đặt ra trước tiên. Khi đó, các doanh
nghiệp sẽ tìm kiếm và lựa chọn ngân hàng để vay vốn, thực hiện việc kết hợp
nguồn vốn đi vay và nguồn vốn tự có để sử dụng vốn một cách tối ưu nhất.
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
20
Luận văn tốt nghiệp
Một trong những điều kiện giúp doanh nghiệp có thể sử dụng tối ưu
nguồn vốn mà mình có đó là khi chi phí vốn trung bình (WACC) đạt ở mức
thấp nhất. Việc sử dụng vốn tự có kết hợp với vốn vay sẽ cho phép doanh
nghiệp có được một khoản tiết kiệm nhờ thuế vì lãi trả cho vốn vay được hạch
toán trước khi tính thuế doanh nghiệp. Nếu như doanh nghiệp chỉ sử dụng vốn
tự có mà không đi vay thì họ đã không tiết kiệm được một khoản thuế. Ngược
lại nếu như doanh nghiệp chỉ sử dụng nguồn vốn đi vay thì đây cũng không
phải là một giải pháp hiệu quả vì khả năng tự chủ tài chính của mỗi doanh
nghiệp trên thị trường được đánh giá một phần thông qua khoản vốn tự có. Tỷ
lệ tự tài trợ của doanh nghiệp quá thấp, tức là mức vốn tự có rất nhỏ so với

tổng nguồn vốn thì sẽ làm giảm khả năng thanh khoản của doanh nghiệp, tác
động đến khả năng hoàn trả vốn vay. Vì thế, khi xem xét cho vay đối với các
doanh nghiệp, nếu như mức vốn tự có của doanh nghiệp quá thấp hoặc không
có ngân hàng có thể quyết định không cho vay vì như vậy rủi ro tín dụng là
quá lớn.
Có thể nói chất lượng tín dụng của ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào
khách hàng, vì chỉ khi khách hàng hoàn trả đủ và đúng hạn cả gốc và lãi thì
món vay đó mới được coi là đảm bảo an toàn, khi ấy mới có thể khẳng định là
ngân hàng có chất lượng tín dụng, không để xảy ra tình trạng nợ xấu hay nợ
khó đòi… Với các doanh nghiệp, tín dụng của ngân hàng sẽ đáp ứng một cách
nhanh chóng và kịp thời nhu cầu hợp lý về vốn vay của khách hàng. Như vậy
chất lượng tín dụng ngân hàng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp luôn
gắn liền với nhau. Chỉ khi doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, thì mới có đủ
khả năng hoàn trả đủ và đúng hạn vốn vay cho ngân hàng, khi đó chất lượng
tín dụng mới được đánh giá là tốt và ngược lại, chất lượng tín dụng có tốt thì
các doanh nghiệp mới có thể được vay vốn từ ngân hàng với lãi suất hợp lý,
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
21
Luận văn tốt nghiệp
quy trình thủ tục đơn giản từ đó cho phép doanh nghiệp mở rộng sản xuất
kinh doanh và tăng thêm hiệu quả hoạt động.
1.2.2.3. Với nền kinh tế
Nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ là điều kiện để đảm bảo sự tồn
tại và phát triển của mỗi ngân hàng mà nó còn là điều kiện thúc đẩy sự phát
triển của cả nền kinh tế. Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế luôn luôn tồn
tại hai nhóm chủ thể chính, một là nhóm có nhu cầu về vốn để mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư, trong khi đó nhóm còn lại có một
nguồn tiền nhàn rỗi chưa sử dụng vì thế nảy sinh nhu cầu cho vay, ngân hàng
với chức năng của mình sẽ đứng ra làm cầu nối giữa các chủ thể này, đóng vai
trò làm người trung gian, làm cho cung và cầu vốn sớm gặp nhau, góp phần

làm cho tất cả các nguồn vốn trong nền kinh tế có thể được sử dụng tối ưu và
có hiệu quả nhất.
Mặt khác, hoạt động tín dụng là còn đóng vai trò tạo tiền, thay đổi mức
cung tiền của nền kinh tế, vì thế đây cũng là công cụ quan trọng để Ngân hàng
Nhà nước sử dụng để thực hiện chính sách tiền tệ của mình. Nâng cao chất
lượng tín dụng sẽ giúp cho Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện tốt chính
sách tiền tệ quốc gia, góp phần ổn định giá trị đồng tiền, hạn chế lạm phát ở
mức hợp lý, giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế.
1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
Chất lượng tín dụng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu định tính và
các chỉ tiêu định lượng. Để có thể đánh giá một cách chính xác và có hiệu quả
chất lượng tín dụng ở trong mỗi ngân hàng, không thể tách rời mà cần phải có
sự kết hợp phân tích các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng; đồng
thời phải thường xuyên theo dõi sự biến động của các chỉ tiêu qua từng năm,
từng thời kỳ. Trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng tại một ngân hàng,
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
22
Luận văn tốt nghiệp
chúng ta có thể so sánh các chỉ tiêu này với chỉ tiêu bình quân tương ứng
trong cùng hệ thống của NHTM. Chúng ta cũng có thể so sánh các chỉ tiêu
của ngân hàng đang nghiên cứu với các chỉ tiêu bình quân tương ứng của
ngân hàng cùng loại, với chỉ tiêu bình quân tương ứng của toàn ngành, trên cơ
sở đó có những nhận định khách quan và chính xác hơn.
1.2.3.1. Các chỉ tiêu định tính
Việc so sánh dựa trên các chỉ tiêu định tính rất khó khăn, chỉ mang tính
tương đối. Vì vậy với mỗi ngân hàng sẽ có những chỉ tiêu định tính riêng, phù
hợp với ngân hàng của mình để có những đánh giá chính xác về chất lượng
tín dụng. Nói chung đánh giá chất lượng tín dụng về mặt định tính được xem
là tốt chủ yếu dựa trên khả năng đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn
hợp lý của khách hàng. Một số chỉ tiêu định tính hay được các NHTM sử

dụng bao gồm:
- Hệ thống thông tin hiện đại, đội ngũ cán bộ tín dụng nhanh nhạy, đánh
giá chính xác được nhu cầu tín dụng và mức độ rủi ro của khách hàng.
- Chính sách quản lý của khách hàng xin vay phải đúng đắn và phù hợp
với thực tế hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong từng giai đoạn. Ngoài
ra còn phải chú trọng đến cả cách tổ chức văn phòng của khách hàng, cách
thích ứng thị trường, mô hình độc tài hay dân chủ
- Quá trình cho vay phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cho vay theo
quy định trong luật các tổ chức tín dụng như: vốn vay phải được sử dụng
đúng mục đích và có hiệu quả; vốn vay phải được hoàn trả đủ gốc và lãi theo
đúng kỳ hạn đã cam kết; ngân hàng tài trợ dựa trên các phương án, dự án có
tính khả thi và hiệu quả cao.
- Một chỉ tiêu quan trọng nói lên chất lượng tín dụng của ngân hàng đó là
uy tín của ngân hàng được tạo dựng trong nền kinh tế và thông qua mối quan
hệ với các khách hàng. Nếu như ngân hàng được đánh giá là có uy tín tức là
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
23
Luận văn tốt nghiệp
chất lượng tín dụng tại ngân hàng đó cũng được đánh giá là tốt. Với uy tín và
thương hiệu của mình, ngân hàng có thể nâng cao được sức cạnh tranh, khả
năng thu hút khách hàng, chiếm lĩnh được thị trường. Và để có thể làm được
điều này thì các ngân hàng cần phải mở rộng hơn nữa thị phần của mình,
thông qua việc nâng cao chất lượng dịch vụ và các hoạt động marketing
quảng bá giới thiệu hình ảnh,quan hệ công chúng (PR).
1.2.3.2. Các chỉ tiêu định lượng
* Các chỉ tiêu tuyệt đối
- Chỉ tiêu doanh số cho vay: Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô hoạt
động tín dụng của NHTM. Nếu ngân hàng có doanh số cho vay càng lớn có
thể thấy mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là nhiều.Và lợi nhuận của
ngân hàng được tạo ra chủ yếu bởi hoạt động tín dụng. Do đó, chỉ tiêu này

càng lớn cho thấy ngân hàng có khả năng tạo ra lợi nhuận càng cao. Tuy
nhiên, đi kèm với khả năng sinh lợi cao ngân hàng cũng phải đối mặt với sự
gia tăng các rủi ro đối với các khoản vay của mình.
- Chỉ tiêu tổng doanh số thu nợ: Là chỉ tiêu phản ánh khả năng thu hồi
nợ gốc và lãi của ngân hàng. Nếu doanh số thu nợ thấp thì điều đó cũng có
nghĩa là khả năng thu hồi nợ gốc và lãi là thấp, tình trạng nợ quá hạn cao, làm
ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, tín dụng của
ngân hàng được đánh giá là có chất lượng khi doanh số cho vay lớn di kèm
với doanh số thu nợ cao.
- Chỉ tiêu dư nợ hiện tại: Chỉ tiêu này cho biết số vốn của ngân hàng
hiện đang được đầu tư trên thị trường, phản ánh thu nhập của ngân hàng trong
tương lai. Đây là một chỉ tiêu quan trọng được các ngân hàng theo dõi từng
ngày để có thể kiểm soát được lượng vốn của ngân hàng và biết được việc sử
dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích không. Dư nợ hiện tại sẽ quyết
định chất lượng tín dụng của ngân hàng trong tương lai.
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
24
Luận văn tốt nghiệp
- Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng: Mục tiêu quan trọng
mà ngân hàng luôn hướng tới là lợi nhuận. Thông qua chỉ tiêu này sẽ cho biết
doanh số lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng là bao
nhiêu. Nếu lợi nhuận thu được thấp cho thấy khả năng thu hút khách hàng của
ngân hàng còn kém nên. Nhưng ngược lại, nếu như lợi nhuận thu được cao thì
cũng không hẳn đồng nghĩa với việc chất lượng tín dụng của ngân hàng là tốt.
Vì vậy để đánh giá tốt chất lượng tín dụng thì ta không chỉ sử dụng chỉ tiêu
này mà cần kết hợp với các chỉ tiêu khác. Từ chỉ tiêu này có thể tính được tỷ
trọng của thu nhập từ hoạt động tín dụng trong tổng lợi nhuận mà ngân hàng
thu được, tỷ trọng này phản ánh được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng
so với các hoạt động sinh lời khác của ngân hàng.
- Chỉ tiêu dư nợ quá hạn, nợ khó đòi: Chỉ tiêu này cho biết khoản vay

mà khách hàng chưa trả được mặc dù thời hạn tín dụng đã hết. Chỉ tiêu này
càng lớn cho thấy khả năng thu hồi vốn và lãi của ngân hàng là rất thấp, rủi ro
mất vốn là rất cao. Nó còn làm giảm khả năng tài chính của ngân hàng từ đó
ảnh hưởng xấu đến uy tín cũng như hiệu quả hoạt động của toàn ngân hàng.
Chính vì vậy các NHTM luôn muốn duy trì chỉ tiêu này ở mức tối thiểu vì nó
là chỉ tiêu quan trọng cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng là tốt hay
xấu.
* Các chỉ tiêu tương đối
- Chỉ tiêu hệ số sử dụng vốn:
Hệ số sử dụng vốn = Doanh số cho vay
Nguồn huy động
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng sử dụng nguồn vốn huy động
để cho vay, nó cho biết ngân hàng đã cho vay được bao nhiêu so với tổng
Sinh viên: Phạm Quang Tuấn Lớp: Ngân hàng 45C
25

×