Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại ngân hàng quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.73 KB, 88 trang )

Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
LỜI MỞ ĐẦU
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng
đối với nền kinh tế. Hoạt động của ngân hàng đang không ngừng phát triển.
Sự phát triển của nó có thể được nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự
ra đời của các sản phẩm dịch vụ, cho tới sự xuất hiện của các tập đoàn ngân
hàng có quy mô toàn cầu tạo ra làn sóng sáp nhập và hợp nhất.
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển mạnh, cùng với
việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế
giới thì các tổ chức, cá nhân trong nước sẽ cần nhiều vốn hơn nữa để mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Cho nên, các ngân hàng có một vị
trí rất cần thiết đối với kinh tế trong nước.
Các ngân hàng không ngừng mở rộng mạng lưới, chi nhánh khắp các
tỉnh và thành phố, tiếp tục cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính đa dạng
cho nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau, tích cực huy động các nguồn
tiền gửi trong dân cư mở rộng cho vay ngắn, trung và dài hạn. Trong quá trình
hoạt động ngân hàng có thể gặp phải nhiều rủi ro khác nhau, song rủi ro tín
dụng đang là vấn đề mà các ngân hàng đang rất quan tâm. Hoạt động tín dụng
là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho các ngân hàng thương mại,
tuy nhiên đó cũng là hoạt động có rủi ro cao nhất. Các ngân hàng đã đưa ra
nhiều biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng để có thể quản lý một cách chặt
chẽ các khoản tín dụng sau khi giải ngân và hạn chế đến mức thấp nhất nếu
tổn thất xảy ra. Xuất phát từ thực trạng và từ thực tế của Ngân hàng Thương
mại Cổ phần Quốc tế (VIBank) nên em chọn đề tài “Phân tích và đánh giá
rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Quốc tế” làm đề tài
cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
1
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Kết cấu đề tài gồm:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng của ngân hàng


thương mại
Chương II: Phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động
cho vay tại Ngân hàng Quốc tế.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trong
hoạt động cho vay tại Ngân hàng Quốc tế.
Để hoàn thành được luận văn tốt nghiệp, em đã nhận được sự hướng
dẫn tận tình của TS. Trần Trọng Nguyên và sự giúp đỡ của các anh chị phòng
giám sát tín dụng Hội sở Ngân hàng Quốc tế
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
2
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỂ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1.Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng một trong những tổ chức tài chính quan trọng của nền kinh
tế. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng và
hầu hết các cơ quan Chính quyền địa phương.
Trên toàn thế giới, ngân hàng là loại hình tổ chức trung gian tài chính
cung cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất.
Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan trọng nhất
trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương pháp hành
để tài trợ cho các công trình công cộng.
Có rất nhiều cách định nghĩa ngân hàng khác nhau, nhưng cách tiếp
cận quan trọng nhất là có thể xem xét tổ chức này trên phương diện loại hình
dịch vụ mà chúng cung cấp do vậy ta có định nghĩa sau: “Ngân hàng là loại
hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng
nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh trong
nền kinh tế ”.

1.1.2.Đặc điểm hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Trong thực tế thuật ngữ tín dụng có nhiều cách hiểu khác nhau, tuỳ
theo bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Tuy nhiên,
tín dụng có thể hiểu theo một trong số cách sau đây:
 Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên
cơ sở hoàn trả giữa hai chủ sở hữu. Chẳng hạn một công ty thương mại bán
hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển
giao hàng cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thoả thuận bên
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
3
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
mua phải thanh toán tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân
hàng và các định chế tài chính cụ thể là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay
sau một thời gian nhất định bên đi vay phải thanh toán toàn bộ vốn gốc và lãi.
 Tín dụng còn có nghĩa là tiền cho vay mà các định chế tài chính cung
cấp cho khách hàng.
Tóm lại dựa trên góc độ chức năng nhiệm vụ, hoạt động của ngân
hàng, thì theo quan điểm của ngân hàng tín dụng được hiểu như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho
vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh
nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay
có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến
hạn thanh toán.
Việc cung cấp tín dụng là chức năng cơ bản của các NHTM nhất là
trong nền kinh tế thị trường hiện nay mà xu thế hội nhập là tất yếu.
Đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng chiếm 1/2 tổng tài sản
và thu nhập từ tín nhiệm chiếm khoảng từ 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập. Khi
ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng thì nguyên nhân
thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Từ đó ta có các đặc điểm về hoạt động tín dụng của NHTM như sau:
• Tài sản trong quan hệ tín dụng của ngân hàng bao gồm hai hình thức là
cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong thời gian
những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng cũng chỉ cho vay bằng tiền.
Chính vì thế, thuật ngữ tín dụng và cho vay đôi lúc đồng nhất với nhau.
Nhưng ngày nay cho vận hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng
và các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản
phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực.
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
4
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
• Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao
tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả
đúng hạn. Trên thực tế, một số cán bộ tín dụng trong quá trình xét duyệt tín
cho vay đã căn cứ, chú trọng vào tài sản đảm bảo mà không đánh giá dựa trên
mức độ tín nhiệm về khách hàng, chính điều này làm cho công tác nâng cao
chất lượng tín dụng chưa được thực hiện một cách đầy đủ.
• Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách
khác người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được
nguyên tắc này thông thường các ngân hàng thường phải xác định lãi xuất
danh nghĩa, tuy nhiên điều này lại phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế
của mỗi nước cũng như các chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung Ương.
Nói chung lãi xuất danh nghĩa phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát, trong một số
trường hợp cụ thể mà lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ
chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.
• Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở hoàn trả
vô điều kiện.Về mặt pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp
đồng tín dụng, khế ước… thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết
hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến thời hạn thanh toán.
1.1.3.Phân loại hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại

a) Căn cứ vào mục đích
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia ra làm các loại sau:
- Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại dịch vụ.
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
5
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
- Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chí phí sản
xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động,
nhiên liệu…
- Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các
khoản vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát
hành thẻ tín dụng.
- Thuê mua và các loại khác
b) Căn cứ theo thời hạn cho vay
Theo căn cứ này được chia ra làm 3 loại như sau:
- Cho vay ngắn hạn
Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp
sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn
hạn của cá nhân. Đối với ngân hàng thương mại tín dụng ngắn hạn thường
chiếm tỷ trọng cao nhất.
- Cho vay trung hạn
Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay
trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, đối với các nước trên thế giới loại
cho vay này có thời hạn đến 7 năm.

Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố
định, cải tiến đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây
dựng các dự án mới có quy mô nhỏ thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông
nghiệp chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng sau: máy cày,
máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều…
- Cho vay dài hạn
Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 3 năm đối với Việt
Nam, còn các nước khác trên thế giới có thời hạn là 7 năm.
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
6
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu
cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô
lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
Ngày nay hầu hết các ngân hàng thương mại chuyển sang kinh doanh
tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới của ngân hàng là nâng cao tỷ
trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng.
c) Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này cho vay được chia làm 2 loại:
- Cho vay không đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín
khách hàng. Đối với những khách hàng trung thực trong kinh doanh, có khả
năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng
dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ
hai bổ sung.
- Cho vay đảm bảo là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có
tài sản thế chấp hoặc phải có sự đảm bảo của người thứ ba. Đối với các khách
hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có tài
sản đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn
thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu thứ nhất thiếu chắc chắn.

d) Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng
Theo căn cứ này cho vay được chia làm hai loại:
- Cho vay bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng
được cấp bằng tiền. Đây là hình thức cho vay chủ yếu của các ngân hàng và
việc thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau.
- Cho vay bằng tài sản là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến
và đa dạng, riêng đối với ngân hàng cho vay bằng tài sản đảm bảo áp dụng
phổ biến đó là tài trợ thuê mua.
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
7
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
e) Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Theo căn cứ này cho vay được chia làm hai loại:
- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn
gốc và lãi theo định kỳ.
- Cho vay phi trả góp là loại cho vay được thanh toán một lần theo kỳ
hạn đã thỏa thuận.
f) Căn cứ vào xuất xứ tín dụng
Theo căn cứ này cho vay được chia làm hai loại:
- Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu
cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
- Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn
thanh toán.
Các ngân hàng cho vay gián tiếp theo các loại sau:
+ Chiết khấu thương mại
+ Mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp
+ Mua các khoản nợ của doanh nghiệp
1.2. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1.Khái niệm rủi ro tín dụng ngân hàng

Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín
dụng cho một khách hàng. Tức là khả năng khách hàng không trả được nợ
theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho họ.
Hoặc nói một cách cụ thể hơn, rủi ro tín dụng là luồng thu nhập dự tính mang
lại từ các tài sản có sinh lời của ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ
xét cả về mặt số lượng và thời hạn.
Trong điều kiện bình thường, phần lớn các tài sản tài chính do các
doanh nghiệp phát hành và được đầu tư bởi chính ngân hàng đều được đảm
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
8
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
bảo với mức xác suất cao, lãi thu được thường dưới dạng cố định. Nhưng khi
có rủi ro xảy ra, mặc dù xảy ra với xác suất thấp, nhưng mức vốn có thể mất
lại không giới hạn.
Tuy nhiên nói một cách chính xác ta có thể định nghĩa rủi ro tín dụng
như sau: “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng
do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn
và lãi”.
1.2.2. Nguyên nhân và hậu quả của rủi ro tín dụng
a) Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động đến người vay, làm họ mất
khả năng thanh toán cho ngân hàng. Chẳng hạn như thiên tai, động đất, núi lửa,
hoặc những điều thay đổi trong chính sách quản lý của nhà nước ở tầm vĩ
mô… đã vượt quá tầm kiểm soát của cả người đi vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra sẽ có thể tạo thuận lợi hoặc
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới người đi vay. Cũng có thể nhiều người
có khả năng phân tích và dự đoán được những điều diễn ra trong tương lai, đã
có những biện pháp kịp thời để giải quyết mọi khó khăn và tận dụng mọi thời
cơ. Hoặc trong những trường hợp khác mặc dù gặp khó khăn gây ra tổn thất,
song người đi vay vẫn có khả năng thanh toán đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho

ngân hàng.
Tuy nhiên, khi những nguyên nhân bất khả kháng xảy ra gây tổn thất
thì tác động của chúng có thể rất nặng nề đối với người đi vay, khả năng trả
nợ bị suy giảm, dẫn đến các ngân hàng cũng có khả năng gặp bất trắc vì
không thu hồi được gốc đúng hạn cho nên khó khăn cho các ngân hàng trong
việc huy động vốn cũng như trả nợ cho khách hàng khi đến hạn.
b) Những nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
9
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh tế, kém
nhanh nhạy để kịp thời phản ứng trước những thay đổi thị trường trong xu thế
hội nhập kinh tế, yếu kém trong khâu quản lý, chủ ý lừa đảo cán bộ ngân
hàng, chây ì, là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng.
Rất nhiều người vay họ bất chấp mọi mạo hiểm trong đầu tư, với kì
vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng
tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai mua
chuộc cán bộ ngân hàng, để có thể vay được những khoản tín dụng lớn.
Nhiều người vay đã không tính toán kĩ lưỡng hoặc không có khả năng
tính toán kĩ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng
và khắc phục những khó khăn trong kinh doanh.
Trong trường hợp còn lại, người vay kinh doanh có lãi song vẫn không
trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ chây ì với hi vọng có thể quỵt nợ hoặc sử
dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
c) Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
Nhiều cán bộ trong ngân hàng không đủ trình độ đánh giá khách hàng,
khả năng đánh giá khách hàng không tốt, hoặc cố tình làm sai… điều này dẫn
đến chất lượng cán bộ của các ngân hàng nhìn chung còn yếu kém. Đó là một
trong những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của
ngân hàng.

Trên thực tế, khách hàng có thể hoạt động kinh doanh rất nhiều ngành
nghề, thuộc các lĩnh vực khác nhau, ở các vùng khác nhau, các quốc gia khác
nhau. Chính điều này đòi hỏi các cán bộ ngân hàng phải có trình độ chuyên
môn cao, thật am hiểu về lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường
làm việc của khách hàng. Họ phải có khả năng dự đoán và phân tích những
vấn đề này. Tóm lại cán bộ ngân hàng cần phải được đào tạo và đào tạo kỹ
lưỡng về mọi mặt.
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
10
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng không đủ trình độ
để hiểu biết kỹ lưỡng thì rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Nhiều nhân viên
ngân hàng sống trong môi trường tiền bạc đã không tránh khỏi những cám dỗ
của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng rút ruột ngân hàng. Khi điều đó
xảy ra sẽ gây tổn thất lớn đối với ngân hàng, đánh mất niềm tin của khách
hàng gửi tiền vào ngân hàng. Từ đó chỉ cần một tin xấu khiến cho khách hàng có
thể ồ ạt đến rút tiền tại ngân hàng dẫn đến ngân hàng có thể có nguy cơ bị sụp
đổ. Do vậy, trình độ và đạo đức không đảm bảo là nguyên nhân của rủi ro tín
dụng.
1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Mặc dù rủi ro tín dụng là khách quan, song ngân hàng phải quản lý rủi
ro tín dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ đó
ngân hàng đưa ra các chỉ tiêu cụ thể hoá như sau:
1.2.3.1.Nợ quá hạn
- Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Nợ quá hạn là
khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận trên hợp
đồng tín dụng.
- Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ: Nợ khó đòi là khoản
nợ quá hạn đã quá một kỳ gia hạn nợ.
Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các độ rủi

ro khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên
quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn
mới chi trả tiền gửi cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo
cho ngân hàng: Hi vọng thu lại tiền vay trở lên mong manh, ngân hàng cần có
biện pháp hữu hiệu để giải quyết.
Trên thực tế có nhiều quan điểm khác nhau và các cách tính toán khác
nhau về kỳ hạn nợ và nợ quá hạn có thể làm cho các chỉ tiêu này biến dạng.
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
11
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Thứ nhất, do định kì hạn nợ không đúng:
Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay không quan tâm thích đáng đến
chu kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn vốn
ngắn hạn là nguồn tài trợ chủ yếu, họ đặt kỳ hạn ngắn để hạn chế rủi ro. Kì
hạn nợ không phù hợp với chu kỳ thu nhập của người vay. Đến kì hạn nợ
người cho vay không trả được nợ, ngân hàng chuyển sang thành nợ quá hạn.
Khoản nợ này trở thành mối đe dọa đối với chính người cho vay và nó cũng
gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Người cho vay buộc phải
trả thêm phụ phí để được gia hạn nợ, hoặc phải chịu lãi suất chịu phạt.
Thứ hai, do đảo nợ, hoặc giãn nợ.
Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng hoàn trả có thể đảo nợ
làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Do vậy để tránh sự kiểm soát của ngân
hàng cấp trên hoặc không phải chịu lãi suất chịu phạt do không trả nợ đúng
hạn nên họ thường thoả thuận với nhân viên ngân hàng vay khoản mới để trả
khoản nợ cũ hoặc họ vay của các cá nhân hay tổ chức khác. Tuy nhiên, ngân
hàng cũng có thể thực hiện giãn nợ đối với những khoản vay mà chắc chắn
người vay có thể trả được. Chính vì lý do đó mà làm cho chỉ tiêu nợ quá hạn
và nợ khó đòi không phản ánh đúng rủi ro tín dụng.
Thứ ba, do chính sách cho vay:
Có rất nhiều những khoản vay không thể thu hồi được bằng phát mại

tài sản bởi các nguyên nhân như: Doanh nghiệp mà tài sản thuộc sở hữu nhà
nước, người nghèo, tài sản không rõ ràng,…Với những khoản vay này thì
phần lớn chúng đều được cho vay theo chỉ thị của Chính phủ, tuy nhiên,
Chính phủ vẫn chưa cách giải quyết chính đáng cũng như các biện pháp để xử
lý. Đến nay, những khoản nợ này vẫn còn tồn tại trên bảng cân đối kế toán
của ngân hàng, trở thành tài sản ảo. Việc xử lý những khoản nợ này rất phức
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
12
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
tạp. Nhiều ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi,
xếp vào nợ khoanh. Tuy nhiên, chúng thực sự đe doạ thu nhập của ngân hàng
nếu Chính phủ không tìm được nguồn bù đắp.
1.2.3.2.Các chỉ tiêu khác
Bên cạnh các chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi, thì các nhà quản lý
ngân hàng cũng sử dụng các hình thức đo rủi ro tín dụng khác, gắn liền với
chiến lược đa dạng hoá tài sản, lập hồ sơ khách hàng, trích quỹ dự phòng…
- Đặc điểm của khách hàng
Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh,
hiệu quả dự án… từ đó ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại cho
điểm. Chẳng hạn khách hàng loại A rủi ro tín dụng thấp, khách hàng loại C
rủi ro tín dụng cao. Các chỉ tiêu này được xây dựng dựa trên các dấu hiệu rủi
ro mà ngân hàng xây dựng.
- Các khoản cho vay có vấn đề
Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, tuy nhiên trong
thời gian theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản vay có dấu
hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ chuyển thành nợ quá hạn. Khoản vay có vấn
đề được xây dựng dựa trên quy định của ngân hàng.
- Tính kém đa dạng của tín dụng
Đa dạng hoá là biện pháp hạn chế rủi ro. Nếu chỉ tập trung vào tài trợ
cho một khách hàng, của một ngành hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn

nếu ngân hàng đa dạng hoá.
- Mất ổn định vĩ mô
Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị bất
ổn định, thiên tai… tạo nên mất ổn định vĩ mô ảnh hưởng đến người vay. Do
vậy, mất ổn định vĩ mô được ngân hàng coi là một nội dung phản ánh rủi ro
tín dụng.
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
13
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
1.3.Các đảm bảo tín dụng
1.3.1.Đảm bảo cá nhân
Đảm bảo cá nhân là loại đảm bảo bằng bảo lãnh của người thứ ba:
Người thứ ba thực hiện các nghĩa vụ về tài chính đối với ngân hàng thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện được.
Đối với người bảo lãnh có uy tín ngân hàng chấp nhận bảo lãnh không
cần tài sản đảm bảo ví dụ như: nhà nước, các tổ chức tài chính lớn, các công ty
lớn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ngân hàng người bảo lãnh chưa có uy
tín, ngân hàng đòi phải có tài sản đảm bảo. Các nhân tố ảnh hưởng gồm có:
- Uy tín của người bảo lãnh
- Tài sản đảm bảo của người bảo lãnh
1.3.2. Đảm bảo thực tế
1.3.2.1.Quyền cầm giữ tài sản
Cầm giữ tài sản của ngân hàng là hình thức theo đó người nhận tài trợ
của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân
hàng trong thời gian cam kết.
Cầm giữ tài sản chỉ thích hợp với những tài sản ngân hàng có thể kiểm
soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc nắm giữ không ảnh
hưởng đến quá trình hoạt động của người nhận tài trợ, ví dụ các chứng khoán,
các hợp đồng, sổ tiết kiệm, ngoại tệ mạnh, kim loại quý. Các tài sản này gọn
nhẹ, dễ quản lý không chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên.

Ngân hàng cầm cố khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản đảm
bảo là không an toàn cho ngân hàng. Thường đó là các tài sản mà khách hàng
dễ bán, dễ chuyển nhượng.
Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bằng cầm cố, ngân hàng kiểm tra tính hợp
pháp, hợp lệ, an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả
chi trả của người cam kết đối với vật cầm cố, giá trị thị trường khi phát mại.
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
14
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
Ngân hàng cùng với khách hàng định giá vật cầm cố, kí hợp đồng cầm cố, qui
định quyền và nghĩa vụ đối với các đảm bảo cầm cố.
1.3.2.2. Thế chấp tài sản
Là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng
nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang ngân hàng nắm giữ
trong thời gian cam kết.
Nhiều tài sản của khách hàng trở thành đảm bảo cho các khoản tài trợ
của ngân hàng song vẫn tham gia vào quá trình hoạt động. Những tài sản này
không thể cầm cố. Như máy móc, trang thiết bị, nhà đất đang trong quá trình
sử dụng, hàng đang trong quá trình luân chuyển. Vì vậy đảm bảo bằng thế
chấp rất phổ biến đặc biệt là đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do giá
trị tài sản đảm bảo thường lớn, cho nên doanh nghiệp thường có thể vay ngân
hàng với quy mô lớn.
Khi tài trợ dựa trên tài sản đảm bảo ngân hàng cần phải xem xét kĩ tài
sản thế chấp. Do vậy, ngân hàng cần có các chuyên gia có chuyên môn đánh
giá tài sản đảm bảo. Nếu đánh giá quá cao, qui mô tài trợ quá lớn sẽ gây rủi ro
cho ngân hàng, còn nếu đánh giá quá thấp sẽ ảnh hưởng đến khả năng vay của
khách hàng.
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
15
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế

CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ
RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI
NGÂN HÀNG QUỐC TẾ
2.1. Khái quát chung về Ngân hàng Quốc tế
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam (tên gọi tắt là Ngân
hàng Quốc tế - VIBank) được thành lập theo Quyết định số 22/QĐ/NH5 ngày
25/01/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cổ đông sáng lập
Ngân hàng Quốc tế bao gồm Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, các cá nhân và doanh nhân
thành đạt tại Việt Nam và trên trường quốc tế.
Từ khi bắt đầu hoạt động ngày 18/09/1996, Ngân hàng Quốc tế đang
phát triển thành một trong những tổ chức tài chính dẫn đầu thị trường Việt
Nam. Là một ngân hàng đa năng, Ngân hàng Quốc tế, với nền tảng công nghệ
hiện đại, tiếp tục cung cấp một loạt các dịch vụ tài chính đa dạng, trọn gói cho
khách hàng với nòng cốt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động lành
mạnh và những cá nhân, gia đình có thu nhập ổn định tại các vùng kinh tế
trọng điểm trên khắp cả nước.
Sau 10 năm hoạt động, đến ngày 31 tháng 12 năm 2006, vốn điều lệ
của Ngân hàng Quốc tế là 1.000 tỷ đồng, gấp gần hai lần so với cuối năm
2005. Ngân hàng Quốc tế luôn chú trọng xây dựng niềm tin và coi đó là yếu
tố quyết định cho sự thành công của Ngân hàng. Niềm tin ngày càng được
nâng cao, thương hiệu VIBank từng bước khẳng định được vị thế mới.
Danh hiệu “Thương hiệu mạnh Việt Nam” lần thứ hai liên tiếp Ngân
hàng Quốc tế vinh dự nhận được là một minh chứng cho điều đó. Ngân hàng
Quốc tế được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xếp loại A theo tiêu chí đánh
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
16
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
giá hệ thống Ngân hàng Việt Nam do Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt

Nam ban hành trong nhiều năm liên tiếp và lần thứ hai được tập đoàn
Citigroup trao tặng Danh hiệu “Ngân hàng hoạt động thanh toán xuất sắc”.
Cuối năm 2006, ngoài Hội sở tại Hà Nội, Ngân hàng Quốc tế có 60 Chi
nhánh, Phòng Giao dịch tại 9 tỉnh, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Nha Trang, Đồng Nai, Bình Dương
và Cần Thơ, Hải Dương, Vĩnh Phúc, An Giang, Vũng Tàu, Nghệ An.
Trong năm qua, Các chi nhánh và Phòng Giao dịch của Ngân hàng
Quốc tế đã duy trì tốt các chương trình hoạt động tại các địa bàn để kết hợp
với hoạt động quảng bá thương hiệu, sử dụng tốt công cụ lãi suất, tạo hiệu quả
huy động vốn dân cư tăng trưởng cao.
Trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế bắt đầu triển khai Hệ thống ngân
hàng đa năng SYMBOLS do System Access cung cấp – đây là giải pháp ngân
hàng đa năng trọn gói cung cấp các chức năng cho các hệ thống nghiệp vụ Ngân
hàng bán lẻ, Ngân hàng bán buôn, Ngân hàng Internet và hệ thống quản lý khách
hàng. Hơn nữa hệ thống này có thể đáp ứng cho mọi quy mô của Ngân hàng từ
ngân hàng có 7 chi nhánh đến ngân hàng có tới 1.200 chi nhánh.
Năm 2005 cũng là thời điểm đề án tập trung hoá dữ liệu và giao dịch
trực tuyến của Ngân hàng Quốc tế phát huy mạnh mẽ. Tính an toàn dữ liệu và
khả năng đối chiếu các giao dịch đã tăng đáng kể. Cũng trong năm 2005,
Ngân hàng Quốc tế chính thức ký hợp đồng mua hệ thống chuyển mạch tài
chính và quản lý thẻ từ công ty Card Tech Limited (CTL).
Với phương châm kinh doanh “Luôn gia tăng giá trị cho bạn”, cam
kết của Ngân hàng Quốc tế trong năm 2006 và những năm tiếp theo là không
ngừng gia tăng giá trị của khách hàng, của đối tác, của cán bộ nhân viên ngân
hàng và của các cổ đông.
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
17
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
2.1.2. Tổ chức quản lý hệ thống của VIBank
2.1.2.1. Ban Kiểm soát

Ban Kiểm soát thực hiện kiểm tra thường xuyên hoạt động tài chính,
giám sát chấp hành chế độ hạch toán, hoạt động của hệ thống kiểm tra và
kiểm toán nội bộ của VIBank.
Ban Kiểm soát thẩm định báo cáo tài chính hàng năm, kiểm tra từng
vấn đề cụ thể liên quan đến hoạt động tài chính khi xét thấy cần thiết hoặc
quyết định của Đại hội Cổ đông hoặc theo yêu cầu của các cổ đông lớn.
Ban Kiểm soát báo cáo Đại hội Cổ đông về tính chính xác, trung thực
và hợp pháp của các chứng từ, sổ sách kế toán, báo cáo tài chính và hoạt động
của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Ban Kiểm soát định kỳ ít nhất một lần và có thể được triệu tập họp bất
thường để kịp thời giải quyết những công việc đột xuất.
Ban Kiểm soát đã phối hợp tốt với Ban Điều hành để phát hiện, cảnh
báo rủi ro, sai sót trong các hoạt động ngân hàng. Trong năm 2006, VIBank
đạt tốc độ tăng trưởng cao và hoạt động kinh doanh vẫn được kiểm soát rất
chặt chẽ.
2.1.2.2.Uỷ ban quản lý tài sản Nợ - Có
Uỷ ban ALCO quản lý bảng cân đối kế toán của ngân hàng phù hợp
với chính sách phát triển của Ngân hàng Quốc tế, quản lý rủi ro thanh khoản
và rủi ro thị trường gắn liền với các hoạt động của VIBank, tối đa hoá thu
nhập của bảng cân đối kế toán, gia tăng giá trị doanh nghiệp cho các cổ đông,
đảm bảo sự tuân thủ các chính sách pháp luật về tỷ lệ an toàn trong hoạt động
của tổ chức tín dụng.
Trong năm 2006, uỷ ban ALCO đã thông qua nhiều chính sách góp
phần đa dạng hoá cơ cấu nguồn vốn và tăng tính ổn định của nguồn vốn phục
vụ yêu cầu kinh doanh của VIBank, đa dạng hoá sản phẩm, đa dạng hoá cơ
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
18
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
cấu thu nhập và phân tán rủi ro. Chính sách lãi suất đã đảm bảo mức giá hợp
lý cho khách hàng và tối đa hoá nguồn thu nhập của VIBank.

Uỷ ban ALCO họp theo định kỳ hàng tháng và họp bất thường khi mà
thị trường có biến động có thể mang lại cơ hội kinh doanh tốt hoặc ảnh hưởng
xấu tới hoạt động ngân hàng.
2.1.2.3.Uỷ ban Tín dụng
Uỷ ban Tín dụng phê duyệt định hướng và cơ cấu dư nợ của toàn hệ
thống Ngân hàng Quốc tế theo mặt hàng, lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn kinh
doanh, quyết định chính sách tín dụng gồm có chính sách khách hàng dựa trên
nguyên tắc về rủi ro, tăng trưởng và lợi nhuận cho VIBank, thông qua các
chính sách về lãi vay, thông qua chính sách về lãi suất cho vay và các loại phí,
quyết định các chính sách dự phòng rủi ro tín dụng và phê duyệt các khoản
đầu tư tín dụng.
2.1.2.4. Ban điều hành
Bộ máy hoạt động của VIBank chia làm 6 khối chức năng:
o Khối Chức năng Hội sở
o Khối Quản lý Tín dụng
o Khối Khách hàng Doanh nghiệp
o Khối Khách hàng Cá nhân
o Khối Nguồn vốn và Ngoại tệ
o Khối Chi nhánh và Dịch vụ
Đứng đầu mỗi khối là Tổng Giám đốc hoặc một Phó Tổng Giám đốc.
Các khối chức năng được phân theo định hướng khách hàng và thực
hiện những nhiệm vụ chuyên môn riêng trong mục tiêu chung của Ngân hàng
Quốc tế. Sự phân công này cho phép các khối nghiệp vụ chuyên môn hoá hoạt
động của mình đảm bảo phát huy tối đa những kiến thức, kỹ năng và kinh
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
19
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
nghiệm của đội ngũ nhân viên trong việc phục vụ khách hàng. Việc bố trí
nhân sự trong từng khối được thực hiện trên cơ sở nguyện vọng và sự ưa thích
công việc.

2.1.3. Tình hình hoạt động của VIBank
2.1.3.1. Hoạt động nguồn vốn
Năm 2005, hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Quốc tế đạt mức
tăng trưởng kỷ lục. Tổng nguồn vốn tính đến 31/12/2005 đạt 8.967 tỷ đồng,
tăng 117% so với năm trước và vượt 49,6% so với kế hoạch năm.
Cơ cấu nguồn vốn được điều tiết một cách hợp tương thích với tỷ trọng
của cơ cấu đầu tư tín dụng và đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Hoạt
động kinh doanh nguồn vốn phát triển tốt, hiệu quả, đảm bảo khả năng thanh
khoản và đủ vốn, ngoại tệ phục vụ khách hàng.
Ngân hàng Quốc tế đã chủ động trong việc điều chỉnh cơ cấu nguồn
vốn nhằm mang lại lợi ích tối đa cho các cổ đông nhưng vẫn đảm nguôn vốn
khi mở rộng cho vay trung và dài hạn và nhu cầu rút tiền gửi không kỳ hạn.
Vốn chủ sở hữu đạt 529.789 tỷ đồng, tăng 104,7% so với cuối năm
2004. Vốn điều lệ tăng lên 510 tỷ đồng vào năm 2005 và đến cuối năm 2006
tăng lên 1000 tỷ đồng không những tạo thêm nguồn vốn đáp ứng nhu cầu
kinh doanh của Ngân hàng Quốc tế, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn và
đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn khi mở rộng kinh doanh, mà còn tạo điều kiện để
đầu tư cơ sở vật chất và công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng Quốc tế.
Vốn huy động từ các tổ chức tài chính tại thời điểm 31/12/2005 đạt
2.852,872 tỷ bằng 176,6% so với đầu năm và chiếm 31,7% tổng nguồn vốn.
Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư đạt 5.268,617 tỷ đồng, bằng
163% so với đầu năm và chiếm 58% tổng nguồn vốn. Đây là một kết quả rất
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
20
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
đáng khích lệ trong điều kiện Ngân hàng Quốc tế phải đối mặt với sự cạnh
tranh ngày càng tăng từ các ngân hàng thương mại khác.
Kết quả đáng khích lệ trên có được là nhờ Ngân hàng Quốc tế đã thực
hiện chính sách lãi suất linh hoạt, mở rộng mạng lưới hoạt động đến gần khách

hàng hơn và tung ra nhiều sản phẩm huy động có sức thu hút ra thị trường.
2.1.3.2. Hoạt động tín dụng
Trên cơ sở mạng lưới hoạt động được mở rộng, cơ sở khách hàng tăng
mạnh và tốc độ huy động vốn rất tốt nên hoạt động tín dụng tiếp tục tăng
trưởng trong năm 2005.
Dư nợ tín dụng đến thời điểm 31/12/2005 đạt 5.255 tỷ đồng tăng 236%
so với đầu năm và vượt 24,3% so với kế hoạch trong năm.Trong đó, tín dụng
ngắn hạn đạt 3.570,7 tỷ đồng, chiếm 67,9% tổng dư nợ và tín dụng trung và
dài hạn đạt 1.707,9 tỷ đồng, chiếm 32,1% tổng dư nợ.
Ngân hàng Quốc tế nhìn nhận các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động
trên nhiều lĩnh vực phát triển, chiếm số lượng lớn nhất và giàu tiềm năng nhất
trong cộng đồng doanh nghiệp nhưng hiện nay phần lớn đều gặp khó khăn về
nguồn vốn tín dụng. Chính sách của Ngân hàng Quốc tế đã giúp các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được nguồn vốn với chi phí hợp lý để đầu tư mở
rộng sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, tăng năng lực cạnh tranh.
Ngoài ra trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế tiếp tục đẩy mạnh cho
vay tài trợ hoạt động xuất nhập khẩu hàng như cho vay để doanh nghiệp sản
xuất, thu mua hàng hoá xuất khẩu, cho vay chiết khấu toàn bộ chứng từ hàng
xuất khẩu. Dư nợ tín dụng doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2005 là 3.904 tỷ,
tăng 152% so với đầu năm và vượt 29,7% so với kế hoạch năm.
Năm 2005, Ngân hàng Quốc tế tập trung đẩy mạnh cho vay tiêu dùng
cá nhân bằng việc tung ra và đổi mới một loạt các sản phẩm tín dụng cá nhân
bám sát nhu cầu của khách hàng như cho vay mua, sửa chữa nhà đất, căn hộ
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
21
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
chung cư, cho vay mua ô tô, cho vay du học, cho vay mua sắm vật dụng gia
đình. Dư nợ tín dụng cá nhân tại thời điểm 31/12/2005 là 1.351 tỷ, tăng 106%
so với đầu năm.
Chất lượng tín dụng luôn được kiểm soát tốt do hoạt động được tổ

chức chặt chẽ, tuân thủ các quy định của pháp luật và các quy định, quy trình
nghiệp vụ của Ngân hàng Quốc tế. Tỷ lệ nợ quá hạn tính đến thời điểm cuối
năm chỉ chiếm 0,87% tổng dư nợ, giảm so với mức 1,11% của năm 2004.
2.1.3.3. Hoạt động dịch vụ
Trong năm 2005, song song với việc gia tăng các hoạt động huy động
vốn và tín dụng, hoạt động dịch vụ đã được quan tâm đặc biệt và được quán
triệt từ Hội sở chính đến từng đơn vị trong hệ thống Ngân hàng Quốc tế cả về
chất lượng. Tổng thu dịch vụ tăng 11,89% và tổng thu thuần dịch vụ tăng gấp
4 lần so với năm 2004.
Năm 2005, hoạt động thanh toán được tăng cường theo cả chiều rộng
lẫn chiều sâu qua việc bổ sung nhân sự cho Phòng tài trợ Thương mại tại Hội
sở, cho các chi nhánh và mở các chi nhánh có khả năng thu hút khách hàng
xuất khẩu. Trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế đã mở 1.467 L/C nhập khẩu,
đạt tổng giá trị 162 triệu USD, tăng 209% về mặt số lượng và 219% về mặt
giá trị so với năm 2004. Số lượng L/C xuất khẩu được thông báo cũng tăng
278% so với năm 2004. Chất lượng L/C nhập khẩu được đảm bảo tốt, các
khoản tiền thanh toán đều được thực hiện đúng hạn cho các ngân hàng nước
ngoài. Doanh số nhờ thu nhập khẩu và xuất khẩu cũng tăng lần lượt là 159%
và 89% về mặt số lượng, 172% và 152% về mặt giá trị so với năm 2004.
Doanh thu dịch vụ thanh toán toàn bộ hệ thống tăng tới 218,5% so với năm
2004. Các đơn vị đóng góp nhiều nhất vào kết quả chung của hoạt động tài trợ
thương mại trong năm qua là Hội sở, Chi nhánh VIBank Hồ Chí Minh, Chi
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
22
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
nhánh VIBank Hải Phòng, Chi nhánh VIBank Hà Nội và Chi nhánh VIBank
Ba Đình. Các chi nhánh mới thành lập cũng đã có bước phát triển nhất định.
Dịch vụ chuyển tiền kiều hối đã phát triển. Trong năm 2005, Ngân
hàng Quốc tế hợp tác với nhiều công ty chuyển tiền quốc tế như Travelex,
RIA, Anelik, Xoom để cung cấp dịch vụ chuyển tiền quốc tế phục vụ những

khách hàng là Việt kiều và những người đi hợp tác lao động nước ngoài.
Dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ cũng bắt đầu đẩy mạnh qua Ngân
hàng Quốc tế hợp tác với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phát hành thẻ
tín dụng quốc tế MasterCard Cội nguồn và chấp nhận thanh toán các loại thẻ
MasterCard, Visa, Diner Club,… Hoạt động phát hành thẻ ghi nợ nội địa
Values cũng được đẩy mạnh qua việc phát triển một đội ngũ đông đảo, xây
dựng một mạng lưới chấp nhận thẻ rộng khắp và một hệ thống ngành hàng ưu
đãi cho chủ thể phong phú.
Các giá trị mang lại giá trị gia tăng cho khách hàng cũng được đầu tư
phát triển. Trên nền tảng công nghệ hiện đại, Ngân hàng Quốc tế bắt đầu đưa
ra những tiện ích tạo thuân lợi cho khách hàng khi giao dịch vơi ngân hàng
như Mobile Banking và Internet Banking.
2.2 Phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại
Ngân hàng Quốc tế
2.2.1 Các mô hình sử dụng trong phân tích
2.2.1.1. Mô hình định tính
a. Phân tích tín dụng
1) Người cho vay có thể được tín nhiệm không?
Câu hỏi này để trả lời đòi hỏi phải xem xét 6 khía cạnh của người xin
vay cụ thể như sau:
 Tư cách của người vay: Cán bộ tín dụng phải chắc chắn người xin vay
có mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí trả nợ khi đến hạn. Khi mục đích
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
23
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
xin vay là rõ ràng thì cán bộ tín dụng vẫn cần phải xem xét điều này có phù
hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng không? Mặc dù mục
đích xin vay của khách hàng là tốt, thì cán bộ tín dụng cũng phải xem xét
người xin vay có sử dụng vốn vay đúng không? Rồi thiện chí và nỗ lực của
người xin vay trong việc hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn. Nếu thấy người vay

giả dối trong kế hoạch sử dụng nợ và trả nợ, thì cán bộ tín dụng từ chối cho
vay để tránh rủi ro tín dụng xảy ra sẽ gây tổn thất cho ngân hàng.
 Năng lực của người vay: Cán bộ tín dụng cần phải biết chắc chắn người
xin vay phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý đối với hợp đồng tín
dụng. Đồng thời cán bộ tín dụng cần phải biết chắc chắn rằng người đại diện
cho công ty ký hợp đồng phải là người được ủy quyền hợp pháp của công ty.
Một hợp đồng tín dụng mà được ký kết bởi người không được ủy quyền có
thể không thu hồi được nợ, tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng.
 Thu nhập của người cho vay: Tiêu chí thu nhập người vay tập trung vào
câu hỏi: Người cho vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ? Nhìn chung,
người vay có ba khả năng để tạo tiền, đó là: luồng tiền từ doanh thu bán hàng,
bán thanh lý tài sản, tiền từ phát hành chứng khoán nợ hay chứng khoán vốn.
Bất cứ nguồn thu nào từ ba khả năng này đều có thể sử dụng để trả nợ cho
ngân hàng. Tuy nhiên, nguồn thu thứ nhất được ngân hàng ưu tiên nhất và coi
đây là nguồn thu đầu tiên, là căn bản để trả nợ cho ngân hàng.
Cán bộ tín dụng cần đánh giá luồng tiền của khách hàng cụ thể: Khách
hàng có mức tăng trưởng của thu nhập phải ổn định trong quá khứ và phải
duy trì chắc chắn trong tương lai.
 Bảo đảm tiền vay: Cán bộ tín dụng cần tìm hiểu để biết người vay có sở
hữu một tài sản nào có giá trị, có chất lượng cao để hỗ trợ cho khoản vay. Tuy
nhiên, cán bộ tín dụng cần phải chú ý tới các yếu tố khác như: tuổi thọ, điều
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
24
Luận văn tốt nghiệp Khoa Toán kinh tế
kiện, mức độ chuyên dụng của tài sản người vay đặc biệt chú ý đến khía cạnh
công nghệ.
 Cán bộ tín dụng và nhà phân tích tín dụng cần phải biết được xu hướng
hiện hành về công việc kinh doanh và ngành nghề của người vay, cũng như
điều kiện kinh tế xã hội có ảnh hưởng như thế nào đến khoản tín dụng. Để
làm được điều này đòi hỏi ngân hàng cần phải duy trì các phai dữ liệu thông

tin liên quan đến khách hàng như mẫu báo cáo có liên quan, các bài tạp chí,
các báo cáo nghiên cứu.
 Kiểm soát: Nói chung cần tập trung vào các vấn đề như những thay đổi
trong pháp luật và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay và yêu cầu tín
dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng về quản lý
chất lượng tín dụng.
2) Hợp đồng tín dụng phải được kí kết đúng đắn và hợp lệ
Cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm và làm thoả mãn yêu cầu đồng
thời của hai đối tượng là người vay và chủ nợ của ngân hàng. Điều này đòi
hỏi hợp đồng tín dụng phải đáp ứng được nhu cầu vốn của người vay theo
một kế hoạch trả nợ thuận lợi. Đồng thời cán bộ tín dụng phải có khả năng cố
vấn tài chính cho khách hàng, đồng thời hướng dẫn khách hàng hoàn thành
đơn xin vay.
Một hợp đồng tín dụng hợp lệ phải bảo vệ được quyền lợi của ngân
hàng bằng cách quy định những điều khoản giới hạn hoạt động của người
vay, nếu các hoạt động này đe dọa khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
3) Ngân hàng có thể đòi nợ thuận lợi bằng tài sản đảm bảo
Trong khi những công ty lớn và khách hàng có hệ số tín nhiệm cao
không cần có đảm bảo tín dụng. Những khách hàng còn lại thường được yêu
cầu phải có biện pháp bảo đảm tín dụng như cầm cố, thế chấp tài sản hay bảo
lãnh trả nợ của người thứ ba.
Đinh Thị Dương Toán Tài chính 45
25

×