Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

tác động của việc chấm dứt của hiệp định dệt may trong khuôn khổ wto đối với hoạt động xuất nhập khẩu của công ty tnhh thương mại quốc tế việt phượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.72 KB, 73 trang )

Lời mở đầu
Dệt may là ngành sản xuất và xuất khẩu lâu đời trên thế giới hiện nay.
Ngay từ thời xa xưa con người đã chú ý đến vấn đề ăn mặc trong sinh hoạt
hàng ngày và cả trong giao tiếp. Họ đã có không ngừng cải tiến về hình dáng,
màu sắc, mẫu mã để cho ra đời những bộ trang phục ngày càng gọn nhe, sang
trọng và hợp thời.
Dệt may Việt Nam cũng là ngành lâu đời của Việt Nam. Việc sản xuất
phục vụ nhu cầu cho người tiêu dùng trong nước đã tồn tại từ lâu nhưng việc
xuất khẩu sang thị trường nước ngoài thì mới thực sự phát triển trong mấy
năm gần đây. Cùng với sự phát triển của ngành Dệt may thế giới, Việt Nam
cũng không ngừng đổi mới và hoàn thiện mình. Nếu như trước đây dệt may
Việt Nam chỉ xuất hiện tại các nước Đông Âu thì hiện nay đã xuất hiện ở
khắp nơi trên thế giới đặc biệt là các thị trường Mỹ và EU và trở thành thương
hiệu có uy tín trên thế giới hiện nay.
Sau khi hiệp định dệt may giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, EU được kí kết
mở đường thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu dệt may vào hai thị trường này,
dệt may Việt Nam không ngừng phát triển và ngày càng tăng doanh thu cho
đất nước. Tuy nhiên đến năm 2005, khi hiệp định dệt may trong khuôn khổ
WTO chấm dứt thì tình hình xuất khẩu dệt may Việt Nam đã có nhiều biến
động và gặp rất nhiều khó khăn.
Là một công ty hoạt động xuất nhập khẩu dệt may mới thành lập, công ty
TNHH Thương mại quốc tế Việt Phượng cũng không tránh khỏi những khó
khăn trong thời kỳ “hậu hạn ngạch’. Nhằm nghiên cứu những khó khăn của
Việt Nam và công trong thời kì hậu hạn ngạch và những thách thức mới của
dệt may Việt Nam và công ty trong thời gian tới, Tôi đã nghiên cứu và hoàn
thành dề tài : “ Tác động của việc chấm dứt của hiệp định dệt may trong
khuôn khổ WTO đối với hoạt động xuất nhập khẩu của công ty TNHH
Thương mại quốc tế Việt Phượng".
Tôi xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Nguyễn Đình Thọ đã giúp đỡ tôi rất
nhiều trong việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
1


Chương I: Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam trong thời gian qua
I. Khái quát chung về hiệp định dệt may trong khuôn khổ WTO
1. Lịch sử hình thành hiệp định dệt may trong khuôn khổ WTO
Ngay từ những năm đầu của hệ thống thương mại đa phương, đánh dấu
bằng sự ra đời của tổ chức GATT, tiền thân của WTO, năm 1947, ngành dệt
may đã là một vấn đề khúc mắc trong các vòng thương thuyết nhằm tự do hoá
các luồng thương mại. Trong hơn 30 năm, ngành này không được điều tiết bởi
các qui tắc chung áp dụng cho mậu dịch hàng hoá mà bởi các chế độ riêng:
các Hiệp định ngắn hạn về mậu dịch quốc tế bông sợi (Short Term
Arrangement regarding International Trade in Cotton textiles - STA), 1961,
Hiệp định dài hạn về mậu dịch quốc tế bông sợi (Long Term Arrangement
regarding International Trade in Cotton textiles - LTA), 1962-1973, và Hiệp
định về các loại sợi (Arrangement regarding International Trade in Textiles,
thường gọi tắt là Multifibre Arrangement - MFA), 1974-1994. Từ năm 1995,
ngành dệt may được điều tiết bởi Hiệp ước về dệt may (Agreement on
Textiles and Clothing - ATC), một trong những hiệp ước ký kết sau vòng
thương thảo Uruguay Round, thay thế hiệp định MFA và qui định những biện
pháp chuyển tiếp nhằm đưa toàn bộ ngành dệt may vào khung pháp lý chung
của WTO.
Để phân tích diễn tiến của khung pháp lý từ hiệp định STA đến Hiệp ước
ATC, chúng ta điểm sơ qua bối cảnh chung của thời kỳ ấy. Trong những năm
ngay sau đệ nhị thế chiến, đa số các luồng thương mại quốc tế bị chi phối bởi
nhiều chế độ quốc gia khác nhau và phức tạp. Một số nước phát triển viện lý
do cán cân thanh toán gặp khó khăn sau chiến tranh để áp dụng thuế suất cao,
thủ tục thuế quan nặng nề, và rất nhiều biện pháp hạn chế số lượng nhập
khẩu. Từ những năm 1950 trở đi, các hàng rào mậu dịch dần dần được hạ
xuống để tiến đến tự do hoá thương mại qua các vòng thương thuyết trong
2
khuôn khổ tổ chức GATT. Song song với xu hướng này và sự phục hồi của

cán cân thanh toán trong các nước phát triển, Nhật Bản cũng tham gia trở lại
vào thương mại dệt may thế giới. Cùng lúc, một số nước nghèo bắt đầu xuất
khẩu hàng dệt và trong chừng mực ít hơn, các hàng may mặc. Nhờ nhân công
và nguyên liệu rẻ, các nước này nhanh chóng xuất ngày càng nhiều các hàng
dệt may bằng bông sợi sang các nước phát triển, cạnh tranh ồ ạt với ngành sản
xuất nội địa của họ. Trước nguy cơ lỗ lã, phá sản đe dọa việc làm của cả một
ngành sản xuất, gây ra căng thẳng trong xã hội, một số nước phát triển thương
thuyết song phương với 4 nước xuất khẩu chính lúc ấy - Nhật, Hồng Kông,
Ấn Độ và Pakistan - để ép họ phải tự giới hạn lại. Những thoả thuận "hạn chế
xuất khẩu tự nguyện" (voluntary export restraint) này trở thành biện pháp phổ
biến để ngăn chặn nhập khẩu, không chỉ cho hàng dệt may mà còn trong
nhiều ngành khác.
Năm 1959, theo yêu cầu của Bộ trưởng tài chánh Mỹ Douglas Dillon, tổ
chức GATT bắt đầu họp bàn về vấn đề "nhập khẩu tăng vọt trong thời gian
ngắn cho vài mặt hàng và có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng về mặt kinh tế,
chính trị và xã hội trong nước nhập khẩu". Năm 1960, các thành viên GATT
công nhận hiện tượng "xáo trộn thị trường" (market disruption), định nghĩa
như gồm một số điều kiện cụ thể, cho phép nước nhập dùng biện pháp phòng
chống (safeguard) để bảo vệ ngành sản xuất nội địa. Hai câu đáng để ý trong
các điều kiện này là "nhập khẩu xuất phát từ một số nguồn cụ thể" và "sự
khác biệt về giá cả giữa hàng nhập và hàng nội không do nước xuất khẩu bán
phá giá" (dumping). Nói cách khác, một là các nước nhập có thể áp dụng biện
pháp phòng chống đối với một hoặc vài nước, một cách chọn lọc, trong khi
theo điều XIX của Hiệp ước GATT, các biện pháp này phải nhắm tất cả mọi
nguồn, không phân biệt. Hai là họ có thể phòng chống ngay cả khi nước xuất
khẩu không vi phạm qui tắc về bán phá giá.
Năm 1961, để vận động cho đạo luật Trade Act 1962, chính phủ Mỹ đề
xướng một hội nghị các nước xuất khẩu hàng dệt trong khuôn khổ của GATT.
3
Kết quả của hội nghị oái oăm này là Hiệp định STA, thực ra là pháp lý hoá

việc vi phạm các nguyên tắc của GATT, dẫu là ngắn hạn như nói rõ trong tên
gọi và chỉ có hiệu lực một năm. STA cho phép các nước xuất khẩu, đơn
phương hoặc qua thoả thuận song phương, ấn định hạn ngạch (quota) để giới
hạn nhập khẩu khi có nguy cơ "xáo trộn thị trường".Các cuộc thương thuyết
vẫn tiếp tục, và năm 1962, STA được thay thế bởi LTA, hiệp định dài hạn vì
các nước liên can công nhận đây là một vấn đề cần phải giải quyết lâu dài.
LTA có hiệu lực 5 năm và để bù lại, các hạn ngạch bắt buộc phải được nâng
cao và tăng 5% mỗi năm. Hiệp định này được gia hạn năm 1967 và năm
1970. Tháng 12. 1972, GATT hoàn tất một cuộc điều tra nghiên cứu tình hình
dệt may. Trên cơ sở bản báo cáo này và các thương thuyết sau đó, LTA được
thay thế bởi hiệp định MFA áp dụng từ tháng 1.1974.
Hai hiệp định STA và LTA chỉ nhắm hàng bông sợi vì thời ấy các nước
đang phát triển chỉ xuất khẩu loại hàng đó. Một trong những lý do sản xuất
sợi hoá học tăng nhanh trong các nước phát triển cũng vì các nước này muốn
tránh bị lệ thuộc vào một nguyên liệu tập trung ở thế giới thứ ba, không kể là
sợi hoá học ngày càng được dùng cho đủ mọi ứng dụng tiên tiến và dựa vào
một nguyên liệu rẻ và dồi dào, tưởng như có thể khai thác vô tận, cho đến
cuộc khủng hoảng của dầu hoả năm 1973. Cho đến lúc ấy, nhiều người nghĩ
rằng sợi hoá học sẽ rốt cuộc loại hẳn các sợi tự nhiên khỏi thị trường. Nhưng
chính khuynh hướng này cũng tác động lên các nước đang phát triển, họ cũng
muốn gia tăng giá trị xuất khẩu của mình và bắt đầu tham gia vào ngành vải
sợi hoá học. Do đó hiệp định MFA không chỉ chi phối sợi bông mà còn áp
dụng cho cả len và sợi hoá học, vì thế mới gọi là multifibre.
2. Nội dung
2.1. Hiệp ước MFA
Như hai hiệp định trước, MFA cho phép áp đặt hoặc duy trì hạn ngạch,
với điều kiện phải gia tăng 6% một năm. Ngoài ra, trước khi có thể viện lý do
là thị trường bị xáo trộn, các nước nhập khẩu phải hội ý với nước xuất khẩu
4
và tuân theo một số điều kiện và chuẩn ghi trong MFA. Một Cơ quan Kiểm

soát Hàng dệt (Textiles Surveillance Body - TSB) được thành lập để quản lý
hiệp định và giám sát sự thi hành. Các nước áp đặt hạn ngạch phải thông báo
mỗi biện pháp mới lên TSB và hàng năm báo cáo tình hình. Cơ quan TSB
cũng có nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp, và hàng năm báo cáo hoạt động
của mình lên Ủy ban Hàng dệt (Textiles Committee) của GATT.
Vì MFA đi ngược lại hai qui tắc căn bản của GATT là trong suốt và
không phân biệt đối xử, và nằm ngoài khung pháp lý chung nên tuy được
quản lý bởi GATT, chỉ áp dụng cho các nước liên can chứ không cho toàn thể
các nước thành viên. Cũng vì yếu tố biệt lệ này mà Trung Quốc, tuy không là
thành viên, cũng tham gia, từ đầu thập niên 1980. MFA được gia hạn 4 lần,
năm 1977, 1981, 1986 và 1991, sau khi được thương thuyết lại và mỗi lần đều
kèm theo nhiều điều lệ mới. Trong những năm cuối, tham gia MFA có 8 nước
phát triển ("nước nhập khẩu") - Áo, Canada, Cộng đồng kinh tế châu Âu
EEC, Mỹ, Phần Lan, Nhật, Thụy Sĩ và Na Uy-, và 36 nước đang phát triển,
với tư cách nước xuất khẩu. Trên 8 nước nhập khẩu này, chỉ có Nhật và Thụy
Sĩ là không hề áp dụng hạn ngạch. Trong 21 năm thi hành, từ 1974 đến 1994,
MFA thật ra đã là công cụ của các nước giàu ngăn chặn nhập khẩu từ các
nước nghèo hơn là "mở rộng thương mại, giảm các hàng rào mậu dịch và dần
dần tự do hoá mậu dịch quốc tế về hàng dệt, cùng lúc điều tiết sự phát triển
của luồng thương mại này và tránh các hậu quả gây xáo trộn thị trường và
ngành sản xuất trong các nước nhập khẩu cũng như xuất khẩu", như mục tiêu
chính thức đề ra. Các hạn ngạch được thương lượng trên cơ sở song phương,
thường xuyên xem xét lại, và tỷ lệ gia tăng thường thấp hơn con số 6% qui
định trong MFA.
Do đó các nước xuất khẩu không ngừng đòi hỏi phải bãi bỏ chế độ hạn
ngạch này và cơ sở pháp lý của nó. Vấn đề dệt may là một trong những đề tài
khúc mắc của vòng thương thuyết Uruguay, và các nước nghèo cũng chỉ đồng
ý với một số nhượng bộ cho hai Hiệp ước GATS (dịch vụ) và TRIPs (sở hữu
5
tri thức) với điều kiện các nước giàu cũng phải nhượng bộ về mặt nông

nghiệp và dệt may. Một trong những thoả nhượng này là tuy không chấm dứt
ngay năm 1994, chế độ MFA phải được thay thế bằng một cơ chế ràng buộc
tất cả mọi thành viên như các qui chế khác của WTO và chuẩn bị cho việc sát
nhập ngành dệt may vào khung pháp lý chung của WTO. Cơ chế này, tức
Hiệp ước ATC, chỉ là công cụ cho một giai đoạn chuyển tiếp và không thể
được dùng để kéo dài một tình trạng ngoại lệ đã quá lâu. Do đó điều lệ 9 của
ATC khẳng định là Hiệp ước sẽ chấm dứt "ngày đầu tiên của tháng thứ 121
sau khi Hiệp ước WTO ban hành, khi ấy ngành dệt may sẽ hoàn toàn sáp nhập
vào Hiệp ước GATT 1994", tức là ngày 1.1.2005. Và nhất là Hiệp ước sẽ
không được gia hạn ("There shall be no extension of this Agreement").
2.2.Hiệp ước ATC
Hiệp ước ATC có những điểm chính sau đây:
a) phạm vi rộng vì bao gồm sợi, vải, thành phẩm (made-up articles) và
quần áo, tức là hầu hết ngành may dệt, chỉ loại trừ các nguyên liệu thô,
b) một lịch trình sát nhập dần dần những mặt hàng ấy vào khuôn khổ các
điều lệ của Hiệp ước GATT 1994, và song song,
c) một lịch trình tự do hoá qua đó các hạn ngạch được gia tăng theo từng
giai đoạn cho đến khi được bãi bỏ,
d) một cơ cấu phòng chống tạm thời đặc định (specific transitional
safeguard) cho trường hợp các ngành sản xuất nội địa có thể bị tổn hại trong
thời gian quá độ.
e) một Cơ quan Giám sát Hàng dệt (Textiles MonitoringBody -TMB)
được thành lập để đảm bảo là mọi qui định được tuân thủ.TMB có nhiệm vụ
báo cáo hoạt đồng và tiến triển của các lịch trình lên Hội đồng mậu dịch hàng
hoá (Council for Trade in Goods -CTG), là bộ phận của WTO kiểm soát sự
thi hành Hiệp ước ATC. Khác với thời MFA, các tranh chấp không thuộc
thẩm quyền của TMB mà phải đưa lên Cơ quan Giải quyết Tranh chấp
(Dispute Settlement Body - DSB).
6
Tuy WTO đã có một hiệp ước riêng cho các biện pháp phòng chống

(Agreement on Safeguards - SG) nhưng Hiệp ước ATC vẫn dành một điều
khoản (điều lệ 6) cho phép các nước nhập khẩu dùng đến biện pháp này theo
điều kiện khác, ngoại lệ so với Hiệp ước SG: trong khi SG qui định là các
biện pháp phòng chống phải áp dụng cho tất cả mọi nguồn, theo nguyên tắc
không phân biệt đối xử, ATC cho phép nước nhập khẩu áp dụng một biện
pháp "đặc định", tức là chỉ nhắm một đối tượng, nếu xác định được là đối
tượng ấy đã gây ra tổn hại cho mình tuy rằng sự gia tăng nhập khẩu là từ mọi
nguồn. Lý do là vì ATC không cho phép áp đặt hạn ngạch mới, nên các nước
ngày trước không tham gia MFA (phi hạn ngạch) vẫn phải có cách tự vệ. Cơ
cấu phòng chống ATC vận hành như sau: nước nhập khẩu, khi thấy cần bảo
vệ thị trường của mình, yêu cầu nước xuất khẩu hội ý với mình. Hai bên có
thể thoả thuận một biện pháp giới hạn nhập khẩu. Thoả thuận này cũng như
yêu cầu hội ý đều phải được thông báo lên TMB. Nếu không đi đến thoả
thuận, nước nhập khẩu có thể trình lên TMB một đề nghị giới hạn đơn
phương. TMB có 30 ngày để điều tra và đưa ra khuyến cáo. Nếu hai bên vẫn
không đồng ý thì có thể kiện nhau trước DSB. Vì mọi giai đoạn đều đặt dưới
sự giám sát của TMB, một cơ quan đa phương, nên cơ cấu này, tuy hãy còn vi
phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử, ít ra cũng trong suốt hơn các hạn
ngạch song phương, chỉ có hai nước liên can là biết với nhau. Mặt khác, để
tránh việc nước nhập khẩu lạm dụng và biến phòng chống thành một thứ hạn
ngạch "chui", các biện pháp này cũng "tạm thời" tức là chỉ có thể áp dụng
trong 3 năm, không gia hạn. ATC dùng chữ "transitional" thay vì
"temporary" cũng để nhắc lại yếu tố quá độ của cả Hiệp ước.
Từ 1995 đến 2001, có 53 biện pháp phòng chống thông báo lên TMB,
trong đó một nửa (26) là do Mỹ, phần còn lại do các nước châu Mỹ la tinh.
Điều đáng nói là trong năm đầu, 1995, đã có 23 biện pháp, toàn bộ là của Mỹ,
khiến ai cũng phải hoảng hốt, từ các nước xuất khẩu đến các nhà quan sát và
cả TMB. Nhưng sau đó thì ngoài 3 trường hợp của Mỹ và 1 của Ba Lan (năm
7
2001), chỉ có 4 nước châu Mỹ la tinh dùng đến điều lệ 6: Argentina, Brazil,

Ecuador, và Colombia. Cả 4 nước này đều là thành viên của tổ chức
International Textile and Clothing Bureau (ITBC) tại Genève. Tổ chức ITBC
cũng hoạt động tích cực trong ngành dệt may.
Sát nhập vào khuôn khổ GATT hay vào khung pháp lý của WTO chỉ có
nghĩa đơn giản là bãi bỏ hạn ngạch, để hàng may dệt không còn là biệt lệ
trong luật WTO. Lịch trình sát nhập được ấn định như sau:
Bảng 1 - Lịch trình sát nhập vào GATT 1994
Giai đoạn Kỳ hạn
Tỷ lệ sát nhập tối thiểu
(tính trên khối lượng
nhập năm 1990)
Giai đoạn 1 1.1.1995 16% (còn lại 84%)
Giai đoạn 2 1.1.1998 17% (còn lại 67%)
Giai đoạn 3 1.1.2002 18% (còn lại 49%)
Giai đoạn 4 1.1.2005 100%
Nguồn: Văn phòng WTO
Đây là đầu mối của nhiều tranh cãi. Trước hết, nhiều nước nhập khẩu thi
hành chậm hơn qui định: chẳng hạn Ấn Độ than phiền là cho đến tháng 6 năm
2004, khi giai đoạn 4 sắp chấm dứt, Mỹ mới chỉ bãi bỏ 103 hạn ngạch trên
tổng số 937, tức là còn lại những 89% ! Sau đó, ngay cả cấu trúc của lịch trình
cũng gây vấn đề. Đầu tiên, tỷ lệ sát nhập tính trên khối lượng chứ không phải
trị giá nên trong hai giai đoạn đầu, các mặt hàng được chọn để đưa vào khung
pháp lý đa số là những hàng rẻ, những hàng cao cấp hơn vẫn bị giới hạn.
Ngoài ra, vì những tỷ lệ của 3 giai đoạn đầu tương đối thấp, số còn lại dồn
cho giai đoạn chót lên tới 49%, có nghĩa là ngay cả khi các nước chấp hành
nghiêm chỉnh, cũng vẫn còn gần một nửa công cuộc tự do hoá sẽ xảy ra cùng
một lúc vào ngày 1.1.2005. Không khác gì một thứ "big bang"! Hơn nữa, vì
các nước nhập khẩu có toàn quyền chọn các mặt hàng cho 3 giai đoạn sát
nhập đầu tiên, đại đa số 49% (hoặc hơn!) này là những hàng "mẫn cảm" nhất
về mặt chính trị.

8
Tự do hoá có nghĩa là các hạn ngạch còn tồn tại sẽ phải được gia tăng
mỗi năm, như thời MFA. Tuy nhiên, thay vì cố định như tỷ lệ MFA, tỷ lệ
ATC cũng tăng dần với thời gian, cho đến kỳ hạn cuối cùng, theo lịch trình
sau đây:
Bảng 2 - Lịch trình tự do hoá hạn ngạch
Năm Tỷ lệ gia tăng Khối lượng (đơn vị)
1994 6% (như theo qui định
của MFA)
Thí dụ: 1000 đơn vị
1995
1996
1997
(6% x 1,16)
6,96%
6,96%
6,96%
1 070
1 144
1 224
1998
1999
2000
2001
(6,96% x 1,25)
8,70%
8,70%
8,70%
8,70%
1 330

1 446
1 572
1 709
2002
2003
2004
(8,70% x 1,27)
11,05%
11,05%
11,05%
1 898
2 108
2 340
Nguồn: Văn phòng WTO

Như thế, một hạn ngạch nếu được nâng cao đúng theo qui định của
MFA, tức 6% một năm, sẽ tăng 79% sau 10 năm, nhưng nếu theo các tỷ lệ
của ATC, thì tăng 134% tức là hơn gấp đôi.
Tuy nhiên đây là trường hợp lý tưởng vì trong thực tế, đa số các tỷ lệ gia
tăng ấn định trong các thoả thuận song phương thấp hơn, thường chỉ từ 3% đến
9
6%, nên ngay cả khi nước nhập khẩu chấp hành nghiêm chỉnh lịch trình trên, hạn
ngạch cũng chỉ tăng lên có chừng mực thôi. Mặt khác các nước xuất khẩu cũng
than phiền là các hạn ngạch có tỷ lệ cao nhất, tức là sẽ được tự do hoá nhiều nhất,
cũng ít được dùng đến nhất vì gồm những mặt hàng ít có lợi cho họ.
Ngoài những buổi họp thường lệ, TMB cũng tổng kết và đánh giá tình
hình sau mỗi giai đoạn của các lịch trình. Vì việc thực thi các hiệp ước của
vòng Uruguay, trong đó có Hiệp ước ATC, là một trong những mối bất đồng
giữa các thành viên, nên Hội nghị Bộ trưởng của WTO tại Doha năm 2001
cũng thông qua một quyết định về vấn đề này, trong đó đưa ra hai đề nghị cho

ngành dệt may để mở rộng thị trường bằng cách tính các tỷ lệ gia tăng hạn
ngạch theo phương pháp khác. Hội đồng CTG có nhiệm vụ bàn bạc và trình
kết luận lên Tổng Hội đồng (General Council), cơ quan tối cao của WTO,
trước cuối tháng 7 năm 2002. Tuy thế các nước thành viên vẫn không đi đến
đồng thuận trong năm 2003 và các cuộc họp vẫn tiếp tục trong năm nay.
Chỉ còn vài tháng nữa là Hiệp ước ATC sẽ chấm dứt, cùng lúc cáo chung
một biệt lệ kéo dài từ năm 1960 cho đến nay. Song, càng gần đến kỳ hạn này,
càng có nhiều tiếng kêu bi thương, cảnh báo là sẽ có khủng hoảng trầm trọng
trong nhiều nước sau khi các hạn ngạch được bãi bỏ. Tháng 6.2004, khoảng
90 công ty và hiệp hội dệt may của 49 nước, cả nhập khẩu lẫn xuất khẩu, sau
khi họp một hội nghị thượng đỉnh về công bình trong mậu dịch dệt may
("Summit on Fair Trade in Textiles and Clothing") tại Bruxelles (Bỉ), viết thư
cho ông Supachai Panitchakdi, Tổng Giám Đốc WTO, yêu cầu gia hạn Hiệp
ước ATC thêm 3 năm, cho đến 31.12.2007, vì họ sẽ không thể cạnh tranh nổi
với các nước như Ấn Độ và Trung Quốc khi thị trường hoàn toàn mở cửa.
Theo họ, có nguy cơ 30 triệu người sẽ mất việc trên thế giới và thậm chí một
số nước sẽ bị phá sản. Họ cũng yêu cầu WTO mở một cuộc họp khẩn cấp, trễ
nhất là ngày 1.7.2004, để xem xét các vấn đề họ nêu lên trong một tài liệu gửi
kèm, gọi là " Tuyên Ngôn Istanbul". Cùng lúc, các lobbies Mỹ vận động được
117 đại biểu và thượng nghị sĩ Mỹ (trong đó có John Kerry, ứng cử viên tổng
10
thống) yêu cầu tổng thống Bush can thiệp cho cùng mục đích. Các nhà sản
xuất nội địa các nước nhập khẩu lo lắng đã đành, điều đáng ngạc nhiên là liên
minh với họ lại là một số nước xuất khẩu, phản đối một điều mà chính phía
bên họ đòi hỏi từ hơn 40 năm nay.
II. Tình hình xuất khẩu dệt may của Việt Nam trong thời gian qua.
1. Kim ngạch xuất khẩu.
Dệt may là một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta trong
những năm gần đây, đóng góp quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, dệt may Việt Nam đã vươn

lên trở thành nghành công nghiệp lớn đứng thứ 2 đất nước. Trong mấy năm
gần đây kim ngạch xuất khẩu dệt may luôn dẫn đầu nhóm các mặt hàng xuất
khẩu chủ lực của ta (trừ dầu thô) với tốc độ tăng trưởng luôn đạt ít nhất là
10%. Tuy nhiên sau sự kiện hiệp định dệt may trong khuôn khổ WTO kết
thúc, ngành dệt may của Việt Nam đã có những biến động nhất định
Bảng3: Kim ngạch xuất khẩu dệt may
Đơn vị tính: Triệu USD
Năm Kim ngạch xuất khẩu Tỷ lệ tăng trưởng (%)
2000 1.892
2001 1.972 4,23
2002 2.752 39.55
2003 3.678 36,65
2004 4.3 16,19
2005 4.82 10,17
Quý I/2006 1.36 Tăng 40% so với cùng kì năm ngoái.
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn vào bảng trên ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng: Ngành dệt may của
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng rất lớn tuy nhiên lại không hề ổn định và
chứa nhiều bấp bênh. Năm 2002, 2003, 2004 là những năm mà dệt may Việt
Nam đã thu được những thành tựu lớn lao, kim ngạch xuất khẩu đã không
những hoàn thành chỉ tiêu mà còn vượt mức kế hoạch đặt ra sở dĩ đạt được
tốc độ tăng trưởng trên là do ngành dệt may Việt Nam có một số lợi thế như
11
nguồn lao động dồi dào, khéo tay, chi phí lao động không cao, các doanh
nghiệp Việt Nam đã xây dựng và giữ được chữ tín trong kinh doanh với nhiều
nhà nhập khẩu lớn trên thế giới. Tuy nhiên đến năm 2005 tuy vẫn đạt tỷ lệ
tăng trưởng trên 10% nhưng đây vẫn là con số không mấy khả quan đối với
ngành dệt may Việt Nam. Nguyên nhân đó là từ 1/1/2005 các nước thành viên
của tổ chức thương mại thế giới (WTO) bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu dệt may
cho nhau, thì ngành dệt may Việt Nam lại vẫn chịu sức ép của hạn ngạch do

chưa phải là thành viên của WTO. Đặc biệt là trên thị trường Mỹ, thị trường
xuất khẩu chính của Việt Nam. Tuy nhiên đó không phải lí do chính ví dụ như
trên thị trường EU mặc dù EU không áp dụng hạn ngạch đối với Việt Nam
nhưng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này vẫn không những không tăng
mà còn có sự sụt giảm. Giải thích cho lí do này nhiều chuyên gia cho rằng
ngành dệt may Việt Nam rất có ít lợi thế cho sự phát triển bền vững, đặc biệt
là các ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển tương xứng. Điều đó góp
phần lý giải tại sao các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải chấp nhận gia công
xuất khẩu là chính (chiếm tới 70-80% kim ngạch), hình thức thương mại bán
sản phẩm chiếm tỷ trọng rất khiêm tốn.
Mặt khác, xu thế toàn cầu hóa thương mại cùng với sự phát triển mạnh
mẽ cảu khoa học công nghệ đang đặt ngành dệt may Việt Nam trước những
áp lực và thách thức to lớn. Dù Việt Nam trở thành thành viên tổ chức WTO,
trong những năm tới ngành dệt may vẫn chưa thể phát triển nhanh và cạnh
tranh được với nhiều nước xuất khẩu khác nếu như các doanh nghiệp chưa
thực sự đổi mới mạnh mẽ trong cung cách tổ chức sản xuất kinh doanh của
mình.
2. Thị trường xuất khẩu.
Cho đến đầu những thập niên, ngành dệt may của ta chủ yếu vẫn xuất khẩu
sang hai thị trường chính là Liên Xô và Đông Âu. Khi khối xã hội chủ nghĩa
Đông Âu sụp đổ vào năm 1990 đã gây rất nhiều khó khăn cho tất cả các mặt hàng
xuất khẩu của Việt Nam trong đó có ngành dệt may. Vấn đề đặt ra lúc bấy giờ là
12
tìm kiếm thị trường thay thế cho ngành dệt may Việt Nam. Sự chuyển hướng này
đến cùng một lúc với một số cải cách kinh tế trong khuôn khổ chính sách đổi mới
kinh tế áp dụng từ năm 1986 đã tạo điều kiện tốt cho dệt may Việt Nam dần dần
hội nhập vào thị trường thế giới. Từ năm 1992 đến năm 2000, Việt Nam đã có
những hiệp định dệt may quan trọng với hai thị trường lớn đó là EU và Mỹ.
Tháng 12/1992 Việt Nam ký với liên hiệp Châu Âu một hiệp định thương mại có
hiệu lực từ năm 1993, ấn định một số hạn ngạch cho xuất khẩu quần áo. Hiệp định

này được sửa 3 lần sau đó, lần sửa cuối cùng là vào tháng 4/2004 và áp dụng đến
cuối năm 2005. Năm 2000, Việt Nam ký với Mỹ hiệp định thương mại song
phương, gọi tắt là USBTA. Theo hiệp định này, ngành dệt may được đăc biệt lợi:
bình quân thuế suất giảm từ 60% xuống 5%. Do đó kim ngạch xuất khẩu Việt
Nam liên tục tăng và trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong
những năm gần đây.
Bảng 4:Một số thị trường chính của Việt Nam
Đơn vị: Triệu USD
Năm 200
0
2001 2002 2003 2004 2005
Mỹ 49 981 2,430 2,630
EU 845 875
Nhật Bản 521 605
Các thị trường khác
Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhìn vào số liệu từ bảng trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu sang các thị
trường chính của Việt Nam ngày càng tăng mạnh. Tại Thị trường Mỹ, từ năm
2001, hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đã mở cửa thị trường Mỹ
cho hàng dệt may Việt Nam, đồng thời kích thích thêm lượng tiêu thụ mặt
hàng này, và đã trở thành thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam trong thời
gian gần đây (luôn chiếm từ 50-60% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam). Theo số liệu thống kê của Hoa Kỳ, năm 2001 kim ngạch xuất
khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ mới chỉ đứng ở vị trí 70
trong tổng số gần 200 nước xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Mỹ, thì
13
đến năm 2002 đã vượt lên xếp thứ 23, năm 2003 bứt phá mạnh hơn, xếp thứ 8
và đến năm 2004, xếp vị trí ở vị trí thứ 6 vượt 64 bậc sau 3 năm. Theo sự
đánh giá của các chuyên gia người Mỹ chỉ có hàng Việt Nam mới có khả
năng cạnh tranh được với hàng của Trung Quốc tại thị trường này. Nhiều mặt

hàng của Việt Nam tại thị trường Mỹ còn thuộc loại cao nhất trong số các
nước xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này. Cụ thể năm 2001 đơn giá
xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam bình quân là 1,51 USD/m2 sản phẩm.
Đến năm 2004 tăng lên 3,14 USD/m2 sản phẩm. Trong khi hàng Trung Quốc
từ 2,96 USD/m2, tụt xuống còn 1,25 USD/m2.
Tại thị trường EU, mặc dù chính phủ hai nước đã xúc tiến những cơ hội
nhằm tăng sản lượng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này nhưng kim
ngạch xuất khẩu sang thị trường này vẫn còn rất kém. Tại thị trường EU, dệt
may Việt Nam đang đứng ở vị trí thứ 14. Việt Nam vẫn chưa chú trọng đến
thị trường đầy tiềm năng này do đó chưa có sự đầu tư thích đáng.
Tại thị trường Nhật, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam cũng không cao
mặc dù Nhật Bản là thị trường đối xử bình đẳng đối với hàng hóa các nước,
từ lâu đã không áp dụng hạn ngạch với hàng dệt may.


Biểu đồ1: Thị phần khách hàng của Việt Nam
14
3. Những khó khăn và thuận lợi của Việt Nam trong hoạt động xuất
khẩu dệt may của Việt Nam
3.1. Thuận lợi
Dệt may là một trong những ngành chủ lực của Việt Nam hiện nay vì nó
có những lợi thế về lao động và được sự hỗ trợ của chính phủ và nhà nước.
Những lợi thế chính của dệt may Việt Nam
- Chi phí lao động tương đối rẻ, trình độ tay nghề công nhân cao
- Nguồn lao động dồi dào có thể cung cấp một số lượng lớn lao động cho
ngành dệt may - một ngành đòi hỏi rất nhiều lao động
- Sản phẩm có chất lượng tốt được phần lớn các khách hàng khó tính
chấp nhận
- Các doanh nghiệp đã xây dựng được mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhiều nhà nhập khẩu và các khách hàng lớn

- Có nhiều thương hiệu uy tín chất lượng, tạo dựng được lòng tin các đối
tác
15
3.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, ngành dệt may còn phải đối mặt với nhiều
khó khăn.
Thứ nhất đó là: Ngành công nghiệp phụ trợ chưa phát triển tương xứng,
đặc biệt là khâu sản xuất vải nguyên liệu chính phục vụ cho sản xuất và xuất
khẩu. Cho đến nay ngoài lợi thế lao động ra, còn lại đều phải nhập khẩu với tỷ
lệ lớn như: 100% máy móc thiết bị, phụ tùng; 100% xơ sợi hoá học; 90%
bông xơ thiên nhiên chủ yếu nhập từ Mỹ; 70% vải các loại; 67% sợi dệt.
Nhập khẩu các loại phụ liệu như chỉ may, mẽ dựng, khóa kéo cũng chiếm từ
30% đến 70% tổng nhu cầu. Đây là một trong những điểm yếu nhất làm hạn
chế khả năng cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam so
với các cường quốc xuất khẩu dệt may như: Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan
Thứ hai: Xét về quy mô, phần lớn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
thuộc loại vừa và nhỏ. Nếu phân tích theo tiêu chí lao động thì có tới 80%
doanh nghiệp sử dụng dưới 300 lao động, theo vốn thì có tới 90% dưới 5 tỷ
đồng. Do quy mô vừa và nhỏ các doanh nghiệp đã không đáp ứng được các
yêu cầu về dây chuyền sản xuất, vốn đầu tư vào khâu thiết kế, xây dựng
thương hiệu nên năng suất thường thấp, không đứng vững được trên thị
trường quốc tế. Hầu hết vẫn phải tiến hành may gia công, xuất khẩu dưới
thương hiệu của các công ty nước ngoài. Thậm chí với quy mô vừa và nhỏ
như vậy, nếu không liên kết với một số doanh nghiệp lớn thì những doanh
nghiệp này cũng khó có khả năng tồn tại trong điều kiện hội nhập.
Thứ ba: Đội ngũ lao động đông đảo nhưng hầu hết có tay nghề trung
bình, năng suất thấp, rất ít lao động có trình độ cao làm cho năng suất toàn
ngành cũng không cao. Ngành may Việt Nam hiện nay thiếu khaỏng 30%
nhân công lành nghề. Nếu một nhà máy có sức thu hút 1 ngàn công nhân,
nhưng chỉ thu hút được 700 công nhân còn 300 máy còn lại bắt buộc phải để

không. Tệ hơn nữa có nhiều nhà máy chỉ thuê được từ 30 tới 50% nhân công
cần thiết, số máy cần thiết đành để trống do đó sẽ rất là lãng phí. Với xu thế
16
toàn cầu hoá như hiện nay, với trình độ lao động thấp như vậy, ngành dệt may
Việt Nam sẽ không thể cạnh tranh được với đội ngũ lao động lành nghề ở các
nước lớn như Trung Quốc thậm chí ngay cả đối với các nước nhỏ như Thái
Lan, Indonesia thì việc cạnh tranh cũng là rất khó khăn.
Thứ tư: Thiết kế yếu kém làm cho hàng Việt Nam vừa thiếu mẫu mã lại
không đa dạng về chủng loại. Điều này cũng dễ hiểu, vì qui mô nhỏ nên các
doanh nghiệp không chú trọng đến việc đầu tư vào khâu thiết kế, chưa có đội
ngũ thiết kế riêng biệt cho nên các mẫu mã đưa ra thị trường thường là những
mẫu mã ăn theo hoặc rập khuôn. Nhìn chung ngoài những doanh nghiệp lớn
đã bắt đầu chú ý đến khâu thiết kế thì còn lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ
vẫn chưa nhận thức được tầm quan trọng của khâu thiết kế nhằm nâng cao
sức cạnh trạnh của mình.
Thứ năm: kỹ năng quản trị và kỹ năng tiếp cận thị trường còn yếu làm
cho khả năng xâm nhập các thị trường lớn như Mỹ và EU còn thấp. Chưa nắm
bắt được các cơ hội
Thứ sáu: Việc phân bổ hạn ngạch còn nhiều bất cập, chưa thật sự rõ ràng
và minh bạch gây nhiều sự lúng túng cho các doanh nghiệp trong việc đẩy
mạnh xuất khẩu. Dẫn đến việc nhiều nhà xuất khẩu không có hạn ngạch trong
khi nhiều doanh nghiệp còn hạn ngạch nhưng lại không đủ khả năng xuất
khẩu. Đây cũng là một trong những lí do làm cho kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam không cao và tình trạng tham ô, tham nhũng ngày càng nhiều ở
Việt Nam.
III. Tác động của việc chấm dứt hiệu lực hiệp định dệt may đối với hoạt
động xuất khẩu của Việt Nam.
1. Tác động của việc chấm dứt hiệu lực của hiệp định dệt may đối với
hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2005
Ngày 1/1/ 2005 tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã bãi bỏ hạn

ngạch dệt may theo hiệp định đa sợi MFA có hiệu lực suốt 30 năm qua, đánh
dấu một sự kiện quan trọng trong ngành dệt may, đồng thời cũng đánh dấu
một bước tiến quan trọng của xu thế tự do hoá thương mại Quốc tế. Sự kiện
17
này có tác động rất khác nhau đến các quốc gia có liên quan, nó sẽ mở ra cơ
hội nhưng cũng nảy sinh những khó khăn, thách thức mới cho các nước sản
xuất, kinh doanh mặt hàng dệt may. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển
có nguồn thu ngoại tệ chủ yếu dựa vào mặt hàng xuất khẩu này (trong đó có
Việt Nam) thì 1 mặt sẽ phải đối phó với những hình thức bảo hộ mới mà Mỹ
và liên minh Châu Âu (EU) áp dụng, mặt khác phải chịu sức ép cạnh tranh
gay gắt với nhau dẫn đến những thiệt hại nặng nề do mất thị phần, suy giảm
giá trị kim ngạch xuất khẩu và tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Không nằm ngoài qui luật đó, Việt Nam đã phải đối mặt với rất nhiều
khó khăn và thử thách trong năm 2005. Có thể nói năm 2005 năm bản lề cho
ngành dệt may Việt Nam và cũng là năm chứng kiến nhiều sự biến động nhất
của dệt may trong mấy năm qua. Theo thứ trưởng Công nghiệp Bùi Xuân
Khu, trong suốt những tháng đầu năm 2005, tình hình thế giới đã có những
biến động bất lợi cho hàng dệt may Việt Nam. Tất cả các nước tham gia WTO
đều được dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may, trong khi đó, hàng dệt may
Việt Nam vẫn phải chịu hạn ngạch, nhất là thị trường Mỹ. Các chi phí nguyên
vật liệu đầu vào tăng cao như bông xơ, hóa chất, thuốc nhuộm, trong khi giá
xuất khẩu và tiêu thụ nội địa không tăng, thậm chí các doanh nghiệp phải
giảm giá thành để cạnh tranh. Chính điều này đã làm cho kim ngạch xuất
khẩu dệt may trong 7 tháng đầu năm 2005 chỉ đạt 2,54 tỷ USD và đã thực sự
gây sốc cho giới doanh nghiệp và các nhà quản lý. Trên tất cả các thị trường
lớn kim ngạch xuất khẩu dệt may đều giảm
Tại thị trường Mỹ, các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch sang thị trường
Mỹ chỉ đạt 783 triệu USD, giảm gần 10% so với năm 2004 nguyên nhân chủ
yếu là do xuất khẩu của các nước khác đã tăng mạnh ở một số mặt hàng chủ
lực của ta như áo thun và quần (cat. 338/339 và cat. 347/348- tỷ lệ thực hiện

chỉ đạt xấp xỉ 78% so với cùng kì năm 2004). Tuy nhiên điều gây sốc lớn lại
chính là sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU trong đó một số
thị trường chính giảm đáng kể như tại Đức giảm 20,6%; tại Pháp và Tây Ban
18
Nha giảm 30%, Ý giảm 39%. Mặc dù đã được EU dỡ bỏ hạn ngạch cho Việt
Nam vào ngày 1/1/2005 cùng thời điểm WTO bãi bỏ hạn ngạch dệt may
nhưng hàng Việt Nam đã mất thị phần do sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng
dệt may Ấn Độ, Trung Quốc, Paskistan…Điều đó cho thấy sức cạnh tranh của
dệt may Việt Nam thực sự có vấn đề. Tuy nhiên cho đến tháng 8 dệt may Việt
Nam dần dần lấy lại được đà tăng trưởng bằng những biện pháp điều chỉnh
khá kịp thời nhằm đối phó với những khó khăn trong “thời hậu hạn ngạch”.
Kết thúc năm 2005, kim ngạch dệt may Việt Nam đã đạt được 4,82 tỷ USD –
tuy không hoàn thành chỉ tiêu đề ra nhưng thực sự cũng rất vui vì Việt Nam
đã vượt qua được những khó khăn thách thức một cách êm thấm, đặc biệt là
trước sự cạnh tranh gay gắt của Trung Quốc. Tuy nhiên những thách thức lớn
vẫn còn ở phía trước và chúng ta vẫn phải có những biện pháp thích hợp để
vượt qua được những thách thức đó.
2. Những biện pháp ứng phó của ngành dệt may trước những tác động
trên.
2.1. Cổ phần hóa các doanh nghiệp
Nhằm tạo thêm sự năng động , chủ động hơn cho doanh nghiệp trong sản
xuất kinh doanh, khắc phục những yếu kém và tìm kiếm thị trường mới.
Chính sách nhất quán của Việt Nam là tiến hành cổ phần hóa toàn bộ các
daonh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực dệt may. Kết quả là, từ hơn
400 doanh nghiệp nhà nước, đến nay chỉ còn khoảng 51 doanh nghiệp. Dự
kiến toàn bộ các doanh nghiệp sẽ được cổ phần hoá vào năm 2007. Số doanh
nghiệp tư nhân sẽ tăng nhanh lên trên 1500 doanh nghiệp và số doanh nghiệp
FDI có khả năng tăng lên khoảng 500 doanh nghiệp vào năm 2006. Với chính
sách nhất quán này, sau một thời gian khó khăn thời hậu hạn ngạch, dệt may
Việt Nam đã nhanh chóng tìm ra được những hướng đi mới đưa kim ngạch

xuất khẩu dệt may tăng nhanh và dần lấy lại vị thế của mình trên thị trường
thế giới.
19
2.2. Phân bổ lại hạn ngạch
Như ta đã biết câu chuyện thời sự nhất của dệt may trong thời gian qua
vẫn là sự lúng túng của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc phân bổ lại
hạn ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ - thị trường chiếm 50% tổng giá
trị xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân chính dẫn đến sự sụt giảm tốc độ tăng kim ngạch nói chung và trên thị
trường Hoa Kỳ nói riêng trong thời kỳ đầu hậu hạn ngạch (tức 7 tháng đầu
năm 2005). Nhằm khắc phục tình trạng này và giảm áp lực cho các doanh
nghiệp, liên bộ thuơng mại-công nghiệp đã áp dụng cấp vía tự động cho 17/25
cat và mới đây thêm 2 cat khá “nóng” là 347/348 và 647/648, bắt đầu áp dụng
từ 1-7 đến 31/8/2005. Trong vòng 3 tháng kể từ khi qui định chuyển nhượng
hạn ngạch có hiệu lực, có khaỏng 703 hơp đồng chuyển nhượng, trong đó cat
được chuyển nhượng nhiều nhất là cat 338/339 với 201 hợp đồng. Việc làm
này tuy không giúp cho các doanh nghiệp ký thêm hợp đồng mới (vì không
nhà nhập khẩu nào dám mạo hiểm kí hợp đồng khi đối tác không chắc có đủ
hạn ngạch hay không) nhưng sé giúp các doanh nghiệp giải quyết các đơn đặt
hàng tồn đọng. Mặt khác chính sách cấp vía tự động của liên bộ thương mại
và công nghiệp đã góp phần tích cực để các doanh nghiệp chủ động ký đơn
hàng trong những tháng đầu năm 2006. Đây là cơ hội cho ngành dệt may sàng
lọc và hình thành nên các chuỗi doanh nghiệp để cùng khai thác đơn hàng
lớn. Vì với những đơn hàng lớn, một doanh nghiệp không thể đáp ứng hết
được trong một thời gian ngắn do vậy cần có sự phân công trong chuỗi để
cùng tham gia thực hiện. Cũng trong quá trình phân công này, sẽ hình thành
sự chuyên môn hóa trong sản xuất, vốn rất cần trong ngành dệt may để khai
thác tối đa tay nghề, thiết bị sẵn có của từng doanh nghiệp nhằm nâng cao
năng suất lao động, cơ bản giảm giá thành để cạnh tranh.
Tuy nhiên để tạo điều và nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam

trong giai đoạn tới, liên bộ cần phân bổ hạn ngạch 2006 đợt đầu tiên vào
20
tháng 9 tới, dựa vào thành tích xuất khẩu của năm trước của doanh nghiệp và
có năm chỉ nên có 2-3 đợt phân bổ.
2.4. Xây dựng dự án trung tâm nguyên phụ liệu dệt may.
Dệt may là ngành công nghiệp xuất khẩu chủ lực của Quốc gia. Tuy
nhiên đến thời điểm này Việt Nam vẫn chưa có đầu mối chuyên cung cấp
nguyên vật liệu và hình thành phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu nhập
khẩu từ nước ngoài. Chính nhân tố này đã làm cho năng lực cạnh tranh của
Việt Nam thua kém so với nhiều nước khác và cũng làm cho giá trị thực thu
của hàng dệt may là không cao. Nhằm đáp ứng mong muốn của các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam, vào cuối quí 3 năm 2005 đã khởi công 2 dự án
trung tâm trung tâm thương mại nguyên phụ liệu dệt may tại Long An cách
Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 22 km và tại khu công nghiệp trọng điểm
thuộc huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Đây sẽ là nơi cung cấp đa dạng các loại
nguyên phụ liệu ngành may có giá bán rẻ hơn từ 5%-25% so với giá thị
trường bao gồm: bông, vải, sợi Trong đó, phụ liệu ngành may có 200 chủng
loại, 50 chủng loại hoá chất, thuốc nhuộm và 100 chủng loại phụ tùng thiết bị
dệt may. Mặt khác sự ra đời của các trung tâm nguyên phụ liệu về dệt may sẽ
đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước hiện nay. Doanh
nghiệp chủ động được trong việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu chế biến và làm
hàng bán thành phẩm FOB để nâng cao giá trị xuất khẩu, dần thay thế nguyên
phụ liệu nhập khẩu bằng nguyên phụ liệu trong nước. Đồng thời nó sẽ tạo
điều kiện hình thành chuỗi liên kết giữa các nhà sản xuất cùng ngành hàng để
đáp ứng những đơn hàng khổng lồ theo yêu cầu của đối tác. Lúc này sản
phẩm dệt may của Việt Nam sẽ tăng khả năng cạnh tranh nhưng giảm bớt
được các chi phí đầu vào.
Việc xây dựng 2 trung tâm nguyên phụ liệu dệt may ngay sau khi hiệu
lực của hiệp định dệt may trong khuôn khổ WTO chấm dứt là việc làm đúng,
có tác dụng rất lớn đối với ngành dệt may và cũng là nhân tố góp phần phát

triển dệt may Việt Nam bền vững.
21
3. Dự báo cơ hội và thách thức của Dệt may Việt Nam trong giai đoạn
tới.
3.1. Cơ hội
Việc Trung Quốc bị tái áp đặt hạn ngạch xuất khẩu tại EU và MỸ sẽ mở
ra những cơ hội mới cho dệt may Việt Nam. Các doanh nghiệp trong nước sẽ
chủ động hơn trong việc khai thác nguồn khách hàng đang có. Đồng thời sự
chuyển dịch đơn hàng sản xuất từ Trung Quốc về Việt Nam gần như là chắc
chắn khi Việt Nam đã và đang được các bạn hàng nước ngoài cho điểm khá
cao về độ tín nhiệm, sự ổn định và tay nghề lao động. Tại thị trường Mỹ: Ba
cat nóng mà Mỹ tái áp đặt hạn ngạch với Trung Quốc là 338/339 (áo sơ mi
nam nữ dệt kim, chất liệu bông), 347/348 (quần nam, nữ chất liệu bông) và
352/652 (đồ lót chất liệu bông và sợi nhân tạo). Ba cat nóng này của Trung
Quốc cũng chính là các cat nóng của dệt may Việt Nam hiện nay xuất khẩu
vào thị trường Mỹ: cat 338/339 chiếm gần 50%, cat 347/348 cũng chiếm gần
20%. Theo nhận định của Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam Lê Quốc Ân
thì đây là “một cơ hội ngắn, tức thời, cần phải tận dụng ngay”
Thế nhưng cơ hội này sẽ vượt khỏi tầm tay và ngược lại còn bị mất hạn
ngạch của chính mình (đặc biệt là trên thị trường Mỹ), nếu ngay từ bây giờ
các cơ quan chức năng, cụ thể là: hải quan cửa khẩu, bộ thương mại không
siết chặt quản lỹ, kiểm tra hòng ngăn ngừa tình trạng chuyển tải bất hợp pháp,
sử dụng C/O (giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa) từ Việt Nam để “tranh thủ”
nguồn gốc xuất khẩu vốn bị khống chế như Trung Quốc.
Mặt khác theo ông Diệp Thành Kiệt, Tổng thư ký Hội may thêu đan
Tp.Hồ Chí Minh dự báo: Trong thời gian tới, nhiều nhà nhập khẩu dệt may
của Nhật sẽ chuyển đơn đặt hàng từ Trung Quốc sang Việt Nam. Đây sẽ là
một cơ hội không dễ gì có được để các doanh nghiệp dệt may tận dụng cơ hội
để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này. Theo ông Diệp Thành Kiệt, dự
báo khả năng tăng trưởng hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Nhật trong

giai đoạn tới là hoàn toàn có cơ sở bởi 2 lí do. Thứ nhất, khi là thành viên
chính thức của WTO và được xóa bỏ hạn ngạch, Trung Quốc sẽ không mặn
22
mà với thị trường Nhật bởi thị trường này khó tính mà đơn hàng không lớn
như Hoa Kỳ (mặc dù đã bị Hoa Kỳ tái hạn ngạch nhưng khả năng tăng trưởng
của Trung Quốc tại thị trường này vẫn rất lớn), nhiều nhà nhập khẩu hàng dệt
may Nhật đã nhắm đến thị trường Việt Nam. Và thực tế đang diễn ra như vậy.
Thứ hai là do mối quan hệ Nhật-Trung căng thẳng do những xung đột về
chính trị, văn hóa, lịch sử đang diễn ra trong thời gian gần đây, trong đó giới
doanh nhân Nhật Bản sẽ gánh chịu nhiều rủi ro trực tiếp. Những sự kiện này
được đánh giá là sẽ tốn nhiều thời gian và công sức để hàn gắn
Chỉ cần khách hàng Nhật chuyển 10% số đơn hàng dệt may đang sản
xuất tại Trung Quốc sang Việt Nam là chúng ta đã có trên 1 tỷ đồng. Tuy
nhiên thị trường Nhật là một thị trường vô cùng khó tính và khắt khe, vì vậy
tận dụng được cơ hội này cần có sự giúp đỡ từ các cấp, các ngành và sự nỗ
lực của các doanh nghiệp Việt Nam.
3.2.Thách thức
Năm 2005 đã qua một cách êm thấm không để lại hậu quả nhiều nhưng
để lại cho năm 2006 và giai đoạn tói những khó khăn và thách thức rất lớn
Thứ nhất: Đó là vấn đề hạn ngạch. Như ta đã biết, hạn ngạch đã từng
cho phép các nước kém phát triển tiếp cận thị trường của các nước giàu thông
qua lợi thế căn bản của mình là giá lao động thấp. Nhưng khi dỡ bỏ hạn ngạch
các nước kém phát triển sẽ bị bất lợi rất nhiều ngay cả khi đang là thành viên
của WTO. Vì nó sẽ dẫn đến sự cạnh tranh giá cả giữa các nước nghèo. Tham
gia vào sân chơi chung, Việt Nam vẫn còn là kẻ đứng ngoài cuộc chơi WTO
nên vẫn phải chịu hạn ngạch. Còn hạn ngạch thì còn nhiều khó khăn vì mọi
biến động liên quan đến phân bổ hạn ngạch và sử dụng hạn ngạch đều có thể
ảnh hưởng đến kế hoạc kinh doanh của khách hàng buộc khách hàng khi đặt
hàng tại Việt Nam phải tính toán rất kĩ.
Tuy vậy việc phân bổ hạn ngạch hợp lí và đúng lúc đang là bài toán đau

đầu đối với các nhà quản lý và là nỗi lo lắng đối với các doanh nghiệp Việt
Nam. Đây cũng chính là khó khăn và là thách thức lớn nhất của dệt may Việt
23
Nam trong giai đoạn hiện nay nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường
Hoa Kỳ nói riêng và thị trường thế giới nói chung.
Thứ hai: Việt Nam cũng sẽ và tiếp tục đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt
từ các cường quốc dệt may như Trung Quốc, Ấn Độ và gần nhất là các nước
trong khối ASEAN: Indonexia, Thái Lan Tuy vậy theo đánh giá của các
chuyên gia thì Trung Quốc vẫn là quốc gia cạnh tranh hàng đầu với Việt Nam
về chất lượng và giá cả. Do Trung Quốc chủ động được nguyên liệu; Bông họ
trồng được, xơ kéo được, hóa chất nhuộm, thiết bị phụ tùng sản xuất được.
Bốn thuận lợi đó của Trung Quốc cũng là bốn nguy cơ của ngành dệt may
Việt Nam. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường nói với nhau: “khó
nhất cây bông, khó nhì làm vải”. Đây cũng chính là nguyên nhân chính làm
cho hàng hóa Trung Quốc vừa đa dạng về chủng loại, mẫu mã vừa có giá rẻ
nhất thế giới.
Thứ ba: Điều thách thức lớn nhất của dệt may Việt Nam hiện nay đó là
chưa thể có được một giá cạnh tranh so với các nước trong khu vực và trên
thế giới. So với các mặt hàng cùng loại, đơn giá của doanh nghiệp Việt Nam
vẫn cao hơn từ 20-30% so với Trung Quốc, Ấn Độ. Ví dụ như một bộ
complet, Trung Quốc bán tại Việt Nam với giá 70,000 VND, áo sơ mi chỉ có
giá 15,000 rẻ hơn sản phẩm cùng loại, xuất xưởng của Việt Nam đến 50%.
Thậm chí hiện nay cũng có rất nhiều nước cũng đang sản xuất nhiều mặt hàng
có giá cạnh tranh như: Bangladesh, Paskistan Đây sẽ là một thách thức rất
lớn đối với Việt Nam trong thời kì hậu hạn ngạch, làm thế nào để giá cạnh
tranh trong khi hầu hết các nguyên phụ liệu phải nhập khẩu với giá cao, trong
khi một số chi phí khác cũng có xu hướng ngày càng đắt đỏ hơn như: phí thuê
văn phòng, vận chuyển, điện…
Thứ 4: Ảnh hưởng của thời “hậu hạn ngạch” hiện đã và đang diễn ra với
khá nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ

và vừa. Việt Nam chưa phải là thành viên của tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) nên chưa có những đơn hàng thật sự lớn. Một số doanh nghiệp lớn
24
vẫn có đơn hàng nhưng nhiều doanh nghiệp cho biết phải giảm đơn giá so với
năm trước (2004) để có thể giữ chân khách hàng trước sự cạnh tranh về giá
khá mạnh. Trong khi đó mối lo ngại về “cơn sóng thần” Trung Quốc cũng
không ngừng gia tăng. Với lợi thế của mình, Trung Quốc đã tung hoành về
khả năng đáp ứng bất kì đơn hàng nào, bất kỳ qui mô nào trong thời gian rất
ngắn. Vì vậy việc mất khách hàng và tìm kiếm khách hàng mới là vấn đề khó
khăn và thách thức lớn trong thời kì “hậu hạn ngạch”
Thứ năm: Khi bỏ chế độ hạn ngạch, bản đồ xuất khẩu dệt may sẽ thay
đổi. Dòng thương mại sẽ chuyển sang các thị trường có sức cạnh tranh cao
hơn, đến với các doanh nghiệp có khả năng đáp ứng tốt hơn về số lượng, chất
lượng, giá bán, thời gian giao hàng, chi phí giao dịch khi nhập khảu thấp
hơn…Trong điều kiện này, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp khó khăn rất
nhiều vì phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đều là những doanh nghiệp vừa
và nhỏ chưa có sức cạnh tranh cao, bị động trong việc tìm kiếm khách hàng
và thị trường, thiếu sự đầu tư vào việc nghiên cứu và phát triển thị trường.
4. Những biện pháp nhằm tận dụng những cơ hội, vượt qua thách thức
trong thời “hậu hạn ngạch”
4.1.Đầu tư công nghệ để tăng cường sức cạnh tranh thông qua nâng cao
năng suất lao động
Hiện nay đa số các thiết bị dây chuyền sản xuất của các doanh nghiệp dệt
may đều lạc hậu lỗi thời, năng suất thấp do đó sản phẩm làm ra thường kém
chất lượng, năng lực cạnh tranh thấp. Vì vậy điều đặt ra với cho các doanh
nghiệp là cần phải đầu tư công nghệ để nâng cao năng suất lao động. Nhưng
điều đặt ra với các doanh nghiệp Việt Nam đó là vốn để đầu tư công nghệ. Ở
Việt Nam hiện nay ngoài các doanh nghiệp lớn như: Vinatex, Việt Tiến…là
có đủ khả năng để đầu tư vốn nâng cao công nghệ cho dây chuyền sản xuất và
các thiết bị hiện đại hỗ trợ cho việc tìm kiếm và thu hút khách hàng. Tuy

nhiên những doanh nghiệp lớn như vậy chỉ đếm trên đầu ngón tay so với phần
lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Những doanh nghiệp này vốn ít nên việc
đầu tư công nghệ sẽ là việc vô cùng khó khăn. Vậy các doanh nghiệp nên:
25

×