Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

tình hình thực hiện tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.77 KB, 103 trang )

Luận văn tốt nghiệp
Lời nói đầu
Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trờng là một điều kiện tất yếu để
phát triển nền kinh tế của một quốc gia. ở Việt Nam, sau gần 20 năm đổi
mới, sự phát triển kinh tế thị trờng đã thúc đẩy các chủ thể kinh tế phát huy
khả năng, sức sáng tạo và tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Trong lĩnh vực
dịch vụ tài chính, kinh tế thị trờng đã tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm phát
triển mạnh mẽ. Cùng với sự lớn mạnh chung của toàn ngành bảo hiểm, bảo
hiểm xây dựng lắp đặt phát triển không ngừng và ngày càng tỏ rõ vai trò
quan trọng đối với tiến trình mở cửa hội nhập ngày nay.
Tuy nhiên, bảo hiểm xây dựng lắp đặt không thể phát huy đợc vai trò của
mình nếu tách rời tái bảo hiểm. Nhận thức đợc mối quan hệ này, ngày
27/9/1994 Thủ tớng chính phủ đã ký quyết định 100/CP thành lập Công ty tái
bảo hiểm quốc gia Việt Nam, ngày nay đổi tên là Tổng công ty cổ phần tái
bảo hiểm quốc gia Việt Nam (tên giao dịch là Vinare) với t cách là bà đỡ
cho thị trờng bảo hiểm trong nớc. Qua 10 năm thực hiện nghiệp vụ tái bảo
hiểm xây dựng lắp đặt, Vinare đã đạt đợc những thành tựu to lớn song vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục.
Trong thời gian thực tập tại Vinare, đợc sự hớng dẫn của cô giáo, thạc sỹ
Nguyễn Thị Chính và các cán bộ Phòng Tái Bảo Hiểm Xây dựng Lắp đặt kết
hợp với những kiến thức đã học, em đã chọn đề tài: Tình hình thực hiện tái
bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia
Việt Nam để làm luận văn của mình. Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm
nêu bật những nét cơ bản của Tái bảo hiểm nói chung, thực tiễn thực hiện tái
bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Vinare: những thành tựu cũng nh hạn chế, trên
cơ sở đó là một số kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cờng hiệu quả hoạt
động kinh doanh tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Vinare.
Kết cấu của đề tài, ngoài Lời nói đầu và Kết luận bao gồm ba chơng:
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
1


Luận văn tốt nghiệp
Chơng I: Khái quát chung về bảo hiểm xây dựng lắp đặt và tái bảo hiểm
xây dựng lắp đặt.
Chơng II: Tình hình thực hiện tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại Tổng
công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam.
Chơng III: Kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp vụ tái
bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Em xin cảm ơn cô giáo, thạc sỹ Nguyễn Thị Chính và các cán bộ nghiệp
vụ Phòng Tái Bảo Hiểm Xây dựng Lắp đặt đã giúp em hoàn thành đề tài này.
Do còn hạn chế về thời gian và trình độ chắc chắn đề tài không tránh
khỏi thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận đợc sự đóng góp ý kiến của các
thầy cô, các cán bộ nghiệp vụ và các bạn sinh viên quan tâm đến đề tài này.
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
2
Luận văn tốt nghiệp

Chơng I
Khái quát chung về bảo hiểm xây dựng lắp đặt và
tái bảo hiểm xây dựng lắp đặt
I. khái quát về bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
1. Sự cần thiết của bảo hiểm Xây dựng Lắp đặt.
Bảo hiểm là ngành dịch vụ, mang đặc trng của dịch vụ tài chính ra đời
xuất phát từ nhu cầu cấp thiết của con ngời: nhu cầu đợc bảo vệ trớc những
rủi ro gây thiệt hại, mất mát về tài sản hay liên quan đến sức khoẻ và tuổi thọ
của con ngời. Mục đích của bảo hiểm chủ yếu là góp phần ổn định kinh tế
cho ngời tham gia từ đó khôi phục và phát triển sản xuất đời sống; đồng thời
tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế và xã hội của đất nớc. Trải qua quá trình
phát triển tơng đối dài, bảo hiểm đã ngày càng khẳng định và thể hiện vai trò
cũng nh đóng góp to lớn của nó đối với nền kinh tế mỗi nớc. Bảo hiểm kỹ

thuật cũng không nằm ngoài điều đó.
Trên thế giới hiện nay, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ
thuật đặc biệt kỹ thuật xây dựng dân dụng, do yêu cầu kỹ thuật ngày càng
cao, giá trị công trình ngày càng lớn và cùng với nó là sự phát sinh của nhiều
rủi ro kỹ thuật, kinh tế trong quá trình xây dựng nên đã dẫn đến đòi hỏi cấp
thiết việc phát triển và mở rộng loại hình bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Mặt
khác, trong giá đa ra đấu thầu, các công ty hoặc các hãng thầu không thể tính
đợc đầy đủ khoản tiền dự trữ đề phòng cho các tổn thất xảy ra khi xây dựng
công trình, nếu đa vào thì giá đấu thầu của công trình sẽ rất cao. Trong khi
đó nhà bảo hiểm có thể tính toán chính xác hơn nhiều số phí bảo hiểm của
công trình so với so với việc dự kiến số tiền đề phòng tổn thất của các nhà
thầu. Hơn nữa, quy luật của bảo hiểm là lấy số đông bù số ít nên phí bảo
hiểm sẽ không cao và nh vậy bảo hiểm xây dựng lắp đặt ngoài ý nghĩa quan
trọng là việc đóng góp vào hạ giá thành công trình còn đa ra một đảm bảo rất
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
3
Luận văn tốt nghiệp
có hiệu quả về mặt tài chính cho các bên có liên quan tới công trình đợc xây
dựng.
Không những thế, các công trình này có thể gặp phải rất nhiều rủi ro
bất ngờ trong quá trình xây dựng, lắp đặt gây thiệt hại tài chính cho chủ thầu,
chủ đầu t. Tuy nhiên, qua công tác bồi thờng nhanh chóng đầy đủ của các
nhà bảo hiểm, tình trạng khó khăn ban đầu về tài chính do rủi ro gây ra sẽ
nhanh chóng đợc giải quyết, nhờ đó chủ thầu hay chủ đầu t có thể trang trải
đợc các chi phí bất ngờ phát sinh vợt quá khả năng tài chính của mình; giúp
họ bảo toàn đợc vốn kinh doanh, hạn chế đợc ngắn nhất thời gian gián đoạn
kinh doanh có thể xảy ra do gặp rủi ro.
Mặt khác, các công trình xây dựng lắp đặt thờng có giá trị rất lớn. Ví
dụ, một số công trình có giá trị lớn ở Việt Nam nh: nhà máy nhiệt điện Hải

Phòng: 628 triệu USD; Nhà máy điện Đại Ninh: 500 triệu USD; Cầu Thanh
Trì: 400 triệu USD; Nhà máy nhiệt điện Cao Ngạn: 105 triệu USD; Nhà máy
xi măng Tam Điệp: 100 triệu USD
Đứng trớc các công trình có giá trị đầu t lớn nh vậy, nguy cơ rủi ro dẫn
đến phá sản, mất vốn kinh doanh là điều khó tránh khỏi. Do vậy, tham gia
bảo hiểm hay nói cách khác là chuyển rủi ro cho nhà bảo hiểm là một giải
pháp hữu hiệu cho các nhà thầu hay chủ đầu t.
Bên cạnh đó, có thể thấy một trong những tác dụng hữu hiệu của bảo
hiểm xây dựng lắp đặt cũng nh bảo hiểm nói chung đó là góp phần đề phòng
hạn chế các rủi ro có thể xảy ra, giúp cuộc sống con ngời an toàn hơn, xã hội
trật tự hơn, giảm nỗi lo cho những ngời có liên quan. Điều này có thể thấy
một cách khá rõ ràng qua việc nhà bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng
hạn chế rủi ro đối với các công trình xây dựng, cũng nh tuyên truyền sâu
rộng các kiến thức cần thiết về các loại rủi ro, các nguy cơ và hậu quả của
chúng.
Một điều cần đề cập nữa là bảo hiểm xây dựng lắp đặt mang lại một
nguồn đầu t đáng kể cho nền kinh tế.
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
4
Luận văn tốt nghiệp
Với nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi không nhỏ, các công ty bảo hiểm có
thể cho vay, mua trái phiếu, kinh doanh bất động sản, tham gia vào thị trờng
chứng khoán, hoạt động kinh tế nhờ vậy mà sôi động hơn, hiệu quả hơn.
Cuối cùng, cần nói thêm một đóng góp đáng kể của bảo hiểm xây dựng
lắp đặt- tất nhiên điều này cũng quyết định sự cần thiết phải triển khai loại
hình bảo hiểm này trong mỗi nớc. Đó là giúp Nhà nớc trong việc khắc phục
những khoản chi tơng đối lớn trong việc khắc phục hậu quả tổn thất khi đã có
hệ thống bảo hiểm, tránh những biến động chi tiêu ảnh hởng đến kế hoạch
của ngân sách Nhà nớc. Đồng thời, hoạt động bảo hiểm này còn góp phần

tăng thu ngoại tệ trong nớc, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho ngời dân
trong nớc.
Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là một bộ phận của bảo hiểm kỹ thuật. Sự
ra đời và phát triển của bảo hiểm kỹ thuật luôn gắn liền với sự phát triển của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Bảo hiểm kỹ thuật bắt đầu ở nớc Anh
công nghiệp vào giữa thế kỷ 19.
Vào lúc các đơn bảo hiểm cháy tơng đối phổ biến thì một hiểm hoạ có
tính chất huỷ diệt tơng tự khác đã gây thiệt hại cho nhà máy bông ở
Lancashire, đó là vụ nổ nồi hơi. Không những vụ nổ này gây thiệt hại có tính
tàn phá về ngời, mà sự gián đoạn sản xuất sau đó đã làm nhiều doanh nghiệp
có liên quan bị phá sản.
Tại sao các vụ nổ có tính thảm hoạ lại thờng xảy ra nh vậy? Rõ ràng có
thể đổ lỗi phần nào cho những sai sót trong thiết kế do thiếu kinh nghiệm
đối với công nghệ mới. Nhng, thông thờng hơn, còn có rủi ro đạo đức; sử
dụng nồi hơi quá mức bình thờng, bất cẩn, hoặc những tập quán làm việc
nguy hiểm với những ý định nâng cao hiệu suất hoạt động của nồi hơi và
mức độ sản xuất. Rõ ràng, những ngời chủ của nhà máy đã phải làm một việc
gì đó.
Xuất phát từ thực tế đó, cùng với nhiều hình thức quản lý rủi ro sơ khai
khác, năm 1858, công ty bảo hiểm đầu tiên: Công ty Bảo hiểm Nồi hơi( The
Steam Boiler Assurance Company) đã đợc thành lập.
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
5
Luận văn tốt nghiệp
Chẳng bao lâu, dới sự phát triển nh vũ bão của khoa học công nghệ và
kỹ thuật cùng với nhu cầu tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai
bảo hiểm kỹ thuật cũng phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết và trở thành một
trong loại hình bảo hiểm quan trọng không thể thiếu đợc đối với sự phát triển
của mỗi nền kinh tế.

Bảo hiểm kỹ thuật có mặt trong hầu hết các lĩnh vực của hoạt động
kinh tế, xã hội trên toàn thế giới. Từ việc bảo hiểm cho các máy móc sản
xuất, các thiết bị dụng cụ tinh vi trong y tế, phòng thí nghiệm cho tới việc
bảo hiểm cho các công trình xây dựng khổng lồ nh bến cảng, sân bay, các
con tàu vũ trụ Nh vậy, có thể nói rằng bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là
những mắt xích không thể thiếu đợc trong bảo hiểm kỹ thuật. Đơn bảo hiểm
mọi rủi ro lắp đặt( EAR- Erection All Risks Insurance Policy) đầu tiên đợc
cấp tại Đức vào năm 1924 với sự hỗ trợ về tái bảo hiểm của công ty tái bảo
hiểm Munich Re. Một vài năm sau đó, dựa trên cơ sở những điều kiện bảo
hiểm của đơn bảo hiểm lắp đặt sản phẩm, bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ
thầu( CAR- Contractors All Risks Insurance Policy) cũng ra đời tại Anh vào
năm 1929. Đơn bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu đầu tiên bảo hiểm cho việc
xây dựng cầu Lamberth bắc qua sông Thames ở Luân Đôn.
2. Đặc điểm của bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Xét về mặt kỹ thuật nghiệp vụ, bảo hiểm xây dựng lắp đặt là những
loại hình bảo hiểm tơng đối phức tạp so với các loại hình bảo hiểm khác, các
loại đơn bảo hiểm rất đa dạng, nh bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng, bảo hiểm
mọi rủi ro lắp đặt, Có thể liệt kê một số nét đặc thù chủ yếu của bảo hiểm
xây dựng lắp đặt nh dới đây:
- Đây là loại hình bảo hiểm có nhiều rủi ro mang tính kỹ thuật nh rủi ro
liên quan đến thiết kế, cơ chế vận hành của máy móc, nguyên vật liệu kém,
máy móc cũ Vì vậy đòi hỏi đội ngũ cán bộ tái bảo hiểm phải có những kiến
thức kỹ thuật nhất định.
- Thời hạn bảo hiểm thờng dài, tuỳ theo giá trị và tính chất của công
trình.
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
6
Luận văn tốt nghiệp
- Giá trị bảo hiểm rất lớn có xu hớng ngày càng tăng do sự tiến bộ của

khoa học kỹ thuật và sự khan hiếm nguyên vật liệu, vì vậy nếu tổn thất xảy ra
trách nhiệm bồi thờng là rất lớn.
- Rủi ro mang tính chất tích luỹ vì càng gần giai đoạn cuối của thời hạn
bảo hiểm giá trị bảo hiểm trên công trình càng lớn.
- Các rủi ro đợc bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng lắp đặt khác nhau
đáng kể về quy mô. Sự phân tán rủi ro thấp vì số lợng tơng đối ít, lại thiếu
các rủi ro đồng nhất dẫn đến làm mất cân đối bảng danh mục tổng số lợng
dịch vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
- Một số rủi ro có tính chất thảm hoạ (động đất, lũ lụt, gió bão ) đòi hỏi
phải đặc biệt lu ý và thận trọng.
- Vị trí của rủi ro bảo hiểm có thể chỉ là một vị trí địa lý nhng có khi lại
trải dài trên một khu vực rộng (nh bảo hiểm xây dựng đờng sá) nên đối mặt
với nhiều loại rủi ro khác nhau khiến việc đánh giá rủi ro khó khăn và phức
tạp.
- Vì rủi ro trong bảo hiểm xây dựng lắp đặt phức tạp nên tổn thất của
nghiệp vụ này rất khó xác định đợc nguyên nhân chính xác, khiến công ty
giám định tổn thất, giải quyết bồi thờng khó khăn và kéo dài.
3. Nội dung bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Đối tợng của bảo hiểm xây dựng lắp đặt
a. Đối tợng của bảo hiểm xây dựng
Đối tợng đợc bảo hiểm của bảo hiểm xây dựng bao gồm tất cả các công
trình xây dựng dân dụng, công trình công nghiệp, hay nói cách khác là bao
gồm tất cả các công trình xây dựng mà kết cấu của nó có sử dụng xi măng và
bê tông cốt thép. Cụ thể là các nhóm công trình sau:
- Nhà ở, trờng học, bệnh viện, trụ sở làm việc, rạp hát, rạp chiếu phim,
các công trình văn hoá khác,
- Nhà máy, xí nghiệp, các công trình phục vụ sản xuất;
- Đờng sá( bao gồm cả đờng bộ và đờng sắt), đờng băng sân bay;
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B

7
Luận văn tốt nghiệp
- Cầu cống, đê đập, công trình thoát nớc, kênh đào, cảng,
Mỗi công trình bao gồm nhiều hạng mục riêng biệt đợc xác định và dự
tính thông qua sơ đồ tổng thể, bản vẽ thiết kế cùng các máy móc trang thiết
bị cần thiết phục vụ cho công tác xây dựng cũng nh các công việc có liên
quan trong quá trình xây dựng. Để thuận tiện cho việc tính phí bảo hiểm
cũng nh giải quyết khiếu nại trong trờng hợp tổn thất xảy ra, một công trình
xây dựng đợc chia làm nhiều hạng mục khác nhau, bao gồm:
- Cấu trúc chủ yếu của công trình xây dựng( construction works): Hạng
mục này chiếm phần lớn giá trị công trình. Hạng mục này chiếm phần lớn
giá trị công trình. Nó bao gồm tất cả các công việc thực hiện bởi chủ thầu
chính (bên B) và tất cả các chủ thầu phụ của chủ thầu chính theo quy định
của hợp đồng xây dựng ký kết giữa bên A và bên B: từ công tác chuẩn bị, dọn
dẹp mặt bằng, xây dựng các công trình tạm thời phục vụ cho công tác thi
công đến công việc đóng cọc, làm móng và xây dựng cấu trúc chính của
công trình.
- Trang thiết bị xây dựng ( equipments of construction): ví dụ nh rào chắn,
kho bãi, nhà xởng, giàn giáo
- Máy móc xây dựng (construction machines): bao gồm các máy móc
phục vụ công tác thi công nh máy xúc, máy ủi, cần cẩu, thuộc quyền sở hữu
của ngời đợc bảo hiểm hay đi thuê.
- Tài sản có sẵn trên và xung quanh công trờng thuộc quyền sở hữu,
quản lý, trông nom hay coi sóc của ngời đợc bảo hiểm.
- Chi phí dọn dẹp hiện trờng: bao gồm các chi phí phát sinh do việc thu
dọn và di chuyển mảnh vụn, đất đá do các rủi ro đợc bảo hiểm gây ra trên
phạm vi công trờng.
- Bên cạnh phần tổn thất vật chất, bảo hiểm xây dựng cũng bảo hiểm
trách nhiệm dân sự của ngời thứ ba: bao gồm các trách nhiệm pháp lý do
thiệt hại tài sản, thơng tật thân thể của bên thứ ba phát sinh trong quá trình

thi công công trình hoặc xung quanh khu vực công trờng nếu ngời mua bảo
hiểm có yêu cầu.
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
8
Luận văn tốt nghiệp
b. Đối tợng của bảo hiểm lắp đặt
Đối tợng bảo hiểm lắp đặt đợc hiểu là các máy móc lắp đặt, trang thiết
bị phục vụ cho công tác lắp đặt và một số công việc, hạng mục liên quan tới
công việc lắp đặt. Đối tợng đợc bảo hiểm đợc phân loại nh sau:
- Các máy móc, các dây chuyền đồng bộ trong một xí nghiệp hay trong
khi tiến hành lắp đặt các máy móc thiết bị đó.
- Các máy móc, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho lắp đặt.
- Các phần việc xây dựng phục vụ cho công tác lắp đặt.
- Trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba.
- Chi phí dọn dẹp vệ sinh.
Phạm vi bảo hiểm
a. Phạm vi bảo hiểm xây dựng
Các đơn bảo hiểm xây dựng do ngời bảo hiểm cung cấp thờng là đơn
bảo hiểm mọi rủi ro nên phạm vi đợc bảo hiểm thờng rất rộng, chỉ trừ các rủi
ro loại trừ đợc nêu rõ trong đơn còn hầu hết các rủi ro bất ngờ và không lờng
trớc đợc đều đợc bảo hiểm theo đơn bảo hiểm xây dựng.
Cụ thể, có các rủi ro chính sau:
- Cháy, sét đánh, nớc, chữa cháy hay phơng tiện chữa cháy
- Lũ lụt, ma, tuyết rơi, tuyết lở, sóng thần
- Các loại bão
- Động đất, sụt lở đất đá
- Trộm cắp
- Thiếu kinh nghiệm, bất cẩn, hành động ác ý hay lỗi của con ngời.
Ngoài ra, tùy vào từng công trình, mỗi đơn cấp còn có các điều khoản bổ

sung thêm đối với các rủi ro phụ để phù hợp với nội dung công việc.
Bên cạnh những rủi ro đợc bảo hiểm, bảo hiểm xây dựng lắp đặt cũng quy
định một số điểm loại trừ, đó là:
Thứ nhất: Loại trừ chung áp dụng cho cả phần bảo hiểm vật chất và
trách nhiệm:
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
9
Luận văn tốt nghiệp
- Tổn thất do chiến tranh hay những hoạt động tơng tự, đình công,
nổi loạn, ngừng công việc theo yêu cầu của bất kỳ cơ quan có thẩm
quyền nào.
- Hành động cố ý hay sự cẩu thả cố ý của ngời đợc bảo hiểm hoặc đại
diện của họ.
- Phản ứng hạt nhân, phóng xạ hay ô nhiễm phóng xạ.
Thứ hai: Rủi ro loại trừ áp dụng đối với phần thiệt hại vật chất bao gồm:
- Bất kỳ loại tổn thất nào có tính chất chất hậu quả.
- Lỗi thiết kế.
- Chi phí thay thế, sửa chữa hay khắc phục các khuyết tật của máy móc,
nguyên vật liệu và/hoặc do tay nghề (các tổn thất h hại do hậu quả thì đợc
bảo hiểm).
Thứ ba : Rủi ro loại trừ áp dụng đối với phần bảo hiểm trách nhiệm:
- Khiếu nại tổn thất liên quan đến tai nạn đợc bảo hiểm hay có thể đợc
bảo hiểm trong phạm vi của phần bảo hiểm vật chất của đơn bảo hiểm xây
dựng.
- Khiếu nại phát sinh do dịch chuyển, rung động hay suy yếu của cột
chống.
b. Phạm vi bảo hiểm lắp đặt
Những rủi ro chính đợc bảo hiểm trong đơn bảo hiểm lắp đặt đợc chia làm
3 loại chính:

- Các rủi ro thiên tai bao gồm động đất, động biển gây ra sóng thần, gió
mạnh (do bão, gió xoáy, cuồng phong), ma lớn, lũ, lụt, đóng băng, sét đánh,
cháy do sét đánh hay do hoạt động của núi lửa, đất lún, sụt lở.
- Các hiểm hoạ tổn thất gây ra bởi hoạt động của con ngời trên công trờng
nh: thiếu kinh nghiệm hay kỹ năng, lỗi của con ngời, bất cẩn, trộm cắp, hành
động ác ý, phá hoại, vận chuyển, khuân vác nguyên vật liệu, lỗi thiết kế, tập
trung cao độ hay cờng độ công việc cao do thời gian lắp đặt quá ngắn, phối
hợp công việc thiếu hợp lý, trông nom, bảo vệ công trờng không tốt, thiếu
những biện pháp ngăn ngừa tổn thất, lỗi vận hành, lỗi ngời vận hành máy.
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
10
Luận văn tốt nghiệp
- Các rủi ro kỹ thuật, vận hành bao gồm áp suất ép quá lớn (nổ vật lý),
chân không (nổ bên trong), nhiệt dộ quá lớn (đoản mạch), lực li tâm, lỗi
nguyên vật liệu, mất kiểm soát phản ứng hoá học (nổ hoá học), lỗi của hệ
thống hay thiết bị điều hành hay điều khiển.
Bảo hiểm lắp đặt có các loại trừ sau:
- Loại trừ chung: áp dụng cho cả phần bảo hiểm vật chất và phần bảo
hiểm trách nhiệm. Các rủi ro loại trừ chính trong phần này là:
+ Chiến tranh
+ Những rủi ro hạt nhân
+ Các hành vi có tính vi phạm của ngời đợc bảo hiểm
+ Gián đoạn công việc.
- Các loại trừ đặc biệt áp dụng cho phần thiệt hại vật chất:
+ Các khoản miễn thờng
+ Mọi tổn thất hậu quả
+ Lỗi thiết kế, khuyết tật nguyên vật liệu
+ Hao mòn và xé rách,
+ Các tổn thất về hồ sơ, bản vẽ, tài liệu,

+ Các tổn thất phát hiện vào thời điểm kiểm kê (mất cắp, mất tích).
- Các loại trừ áp dụng đối với phần thiệt hại về trách nhiệm:
+ Các khoản miễn thờng
+ Những chi tiêu hay chi phí sửa chữa có liên quan đến sửa chữa
những thiệt hại đợc bảo hiểm trong phần bảo hiểm vật chất.
+ Trách nhiệm đối với thơng tật của con ngời/công nhân tham gia vào
quá trình thi công công việc.
+ Tổn thất và thiệt hại đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hay chăm
sóc, quản lý của bất cứ ngời đợc bảo hiểm nào.
+ Tổn thất gây ra bởi xe cơ giới, tàu (biển, sông), máy bay.
+ Bất cứ khoản bồi thờng nào vợt quá phạm vi bảo vệ quy định trong
hợp đồng bảo hiểm.
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
11
Luận văn tốt nghiệp
II. Những nội dung cơ bản của tái bảo hiểm xây dựng
lắp đặt.
1. Tổng quan về tái bảo hiểm.
1.1. Sự cần thiết và tác dụng của tái bảo hiểm.
Bảo hiểm càng phát triển thì quá trình chuyển rủi ro càng nhiều, càng
dai dẳng với số tiền bảo hiểm càng lớn; phạm vi càng rộng thì khó khăn
và nguy cơ đe doạ các doanh nghiệp bảo hiểm càng nhiều. Vì vậy, để ổn
định hoạt động sản xuất kinh doanh các công ty bảo hiểm phải phân tán
rủi ro mình đã chấp nhận cho các nhà bảo hiểm khác, tức là cần thiết phải
tái bảo hiểm.
Tái bảo hiểm là sự bảo hiểm cho những rủi ro mà ngời bảo hiểm phải
gánh chịu, nói cách khác, tái bảo hiểm là quá trình ngời bảo hiểm chuyển
một phần trách nhiệm đã chấp nhận với ngời đợc bảo hiểm cho ngời bảo
hiểm khác bằng cách nhợng lại cho họ một phần phí bảo hiểm qua hợp đồng

tái bảo hiểm.
Trong tái bảo hiểm, công ty bảo hiểm gốc ký hợp đồng với ngời tham
gia và sau đó chuyển giao rủi ro cho các công ty nhận tái bảo hiểm. Công ty
nhận gọi là công ty nhận tái bảo hiểm.
Mặc dù ra đời muộn hơn so với bảo hiểm, tuy nhiên ngày nay tái bảo
hiểm đã phát triển không ngừng và hỗ trợ đắc lực cho bảo hiểm trong những
tác động tích cực đối với sự phát triển mỗi nớc. Sở dĩ nh vậy là vì tái bảo
hiểm có những tác dụng không thể phủ nhận đợc.
Nh trên đã trình bày, có thể thấy nhiệm vụ chủ yếu của tái bảo hiểm là
phân chia các rủi ro đã đợc bảo hiểm của các công ty bảo hiểm gốc cho một
tập thể những công ty tái bảo hiểm và thông qua đó sẽ tận dụng đợc một cách
tối u các quy luật thống kê. Với nhiệm vụ trên, tái bảo hiểm ổn định kinh
doanh cho các công ty bảo hiểm gốc và tạo điều kiện cho các công ty này có
thể nhận bảo hiểm cho những rủi ro vợt quá khả năng tài chính của mình.
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
12
Luận văn tốt nghiệp
Thứ hai, tái bảo hiểm có tác dụng phân tán rủi ro, góp phần ổn định tài
chính cho các công ty gốc đặc biệt trong trờng hợp xảy ra những biến cố bảo
hiểm có tính thảm hoạ hay tính tích luỹ rủi ro.
Thứ ba, tái bảo hiểm còn giúp cho các công ty nhỏ hoặc mới thành
lập ổn định và phát triển lâu dài nhờ sự t vấn về nghiệp vụ từ các công ty
tái bảo hiểm.
Thứ t, tái bảo hiểm còn góp phần ổn định Ngân sách Nhà nớc thông
qua thu thuế do các công ty tái bảo hiểm đóng góp và tăng phần thu ngoại tệ
cho đất nớc thông qua các dịch vụ bảo hiểm giữ lại trong nớc hay phần nhợng
của phía nớc ngoài.
Thứ năm, tái bảo hiểm có tác động tích cực đến đời sống của các cán
bộ bảo hiểm. Bởi vì, thông qua tái bảo hiểm các công ty bảo hiểm gốc đợc

bảo vệ trớc nguy cơ phá sản, từ đó gián tiếp bảo vệ quyền lợi của cán bộ nhân
viên công ty.
Italia là nớc đầu tiên chứng kiến sự ra đời của dịch vụ tái bảo hiểm.
Bản giao ớc cổ nhất đợc biết đến với tính chất pháp lý nh một hợp đồng tái
bảo hiểm đã đợc ký kết tại thành phố Genes vào năm 1370 giữa một bên là
hai thơng nhân hoạt động với t cách nh nhà tái bảo hiểm và một bên là đại
diện cho một nhà bảo hiểm. Hợp đồng đợc ký kết nhằm đảm bảo dịch vụ bảo
hiểm cho các hàng hoá gửi đi bằng đờng biển từ Genes đến Bruges. Cùng với
sự phát triển rộng rãi về những mối quan hệ kinh tế thơng mại giữa các thành
phố của Italia và giữa các nớc của Bắc Âu, đặc biệt là nớc Anh dịch vụ tái
bảo hiểm đã đợc phát triển lên một bớc.
Nhờ áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh tế
các nớc t bản chủ nghĩa phát triển mạnh, giao lu hàng hóa đợc tăng cờng cho
nên tái bảo hiểm cũng có điều kiện hình thành các tổ chức độc lập. Năm
1846 tại Kohn (nớc Đức) công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp đầu tiên đã ra
đời lấy tên là Công ty tái bảo hiểm Kohn (Koolnische Ruck AG). Tiếp theo
đó một số công ty tái bảo hiểm có tên tuổi trên thị trờng thế giới hiện nay
cũng đã đợc thành lập, ví dụ nh:
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
13
Luận văn tốt nghiệp
- Công ty tái bảo hiểm Thuỵ sĩ (Swiss Re) năm 1863.
- Công ty tái bảo hiểm London (London Guarantee Reinsurance co.
Ltd.) năm 1869.
- Công ty tái bảo hiểm Munich (Munchenes Ruck. AG) năm 1880.
Trong giai đoạn này, hai cuộc chiến tranh thế giới cùng với các cuộc
khủng hoảng kinh tế và lạm phát tiền tệ đã làm tổn hại lớn đến sự phát triển
của ngành bảo hiểm nói chung và ngành tái bảo hiểm nói riêng. Bị tổn hại
nhiều nhất phải kể đến các công ty tái bảo hiểm Đức.

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc năm 1945 với sự thắng lợi của
Hồng quân Liên xô và phe đồng minh đánh bại chủ nghĩa phát xít đến tận
gốc rễ. Nó đã mở ra một giai đoạn mới của lịch sử loài ngời cũng nh của nền
kinh tế và ngành bảo hiểm. Tái bảo hiểm giai đoạn này đợc đặc trng thông
qua các biến động lớn sau đây:
- Sự phục hồi nhanh chóng của các công ty tái bảo hiểm của cộng hoà
liên bang Đức.
- Sự thành lập các công ty bảo hiểm nhà nớc ở các nớc xã hội chủ nghĩa.
- Trong những nớc chậm phát triển hoặc mới giành đợc độc lập những tổ
chức độc quyền tái bảo hiểm, cục bộ hay toàn phần đã đợc thành lập nhằm
bảo vệ lợi ích riêng của họ (Ví dụ nh ở Aschentina, Braxin, Chile, Thổ Nhĩ
Kỳ, Ai Cập và một số nớc ở Châu Phi, Đông Nam á ). Sự kiện này làm thu
hẹp khả năng hoạt động của các công ty tái bảo hiểm quốc tế ở những nớc
đó.
- Nhiều công ty tái bảo hiểm mới đợc thành lập và ngày càng có nhiều
công ty bảo hiểm tiến hành đồng thời dịch vụ tái bảo hiểm. Do đó cuộc cạnh
tranh giữa họ ngày càng gay gắt và dới nhiều hình thức khác nhau.
1.2 Các hình thức tái bảo hiểm.
Sự ra đời và quá trình lịch sử phát triển của tái bảo hiểm cho thấy vào
thời gian ban đầu không có sự phân biệt rõ ràng nào về hình thức tái bảo
hiểm, bởi vì trong nhiều thế kỷ chỉ có một hình thức tái bảo hiểm duy nhất đ-
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
14
Luận văn tốt nghiệp
ợc biết và ứng dụng rộng rãi trên thị trờng bảo hiểm thế giới. Đó là: tái bảo
hiểm lựa chọn cho từng rủi ro riêng biệt.
Đầu thế kỷ 19, để đáp ứng nhu cầu của ngành bảo hiểm đang ngày
càng phát triển mạnh mẽ, ngành tái bảo hiểm bắt đầu phát triển nhanh chóng
và lúc đó, các hình thức tái bảo hiểm mới đợc tạo lập. Có thể phân chia tái

bảo hiểm thành 3 hình thức cơ bản sau:
- Tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn (tái bảo hiểm tạm thời).
- Tái bảo hiểm bắt buộc.
- Tái bảo hiểm lựa chọn bắt buộc kết hợp.
1.2.1 Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn (Facultative Reins).
Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất. Danh từ Tuỳ ý
lựa chọn (Facultative) có liên quan đến ý niệm là trong loại tái bảo hiểm
này, công ty nhợng (ceding company) có toàn quyền lựa chọn rủi ro cần phải
tái bảo hiểm và ngợc lại, nhà tái bảo hiểm (Reinsurer) có quyền nhận hay từ
chối rủi ro đó. Mỗi dịch vụ bảo hiểm đem nhợng theo cơ sở tùy ý lựa chọn là
một hợp đồng tái bảo hiểm tách biệt bao gồm toàn bộ hay một phần rủi ro mà
công ty nhợng muốn nhợng cho thị trờng tái bảo hiểm.
Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn đợc tiến hành theo trình tự:
- Trớc hết công ty nhợng thông báo cho tái bảo hiểm một dịch vụ nào đó
mà họ cần tái bảo hiểm dới hình thức một phiếu đề nghị (slip), trong đó ghi
các đặc điểm chính của rủi ro đợc tái bảo hiểm, chẳng hạn nh:
Tên địa chỉ của ngời đợc bảo hiểm.
Tính chất của rủi ro đợc bảo hiểm.
Ngày bắt đầu và ngày chấm dứt của thời gian bảo hiểm.
Số tiền đợc bảo hiểm, phí bảo hiểm, phần giữ lại của công ty nhợng.
Tỷ lệ thủ tục phí tái bảo hiểm
- Sau khi nhận đợc phiếu đề nghị này, nhà tái bảo hiểm có toàn quyền tự
do lựa chọn toàn bộ hay một phần tỷ lệ nào đó hay bằng một số tiền cố định
trên cơ sở rủi ro đợc đề nghị. Nhà tái bảo hiểm xác nhận phần tham gia của
mình thông thờng bằng cách ghi trực tiếp vào bản thứ hai của phiếu đề nghị
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
15
Luận văn tốt nghiệp
và gửi trả lại cho công ty nhợng. Tuy nhiên để đảm bảo tính thời gian, việc

xác nhận có thể thực hiện bằng điện tín hay qua điện thoại, nhng sau đó vẫn
phải xác nhận bằng văn bản để đảm bảo tính pháp lý của hợp đồng. Dĩ nhiên,
nhà tái bảo hiểm có quyền từ chối tham gia hợp đồng nếu họ không muốn.
Theo tập quán thì việc nhà tái bảo hiểm im lặng không trả lời không đợc xem
nh là một sự chấp nhận.
Trớc khi chính thức có ý kiến nhận hay khớc từ, nhà tái bảo hiểm có
thể yêu cầu biết thêm những chi tiết khác để đánh giá rủi ro mà mình sẽ nhận
nh: những chi tiết về việc định giá phí bảo hiểm Cuối cùng, chỉ khi nào
nhận đợc thông báo chấp nhận của nhà tái bảo hiểm thì dịch vụ theo hình
thức tuỳ ý lựa chọn mới coi nh hoàn thành.
Tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn có nhiều u điểm và nhợc điểm. Có thể
xem qua một số u nhợc điểm chủ yếu sau:
u điểm:
+ Giúp công ty nhợng, nhất là công ty bảo hiểm của các quốc gia đang
phát triển và non trẻ, có kinh nghiệm ít có thể hoàn thành việc nhận bảo hiểm
cho những đơn vị rủi ro ở địa phơng mà có giá trị bảo hiểm lớn, vợt quá khả
năng tài chính thông thờng của mình bằng việc sử dụng chuyên môn và khả
năng của thị trờng tái bảo hiểm quốc tế.
+ Giúp công ty nhợng có điều kiện lựa chọn để duy trì kim ngạch bảo
hiểm của mình đợc cân đối, tức là giúp cho công ty nhợng có thể loại bỏ đợc
những rủi ro đặc biệt lớn hoặc nguy hiểm mà một khi tổn thất thuộc đơn vị
rủi ro này xảy ra có thể làm ảnh hởng đến kết quả kinh doanh của mình trong
năm kế hoạch ở một nghiệp vụ bảo hiểm riêng biệt nào đó.
+ Giúp cho công ty nhợng có quyền chủ động trong việc chấp nhận
bảo hiểm phục vụ nhu cầu của ngời đợc bảo hiểm về những loại rủi ro mà có
thể không đợc chấp nhận trong các hợp đồng tái bảo hiểm truyền thống của
mình, chẳng hạn nh: rủi ro về động đất, ngập lụt, đình công, bạo loạn, chiến
tranh hay những rủi ro tơng tự khác
Nh ợc điểm:
Phạm Thị Hờng Lớp

bảo hiểm 43B
16
Luận văn tốt nghiệp
+ Công ty nhợng phải thông báo đầy đủ chi tiết của nghiệp vụ bảo
hiểm gốc; có nghĩa là khi áp dụng hình thức này nhiều lần thì nhà tái bảo
hiểm thờng xuyên cần phải tiếp xúc và biết đợc ý đồ bên trong của các hợp
đồng bảo hiểm gốc và kim ngạch bảo hiểm của công ty nhợng dẫn đến có thể
bị tiết lộ những thông tin có lợi cho sự cạnh tranh trong thị trờng bảo hiểm
gốc.
+ Không đảm bảo thời gian tính trong việc phân tán rủi ro tái bảo
hiểm, tức là công ty nhợng không có sự bảo đảm chắc chắc của thị trờng tái
bảo hiểm khi họ nhận bảo hiểm một rủi ro nào đó, công ty nhợng sẽ mất cơ
hội tranh thủ bảo hiểm nếu thị trờng đó có, công ty nhợng sẽ mất cơ hội tranh
thủ bảo hiểm nếu thị trờng đó có công ty bảo hiểm khác có khả năng phục vụ
tốt hơn, hoặc không có khả năng để nhận bảo hiểm cho rủi ro có giá trị lớn,
hay ít nhất cũng làm cho công ty mất uy tín vì sự chậm trễ trả lời ngời đợc
bảo hiểm.
+ Chi phí hành chính, thủ tục giấy tờ tốn kém làm giảm thu nhập kinh
doanh, ít lãi.
+ Thờng xuyên phải đàm phán tái lập lại hợp đồng tái bảo hiểm trớc
khi ký kết bảo hiểm gốc với khách hàng mà trong nhiều trờng hợp đáng lẽ
không cần thiết phải thay đổi hay huỷ bỏ hợp đồng đã ký đó.
+ Trong trờng hợp khi khả năng tiếp nhận rủi ro của thị trờng tái bảo
hiểm quốc tế đã gần đạt tới mức tối đa (dày đặc), hoặc khi phí bảo hiểm gốc
quá thấp so với phí trung bình của thị trờng thì hình thức tái bảo hiểm tùy ý
lựa chọn chỉ có thể thực hiện đợc với một mức phí cao hơn so với mức phí
gốc hoặc buộc phải giảm bớt mức thủ tục phí tái bảo hiểm. Trong trờng hợp
này, mức sai biệt đó sẽ do công ty nhợng buộc phải giảm bớt phần trách
nhiệm mà mình cam kết trong bảo hiểm gốc.
1.2.2 Tái bảo hiểm bắt buộc (Obligatory):

Tái bảo hiểm là sự thoả thuận giữa công ty nhợng và nhà tái bảo hiểm
trong đó công ty nhợng bắt buộc phải nhợng cho nhà tái bảo tất cả các đơn vị
rủi ro bảo hiểm gốc mà hai bên đã thoả thuận từ trớc.
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
17
Luận văn tốt nghiệp
Ngợc lại, nhà tái bảo hiểm cũng bắt buộc phải chấp nhận toàn bộ các
đơn vị rủi ro đó. ở đây, công ty nhợng toàn quyền trong việc chấp nhận bảo
hiểm gốc, định phí mà không phải tham khảo ý kiến của nhà tái bảo hiểm .
Đồng thời, công ty nhợng cũng đơn phơng thanh toán các vụ tổn thất
có liên quan đến những rủi ro đợc bảo hiểm với mục đích bảo vệ quyền lợi
chung của công ty nhợng và nhà tái bảo hiểm. Ngợc lại, nhà tái bảo hiểm
chia sẻ những vận may rủi với công ty nhợng và sẽ chấp nhận thanh toán tổn
thất thuộc phạm vi hợp đồng tái bảo hiểm để thoả thuận.
Cũng nh loại hình bảo hiểm tùy ý lựa chọn, tái bảo hiểm bắt buộc cũng
tồn tại u và nhợc điểm nhất định:
u điểm:
+ Từ những phân tích trên có thể thấy với hình thức tái bảo hiểm, nhà
tái bảo hiểm và nhà bảo hiểm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau hơn là những
dịch vụ bảo hiểm nhợng theo hình thức tuỳ ý lựa chọn.
+ Với hình thức này, nhà tái bảo hiểm thu đợc số phí lớn nhất do mọi
rủi ro đều đợc san sẻ giữa hai bên, điều này phù hợp với quy luật số đông
giúp nhà tái bảo hiểm thực hiện đợc tốt vai trò kinh tế quốc dân của họ về
đẩy mạnh những tiến bộ khoa học kỹ thuật của ngành bảo hiểm bằng việc
chấp nhận những rủi ro mới và các dạng bảo hiểm mới.
Nh ợc điểm:
Bên cạnh những u điểm trên thì một nhợc điểm nổi trội cần bàn đến
đó là hình thức tái bảo hiểm bắt buộc không khai thác hết khả năng tài
chính của nhà bảo hiểm; điều này đợc thể hiện ở chỗ, có nhiều rủi ro mà

nhà bảo hiểm có khả năng đảm nhận đợc nhng vẫn bắt buộc phải tái đi theo
quy định.
1.2.3. Tái bảo hiểm kết hợp tuỳ ý lựa chọn- bắt buộc.
Mỗi hình thức tái bảo hiểm có những hạn chế và u điểm nhất định do
đó để khai thác u điểm của hình thức này và hạn chế nhợc điểm của hình
thức kia ngời ta thờng kết hợp các hình thức đó lại trong một hợp đồng tái
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
18
Luận văn tốt nghiệp
bảo hiểm gọi là tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn- bắt buộc. Đây là hình thức tái
bảo hiểm mà công ty nhợng không bắt buộc phải nhợng tất cả các dịch vụ
mình đã nhận ngợc lại nhà tái bảo hiểm bắt buộc phải chấp nhận các dịch vụ
mà công ty nhợng chuyển giao với điều kiện là những dịch vụ đó phải phù
hợp với nội dung và điều khoản đã quy ớc của hợp đồng tái bảo hiểm thoả
thuận. Nh vậy, so với hình thức tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn, nhà tái bảo hiểm
bất lợi hơn vì không có quyền đợc từ chối không nhận những rủi ro mà một
khi họ không muốn.
Để bù đắp thiệt thòi nói trên, trong hình thức tái bảo hiểm tuỳ ý lựa
chọn- bắt buộc, nhà tái bảo hiểm có điều kiện thu nhập nguồn phí tái bảo
hiểm lớn hơn và có phần thăng bằng hơn so với phần hình thức tái bảo hiểm
tùy ý lựa chọn. Tuy nhiên, trong hình thức này, tỷ lệ thủ tục phí tái bảo hiểm
thờng cao hơn so với hình thức tái bảo hiểm tùy ý lựa chọn. Trong hình thức
tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn- bắt buộc vẫn có điều kiện đợc đặt ra là nội dung
của hình thức này không có nghĩa chỉ có những rủi ro có khả năng dễ xảy ra
tổn thất nhất thì đa vào hợp đồng. Hay nói cách khác, công ty nhợng không
đợc lợi dụng tái bảo hiểm tuỳ ý lựa chọn- bắt buộc để lựa chọn rủi ro nhằm
mục đích đẩy phần bất lợi cho nhà tái bảo hiểm. Để phòng ngừa trờng hợp
khả năng có thể xảy ra, nhà tái bảo hiểm phải nắm vững ý đồ của công ty
nhợng, xem xét kỹ các rủi ro mà công ty nhợng đem tái bảo hiểm và thờng

xuyên phải canh chừng diễn biến của thoả ớc mà mình đã ký kết.
1.3. Phơng pháp tái bảo hiểm.
Tái bảo hiểm phát triển ngày một hoàn thiện về hình thức cũng nh ph-
ơng pháp. Các hình thức tái bảo hiểm đều tiến hành theo 2 phơng pháp:
- Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (tái bảo hiểm theo tỷ lệ).
- Tái bảo hiểm theo mức bồi thờng (tái bảo hiểm không theo tỷ lệ).
1.3.1. Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm (Proportional Reinsurance).
Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm là một phơng pháp tái bảo hiểm mà
trong đó trách nhiệm của công ty nhợng và nhà tái bảo hiểm đối với đơn vị
rủi ro đợc bảo hiểm đợc phân bổ theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên trên cơ sở
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
19
Luận văn tốt nghiệp
số tiền đợc bảo hiểm. Vì lẽ đó, các dịch vụ tái bảo hiểm theo số tiền bảo
hiểm cũng đợc gọi là tái bảo hiểm theo tỷ lệ.
Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm có một số đặc tính sau:
- Trách nhiệm của công ty nhợng và nhà tái bảo hiểm đợc tính theo tỷ lệ
tơng ứng của mỗi bên tham gia.
- Phí và bồi thờng đợc chia sẻ giữa công ty nhợng và nhà tái bảo hiểm
theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên về số tiền bảo hiểm.
Chẳng hạn, nếu phần tham gia của nhà tái bảo hiểm trên một rủi ro là
40% của giá trị rủi ro đó thì họ cũng sẽ nhận đợc 40% của số phí bảo hiểm và
sẽ đóng góp tiền bồi thờng vào mỗi vụ tổn thất thuộc rủi ro đó là 40%. Tức
là, phần phí bảo hiểm do nhà tái bảo hiểm nhận đúng nh phần rủi ro họ đảm
nhận tính theo tỷ lệ.
Phơng pháp tái bảo hiểm tỷ lệ đợc chia thành 2 dạng chính là:
- Tái bảo hiểm thặng d vốn (hay còn gọi là tái bảo hiểm mức dôi ra)
(surplus), và
- Tái bảo hiểm phân ngạch thuần (hay còn gọi là tái bảo hiểm số

thành hay tái bảo hiểm tham gia) (Quota share).
Tuy cùng là phơng pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ nhng 2 dạng này có những
đặc điểm khác nhau rõ rệt. Có thể khái quát một số điểm khác biệt sau:
- Trong tái bảo hiểm số thành, tỷ lệ tái bảo hiểm và tỷ lệ mức giữ lại của
công ty nhợng đợc ấn định bằng một số tơng đối (tức là bằng tỷ lệ phần trăm)
nhất định do đó số phí đợc hởng và số tiền bồi thờng phải trả của nhà tái bảo
hiểm và của công ty nhợng đợc phân chia tơng xứng theo tỷ lệ ấn định đó.
- Ngợc lại, trong tái bảo hiểm mức dôi, mức giữ lại đợc ấn định theo số
tuyệt đối (tức là bằng số tiền), mức tái bảo hiểm là mức chênh lệch giữa giá
trị bảo hiểm và mức giữ của công ty nhợng và đợc giới hạn bằng một số tiền
tối đa do hai bên thoả thuận. Do đó, tỷ lệ tái bảo hiểm và tỷ lệ mức giữ lại
thay đổi tùy thuộc vào giá trị bảo hiểm của từng đơn vị rủi ro riêng biệt;
chính vì vậy, kết quả bồi thờng của nhà tái bảo hiểm cho toàn bộ các dịch vụ
đợc tái bảo hiểm có thể khác xa so với kết quả bồi thờng của công ty nhợng.
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
20
Luận văn tốt nghiệp
Để hiểu rõ hơn về những khác biệt trên ta đi sâu tìm hiểu về từng dạng
cụ thể:
Thứ nhất: Tái bảo hiểm thặng d vốn (mức dôi)
Tái bảo hiểm mức dôi là dạng tái bảo hiểm tỷ lệ cổ xa và phổ biến
nhất. Thông thờng nó đợc sử dụng khi khối lợng dịch vụ gồm nhiều rủi ro có
những số tiền rất chênh lệch đợc bảo hiểm. Dạng tái bảo hiểm này giúp công
ty nhợng có đợc sự bù đắp cần thiết cho những rủi ro mà họ nhận bảo hiểm.
Bên cạnh đó, công ty nhợng đảm bảo đợc sự cân bằng trong kinh doanh và có
thể nhận bảo hiểm cho những rủi ro có giá trị lớn hơn khả năng tài chính của
mình. Tái bảo hiểm mức dôi còn có u điểm là công ty nhợng có điều kiện giữ
lại một khối lợng kim ngạch bảo hiểm lớn và do đó có mức phí thu nhập lớn
không cần phải tái bảo hiểm. Công ty nhợng chỉ phải đem tái bảo hiểm

những đơn vị rủi ro mà có giá trị bảo hiểm vợt quá khả năng giữ lại đã ấn
định và mức tái bảo hiểm chỉ là phần chênh lệch giữa giá trị của rủi ro đó và
mức giữ lại của công ty nhợng. Mức tái bảo hiểm đợc khống chế bằng một số
tiền tối đa đợc hai bên thoả thuận khi tham gia vào hợp đồng tái bảo hiểm.
Tuy nhiên, tái bảo hiểm theo dạng mức dôi có nhợc điểm nh sau:
- Chi phí hành chính tốn kém.
- Sử dụng nhiều nhân lực (nhất là đối với các nớc không có điều kiện áp
dụng máy tính điện tử).
- Trờng hợp tổn thất rơi nhiều vào những rủi ro dới mức giữ lại có thể
làm ảnh hởng đến kinh doanh của công ty nhợng.
Tái bảo hiểm mức dôi thờng đợc áp dụng nhiều nhất đối với các
nghiệp vụ bảo hiểm cháy, tai nạn thân thể và nhân thọ, ngoài ra cũng đợc áp
dụng ở các nghiệp vụ khác nh: bảo hiểm vận chuyển, trộm cắp, tín dụng
Thứ hai : Tái bảo hiểm số thành (Quota Share).
Dạng tái bảo hiểm số thành ít phổ biến hơn dạng tái bảo hiểm mức dôi
và thờng đợc dùng nhiều hơn cả là trong các nghiệp vụ bảo hiểm về trách
nhiệm dân sự, xe ô tô, ma đá, giông bão và bảo hiểm vận chuyển. Tái bảo
hiểm số thành thờng đợc công ty nhợng sử dụng kết hợp với một dạng tái
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
21
Luận văn tốt nghiệp
bảo hiểm vợt mức bồi thờng (tức là loại tái bảo hiểm không theo tỷ lệ). Tuy
nhiên, trong một số trờng hợp nhất định ngời ta cũng có thể kết hợp cả hai
dạng tái bảo hiểm tỷ lệ (số thành và mức dôi) để phân tán rủi ro.
Trong hợp đồng tái bảo hiểm số thành, các đơn vị rủi ro đợc đem tái
bảo hiểm theo các phần ấn định (fixed share), hay nói cách khác bằng một
thoả ớc phân ngạch. Nhà tái bảo hiểm và công ty nhợng cùng có nghĩa vụ
phải đảm bảo tất cả các rủi ro đợc bảo hiểm của một nghiệp vụ hay một hạng
rủi ro nhất định và nghĩa vụ đó đợc phân chia giữa các bên theo một tỷ lệ

đồng nhất đã đợc quy định bằng thoả thuận từ trớc.
Trái với dạng tái bảo hiểm mức dôi, dạng tái bảo hiểm số thành không
mang tính chất san bằng đối với các giá trị đợc bảo hiểm. Nó cung cấp một
sự đảm bảo giản đơn và có hiệu quả trong mọi trờng hợp, đặc biệt trong trờng
hợp có sự tích luỹ của một số lớn các vụ bồi thờng tổn thất nhỏ hoặc trung
bình mà gây ra bởi cùng một sự cố (chẳng hạn, trong nghiệp vụ bảo hiểm về
ma đá hay bảo hiểm giông bão đối với nông nghiệp thờng xảy ra trờng hợp
tổn thất theo kiểu này).
Đứng trên quan điểm thống kê và kế toán thì dạng tái bảo hiểm số
thành là tái bảo hiểm giản đơn nhất để xử lý. Về cơ bản, dạng tái bảo hiểm
này chỉ có một mức (one line), trong đó tỷ lệ mức giữ lại và mức tái bảo hiểm
đợc ấn định bằng một tỷ lệ đều nhau cho mọi rủi ro nằm trong phạm vi hợp
đồng tái bảo hiểm.
Dạng tái bảo hiểm số thành có những u nh ợc điểm chính nh sau :
-Ưu điểm:
+ Là dạng tái bảo hiểm giản đơn, dễ xử lý, chi phí hành chính và cách
quản lý đơn giản, ít tốn kém.
+ Đối với nhà tái bảo hiểm, tái bảo hiểm số thành có tính cân đối và dễ
chấp nhận hơn so với dạng tái bảo hiểm mức dôi, có khả năng phân tán rủi ro
tốt hơn so với các loại tái bảo hiểm khác. Nhà tái bảo hiểm có điều kiện tham
gia vào mọi đơn vị rủi ro mà công ty nhợng nhận tái bảo hiểm; đồng thời
công ty nhợng có thể yên tâm nhận mọi rủi ro mà có giá trị nằm trong phạm
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
22
Luận văn tốt nghiệp
vi hạn mức khống chế tối đa đã quy ớc vì mọi rủi ro này đều đợc chia sẻ cho
nhà tái bảo hiểm cùng hởng và cùng chịu chung vận may rủi của công ty nh-
ợng.
+ Thủ tục phí tái bảo hiểm công ty nhợng nhận đợc là cao nhất, ngoài

ra điều kiện về tạm giữ phí tái bảo hiểm (premium reserve) cũng có tỷ lệ cao,
nhờ vậy công ty nhợng có điều kiện sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu t vào các
việc khác.
Nh ợc điểm:
+ Công ty nhợng phải đem tái bảo hiểm toàn bộ các đơn vị rủi ro bảo
hiểm gốc theo một tỷ lệ định trớc, kể cả những rủi ro rất nhỏ mà bản thân
công ty nhợng đủ khả năng và điều kiện tự giữ lại đợc.
+ Mặc dù với dạng tái bảo hiểm số thành, công ty nhợng có thuận lợi
hơn so với dạng tái bảo hiểm mức dôi trong việc thực hiện bảo hiểm với khả
năng phân tán rủi ro tốt và linh hoạt, nhng công ty nhợng không chủ động đ-
ợc trong việc khống chế tỷ lệ bồi thờng đối với mức giữ lại của mình, đồng
thời không có khả năng để giảm hệ số biến thiên của phần tổn thất thuộc mức
giữ lại.
Thứ ba: Tái bảo hiểm kết hợp số thành- mức dôi.
Đây không phải là dạng thứ ba của hình thức tái bảo hiểm theo tỷ lệ
mà là sự kết hợp giữa hai dạng tái bảo hiểm tỷ lệ là số thành và mức dôi với
nhau. Với những công ty bảo hiểm mới thành lập, việc kết hợp hai dạng tái
bảo hiểm tỷ lệ là rất phù hợp và thờng đợc áp dụng.
Sở dĩ nh vậy là vì các công ty bảo hiểm mới bắt đầu hoạt động kinh
doanh, khối lợng dịch vụ mà họ nhận bảo hiểm cha đủ ổn định để có thể
tránh khỏi trờng hợp không may có rủi ro lớn xảy ra, đồng thời để đảm bảo
cho công ty nhợng có thể hoạt động đứng vững trên thị trờng và phục vụ đợc
những nhu cầu khác nhau của khách hàng mua bảo hiểm, công ty nhợng cần
thiết phải có tái bảo hiểm theo hình thức mức dôi. Bên cạnh đó, vì mới thành
lập nên công ty nhợng thờng cha thể có đủ số tiền dự trữ đảm bảo để đơng
đầu với những biến thiên về tổn thất theo các chu kỳ khác nhau, do vậy cần
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
23
Luận văn tốt nghiệp

phải bảo vệ phần giữ lại gộp của mình bằng một hợp đồng tái bảo hiểm số
thành.
Thông thờng khi áp dụng hai dạng tái bảo hiểm kết hợp này, công ty
nhợng đem tái bảo hiểm cho cùng một số nhà tái bảo hiểm, tức là cả hai
khoản nhợng này đều cùng đợc đa tái bảo hiểm vào một thoả ớc chung và đ-
ợc thể hiện ở nhiều dạng khác nhau. Thờng thì trong dạng tái bảo hiểm kết
hợp, dạng tái bảo hiểm số thành là hợp đồng cơ sở và dạng tái bảo hiểm mức
dôi làm hợp đồng bổ sung tự động.
Dạng tái bảo hiểm kết hợp có u và nh ợc điểm sau:
Ưu điểm:
+ Công ty nhợng đảm bảo khả năng gia tăng về nhận trách nhiệm bảo
hiểm một cách tự động mà không ảnh hởng đến mức giữ lại của bản thân
công ty (tức là không phải tăng mức giữ lại).
+ Hợp đồng cơ sở (số thành) ổn định hơn và phân tán tái bảo hiểm dễ
dàng hơn.
Nh ợc điểm:
+ Thủ tục và chi phí điều hành phức tạp hơn sử dụng hợp đồng số
thành thuần tuý.
+ Phần đem tái bảo hiểm vào hợp đồng mức dôi cần phải có bảng
thông báo tái bảo hiểm.
+ Thủ tục phí tái bảo hiểm thu đợc của phần đa vào hợp đồng mức dôi
thấp hơn so với thủ tục phí tái bảo hiểm đa vào hợp đồng số thành (vì tỷ trọng
giữa phí và trách nhiệm thấp).
1.3.2. Tái bảo hiểm theo mức bồi thờng (tái bảo hiểm không tỷ lệ).
Tái bảo hiểm theo mức bồi thờng là một hình thức tái bảo hiểm mà
trong đó công ty nhợng ấn định một giới hạn bồi thờng bằng một số tiền mà
họ có thể tự gánh chịu cho tổn thất là hậu quả của mỗi một sự cố đối với một
loại hay các loại bảo hiểm mà mình đảm trách và phần tổn thất vợt quá hạn
mức đó đợc chuyển cho nhà tái bảo hiểm gánh chịu.
Tái bảo hiểm theo mức bồi thờng có một số đặc điểm sau:

Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
24
Luận văn tốt nghiệp
- Trách nhiệm của công ty nhợng và nhà tái bảo hiểm đối với tổn thất
không chia sẻ theo tỷ lệ về phí, trách nhiệm cũng nh về bồi thờng. Vì thế
hình thức tái bảo hiểm này còn đợc gọi là tái bảo hiểm phi tỷ lệ.
- Tiêu chuẩn cơ bản để phân định trách nhiệm giữa các bên là số tiền bồi
thờng tổn thất.
- Công ty nhợng phải chịu trách nhiệm bồi thờng cho những tổn thất dới
hoặc cho tới mức bằng hạn mức bồi thờng tự giữ lại, đợc gọi là mức tự bồi
thờng (Priority).
- Nhà tái bảo hiểm chỉ bồi thờng cho phần tổn thất chênh lệch của
những tổn thất vợt quá mức bồi thờng của công ty nhợng cho tới một hạn
mức tối đa đợc thoả thuận trớc trong hợp đồng tái bảo hiểm, đợc gọi là hạn
mức trách nhiệm của nhà tái bảo hiểm (Liability limitation of Reinsurance).
Từ những tính chất nêu trên có thể thấy hình thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ
này có những u và nhợc điểm chính sau đây:
Ưu điểm:
- Là hình thức tái bảo hiểm chỉ bảo vệ cho trờng hợp có tổn thất quá lớn
và đợc bảo vệ 100% mức tổn thất vợt quá điểm tự bồi thờng (Excess point),
nên công ty nhợng có thể khống chế mức bồi thờng tối đa của mình bằng một
mức tiền ấn định. Về lý thuyết thì sự biến thiên của mức tổn thất thuộc phần
tổn thất do công ty nhợng tự bồi thờng đợc tính toán nhỏ hơn mức biến thiên
tổn thất của công ty nhợng nếu nh áp dụng tái bảo hiểm theo hình thức tái
bảo hiểm theo tỷ lệ.
- Vì nhà tái bảo hiểm không có trách nhiệm bồi thờng cho những vụ tổn
thất có số tiền bồi thờng thấp hơn điểm tự bồi thờng của công ty nhợng, nên
công ty nhợng có số phí bảo hiểm lớn hơn.
- Chi phí hành chính ít tốn kém (vì công ty nhợng không phải phân loại

từng đơn vị rủi ro bảo hiểm, tính toán mức giữ lại, phí tái bảo hiểm, mức tái
bảo hiểm ). Chủ yếu chi phí hành chính cho loại tái bảo hiểm này là: chi phí
tính toán số phí tái bảo hiểm ban đầu, điều chỉnh thanh toán phí bổ sung và
Phạm Thị Hờng Lớp
bảo hiểm 43B
25

×