Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.72 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
Sau hơn 35 năm đổi mới cho thấy, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị được Đảng ta đặc biệt quan tâm nhận thức và giải quyết
đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Việc nhận thức và giải
quyết đúng đắn mối quan hệ này cũng là khâu đột phá trong đổi mới tư duy và
thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng.
Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, có tác
động trực tiếp đến những hoạt động cơ bản của con người cũng như q trình
phát triển của xã hội lồi người. Do đó, khi nghiên cứu về q trình vận động,
phát triển của xã hội loài người, Lênin đã bàn đến các vấn đề kinh tế, chính trị
và mối quan hệ của chúng. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan hệ
cơ bản nhất, cốt lõi, tác động tới sự vận động, phát triển của xã hội, thậm chí
nó có thể phá vỡ chế độ chính trị xã hội đó. Giải quyết mối quan hệ chính trị
với kinh tế trực tiếp quyết định tới mục tiêu của sự phát triển xã hội, phát triển
kinh tế, định hướng và tạo động lực cho phát triển kinh tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ
chức bộ máy, đổi mới phương pháp lãnh đạo, đổi mới phong cách hoạt động;
từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị. Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới
chính trị là vấn đề cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng; trong đó lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị trên cơ sở
nghiên cứu và chuẩn bị nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính
trị. Xét đến cùng thì việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị sẽ quyết định việc nhận thức và giải
quyết đúng đắn các mối quan hệ lớn còn lại.
Những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước là kết quả của quá
trình giải quyết đúng đắn quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị,
đã đưa đất nước ta thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội để bước
vào giai đoạn mới - đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá.



Điều đó đặt ra sự cần thiết phải nhận thức đầy đủ lý luận và thực tiễn về
mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin,
trên cơ sở đó rút ra những bài học để tiếp tục vận dụng cho công cuộc đổi mới
toàn diện theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
NỘI DUNG
I. QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ

1. Khái niệm về kinh tế và chính trị
1.1. Khái niệm về kinh tế
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, kinh tế hay những quan hệ
kinh tế là những cách thức và phương thức tiến hành sản xuất cũng như trao
đối sản phẩm giữa người và người trong việc duy trì đời sống vật chất xã hội,
và trên cơ sở đó quy định mọi quan hệ xã hội khác. Do vậy, kinh tế là cơ sở
quyết định sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội. Như vậy, về phương
diện triết học, nói đến kinh tế là nói đến quan hệ giữa các chủ thể trong tổng
hợp của các quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế - xã hội, hợp thành
một cơ sở hạ tầng trong một hình thái kinh tế - xã hội. Do đó, kinh tế là cơ sở
quy định trên đó một kiểu quan hệ chính trị của kiến trúc thượng tầng tương
ứng trong xã hội đó.
Tuy nhiên, kinh tế và CSHT vừa thống nhất, vừa khác biệt. Thống nhất vì
cùng là mặt vật chất trong quan hệ với cái phản ánh, tinh thần, chính trị; cùng là
vai trị cơ sở, nền tảng xã hội. Khác biệt vì CSHT chỉ khái quát quan hệ sản
xuất, trong khi kinh tế cịn có thêm những nội dung khác như: năng suất, yếu tố,
quy luật, tình hình, quy luật kinh tế. Mặc dù yếu tố cấu thành kinh tế rộng hơn,
nhưng khái quát tầm thế giới quan thấp hơn.
Kinh tế là cơ sở quyết định sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội.
Nói đến kinh tế là nói đến tổng thể các quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối;
tổng thể các mối quan hệ trong quá trình sản xuất. Tổng thể các quan hệ sản
xuất có mối quan hệ kiến trúc thượng tầng (KTTT) và là cơ sở tồn tại của
2



KTTT. Đó là các quan hệ kinh tế, là việc giải quyết các quan hệ về lợi ích
kinh tế giữa người với người trong sản xuất nhằm hướng tới việc giải phóng
sức sản xuất. Mặc dù sự phát triển của lực lượng sản xuất là nhân tố có tính
cách mạng đối với sự vận động của hệ thống các quan hệ kinh tế, nhưng các
quan hệ kinh tế thay đổi theo hướng tiến bộ lại có khả năng mở đường cho
sức sản xuất phát triển. Hệ thống các quan hệ kinh tế thay đổi về cơ bản sẽ
dẫn tới thay đổi chế độ chính trị.
1.2. Khái niệm về chính trị

3


Theo chủ nghĩa Mác -Lênin, với tư cách là một hiện tượng xã hội đặc
biệt - thuộc về kiến trúc thượng tầng, chính trị chỉ xuất hiện khi xã hội phân
chia thành các giai cấp, đồng thời với sự xuất hiện của nhà nước.
Như vậy, xuất phát trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
chính trị ln phải được xem xét trong mối quan hệ biện chứng với kinh tế,
nghĩa là trong mối quan hệ với bản thân quan hệ giữa các giai cấp có địa vị
kinh tế hợp thành chỉnh thể xã hội. Theo đó, xét về bản chất, chính trị là
quan hệ giữa các giai cấp, được hình thành và bị quy định bởi một cơ sở hạ
tầng - kết cấu kinh tế của một xã hội, bởi vậy “chính trị là biểu hiện tập trung
của kinh tế”; “chính trị là cái kinh tế được cơ đọng lại”; “chính trị là sự đấu
tranh giữa các giai cấp”; “chính trị là sự tham gia vào những cơng việc của
nhà nước, là việc vạch hướng đi cho nhà nước, việc xác định hình thức,
nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước”. Như vậy, quan hệ giữa các giai
cấp dựa trên địa vị kinh tế của mình là cơ sở quy định nội dung và tạo thành
nền tảng hết sức quan trọng của chính trị.
Tuy nhiên, khơng chỉ dừng lại trong hoạt động kinh tế, quan hệ giai

cấp chỉ trở thành chính trị theo đúng nghĩa, khi chúng là hình thức biểu hiện
của cuộc đấu tranh giành lấy quyền lực nhà nước nhằm đạt tới địa vị thống
trị. Nói cách khác, bất kỳ cuộc đấu tranh giai cấp nào ở trình độ phát triển
cao của nó đều là đấu tranh chính trị. Với sự xuất hiện của đảng chính trị đã
nói lên sự trưởng thành của cuộc đấu tranh giai cấp. “Cuộc đấu tranh của các
chính đảng là biểu hiện hồn chính, đầy đủ và rõ rệt nhất của cuộc đấu tranh
chính trị của các giai cấp”.
Với tư cách là một hiện tượng xã hội đặc biệt - thuộc về KTTT, chính trị
chỉ xuất hiện khi xã hội phân chia thành các giai cấp, đồng thời với sự xuất hiện
của nhà nước. Chính trị và KTTT vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt.
Thống nhất vì cùng là mặt phản ánh nền tảng vật chất, cùng là cái được hình
thành trên nền tảng kinh tế, cùng thuộc đời sống, quan hệ tinh thần xã hội, cùng
là mặt đối lập với nền tảng kinh tế… Khác biệt vì kinh tế hẹp hơn KTTT; KTTT
4


khơng chỉ có chính trị, mà cịn có những hiện tượng khác như tôn giáo, khoa
học, nghệ thuật, đạo đức. KTTT tồn tại xuyên suốt lịch sử, trong khi đó chính trị
chỉ là quan hệ giai cấp, một bộ phận của KTTT; chính trị chỉ diễn ra trong xã hội
có giai cấp; chiều dài tồn tại của chính trị ngắn hơn KTTT.
Xét về bản chất, chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, được hình thành và
bị quy định bởi một CSHT - kết cấu kinh tế của một xã hội, bởi vậy “chính trị là
biểu hiện tập trung của kinh tế”, “chính trị là cái kinh tế được cô đọng lại”.
2. Quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị
Kinh tế và chính trị là hai mặt cơ bản của đời sống xã hội, có mối quan
hệ biện chứng với nhau, trong đó kinh tế quyết định chính trị và chính trị có
vai trị tác động trở lại to lớn đối với kinh tế.
2.1. Vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị
Kinh tế là nội dung vật chất của chính trị, quan hệ kinh tế quyết định
địa vị các giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì nó cũng thống trị xã

hội về chính trị. Kinh tế, nếu hiểu theo nghĩa là toàn bộ các quan hệ sản xuất
hợp thành kết cấu kinh tế - xã hội của một giai đoạn lịch sử thì nó là một hệ
thống tác động đến chính trị, chứ khơng phải tác động với tư cách là từng
nhân tố rời rạc. Trong hệ thống này, lực lượng kinh tế nào giữ vai trò thống trị
sẽ quyết định KTTT, kể cả tư tưởng lẫn thiết chế tương ứng.
Kinh tế quyết định tư tưởng chính trị và tổ chức chính trị mà nguyên
nhân nằm ở chỗ: Lợi ích kinh tế, xét đến cùng, là nguyên nhân của hành động
chính trị. Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin không
bao giờ xem kinh tế là yếu tố duy nhất.

5


Cũng trên cơ sở phương pháp luận trong việc xem xét về mối quan hệ
gìữa kinh tế và chính trị, thì mặc dù, chủ nghĩa Mác - Lênin nêu lên hai luận
điểm nền tảng: một là, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế; hai là,
chính trị khơng thể khơng chiếm vị trí ưu tiên so với kinh tế; song điều này
có nghĩa là, so với kinh tế, chính trị là sự phản ánh, là “tính thứ hai; khơng có
quan hệ chính trị và quy luật chính trị độc lập tuyệt đối với các quan hệ và
quy luật kinh tế.
Như vậy, kinh tế là nền tảng của chính trị, lá thước đo tính hợp lý của
chính trị, tương ứng với một trình độ phát triển nhất định về kinh tế là một
trình độ phát triển nhất định về chính trị. Nói cách khác, cơ cấu thể chế chính
trị bao giờ cũng tương ứng với một cơ sở kinh tế nhất định. Do đó, khi giải
thích mọi sự biến đối về chính trị, cần phải xuất phát từ căn nguyên kinh tế.
Sự biến đối, phát triển kinh tế là nguồn gốc sâu xa của mọi sự biến đối về xã
hội và đảo lộn về chính trị. Khi kinh tế phát triển thì chính trị tiến bộ, ngược
lại khi kinh tế khủng hoảng, chính trị cũng sẽ ảnh hưởng thậm chí có thể bị
khủng hoảng theo.
2.2. Tính độc lập tương đối của chính trị so với kinh tế


6


* Chính trị có quy luật vận động “riêng”: Tính độc lập tương đối của
chính trị thể hiện ở chỗ, bản thân “chính trị có lơgic khách quan của nó,
khơng phụ thuộc vào những dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của
đảng này hay đảng khác”. Hơn nữa, chính trị với tư cách là biểu hiện tập
trung của kinh tế, do vậy chính trị “là quyền lực nhà nước - cũng là một tiềm
lực kinh tế”.
Tính độc lập tương đối theo quy luật “riêng” của chính trị trên cơ sở
của “sự tác động qua lại giữa hai lực lượng không giống nhau: một bên là
của sự vận động kinh tế, còn bên kia là của lực lượng chính trị mới đang
vươn tới tính độc lập càng lớn càng tốt và một khi nó bắt đầu hoạt động thì
nó cũng có sự vận động riêng của nó. Sự vận động kinh tế nói chung và nhìn
tổng thể sẽ tiện mở đường cho mình, nhưng nó cũng sẽ chịu sự tác động
ngược lại của sự vận động chính trị mà chính nó tạo ra và có tính độc lập
tương đối”.
Tuy nhiên, chính trị có quy luật vận động “riêng” của nó, song sự vận
động của chính trị ln bị quy định bởi mối quan bệ giữa kinh tế và chính trị,
bị mối quan hệ này chi phối, nghĩa là quy luật “riêng” ấy chỉ có tính độc lập
tương đối mà thơi. Điều đó lại cho thấy, ở bất kỳ thời đại nào, chính trị nếu
khơng hướng vào việc giải quyết thỏa đáng các quan hệ lợi ích nhằm phát
triển kinh tế thì sẽ khơng có cơ sở để tồn tại, sớm muộn sẽ bị thay thế bởi
một chính trị mới phù hợp hơn, tiến bộ hơn. Chính trị chủ yếu là xây dựng
nhà nước về mặt kinh tế.
* Chính trị tác động trở lại kinh tế: Chính trị là nhân tố lãnh đạo kinh
tế, vạch hướng đi cho kinh tế, tạo những điều kiện chính trị, xã hội cho kinh tế
phát triển. Do đó, “Chính trị khơng thể khơng giữ địa vị hàng đầu so với kinh
tế”, không thể khơng ưu tiên hơn so với kinh tế, “khơng có một lập trường

chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó, khơng thể nào giữ được sự
thống trị của mình, và do đó cũng khơng thể hồn thành được nhiệm vụ của
mình trong lĩnh vực sản xuất”.

7


Mặc dù là kinh tế quy định đối với chính trị, song “sự vận động kinh
tế chịu ảnh hướng một bên là sự vận động quyền lực nhà nước, còn một bên
là của lực lượng đối lập sinh ra đồng thời với quyền lực ấy”.
Lịch sử chứng minh, khơng có nền kinh tế nào trong xã hội có giai cấp
mà lại khơng chịu sự chi phối điều tiết của chính trị, khơng trực tiếp thì cũng
gián tiếp, khơng biểu hiện bên ngồi thì cũng ẩn giấu ở bên trong. Điều khác
nhau chỉ là nền chính trị nào? Nhà nước thuộc về ai?... Khi nói kinh tế có
trước chính trị, quyết định chính trị có nghĩa là phải tìm nguồn gốc ngun
nhân của chính trị trong kinh tế. Và khi nói chính trị là biểu hiện tập trung của
kinh tế, chính trị ưu tiên so với kinh tế, chính trị khơng thể khơng chiếm vị trí
hàng đầu so với kinh tế là nói đến tác động tích cực của chính trị khi giải
quyết nhiệm vụ kinh tế. Bởi vì, một giai cấp muốn giải quyết vấn đề kinh tế
của mình phải nâng lên quy mô giai cấp mà giải quyết chứ không phải là ở
từng cá nhân và tất yếu phải nắm quyền lực nhà nước để giải quyết lợi ích của
giai cấp mình. Đây là điều kiện, là tiền đề để giải quyết các vấn đề kinh tế. Ở
đây chính trị đã được “thiết chế hóa” thành hệ thống của các các bộ máy mà
biểu hiện tập trung là nhà nước. Nó tác động trở lại kinh tế như là sức mạnh
kinh tế. Trong thực tiễn, sự tác động này có thể theo các hướng:
Một là, cùng chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó, chính trị có vai trị
tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, ngược chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị là một
vật cản, kim hãm sự phát triển kinh tế xã hội.
Ba là, chính trị có khả năng hạn chế phần nào phạm vi tác động những

khuynh hướng phát triển này hoặc có thể đẩy mạnh tác dụng của những
khuynh hướng phát triển khác trong một chế độ kinh tế nhất định.
Từ những luận điểm trên, trong điều kiện của cách mạng xã hội chủ
nghĩa cho thấy, vị trí ưu tiên của chính trị so với kinh tế biểu hiện ở chỗ:

8


Thứ nhất, giai cấp công nhân, nhân dân lao động muốn giải phóng
mình khỏi những quan hệ tư sản và tiểu tư sản làm tha hóa con người, trước
hết họ phải giành lấy quyền lực chính trị, phải trở thành hệ thống chính trị
của mình. Chỉ sau đó, họ mới có tiền đề để cải tạo các quan hệ kinh tế - xã
hội, biến mình thành chủ thể sinh ra các tư liệu sản xuất cơ bản, phát triển
kinh tế vì lợi ích của bản thân mình và sự phát triển của tồn xã hội. Đề cập
tới điều đó, trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và
Ph.Ăngghcn chỉ rõ “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai
cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”.
Thứ hai, phải bảo đảm quan điểm chính trị khi giải quyết các vấn đề
kinh tế và xã hội. Ở đây, các quan điểm chính trị khoa học mang lại khả năng
can thiệp một cách tự giác vào quá trình kinh tế khách quan.
Ngày nay, chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trưởng nhằm giải phóng và
phát huy các năng lực sản xuất, tăng nhanh năng suất lao động, tạo ra nhiều của
cải vật chất cho xã hội. Cho nên ngay từ buổi bình minh của nó, phải có sự tác
động có tính định hướng của Nhà nước, của chính trị. Sự cần thiết phải chú ý
đúng mức đến vai trị của chính trị đối với nền kinh tế nhiều thành phần với mơ
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là do:
Một mặt, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về thực
chất là một kiểu tổ chức vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh
tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc về bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Ở đây, nhóm nhân tố kinh tế thị trường chủ yếu đóng vai trị động lực

thúc đẩy; nhóm nhân tố xã hội chủ nghĩa đóng vai trị vừa là động lực, vừa
hướng dẫn và định hướng sự vận động của nền kinh tế theo mục tiêu đã định.
Vì thế, vai trị của chính trị vừa là động lực, vừa bảo đảm cho các động lực
dó theo một hưởng. Thực tiễn chứng minh, những chính sách kinh tế của
Đảng và Nhà nước ta trong suốt 30 năm đối mới vừa qua thực chất là những
quyết định đột phá tạo nên động lực kinh tế, giải phóng sức sản xuất, trực
tiếp thúc đẩy kinh tế phát triển.

9


Mặt khác, chính trị định hướng kinh tế góp phần duy trì và củng cố
quyền lực chính trị và kinh tế của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Các quan điểm chính trị can thiệp vào quá trình kinh tế, sự điều tiết
của nó được biểu hiện bằng chính sách, kế hoạch, luật pháp và các cơng cụ
điều tiết khác nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường
xã hội chủ nghĩa. Và điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng
kinh tế - xã hội kém phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc
thực hiện những mục tiêu đã xác định.
Trong quan điểm phát triển kinh tế thị trường như vậy, nếu thiếu sự định
hướng, rất có thể trung tâm quyền lực chính trị khơng cịn nằm trong tay giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn liền với
tiến bộ và cơng bằng xã hội khơng thực hiện được. Do đó, không thể tách rời
kinh tế thị trường với sự định hướng xã hội chủ nghĩa. Mối quan hệ này mang
tính nội tại khách quan tất yếu của quá trình phát triển đất nước hiện nay.
Khơng có nền kinh tế thị trường phát trịến mạnh mẽ, nhờ đó nền sản xuất được
xã hội hóa... thì cũng khơng có chủ nghĩa xă hội. Ngược lại, nếu khơng có sự
định hướng xã hội chủ nghĩa tức khơng có sự can thiệp điều tiết của chính trị,
nhà nước thì càng khơng có chủ nghĩa xã hội.
II. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH

TẾ VÀ CHÍNH TRỊ TRONG ĐỔI MỚI KINH TẾ, ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ
TRONG CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

1. Quan điểm mang tính định hướng của Đảng về đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị ở Việt Nam
Đổi mới kinh tế kết hợp với đổi mới chính trị là vấn đề cốt lõi trong
đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị trên cơ sở nghiên cứu và
chuẩn bị nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn định chính trị. Sau hơn 35
năm đổi mới cho thấy, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
được Đảng ta đặc biệt quan tâm nhận thức và giải quyết đúng đắn, phù hợp
10


với từng giai đoạn cách mạng. Việc nhận thức và giải quyết đúng đắn mối
quan hệ này cũng là khâu đột phá trong đổi mới tư duy và thực tiễn lãnh đạo
sự nghiệp đổi mới của Đảng.
1.1. Quan điểm về đổi mới kinh tế
Đổi mới kinh tế ở Việt Nam là quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung,
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết
hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và
từng bước đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Đại hội VI (1986) diễn ra trong bối cảnh có sự “giảm sút của sản xuất vào
những năm 70 cùng với những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, nhất là bố trí
đầu tư và xây dựng cơ bản của những năm 1976 - 1980, để lại hậu quả nặng
nề”, đời sống kinh tế của nhân dân vơ cùng khó khăn. Trong bối cảnh ấy, Đại
hội đề ra nhiệm vụ tập trung vào đổi mới kinh tế, cụ thể là “phải thực hiện
những biện pháp có hiệu quả để nhanh chóng ổn định tình hình kinh tế - xã hội,

đưa mọi mặt hoạt động vào quỹ đạo phát triển bình thường và tiến hành những
cuộc cải cách về tổ chức, quản lý, thiết lập cơ cấu sản xuất và cơ chế quản lý
kinh tế - xã hội”. Từ mục đích này, Đại hội tập trung vào thực hiện ba chương
trình kinh tế lớn là: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu
để ổn định và thiện đời sống của nhân dân.
Trên quan điểm định hướng của Đại hội VI, Đại hội lần thứ VII của
Đảng tiếp tục khẳng định xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và
đổi mới kinh tế trên các mặt: sắp xếp và củng cố các đơn vị kinh tế, từng bước
hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường, đổi mới và hồn thiện các
cơng cụ quản lý vĩ mơ của Nhà nước. Đại hội khẳng định, sản xuất hàng hóa
khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn

11


minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Tại Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, coi đó là mơ hình tổng qt, là đường
lối chiến lược nhất quán của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, chính sách;
sử dụng cơ chế thị trường để giải phóng sức sản xuất. “Mục đích của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát
triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao
đời sống nhân dân”.
Đại hội X (2006), Đảng ta tiếp tục chủ trương hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; nâng cao vai trò và hiệu quả quản
lý kinh tế của Nhà nước theo hướng quản lý bằng pháp luật, hạn chế tối đa
can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tiếp tục

phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, với nhiều hình thức sở hữu trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đáng
chú ý là Đại hội X cịn đưa ra chủ trương khơng xem kinh tế tư nhân gắn với
chủ nghĩa tư bản, mà lãnh đạo kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Tại Hội nghị Trung ương 6 (Khóa X) vào 03/2008, Đảng ta đã khẳng
định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền
kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy
luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng xã
hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước sử dụng như một
công cụ, phương tiện, một động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là mơ hình kinh tế phù
hợp với đặc điểm đất nước.
12


Tại Đại hội XII, đổi mới kinh tế tiếp tục được tập trung vào hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để giải phóng sức sản
xuất xã hội; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế gắn với xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ; “bảo đảm tính cơng khai, minh bạch, tính dự báo được
thể hiện trong xây dựng và thực thi thể chế kinh tế, tạo điều kiện ổn định,
thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội”.
Đại hội XIII của Đảng (2021) đề ra đường lối: Đổi mới mạnh mẽ và
có hiệu quả mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố trên nền tảng khoa học và cơng nghệ, đổi mới
sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ
thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy
đủ, hiện đại, hội nhập.
Đổi mới chính trị “tuyệt đối khơng phải là thay đổi chế độ chính trị,

thay đổi bản chất của Đảng ta, Nhà nước ta”, mà thực chất là trở lại nhận thức
và hành động đúng quy luật vận động của chính trị một cách khách quan.
Trước hết và trực tiếp trong việc giải quyết vấn đề trung tâm là lợi ích và
chung quanh lợi ích một cách tổng hòa, cụ thể từ cá nhân, giai cấp, tầng lớp...
tới quốc gia, dân tộc và với các nước trên tầm quốc tế, mang tính thống nhất,
chỉnh thể và đa dạng.
Đổi mới chính trị thực chất được hiểu là đổi mới tư duy chính trị về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về đổi mới
xây dựng đường lối chính trị, đường lối kinh tế. Nội dung cốt lõi của đổi mới
chính trị là đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị
để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, thực hiện tốt nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân
trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển
kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

13


Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (1989), Đảng ta bắt đầu dùng khái
niệm “hệ thống chính trị”. Khái niệm này cho thấy việc nhận thức rõ hơn về tính
hệ thống, tính chỉnh thể và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành, bao gồm
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là thành viên của
hệ thống chính trị.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI
(8/l989) nhấn mạnh: “Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta không chấp nhận chủ
nghĩa đa ngun chính trị, khơng để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã
hội ra đời và hoạt động, không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều
thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội thông qua tại Đại hội VII (1991) đã xác định rõ mục tiêu tổng quát của hệ
thống chính trị: “Tồn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta
trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.
Trong Cương lĩnh năm 1991, lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan niệm
hoàn chỉnh về phương thức lãnh đạo của Đảng, đó là: “Đảng lãnh đạo bằng
cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương”, “Đảng
liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Lần đầu tiên Đảng ta xác định: “Nhà nước
Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, với sự phân công
rành mạch ba quyền đó”.
Tại Hội nghị Đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, lần đầu
tiên Đảng ta đưa ra khái niệm “Nhà nước pháp quyền”. Đó là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội
bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên cơ

14


sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng, do Đảng lãnh đạo.
Đến Đại hội IX, Đảng ta khẳng định nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp sửa đổi (năm 2001) khẳng
định: Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với

giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh đổi mới chính trị ở ba yếu tố cơ bản,
trọng yếu là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường
kỷ luật, kỷ cương. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp
thiết và hàng đầu.
Tiếp nối tinh thần Đại hội XI, Đại hội XII tập trung sắp xếp, kiện toàn
tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối
quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định,
điều chỉnh phù hợp hơn. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị tiếp tục được đổi mới. Vai trị, tính chủ động tích cực, sáng tạo và
trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị nhất là vai trị của Nhà
nước và Mặt trận Tổ quốc được phát huy.
Đại hội XIII của Đảng (2021) đề ra đường lối: Tiếp tục đẩy mạnh
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Kết hợp hài hoà, chặt
chẽ và có hiệu quả giữa xây dựng với chỉnh đốn Đảng; giữa xây dựng Đảng

15


với bảo vệ Đảng. Không ngừng nâng cao năng lực và đổi mới phương thức
lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới. Đổi mới, hoàn thiện tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả đi đôi với việc củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội
ngũ đảng viên. Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước về thể
chế hoá, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của
Đảng. Đổi mới tổ chức, bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội theo phương

châm hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát,
phản biện xã hội.
1.2. Quan điểm về đổi mới chính trị
Đổi mới chính trị “tuyệt đối khơng phải là thay đổi chế độ chính trị,
thay đổi bản chất của Đảng ta, Nhà nước ta”, mà thực chất là trở lại nhận thức
và hành động đúng quy luật vận động của chính trị một cách khách quan.
Trước hết và trực tiếp trong việc giải quyết vấn đề trung tâm là lợi ích và
chung quanh lợi ích một cách tổng hòa, cụ thể từ cá nhân, giai cấp, tầng lớp...
tới quốc gia, dân tộc và với các nước trên tầm quốc tế, mang tính thống nhất,
chỉnh thể và đa dạng.
Đổi mới chính trị thực chất được hiểu là đổi mới tư duy chính trị về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về đổi mới
xây dựng đường lối chính trị, đường lối kinh tế. Nội dung cốt lõi của đổi mới
chính trị là đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị
để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, thực hiện tốt nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân
trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển
kinh tế - xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (1989), Đảng ta bắt đầu dùng khái
niệm “hệ thống chính trị”. Khái niệm này cho thấy việc nhận thức rõ hơn về tính

16


hệ thống, tính chỉnh thể và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành, bao gồm
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là thành viên của
hệ thống chính trị.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI
(8/l989) nhấn mạnh: “Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của
nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta không chấp nhận chủ

nghĩa đa ngun chính trị, khơng để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã
hội ra đời và hoạt động, không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều
thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội thông qua tại Đại hội VII (1991) đã xác định rõ mục tiêu tổng quát của hệ
thống chính trị: “Tồn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta
trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.
Trong Cương lĩnh năm 1991, lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan niệm
hoàn chỉnh về phương thức lãnh đạo của Đảng, đó là: “Đảng lãnh đạo bằng
cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương”, “Đảng
liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Lần đầu tiên Đảng ta xác định: “Nhà nước
Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, với sự phân công
rành mạch ba quyền đó”.
Tại Hội nghị Đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, lần đầu tiên
Đảng ta đưa ra khái niệm “Nhà nước pháp quyền”. Đó là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp
luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường,
mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp cơng nhân với
giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng lãnh đạo.

17


Đến Đại hội IX, Đảng ta khẳng định nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp sửa đổi (năm 2001) khẳng

định: Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh đổi mới chính trị ở ba yếu tố cơ bản,
trọng yếu là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường
kỷ luật, kỷ cương. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp
thiết và hàng đầu.
Tiếp nối tinh thần Đại hội XI, Đại hội XII tập trung sắp xếp, kiện toàn
tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối
quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định,
điều chỉnh phù hợp hơn. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị tiếp tục được đổi mới. Vai trị, tính chủ động tích cực, sáng tạo và
trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị nhất là vai trị của Nhà
nước và Mặt trận Tổ quốc được phát huy.
Đại hội XIII của Đảng (2021) đề ra đường lối: Tiếp tục đẩy mạnh xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Kết hợp hài hồ, chặt chẽ và có
hiệu quả giữa xây dựng với chỉnh đốn Đảng; giữa xây dựng Đảng với bảo vệ
Đảng. Không ngừng nâng cao năng lực và đổi mới phương thức lãnh đạo,
cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới. Đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đi đôi với
việc củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên.
18


Nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước về thể chế hoá, cụ thể
hoá và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng. Đổi mới tổ

chức, bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội theo phương châm hướng mạnh về cơ sở, địa
bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội.
2. Giải quyết mối quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
trong sự nghiệp đổi mới của Đảng ta
Thời kỳ trước đổi mới, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa
kinh tế và chính trị chưa đúng đắn, chúng ta đã nhấn mạnh q mức vai trị
của chính trị đối với kinh tế và các lĩnh vực của đời sống xã hội; vi phạm quy
luật kinh tế khách quan; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan hệ
với chính trị; nhận thức một cách đơn giản về tác động của chính trị đối với
kinh tế; chính trị can thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ
thống những mệnh lệnh hành chính, chủ quan của các cơ quan quản lý.
Tuy nhiên, trải qua quá trình lãnh đạo, nghiên cứu thực tiễn, tổng kết lý
luận, Đảng ta đã nhận thức và ngày càng giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Mối quan hệ đó được thể hiện: (1) Vai
trò của đổi mới kinh tế đối với đổi mới chính trị: Đổi mới kinh tế tạo cốt lõi
vật chất cho việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể là: Thứ nhất,
đổi mới kinh tế nhằm giải phóng mọi sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng
của tất cả các thành phần kinh tế, các cá nhân, các tập thể lao động và của cả
cộng đồng dân tộc, trên cơ sở “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất”. Thứ hai, đổi mới kinh tế còn là cơ sở để
giải quyết các vấn đề xã hội, chính trị của q trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Thứ ba, đổi mới kinh tế làm cơ sở cho đổi mới chính trị, khơng chỉ đơn
thuần thể hiện đổi mới mơ hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, mà
quan trọng phải được thể hiện trong quan điểm đẩy mạnh phát triển các lĩnh
vực kinh tế đảm bảo cho việc bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia. (2) Vai
trò của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế: Đổi mới chính trị là yếu tố
19



quan trọng bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong đổi mới kinh
tế. Vai trò của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế cịn thể hiện ở việc giữ
vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong q trình đổi mới hệ thống chính trị và
đổi mới kinh tế - một nhân tố quyết định để giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa của đổi mới kinh tế.
Đại hội VI (1986), trong điều kiện đất nước vẫn còn khủng hoảng kinh
tế - xã hội, mục tiêu cơ bản của đổi mới kinh tế là thoát ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội và tạo tiền đề cho cơng nghiệp hóa. Từ mục đích này, Đại hội
tập trung vào thực hiện ba chương trình kinh tế lớn là: lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu để ổn định và thiện đời sống của
nhân dân. Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra nhiệm vụ đổi mới chính trị mà trước
hết tập trung vào phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nâng
cao hiệu quả quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đại hội VI xác định, phải đổi mới từ kinh tế đến đổi mới chính trị và
các lĩnh vực khác. Về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị,
Hội nghị lần 6 Ban Chấp hành Trung ương (Khoá VI) đã chỉ rõ: “Chúng ta tập
trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và
phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Khơng thể tiến hành cải
cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ
khơng có giới hạn, khơng có mục tiêu cụ thể và khơng đi đơi với tập trung thì
dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới”.
Tiếp tục tinh thần của Đại hội VI, Đại hội VII (1991) xác định rất đúng
đắn “về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung làm
tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời
sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi
mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế phải từng bước
đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy
20



ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Đặc biệt, Đại hội rút ra bài học kinh
nghiệm vô cùng quý báu cho việc đổi mới chính trị trong quan hệ với đổi mới
kinh tế: “Vì chính trị đúng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và
nhạy cảm trong xã hội nên việc đổi mới trong hệ thống chính trị nhất thiết
phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị rất nghiêm túc, khơng cho phép gây
mất ổn định chính trị, dẫn đến sự rối loạn. Nhưng khơng vì vậy mà tiến hành
chậm trễ đổi mới hệ thống chính trị, nhất là về tổ chức bộ máy và cán bộ, mối
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là điều kiện
để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực hiện dân chủ”. Đây vừa là bài
học kinh nghiệm quý báu, vừa là nguyên tắc quan trọng mà Đảng ta quán triệt
trong suốt quá trình đổi mới.
Tổng kết 10 thực hiện sự nghiệp đổi mới, Đại hội VIII (1996) tiếp tục
khẳng định bài học: xác định rõ đổi mới không phải là thay đổi mục
tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu
ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp. Đổi mới phải được
thực hiện trên cơ sở bảo vệ, kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân
tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được. Phê phán nghiêm túc sai lầm,
khuyết điểm phải đi đôi với khẳng định những việc làm đúng, không phủ
nhận sạch trơn quá khứ, không hoang mang, mất phương hướng, từ thái cực
này chuyển sang thái cực khác. Trên tinh thần lập trường, quan điểm này, Đại
hội tiếp tục khẳng định “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi
mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi
mới chính trị”; tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi
mới kinh tế, khắc phục những khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần
thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng
cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống
xã hội. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn.


21


Tại Đại hội IX (2001), Đảng rút ra bài học kinh nghiệm tiến hành đổi
mới phải xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo
kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ mơ hình có sẵn nào, đổi
mới tồn diện, đồng bộ, triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm phù
hợp. Trên cơ sở đó, Đại hội chính thức bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh vào
nền tảng tư tưởng của Đảng, coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây
dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt; coi kinh tế thị trường định hướng XHCN là
mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH; xác
định quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; đề ra nhiệm vụ xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo; phát huy dân chủ, giữ vững kỷ
luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế.
Tiếp tục tinh thần các đại hội trước, Đại hội X (2006) rút ra bài
học “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách
làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ
kinh tế, chính trị, văn hóa, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ
thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời
sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp;
bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế
là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh
thần của xã hội”.
Tại Đại hội XI (2011), Đảng đưa ra quan điểm: “Đổi mới chính trị phải
đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hồn thiện
thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ
trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”. Như vậy,

về đổi mới kinh tế, tập trung vào đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Về đổi mới chính trị, tập trung ba lĩnh vực cơ bản,
trọng yếu: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp
22


quyền XHCN, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng
cường kỷ luật, kỷ cương. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
là cấp thiết và hàng đầu. Đặc biệt, bắt đầu từ Đại hội XI, Đảng ta xác định
quan hệ “giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị” là một trong các quan hệ
lớn cần giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH.
Tổng kết 30 năm đổi mới, nhất là tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết
Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng (2016) chỉ rõ: “Nhìn tổng thể, qua 30 năm
đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử”,
trong đó có thành tựu về giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị. Tuy nhiên, Đại hội XII cũng thẳng thắn chỉ ra hạn chế: “Đổi mới
chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”. Từ thực trạng này, Đại hội
XII đề ra mục tiêu chung: “đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước
đi phù hợp trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”. Từ mục tiêu
này, Đại hội XII đề ra yêu cầu đối với đổi mới thể chế kinh tế: “Tập trung
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy
đủ các quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tiếp tục
hoàn thiện khung pháp lý, cơ chế chính sách, thực hiện đồng bộ các giải pháp
để phát triển, vận hành thông suốt, hiệu quả, đồng bộ và khả thi các loại thị
trường và bảo đảm cạnh tranh bình đẳng, minh bạch”. Đối với đổi mới chính
trị: tiếp tục xây dựng, hồn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh
đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Xây dựng Nhà
nước phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến
hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực,

hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Đối với xây dựng
Đảng: đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, nhất là xây dựng Đảng về
đạo đức. Đối với phát huy dân chủ XHCN: bảo đảm tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tăng cường, củng cố tổ chức, đổi mới
23


phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để
phát huy hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội XII tiếp tục coi quan
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong các quan hệ lớn cần
giải quyết trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Kế thừa tinh thần Đại hội XI, XII, tại Đại hội XIII (2021), Đảng tiếp
tục coi quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong các
quan hệ lớn cần giải quyết trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam; khẳng
định tiếp tục thực hiện “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng
Đảng là then chốt”; đề ra nhiệm vụ “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
phát huy bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo,
năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả”. Đồng thời “phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt
Nam”. Quan điểm này tiếp tục chỉ đạo, soi sáng việc đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị trong thời gian tới của Đảng ta.
Hiện nay có những quan điểm xun tạc, bóp méo hay cố tình phủ định
những thành công của Đảng ta trong nhận thức và giải quyết mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Để bác bỏ những luận điểm này,
chúng ta cần chỉ rõ những thành công cụ thể của Đảng trong nhận thức và giải
quyết mối quan hệ này trong quá trình đổi mới.
Điều quan trọng đầu tiên là “Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu

xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng
những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và
biện pháp thích hợp”. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn này, Đảng từng bước
hoàn thiện nhận thức về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Theo đó, “đổi
mới kinh tế” là q trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp,
chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
24


Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa; là bước
chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền kinh tế “mở”, hội nhập;
kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, cơng
bằng xã hội, bảo vệ mơi trường sinh thái. “Đổi mới chính trị” là đổi mới tư
duy chính trị về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH; đổi mới cơ
cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý của
Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn định chính trị để xây dựng chế
độ XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ XHCN nhằm
phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân do Đảng lãnh đạo. Ngay từ
Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3/1989), Đảng ta đã khẳng định “Đổi mới
tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị khơng phải là hạ
thấp hoặc thay đổi bản chất của nó, mà là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chun chính vơ
sản; là làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động năng động
hơn, có hiệu quả hơn”; đồng thời nhấn mạnh “Trong quá trình mở rộng dân
chủ phải ngăn ngừa đấu tranh khắc phục khuynh hướng dân chủ hình thức,
dân chủ cực đoan, dân chủ tư sản, phải tỉnh táo, đấu tranh chống lại những
lực lượng lợi dụng việc mở rộng dân chủ để chống chế độ ta. Phải lắng nghe

ý kiến rộng rãi của nhân dân, nhưng không “theo đuôi” quần chúng”. Đây là
những nguyên tắc chỉ đạo rất quan trọng, làm tiền đề để Đảng nhận thức và
giải quyết tốt quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong suốt
quá trình đổi mới.
Đảng ta hiểu rất rõ rằng khơng thể tiến hành đổi mới chính trị một cách
vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ khơng có giới hạn, khơng có mục
tiêu cụ thể và khơng đi đơi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính
trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới. Cho nên, ngay từ khi mới bắt đầu quá
trình đổi mới, Đảng xác định ổn định kinh tế “không phải là hạn chế các hoạt
25


×