Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Ý thức xã hội Việt Nam truyền thông - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự nghiệp đối mới đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 100 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===========







ĐÀO THỊ QUỲNH HOA


Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG -
NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ
KHI BƯỚC VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
















Hà Nội - 12/2012

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===========






ĐÀO THỊ QUỲNH HOA


Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG -
NHỮNG MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ
KHI BƯỚC VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80





Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Thị Lan











Hà Nội - 12/2012

5
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Ý THỨC XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM
TRUYỀN THỐNG 9
1.1. Ý thức xã hội 9
1.1.1. Khái niệm ý thức xã hội 9
1.1.2. Bản chất của ý thức xã hội 14
1.1.3. Các cấp độ của ý thức xã hội 15
1.2. Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống 18
1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội Việt Nam truyền thống 18
1.2.2. Cơ sở hình thành của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống 20
1.2.3. Một số đặc điểm của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống 31

Chương 2: Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG TRONG52
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC 52
2.1. Một số nét khái quát về công cuộc đổi đất nước 52
2.2. Đánh giá những mặt tích cực và hạn chế của ý thức xã hội Việt
Nam truyền thống đối với sự nghiệp đổi mới đất nước ta hiện nay 58
2.2.1. Những mặt tích cực của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống . 58
2.2.2. Những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống . 65
2.3. Phương hướng phát huy những mặt tích cực và khắc phục những
mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống ở nước ta hiện
nay 70
2.4. Một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và khắc phục
những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống. 76
KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân loại đã đi hết chặng đường còn lại của thập niên đầu, bước vào
thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, sẽ xuất hiện rất nhiều điều mới mẻ về khoa
học, công nghệ, lý luận Cùng với quá trình đó, nền kinh tế vật chất dựa chủ
yếu trên cơ sở sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy việc khai thác tài
nguyên thiên nhiên, sản xuất, chế biến, phân phối, sử dụng sản phẩm vật chất
làm nền tảng đang chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, trong đó việc sản
xuất, truyền tải, sử dụng tri thức chi phối toàn bộ các hoạt động kinh tế. Từ
nay, các giá trị kinh tế lớn nhất được làm ra không phải trong khu vực trực
tiếp sản xuất của cải vật chất mà trong khu vực khoa học - kỹ thuật, dịch vụ.
Vai trò của tài nguyên thiên nhiên và của cải vật chất sẵn có ngày càng giảm
so với tiềm năng trí tuệ, tinh thần, văn hoá. Nếu gần 40 năm trước, sự tiêu hao

vật chất và năng lượng với nhịp độ khó kiềm chế của nền văn minh công
nghiệp truyền thống đã khiến các nhà kinh tế thuộc câu lạc bộ Roma lên tiếng
kêu gọi các chính phủ ngừng tăng trưởng kinh tế (tăng trưởng zêrô) để ngăn
ngừa thảm hoạ diệt vong, thì cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã đảo lộn
tình hình và đưa nhân loại tiến lên một nền văn minh mới, cao hơn: nền văn
minh trí tuệ, trong đó tăng trưởng không ô nhiễm môi trường sống. Trong xu
thế toàn cầu hoá đi đôi với cạnh tranh quyết liệt, nền kinh tế tri thức tạo nhiều
cơ hội thuận lợi cho những nuớc đi sau có thể dựa vào tiềm năng chất xám để
nhanh chóng đuổi kịp các nước khác, song cũng hàm chứa những thách thức
to lớn, những khó khăn, rủi ro và cạm bẫy không phải luôn luôn dễ nhìn và dễ
tránh. Trong lịch sử, chưa bao giờ các đặc điểm tâm lý, ý thức có ý nghĩa
quyết định đối với sự thịnh vượng, thậm chí sự tồn vong của một quốc gia
như hiện nay. Trong các điều kiện ấy, sẽ không có gì lạ nếu tới đây bên cạnh
một số nước tăng trưởng mau chóng thần kỳ có thể có những nuớc suy sụp
thảm hại và tụt hậu vô cùng.


2
Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Chúng
ta đã giành được những thành tựu to lớn và rất đáng tự hào. Tại Đại hội XI
của Đảng, đánh giá 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nêu rõ: “Những thành tựu đạt
được trong 20 năm qua là to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Chúng ta đã thực hiện
thành công chặng đường đầu của công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi
tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân có nhiều thay đổi tích cực, sức
mạnh quốc gia về mọi mặt được tăng cường, độc lập, tự chủ và chế độ xã hội
chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ và bền vững
hơn trong giai đoạn mới” [13; 24]. Những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và ngoại giao đã tạo thế và lực mới cho cách

mạng Việt Nam. Chính những thắng lợi to lớn đó là nhân tố quyết định tạo ra
thời cơ cho nước ta phát triển nhanh hơn trong thời gian tới. Tuy nhiên, khi
phải so sánh với các nước trong khu vực, theo báo cáo gần đây của Ngân hàng
Thế giới, với tốc độ phát triển hiện nay, Việt Nam cần 51 năm để đuổi kịp
Inđônêxia, 95 năm để đuổi kịp Thái Lan, 158 năm để đuổi kịp Xingapo.
Những con số làm ngạc nhiên và thất vọng nhiều người trong chúng ta! Truy
tìm những nguyên nhân gây ra sự chậm trễ này, người ta thấy có một phần từ
trong quá khứ, từ sự chưa sẵn sàng chủ động hội nhập và sự thiếu vắng một
nếp tư duy phát triển trong tâm thức và truyền thống của người Việt.
Vì vậy, phân tích để hiểu rõ những đặc điểm của ý thức xã hội Việt
Nam truyền thống (bao gồm những quan niệm, tư tưởng cùng với những tình
cảm, tâm trạng, truyền thống của dân tộc), những mặt tốt, những yếu tố tích
cực, thúc đẩy sự phát triển; cùng với những nhược điểm, những yếu tố chưa
tốt, thậm chí tiêu cực, đang hoặc sẽ níu kéo chúng ta lại sau là việc làm hết
sức cần thiết để giúp xây dựng một chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp với
hoàn cảnh và điều kiện thế giới ngày nay. Cần nhìn lại kỹ bản thân không chỉ
để tự tin hơn, mà còn để bớt chủ quan trước tình hình mới. Tự soi gương bao


3
giờ cũng có ích, nhưng không phải chỉ để thấy mình đẹp mà còn để thấy mình
có những khiếm khuyết gì cần phải sửa, thay vì cố tình bỏ qua hay che giấu.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả đã chọn vấn đề“Ý thức xã hội
Việt Nam truyền thống - những mặt tích cực và hạn chế khi bước vào sự
nghiệp đổi mới đất nước” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ của
mình, với hy vọng sẽ có được một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về một vấn đề
không còn mới mẻ nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tìm hiểu về ý thức và ý thức xã hội nói chung từ lâu đã thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước. Việc giới

thiệu những kết quả nghiên cứu về ý thức, ý thức xã hội nói chung cũng được
thực hiện ở nước ta từ khá sớm so với các vấn đề triết học khác. Cuốn sách
“Tìm về cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức” của GS. Trần Đức Thảo (Nxb.
Thông tin, Hà Nội, 1996) đã góp phần loại bỏ cách hiểu bản chất con người
chung chung, trừu tượng, phi lịch sử, cũng như cách hiểu bản chất con người
là do vô thức quyết định, đồng thời khẳng định chính ngôn ngữ và lao động
xã hội là nguồn gốc của ý thức. Các công trình nghiên cứu như bản dịch cuốn
“Ý thức xã hội và các hình thái ý thức xã hội” của Côngstăngtinốp (Nxb. Sự
thật, Hà Nội, 1956); “Ý thức xã hội” của Cục Tuyên huấn (Nxb. Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 1956); “Cấu trúc và các quy luật của ý thức xã hội” của
B.A.Traghen (Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1968); “Triết học xã hội” tập II của
A.G. Xpirkin (Nxb. Tuyên huấn, 1989)… đã tạo ra những cơ sở quan trọng
cho việc tiếp cận dưới góc độ triết học đối với vấn đề này. Các công trình kể
trên đã bàn về ý thức xã hội với tư cách là một nhân tố trong mối quan hệ với
tồn tại xã hội, chỉ ra sự thống nhất giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội; phân
tích kết cấu, các cấp độ và tính giai cấp của ý thức xã hội, đi sâu nghiên cứu
về các quy luật nội tại của ý thức xã hội, phân tích các quá trình phát sinh,


4
phát triển của ý thức xã hội. Song có rất ít công trình bàn đến ý thức xã hội
của một quốc gia, dân tộc cụ thể.
Ở nước ta, việc nghiên cứu về ý thức xã hội Việt Nam truyền thống
cũng chưa nhiều, chủ yếu được bàn đến trong các cuốn sách, luận án, bài viết
có liên quan. Trong cuốn sách “Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam”
(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011), GS. Trần Văn Giàu đã đi sâu phân
tích những điều kiện hình thành và phát triển các giá trị đạo đức truyền thống,
đồng thời chỉ ra các giá trị truyền thống của dân tộc như: yêu nước, cần cù,
anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa. Xuyên suốt tác phẩm,
tác giả đã làm nổi bật luận điểm: Chủ nghĩa yêu nước là tư tưởng và tình cảm

chủ yếu của người Việt Nam xưa nay, là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử
Việt Nam. Ngoài ra còn phải kể đến một số công trình như:“Văn hoá sử
cương” của GS. Đào Duy Anh; “Đến hiện đại từ truyền thống” của GS. Trần
Đình Hựu; “Bản sắc văn hoá Việt Nam” của GS. Phan Ngọc. Những công
trình này chủ yếu đi sâu phân tích đời sống tinh thần nói chung, phân tích một
số giá trị truyền thống tiêu biểu, khẳng định vai trò của những giá trị đó đối
với công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Cuốn sách “Triết học
với sự nghiệp đổi mới” (Nxb. Sự Thật, 1990) của GS. Phạm Thành, GS. Lê
Hữu Tầng, GS. Hồ Văn Thông đã phân tích vai trò của tư duy triết học mácxít
trong công cuộc đổi mới tư duy lý luận để nhận thức những vấn đề mới của
cách mạng Việt Nam, từ đó xác định được hướng đi và cách giải quyết đúng
những vấn đề đó. Các công trình: “Ảnh hưởng các hệ tư tưởng và tôn giáo đối
với con người Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Tài Thư (Nxb. Chính
trị quốc gia, 1997); “Về tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam hiện nay” của GS.
Đặng Nghiêm Vạn (Nxb. Khoa học xã hội, 1998) đã phân tích một số vấn đề
lý luận và thực tiễn cũng như các hình thái vận động và sự tác động của các
hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam. Cuốn sách “Phương
thức sản xuất châu Á - lý luận Mác - Lênnin và thực tiễn Việt Nam” (Nxb.
Khoa học xã hội, 1996) của GS. Văn Tạo đã giới thiệu khái quát quá trình


5
hình thành lý luận Mác - Lênnin về phương thức sản xuất châu Á, đồng thời
liên hệ với lịch sử Việt Nam và thực tiễn nông thôn Việt Nam để gợi ra một
số vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn trong việc xem xét mối quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cuốn sách “Sự biến đổi các thang giá trị
đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán
bộ quản lý ở nước ta hiện nay” (Nxb. Chính trị quốc gia, 1999) của PGS.
Nguyễn Chí Mỳ đã đề cập đến một số vấn đề đạo đức mới trong cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ

quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong cuốn
sách “Tiến bộ xã hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (GS. Nguyễn
Trọng Chuẩn chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 2000), các tác giả đã luận giải
tiến bộ xã hội từ khía cạnh văn hoá, đạo đức và khẳng định vai trò của văn
hoá, đạo đức đối với sự phát triển bền vững của xã hội.
Bên cạnh đó cũng có rất nhiều các bài viết đề cập đến các vấn đề về
tính độc lập tương đối của ý thức xã hội như Ăngghen với tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội của Phùng Đông, Tạp chí triết học, số 6/2001; Về những
nguyên nhân của việc cường điệu hay tuyệt đối hoá tính độc lập tương đối
của ý thức xã hội ở nước ta của Trần Văn Khánh, Tạp chí triết học, số 2/2001;
Vai trò của đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay của Ngô Thị Thu Ngà, Tạp chí Triết học, số
6/2010; Vai trò của giá trị truyền thống trong sự hình thành và phát triển
nhân cách của Cao Thu Hằng, Tạp chí Triết học, số 6/2011…
Một số luận án, luận văn đã tập trung phân tích vai trò của ý thức xã hội
và thực trạng đời sống tinh thần của nước ta, đồng thời đưa ra những giải
pháp để nâng cao đời sống tinh thần hiện nay như Vấn đề vận dụng tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội trong hoạt động thực tiễn, luận án tiến sĩ triết
học của tác giả Trần Văn Khánh, Viện Triết học, Hà Nội, 2001; Phạm trù đời
sống tinh thần xã hội và ý nghĩa của nó của tác giả Phùng Đông, luận án tiến


6
sĩ triết học, Viện Triết hoc, Hà Nội, 1997; Ảnh hưởng của tâm lý tiểu nông đối
với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
của tác giả Cao Thị Sính, luận án tiến sĩ triết học, 2011…
Gần đây, Viện Triết học đã tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Tư
duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay trước yêu cầu đổi mới và
hội nhập quốc tế". Tại hội thảo này, các nhà khoa học đã khẳng định, phương
thức sản xuất chính là cơ sở hình thành nên lối sống và đó cũng là nhân tố

quyết định đến lối sống, đến việc định hướng các hoạt động và định hướng
các giá trị của con người. Lối sống của người Việt Nam được hình thành cùng
với lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, được quy định bởi
các điều kiện kinh tế, chính trị, địa lý. Do vậy, lối sống của người Việt Nam
cũng chính là hiện thân của các đặc điểm truyền thống của dân tộc và mang
bản sắc văn hóa Việt Nam. Đồng thời, các nhà khoa học cũng đã chỉ ra những
ưu điểm cần phát huy, cũng như những mặt hạn chế trong tư duy và lối sống
của người Việt cần sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu của của sự nghiệp đổi
mới và hội nhập quốc tế.
Nhìn chung, những cuốn sách, luận văn, bài viết đã công bố về đề tài ý
thức xã hội hầu hết chỉ bàn đến ý thức xã hội với tư cách là một nhân tố trong
mối quan hệ với tồn tại xã hội, hoặc là đi sâu vào làm rõ các đặc điểm, tính
chất, cấu trúc của ý thức xã hội nói chung, hoặc chỉ bàn đến vai trò của ý thức
xã hội trong hoạt động thực tiễn nói chung, hay từ góc độ của ý thức xã hội để
xem xét những vấn đề như văn hoá, đạo đức, đời sống tinh thần, tôn giáo…
mà chưa tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống về những đặc điểm của ý
thức xã hội Việt Nam truyền thống, từ đó để thấy được những mặt tích cực
cũng như hạn chế của nó khi bước vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Qua đó chúng ta có thể khẳng định rằng, việc nghiên cứu về ý thức xã
hội Việt Nam truyền thống không phải là một đề tài cũ. Bởi vì, nếu xét theo
quan điểm lịch sử cụ thể thì ở mỗi thời điểm khác nhau, mỗi lĩnh vực khác


7
nhau chúng ta sẽ có những đánh giá cụ thể. Thực tế đã chứng minh rằng, cho
đến nay vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ
thống từ góc độ triết học về những đặc điểm của ý thức xã hội Việt Nam
truyền thống. Vì vậy, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:

Trên cơ sở phân tích một số đặc điểm cơ bản của ý thức xã hội Việt
Nam truyền thống, chỉ rõ những giá trị và hạn chế của nó, luận văn nêu ra một
số phương hướng và biện pháp pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và
khắc phục những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống khi
bước vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Nhiệm vụ:
+ Trình bày khái lược một số vấn đề lý luận chung về ý thức xã hội.
+ Làm rõ những tiền đề, điều kiện cho việc hình thành ý thức xã hội
Việt Nam truyền thống.
+ Phân tích một số đặc điểm cơ bản của ý thức Việt Nam truyền thống,
chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của nó.
+ Nêu ra một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy những mặt
tích cực, khắc phục những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền
thống khi bước vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu về ý thức xã hội Việt Nam truyền
thống là một đề tài rộng, trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả không thể
phân tích tất cả các bình diện của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống mà chỉ
tập trung vào một số khía cạnh: phân tích cơ sở hình thành và một số đặc


8
điểm tiêu biểu của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống, chỉ ra những mặt tích
cực và hạn chế, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những mặt
tích cực và khắc phục những mặt hạn chế của ý thức xã hội Việt Nam truyền
thống trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về ý thức xã hội, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng

Cộng sản Việt Nam về văn hoá, đạo đức, truyền thống dân tộc. Tác giả cũng
sử dụng những thành tựu của các công trình đi trước trong việc phân tích cơ
sở lý luận chung.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như: phân tích - tổng
hợp; lôgíc - lịch sử; đối chiếu, so sánh, khái quát hoá…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ một số đặc điểm tiêu biểu của ý thức xã hội
Việt Nam truyền thống, từ đó chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế của nó khi
bước vào công cuộc đổi mới đất nước.
- Bước đầu đề ra một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực
và khắc phục những mặt hạn chế của ý thức Việt Nam truyền thống.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 6 tiết.






9
Chương 1
Ý THỨC XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI VIỆT NAM TRUYỀN THỐNG
1.1. Ý thức xã hội
1.1.1. Khái niệm ý thức xã hội
Trong lịch sử tư tưởng nói chung và lịch sử triết học nói riêng, việc
nghiên cứu ý thức và ý thức xã hội (với những hình thức thể hiện khác nhau
như: ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức dân tộc, ý thức giai cấp, ý thức cá
nhân, ý thức cộng đồng.v.v.) không phải là vấn đề hoàn toàn mới. Từ khi triết

học ra đời đến nay, xung quanh vấn đề ý thức và ý thức xã hội đã luôn là nơi
hội tụ của những khác biệt, tranh luận, đấu tranh giữa các trường phái triết
học và các nhà tư tưởng.
Lấy ý thức xã hội làm đối tượng nghiên cứu của mình, một trong những
nhiệm vụ của triết học là tập trung trả lời câu hỏi: Ý thức xã hội là gì?
Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, các nhà triết học trước C.Mác tuy
chưa đưa ra kiến giải khoa học về ý thức xã hội, nhưng ở các mức độ khác
nhau họ cũng đã đưa ra được những hiểu biết ban đầu về ý thức xã hội nói
chung, đặt tiền đề nhất định cho việc hình thành khái niệm khoa học ý thức xã
hội của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ở thời kỳ Hy Lạp - La Mã cổ đại, nhà triết học Anaxago (khoảng 500 -
428TCN) đã đưa ra khái niệm “Nuxơ” với hàm nghĩa là trí tuệ để chỉ tất cả
những hành vi hiện tồn nói chung của ý thức và tư duy; còn theo Platon (428 -
347 TCN) thì Nuxơ chính là “ý niệm”. Cùng thời kỳ này, các nhà triết học
phương Đông như Ấn Độ, Trung Quốc đã có những quan niệm khác nhau, dù
là duy tâm về ý thức. Tựu trung ở thời kỳ cổ đại, các nhà triết học duy tâm đã
tập trung vào luận giải ý thức với tư cách là bản nguyên sáng tạo của thế giới
và đề cao tính tích cực của ý thức khi gắn nó với hành vi, với hoạt động sống
của con người.


10
Triết học Tây Âu thế kỷ XVII - XVIII đã có những tiến bộ vượt bậc
hơn so với thời kỳ trước trong quan niệm về ý thức nói chung và ý thức xã hội
nói riêng, hầu hết các nhà triết học không chỉ thấy, mà còn đặc biệt đề cao vai
trò của ý thức đối với xã hội, đối với hoạt động của con người. Chẳng hạn
như Hônbách cho rằng, trong xã hội thì ý kiến, tư tưởng của con người có thể
điều khiển thế giới và ý kiến, tư tưởng của những nhà làm luật giữ vai trò
quyết định. Điđơrô cho rằng, những tư tưởng, quan điểm chính trị đóng vai
trò quyết định tính chất của chế độ xã hội.

Khác với một số nhà triết học cùng thời, Heghen - nhà triết học cổ điển
Đức đã quá đề cao vai trò của tư duy, ý thức đến mức tuyệt đối hoá nó. Ông
cho rằng, thế giới hiện thực chẳng qua chỉ là biểu hiện của ý niệm, của tinh
thần tuyệt đối, đó là quá trình tự nhận thức của bản thân ý niệm tuyệt đối. Phủ
nhận giá trị tiến bộ của tất cả những quan niệm đó đối với lịch sử phát triển
của xã hội và lịch sử nhận thức nói riêng sẽ là không công bằng, nhưng kể cả
quan niệm của những nhà triết học duy vật nhất trong số đó như Điđơrô đều
không đưa ra được giải thích khoa học về ý thức nói chung và ý thức xã hội
nói riêng. Điều này chỉ có được khi giải quyết vấn đề ý thức dựa trên kiến giải
duy vật về quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Bước chuyển quan trọng trong lịch sử triết học khi bàn về vấn đề ý thức
xã hội được thực hiện bởi quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen. Bằng tư
tưởng biện chứng duy vật, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc và phê
phán quan điểm của các nhà triết học trong lịch sử, C. Mác và Ph. Ăngghen
đã khẳng định: “Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống
quyết định ý thức” [42; 37-38]. Nguyên lý quan trọng đó đã được thể hiện rất
rõ trong một số tác phẩm tiêu biểu của C. Mác và Ph. Ăngghen như: “Góp
phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”; “Hệ tư tưởng Đức”;
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”; “Luận cương về Phoiơbắc”; “Góp phần
phê phán khoa kinh tế chính trị”.v.v.


11
Chẳng hạn, trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền
của Heghen”, C. Mác nêu rõ: tôn giáo với tính cách là một hình thái ý thức xã
hội được bắt nguồn từ chính thế giới chứ không phải trên thượng giới. Do đó
“sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa
là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn hiện thực ấy” [40; 569]. Hoặc trong
tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, khi nói về nguồn gốc của ý thức xã hội, C. Mác
đã viết: “Chính con người là kẻ sản xuất ra những ý niệm… của mình, song

đây là những con người hiện thực, đang hành động, đúng như họ bị quy định
bởi một sự phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất của họ và bởi sự
giao tiếp phù hợp với sự phát triển ấy, kể cả những hình thức rộng rãi nhất
của sự giao tiếp đó. Ý thức không bao giờ là cái gì khác hơn là sự tồn tại được
ý thức” [42; 258]. Như vậy, ở đây, C. Mác đã khẳng định chính con người đã
sản xuất ra những quan niệm, ý niệm, và những quan niệm, ý niệm đó được
xuất phát từ ngay chính đời sống hiện thực của con người chứ không phải
hiện thực là sự thể hiện của ý niệm tuyệt đối như quan niệm của Heghen. Do
đó, ý thức xã hội chẳng qua chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã hội, do tồn tại xã
hội quyết định.
Viết về phạm trù ý thức xã hội, các tác giả của cuốn “Từ điển triết
học” cho rằng: “Ý thức xã hội - tức là sinh hoạt tinh thần của xã hội là do
những điều kiện sinh hoạt vật chất, do phương thức sản xuất vật chất quyết
định” [77; 1068].
Ở đây, người ta đã đồng nhất ý thức xã hội với sinh hoạt tinh thần của
xã hội và đời sống tinh thần do đời sống vật chất quyết định. Côngstăngtinốp
cho rằng: theo nghĩa rộng, khái niệm ý thức xã hội bao gồm những quan điểm
chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học… của xã hội,
bao gồm tri thức khoa học (kể cả khoa học tự nhiên). Nói theo nghĩa tương
đối hẹp thì khái niệm ý thức xã hội chỉ là những tư tưởng, quan điểm và học
thuyết xã hội phản ánh tồn tại xã hội, chế độ xã hội. Có quan điểm cho rằng, ý


12
thức xã hội là mặt tinh thần của xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng
cùng những tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội trong những
giai đoạn phát triển nhất định.
Như vậy, ý thức xã hội và đời sống tinh thần của xã hội có đồng nhất
với nhau không? Đây là câu hỏi khiến nhiều nhà nghiên cứu khoa học xã hội
nói chung quan tâm, đặc biệt là trong lĩnh vực triết học. Thực ra, đời sống tinh

thần xã hội và ý thức xã hội là hai phạm trù có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Về bản chất, chúng đồng nhất với nhau, bởi vì trong quan niệm của chủ
nghĩa duy vật, phạm trù tinh thần được hiểu rất gần với phạm trù ý thức. Triết
học duy vật biện chứng khi rút ra vấn đề cơ bản của triết học đã mang lại cho
chúng ta một cơ sở lý luận để xem xét phạm trù ý thức xã hội. Bởi vì nếu xem
xét trên mặt nhận thức luận thì tinh thần và ý thức được hiểu là sản phẩm của
vật chất có tổ chức cao là bộ não con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan.
Đời sống tinh thần và ý thức xã hội còn có quá trình phát sinh, phát
triển như nhau. Ngay từ khi con người mới thoát thai khỏi đời sống động vật,
con người sống thành bầy đàn trong các cộng đồng người như thị tộc, bộ lạc,
khi đó trong xã hội chưa có sự phân biệt giữa lao động trí óc và lao động chân
tay, hoạt động tinh thần xen lẫn sinh hoạt vật chất. Hoạt động tinh thần của
con người ta thời kỳ đó có những hạn chế, nó tương ứng và phù hợp với trình
độ thấp kém của lực lượng sản xuất công xã lúc đó. Vì vậy, đời sống tinh thần
của con người biểu hiện rõ rệt ở phong tục tập quán, ở tín ngưỡng của họ.
Điều này cũng giải thích tại sao tôn giáo thời kỳ này nặng về thần thoại, nó
phản ánh sự sợ hãi, sự bất lực của con người trước sự hùng vĩ của những lực
lượng tự phát của tự nhiên.
Đời sống tinh thần của xã hội cũng bắt đầu và phát triển cùng với sự
phát triển của đời sống vật chất của xã hội, cho nên đời sống tinh thần và ý
thức xã hội không chỉ dừng lại ở đó mà tiếp tục phát triển theo sự phát triển


13
của sinh hoạt vật chất. Từ khi xã hội diễn ra sự phân công lao động, giai cấp
bắt đầu xuất hiện thì toàn bộ sinh hoạt xã hội của con người, bao gồm cả sinh
hoạt tinh thần dần trở nên phức tạp. Nhà nước, pháp luật ra đời, các hình thái
ý thức xã hội khác bắt đầu nảy sinh và phát triển, triết học xuất hiện. Và cứ
như vậy, cho đến nay, đời sống tinh thần và ý thức xã hội phát triển tương

ứng với sự phát triển của đời sống vật chất của xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa duy
vật lịch sử cho rằng, ý thức xã hội, hệ tư tưởng của xã hội là do sự phát triển
của sản xuất, do hoạt động sản xuất của xã hội quyết định, dù không phải là
quyết định trực tiếp mà thông qua quan hệ sản xuất.
Tuy nhiên cũng có sự khác biệt giữa phạm trù tinh thần và phạm trù ý
thức xét trên góc độ nhận thức luận và về mặt kết cấu. Trên góc độ nhận thức
luận, có tác giả cho rằng tinh thần và ý thức khác nhau ở chỗ: tinh thần là cái
giống như ý thức được tồn tại trong đầu óc con người, nhưng nó còn được
hiện thực hoá, vật chất hoá. Đặc biệt, tinh thần còn để lại dấu vết trong những
mối quan hệ xã hội. Còn ý thức là cái đối lập với vật chất. Vì vậy, khi định
nghĩa phạm trù vật chất, V.I. Lênin đã dùng phương pháp đặc biệt - phương
pháp đem đối lập vật chất với ý thức. Chính vì vậy, khác với ý thức, trong
mối quan hệ với vật chất, tinh thần vừa là chủ thể, vừa là khách thể (vừa là cái
phản ánh vật chất, vừa là đối tượng của phản ánh vật chất).
Xét về kết cấu cụ thể thì phạm trù đời sống tinh thần rộng hơn phạm trù
ý thức xã hội. Bởi vì phạm trù đời sống tinh thần còn bao gồm cả những hoạt
động tinh thần và những quan hệ tinh thần phong phú của xã hội. Do đó, nếu
cho rằng ý thức xã hội là mặt tinh thần của xã hội thì có thể dẫn đến cách hiểu
là đồng nhất ý thức xã hội với đời sống tinh thần xã hội. Vì vậy, theo chúng
tôi: Ý thức xã hội là một khái niệm thuộc lĩnh vực tinh thần của xã hội, bao
gồm những quan điểm, tư tưởng, học thuyết, lý thuyết, những tình cảm, tâm
trạng, tâm lý, truyền thống, tập quán… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh
tồn tại xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Cách hiểu nội dung khái


14
niệm như vậy vừa nói lên được nguồn gốc của ý thức xã hội là bắt nguồn từ tồn
tại xã hội, vừa khẳng định được bản chất của nó là phản ánh tồn tại xã hội.
1.1.2. Bản chất của ý thức xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức

xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại
xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những
tư tưởng và lý luận xã hội, quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo
đức, văn hoá, nghệ thuật… sớm muộn cũng biến đổi theo.
Ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội dưới những dạng thức như:
nhận thức (lý luận hay kinh nghiệm), tình cảm, tâm trạng, truyền thống v.v
Các tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác đã đưa ra luận chứng khoa học rằng,
con người tạo ra tư tưởng và quan niệm của mình, nhưng không phải tạo ra
một cách tuỳ ý mà theo hình mẫu của các mối quan hệ hiện thực: “Ý thức
không bao giờ có thể là cái gì hơn là tồn tại được ý thức và tồn tại của con
người là quá trình sinh sống của con người” [42; 37].
Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, ý thức xã hội không hình
thành sau khi tồn tại xã hội đã hình thành một thời gian, mà hình thành đồng
thời trong sự thống nhất với tồn tại xã hội. Chính vì xã hội, như chúng ta đã
biết là một thực tại chủ thể - khách thể, nên tồn tại xã hội và ý thức xã hội tựa
hồ “chồng’ vào nhau: thiếu năng lượng của ý thức xã hội thì tồn tại xã hội bất
động, thậm chí chết cứng. Ngay cả quá trình sản xuất vật chất - nền tảng của
tồn tại xã hội - tại một thời điểm, tồn tại độc lập với ý thức và quyết định ý
thức - cũng chỉ thoát khỏi quyền lực của ý thức một cách tương đối. Ở đây, ý
thức xã hội được thực hiện trong hai nguyên thể: năng lực phản ánh và năng
lực sáng tạo tích cực. Bản chất của ý thức xã hội lại chính là ở chỗ: nó chỉ có
thể phản ánh tồn tại xã hội trong điều kiện đồng thời cải tạo tồn tại ấy một
cách tích cực, sáng tạo. Lịch sử đã nhiều lần chứng minh rằng, tư tưởng, nhất
là tư tưởng chính trị - xã hội, có thể đi trước trạng thái hiện có của xã hội và


15
thậm chí cải tạo nó. Xã hội là một thực tại vật chất - tư tưởng. Tổng thể những
quan niệm khái quát, tư tưởng, lý luận, tình cảm, phong tục, truyền thống,…
tức là những cái hợp thành nội dung của ý thức xã hội và tạo thành thực tại

tinh thần lại là bộ phận hợp thành của tồn tại xã hội, bởi vì nó được đem lại
cho ý thức cá nhân riêng rẽ.
Nhưng khi nhấn mạnh tính thống nhất của tồn tại xã hội và ý thức xã
hội, không được bỏ qua tính khác biệt, tính độc lập tương đối của chúng.
Trong lịch sử, mối liên hệ lẫn nhau giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong
tính độc lập tương đối của chúng được thể hiện như sau: nếu như trong giai
đoạn đầu của sự phát triển xã hội, ý thức xã hội được hình thành dưới tác
động trực tiếp của tồn tại xã hội, thì về sau tác động này ngày càng mang tính
gián tiếp - thông qua nhà nước, các quan hệ chính trị, pháp quyền. Ngược lại,
ý thức xã hội tác động đến tồn tại xã hội một cách trực tiếp. Chính khả năng
của ý thức xã hội tác động trực tiếp như vậy đến tồn tại xã hội nằm trong năng
lực của ý thức phản ánh đúng tồn tại.
Như vậy, với tư cách là sự phản ánh và hoạt động tích cực - sáng tạo, ý
thức xã hội là thể thống nhất hai mặt không tách rời của cùng một quá trình:
khi ảnh hưởng đến tồn tại xã hội, ý thức xã hội có thể đánh giá, vạch ra ý
nghĩa ẩn giấu của tồn tại xã hội, dự báo, cũng có thể cải tạo tồn tại xã hội
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, ý thức xã hội của thời
đại không những có thể phản ánh tồn tại xã hội, mà còn có thể tích cực tạo
điều kiện cải tổ nó. Chức năng đó đã hình thành trong lịch sử của ý thức xã
hội, khiến cho ý thức xã hội trở thành một yếu tố tất yếu khách quan và tồn tại
thật sự trong bất kỳ cơ cấu xã hội nào.
1.1.3. Các cấp độ của ý thức xã hội
Chúng ta có thể tiếp cận ý thức xã hội dưới nhiều góc độ khác nhau. Có
thể xem ý thức xã hội gắn với các hình thái ý thức xã hội, cũng có thể tiếp cận


16
ý thức xã hội dưới góc độ chủ thể mang ý thức để phân tích ý thức xã hội của
các nhóm, tập đoàn, giai cấp trong xã hội.
Nói chung, ý thức xã hội thường được phân chia theo chiều dọc thành

những cấp độ và theo chiều ngang thành các hình thái ý thức xã hội.
Ở đây, chúng ta có thể phân chia ý thức xã hội theo chiều dọc thành các
cấp độ: ý thức đời thường, ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã
hội Mỗi cấp độ phản ánh tồn tại xã hội một cách khác nhau.
Ý thức đời thường và ý thức lý luận:
Ý thức đời thường: là những hiểu biết về xã hội, những quan niệm sống
của con người được hình thành một cách trực tiếp từ cuộc sống xã hội, đáp
ứng yêu cầu thực tiễn hằng ngày của con người
Ý thức đời thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt của cuộc
sống. Những tri thức kinh nghiệm phong phú là tiền đề quan trọng cho sự
hình thành các lý thuyết khoa học.
Ý thức lý luận: là những tư tưởng, quan điểm xã hội mang tính hệ thống
hoá, được xây dựng nên bởi tư duy lý luận và được diễn tả dưới dạng hệ
thống các khái niệm khoa học, các học thuyết xã hội.
Ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách
khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự
vật và hiện tượng. Chính vì vậy, ý thức lý luận là nhân tố chủ yếu thể hiện
tính vượt trước của ý thức xã hội. Vai trò sáng tạo tích cực của ý thức lý luận
ngày càng tăng trong xã hội hiện đại.
So với các hình thái ý thức lý luận thì ý thức đời thường gần hơn với
hiện thực trực tiếp của đời sống. Vì vậy, nó phản ánh đầy đủ hơn đặc điểm
của toàn cảnh với tất cả những chi tiết cụ thể và sắc thái ý nghĩa của nó. Kinh
nghiệm của ý thức đời thường là kho tàng trong đó các khoa học cụ thể, triết
học và nghệ thuật tìm kiếm nội dung của mình. Như vậy, ý thức đời thường là
hình thái đầu tiên mà xã hội hiểu biết thế giới tự nhiên và xã hội, hình thái đó
có tính quy định khách quan ngay trong bản tính con người. Trong lịch sử, ý


17
thức đời thường có biến đổi về chất. Chẳng hạn, trong thời trung cổ, nếu ý

thức đời thường xa lạ những quan điểm khoa học, thì trong xã hội hiện đại, ý
thức thực tiễn - đời thường đã không còn là sự phản ánh thế giới mang tính
tôn giáo - huyền thoại ngây thơ nữa, ngược lại, nó chứa đựng những tri thức
khoa học, đồng thời khái quát các tri thức này thành hệ thống, nhờ vào những
phương tiện riêng của nó mà không thể quy thành những phương tiện khoa
học được.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội
Tâm lý xã hội: là bộ phận của ý thức thông thường, bao gồm toàn bộ
những tình cảm, tâm trạng, ước muốn, thói quen, tập quán… của con người
được hình thành một cách tự phát dưới ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện sinh
sống hằng ngày.
Tâm lý xã hội là hiện tượng phong phú, đa dạng phức tạp không những
vì được hình thành tự phát do điều kiện sinh sống và hoạt động trực tiếp hàng
ngày chi phối mà còn vì tính phức tạp và tinh tế của tâm lý con người. Tâm lý
xã hội thuộc lĩnh vực của con người nên tính dễ “lây lan” là một trong những
đặc trưng của nó. Yếu tố xúc cảm tâm lý làm cho tâm lý xã hội có tác dụng
kích thích hoạt động của con người một cách nhanh chóng. Vì vậy, sự hiểu
biết kịp thời và đúng đắn tâm trạng xã hội của quần chúng là một yêu cầu rất
quan trọng trong công tác vận động cách mạng, trong hoạt động quản lý và
lãnh đạo xã hội nói chung, trong công tác tư tưởng nói riêng. Một tư tưởng xã
hội chỉ trở thành sức mạnh hiện thực trong thực tiễn khi nó kết hợp với yếu tố
tâm lý trong ý thức con người và sức mạnh đó chỉ trở nên lâu bền khi nó đi
vào tập quán của xã hội.
Hệ tư tưởng xã hội: là những quan điểm, tư tưởng đã được hệ thống
hoá, khái quát hoá thành lý luận, thành các học thuyết chính trị - xã hội, phản
ánh lợi ích của một giai cấp nhất định.
Hệ tư tưởng ở cấp độ lý luận của ý thức nhưng không bao hàm toàn bộ
ý thức lý luận. Với tư cách là ý thức lý luận, hệ tư tưởng không phản ánh lý



18
luận một cách trực tiếp, toàn vẹn mà phản ánh gián tiếp bằng các công cụ khái
niệm, phạm trù của mình. Với tư cách là sản phẩm ý thức của một tập đoàn,
một giai cấp, hệ tư tưởng chứng minh và bảo vệ cho lợi ích của tập đoàn xã
hội, của giai cấp đó. Hệ tư tưởng hình thành một cách tự giác, trải qua quá
trình hoạt động tích cực của tư duy và mang tính giai cấp sâu sắc. Hệ tư tưởng
của giai cấp thống trị giữ vị trí là hệ tư tưởng thống trị xã hội, khi hệ tư tưởng
của các giai cấp thống trị đã lỗi thời, các giai cấp bị trị không chấp nhận hệ tư
tưởng của giai cấp thống trị. Do vậy, trong đấu tranh giai cấp, bao giờ cũng có
đấu tranh tư tưởng, đấu tranh ý thức hệ.
Trong tương quan giữa cấp độ đời thường và cấp độ lý luận của ý thức,
tâm lý xã hội giống như một bộ phận ở cấp độ đời thường của ý thức, trong
đó xuất hiện những quan điểm và sự đánh giá đa dạng, khoa học và không
khoa học, những thị hiếu và tư tưởng thẩm mỹ, những phong tục và truyền
thống… Hệ tư tưởng giống như cấp độ lý luận của ý thức, trong đó đưa ra sự
đánh giá một cách có hệ thống về hiện thực xã hội trên lập trường của một
giai cấp, nêu ra nhiệm vụ và mục đích chính trị - xã hội của họ, xây dựng hệ
thống những tư tưởng về quyền uy. Thuộc tính căn bản của hệ tư tưởng - với
tư cách là một hình thái lý luận đặc thù của ý thức - là phản ánh hiện thực
không trực tiếp - toàn vẹn như tâm lý xã hội, mà gián tiếp bằng những công
cụ phạm trù của mình.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội tuy là hai trình độ, hai phương thức
phản ánh khác nhau của ý thức xã hội, nhưng chúng có mối liên hệ tác động
qua lại với nhau. Chúng có cùng một nguồn gốc là tồn tại xã hội, đều phản
ánh tồn tại xã hội. Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây cản trở cho
sự hình thành, sự truyền bá, sự tiếp thu của con người đối với một hệ tư tưởng
nhất định.
1.2. Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống
1.2.1. Khái niệm ý thức xã hội Việt Nam truyền thống



19
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống được hình thành trong quá trình
phát triển lâu dài của dân tộc, thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống tinh thần
của dân tộc và được thể hiện trong nhận thức của mỗi người khi tham gia vào
hoạt động xã hội với tư cách là thành viên của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Cộng đồng Việt Nam được hình thành cách đây hàng nghìn năm. Thời
điểm hình thành dân tộc Việt Nam là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Tuy
nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng, dân tộc Việt Nam cũng như đa số
các dân tộc phương Đông khác như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều tiên… được
hình thành từ rất sớm. Việt Nam được biết đến như cái nôi văn minh của loài
người và cũng được coi là một trong những trung tâm phát sinh nông nghiệp
sớm với nền văn minh lúa nước, nơi đã từng trải qua các cuộc cách mạng đồ
đá mới và cách mạng luyện kim. Trên nền tảng phát triển kinh tế - xã hội thời
Đông Sơn, trước những đòi hỏi của công cuộc trị thủy và chống xâm lăng,
nhà nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên - đã ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII
trước Công nguyên. Bằng sức lao động cần cù, sáng tạo, cư dân Văn Lang,
(sau đó là Âu Lạc) đã tạo dựng nên một nền văn minh tỏa sáng khắp vùng
Đông Nam Á. Đi cùng với Nhà nước đầu tiên của lịch sử Việt Nam là một
nền kinh tế phong phú, một nền văn hóa cao mà mọi người biết đến với tên
gọi là văn minh Sông Hồng (còn gọi là văn minh Đông Sơn) với biểu tượng là
trống đồng Đông Sơn - thể hiện sự kết tinh lối sống, truyền thống và văn hóa
của người Việt cổ.
Vừa dựng nước, người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự xâm
lăng của các thế lực bên ngoài. Độ dài thời gian và tần suất các cuộc kháng
chiến, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam rất lớn. Kể từ
cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III trước Công nguyên) đến cuối thế kỷ
XX, đã có tới 12 thế kỷ Việt Nam phải tiến hành hàng trăm cuộc chiến tranh
giữ nước, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc. Cuộc sống lao động
gian khổ đã tạo ra truyền thống lao động cần cù, sáng tạo; yêu cầu phải liên



20
kết lại để đấu tranh với những khó khăn, thách thức đã tạo ra sự gắn bó giữa
con người với thiên nhiên, giữa con người với nhau trong mối quan hệ gia
đình, láng giềng, dòng họ của người Việt cũng như trong cộng đồng nhà -
làng - nước - dân tộc. Lịch sử cũng cho con người Việt Nam truyền thống yêu
nước, tương thân tương ái, sống có đạo lý, nhân nghĩa; khi gặp hoạn nạn thì
đồng cam cộng khổ, cả nước một lòng; tính thích nghi và hội nhập; lối ứng xử
mềm mỏng và truyền thống hiếu học, trọng nghĩa, khoan dung. Đây chính là
sức mạnh tiềm tàng, là nội lực vô tận cho công cuộc xây dựng đất nước Việt
Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh hiện nay.
Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống hình thành cùng với lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Có thể định nghĩa về ý thức xã hội Việt Nam
truyền thống như sau: Ý thức xã hội Việt Nam truyền thống là tổng hoà những
quan niệm, tư tưởng, lý luận cùng những tình cảm, ước muốn, tâm trạng,
truyền thống của dân tộc Việt Nam, phản ánh điều kiện kinh tế, chính trị, lịch
sử, đạo đức, thẩm mỹ của dân tộc ta trong những giai đoạn lịch sử đã qua.
1.2.2. Cơ sở hình thành của ý thức xã hội Việt Nam truyền thống
Chúng ta biết rằng, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội. Ý thức xã hội
của một dân tộc (cả về phương diện tâm lý và hệ tư tưởng xã hội) do đời sống
vật chất và điều kiện sinh hoạt vật chất của dân tộc đó quyết định. Ý thức xã
hội Việt Nam truyền thống là sự tổng hợp của các yếu tố: địa tự nhiên, địa
kinh tế, địa chính trị và địa văn hoá… của dân tộc Việt Nam.
Địa tự nhiên:
Việt Nam nằm trong khu vực địa lý được thiên nhiên và khí hậu dành
cho sự sưu đãi đặc biệt. Những vùng đồi núi và trung du trải dài, đất đai đa
dạng; những vùng đồng bằng màu mỡ với sự bồi đắp phù sa từ những con
sông lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nghề nông nghiệp trồng
lúa nước từ rất sớm với văn hoá Hòa Bình và văn hoá Bắc Sơn. Bờ biển kéo

dài tạo điều kiện cho ngư dân phát triển nghề làm muối, đánh bắt tôm cá và


21
hải sản. Những dãy núi cao không chỉ là những cảnh đẹp hung vĩ mà bên
trong còn chứa đựng biết bao bí ẩn của thiên nhiên. Khí hậu của Việt Nam là
nhiệt đới, gió mùa, nóng ẩm, mưa nhiều, tạo điều kiện cho sự phát triển thảm
thực vật dày quanh năm, tạo nên sự đa dạng sinh thái.
Tuy nhiên, thiên nhiên nơi đây cũng ẩn chứa nhiều đe doạ sự tồn tại và
thử thách sức sống của con người Việt Nam. Vùng núi cao luôn là nơi “rừng
thiêng nước độc”, chứa đựng nhiều cạm bẫy và thú dữ. Biển cả và bão làm
đắm bao thuyền bè, cướp đi sinh mạng của biết bao ngư dân chài lưới. Thuỷ
triều ở những con sông lớn luôn là mối đe doạ đối với những người làm nông
nghiệp. Hằng năm, nước dâng cao phá vỡ đê, cuốn đi tất cả những thành quả
lao động của người nông dân. Khí hậu cũng luôn thất thường, khi thì mưa kéo
dài, xói mòn hết đồng ruộng; khi thì hạn hán nắng như đổ lửa, thiêu cháy
đồng ruộng, hoa màu và cây cỏ. Biết bao nhiêu loại dịch bệnh phát sinh, phá
hoại mùa màng, gây cản trở cho quá trình sản xuất.
Thiên nhiên đã buộc con người Việt Nam phải thích ứng với những ưu
đãi và sự khắc nghiệt của nó. Cứ mỗi lần sông Hồng dâng nước lên cao, thì
con người lại đắp đê cao hơn nữa từ đời này qua đời khác. Sử cũ chép lại năm
1100 đắp đê bên sông ở phường Cơ Xá (Thọ Xương - Hà Nội). Năm1248,
triều đình ra lệnh cho các lộ đắp đê từ đầu nguồn ra đến bờ biển để phòng
ngừa nước sông tràn ngập. Cùng với việc đắp đê, Sử cũ chép về nạn thuỷ tai:
năm 1243 có nước lớn, vỡ thành Đại La, năm 1245 vỡ đê Long Đàm, năm
1265 vỡ đê phường Cơ Xá khiến nhiều người và súc vật chết đuối, năm 1352
nước to vỡ đê Bát Tràng, Thổ Khối (Bắc Ninh), Khoái Châu (Hưng Yên),
Hồng Châu (Hải Dương)… cứ thế kéo dài hàng chục thế kỷ. Những công việc
đắp đập, làm mương, làm thuỷ lợi, khai hoang, lấn biển, đắp đê, phòng chống
bão lụt yêu cầu phải có sự chung sức, chung lòng của các thành viên trong

cộng đồng người Việt, từ đó làm nảy sinh những đức tính tốt như tinh thần
đoàn kết, ý thức quốc gia, cộng đồng sớm hình thành. Mặt khác, có thể làm


22
nảy sinh nhiều tư tưởng tiêu cực, đó là lối tư duy coi trọng kinh nghiệm, mê
tín dị đoan vì con người thấy mình quá nhỏ bé, bất lực trước sức mạnh vô
cùng to lớn của tự nhiên.
Địa kinh tế:
Căn cứ vào các tài liệu khảo cổ học, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam và
thế giới đã chứng minh một cách khá thuyết phục là Việt Nam được nhìn
nhận như một trong những cái nôi đầu tiên của lịch sử văn minh loài người
với tên gọi “văn minh lúa nước”.
Có thể thấy, ngay từ cuối thời kỳ nguyên thuỷ, con người Việt Nam đã
thực sự mở đầu công cuộc cải tạo tự nhiên với cây lúa bằng lao động sáng tạo
của mình từ nền kinh tế thu lượm chuyển sang nền kinh tế trồng trọt, sản xuất
và dự phòng. Sự ra đời của nhà nước Văn Lang đã đánh dấu một bước phát
triển mạnh mẽ có ý nghĩa thời đại trong lịch sử Việt Nam, đồng thời định hình
xây dựng nền văn minh sông Hồng lấy nông nghiệp trồng lúa nước và tổ chức
xóm làng làm cơ sở. Đời sống tinh thần của các cư dân Văn Lang thời kỳ này
cũng khá phong phú, đa dạng được thể hiện qua những nghi lễ sinh hoạt, qua
các phong tục, tập quán như thờ cúng tổ tiên, thờ các vị anh hùng, thủ lĩnh
nhằm khẳng định nguồn gốc, đề cao và biết ơn những người có công với cộng
đồng, dân tộc.
Nền kinh tế sản xuất nông nghiệp lúa nước là đặc thù riêng của dân tộc
Việt, là nền tảng tạo nên phương thức sản xuất châu Á ở Việt Nam. Từ khi
dựng nước cho đến thời kỳ Bắc thuộc và sau này là các triều đại phong kiến
độc lập, đời nào cũng xem trọng sản xuất nông nghiệp theo tôn chỉ “dĩ nông
vi bản”. Đặc trưng của phương thức sản xuất châu Á ở nước ta là đất đai từ
xưa đều thuộc quyền sở hữu của nhà nước, đứng đầu là ông vua. Nhà vua như

một “đại địa chủ” có quyền tối thượng về phân bố và sử dụng đất đai. Nhân
dân chỉ là người canh tác trên đất của nhà vua như người làm thuê và có nghĩa
vụ nộp thuế. Tuy nhiên, về hình thức, trong vấn đề ruộng đất, mọi quyền hành

×