Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Tài liệu Nền giáo dục của Việt Nam từ thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 19 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.3 KB, 5 trang )

NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM TỪ XƯA ĐẾN NAY
1) Nền giáo dục của Việt Nam từ thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 19
Thăng Long thời kỳ phong kiến là trung tâm văn hóa, giáo dục của cả nước. Đây chính là nơi hội
tụ, đào tạo nguồn nhân tài cho hệ thống quan lại trung ương. Đã có rất nhiều nhà Nho nổi tiếng
của Thăng Long qua các triều đại như Chu Văn An, Lê Thánh Tông, Cao Bá Quát…
Đất nước ta trải qua nghìn năm Bắc thuộc, rồi ngay cả khi xây dựng nhà nước độc lập dưới chế
độ phong kiến nhưng đất nước vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền giáo dục phương Bắc mà chủ
yếu là Trung Quốc.
Hệ thống giáo dục qua các triều đại phong kiến đều dựa trên tư tưởng của Nho giáo. Những môn
học, những hình thức thi cử, tuyển chọn quan lại cho hệ thống chính quyền cai trị từ trung ương
đến địa phương đều chịu ảnh hưởng nặng nề từ Trung Quốc phong kiến.
Giờ học Địa lý
Ở thời kỳ này, các triều đại phong kiến Đại Việt xây dựng Nhà nước theo mô hình Nhà nước Nho
giáo của Trung Hoa. Từ cơ cấu luật pháp, hành chính đến giáo dục, văn chương và nghệ thuật
đều rập khuôn theo mẫu Trung Hoa .
Trong giáo dục thì thực hành chế độ khoa cử, dùng chữ Hán và chữ Nho, đào tạo nhân tài phục
vụ cho bộ máy hành chính của các Hoàng Triều và xây dựng những cổ lệ phong kiến địa phương
theo Nho giáo. Mỗi khoa thi có 3 kỳ thi quan trọng nhất là thi Hương, thi Hội và thi Đình. Tài
liệu dùng để giảng dạy, học tập và thi cử gồm các tài liệu chính của Nho học Trung Hoa là: Tứ
thư, Ngũ kinh và Sử Trung Hoa (tức Bắc sử ). Riêng thời Nguyễn (1802-1919) có thêm tài liệu
do người Việt biên soạn là: Sơ học vấn tân, Âu học ngũ ngôn thi và Nam sử. Phương pháp giáo
dục chủ yếu là dạy, học thuộc lòng.
Một lớp học thời xưa.
2) Nền giáo dục của Việt Nam thời thuộc Pháp ( 1887-1945)
Tháng 8/1858, Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam. Năm 1887, Pháp đã hoàn thành quá trình xâm
lược Việt Nam và đã củng cố xong bộ máy cai trị tại nước ta. Từ thập kỷ 1910 ở Việt Nam đã có
cuộc cải cách giáo dục, xoá bỏ hoàn toàn Nho học đi cùng với chữ Hán, thay bằng phong trào tân
học dùng chữ quốc ngữ. Từ đó tạo ra một tầng lớp trí thức mới xuất thân từ truyền thống Nho
giáo nhưng được tiếp cận với Văn hoá Phương Tây.
Năm 1864 diễn ra kỳ thi Hương cuối cùng ở Nam Kỳ (tổ chức ở ba tỉnh miền Tây trước khi bị
Pháp chiếm). Từ 1878 chữ Hán trong giấy tờ công văn các cơ quan hành chính được thay thế


bằng chữ Pháp và chữ quốc ngữ.
Ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, dưới quy chế bảo hộ, sự thay đổi về giáo dục chậm hơn. Kỳ thi Hương
cuối cùng ở Bắc là năm Ất Mão 1915 và ở Huế năm Mậu Ngọ 1918. Chế độ giáo dục và khoa
cử Nho học thực sự chấm dứt với khoa thi Hội cuối cùng năm Kỷ Mùi 1919 ở Huế. Tuy vậy mãi
đến năm 1932 bộ máy quan lại của triều đình mới bỏ việc dùng chữ Hán và thay thế bằng chữ
Pháp hay chữ quốc ngữ.
Nhằm thay thế Hán ngữ bằng ngôn ngữ Pháp và chữ quốc ngữ, thực dân Pháp đã lập ra nhiều cơ
sở để truyền bá và để đáp ứng nhu cầu cấp bách trong thời gian đầu, thực dân Pháp đã thiết lập
các trường đào tạo thông ngôn. Ngày 8/5/1861 Đô Đốc Charner ký nghị định lập trường Collège
d'Adran để đào tạo thông ngôn người Việt và cho cả người Pháp muốn học tiếng Việt. Trường
Thông Ngôn được thiết lập ở Sài Gòn năm 1864, ở Hà Nội năm 1905. Pháp còn thiết lập các
Trường Hậu Bổ (chuẩn bị bổ ra làm quan) ở Hà Nội năm 1903 và ở Huế năm 1911. Đây là
những bước đầu trong việc thiết lập một giáo dục của Pháp.

Các học trò đang chăm chú nghe giảng
Trường Đông Kinh Nghĩa Thục là ngôi trường do những người yêu nước lập ra. Trường không
thu học phí và giáo viên ban đầu cũng không có lương. Ban đầu, nguồn kinh phí của trường dựa
vào sự ủng hộ của các hội viên và những người hảo tâm yêu nước, cũng như các khoản đóng góp
tự nguyện của học sinh. Nội dung giáo dục của trường chủ yếu là trau dồi kiến thức mới và thức
tỉnh lòng yêu nước.
Trường còn giúp đỡ sách vở cho những người nghèo hiếu học. Đến tháng 5, Thống sứ Bắc Kỳ
mới chính thức cấp giấy phép cho trường hoạt động. Lúc phát triển nhất, trường có đến 40 lớp và
trên 1.000 học sinh, trường có cả chỗ cho học sinh ăn ở không mất tiền.
Đông Kinh Nghĩa Thục nhanh chóng trở nên nổi tiếng bên trong Hà Nội, nhiều tỉnh lân cận cũng
đã có các hội nhóm mở lớp, xin sách giáo khoa của trường về giảng dạy. Thậm chí, những người
duy tân đó còn cử người đi liên hệ với phong trào chống Pháp của Hoàng Hoa Thám, muốn ứng
viện cho nghĩa quân Yên Thế
Ban đầu, chính quyền Pháp cho phép cho Đông Kinh Nghĩa Thục hoạt động hợp pháp, về sau
nhận thấy đây có thể là một mối nguy đối với chế độ thuộc địa, vào tháng 11 năm 1907 trường bị
chính quyền thực dân buộc phải giải tán.

Sự ra đời của các trường học do người Pháp lập và trường học do những sĩ phu canh tân yêu
nước lập có sự đối lập về mục đích trong việc đào tạo thế hệ thanh thiếu niên ở Việt Nam trong
thời kỳ đất nước dưới sự xâm lược của chế độ thực dân.
Mặc dù chế độ giáo dục của Pháp có nhiều mặt tiêu cực nhưng cũng không thể phủ nhận tác
động của nó đối với nền giáo dục Việt Nam mà tiêu biểu chính là khơi gợi lòng yêu nước, niềm
tự tôn của dân tộc trong mỗi người Việt Nam yêu nước. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục là minh
chứng tiêu biểu nhất mở đầu cho nền giáo dục đào tạo ra những con người Việt Nam yêu nước.
3) Nền giáo dục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau cách mạng tháng 8/1945
đến 1985:
Kể từ sau ngày Việt Nam tuyên bố độc lập 2/9/1945 và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, chương trình giáo dục ở Việt Nam được gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn, cùng với
chương trình Bình dân học vụ xoá nạn mù chữ, được thực hiện ở miền Bắc và miền Trung (trừ
miền Nam, quân Pháp đã trở lại xâm lược lần thứ hai) cho đến ngày toàn quốc kháng chiến tháng
12/1946.
Sau ngày toàn quốc kháng chiến, chương trình giáo dục này được tiếp tục áp dụng trong các
vùng kháng chiến chống thực dân Pháp cho đến năm 1950. Từ năm 1950 đến năm 1956, tại các
vùng kháng chiến và sau đó trên toàn miền Bắc đã được gỉải phóng, bậc tiểu học và bậc trung
học được xếp xắp thành hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm gồm: 4 năm cấp 1(tiểu học), 3 năm
cấp 2 (THCS) và 2 năm cấp 3 (THPT). Từ năm 1956, hệ thống giáo dục phổ thông được xếp xắp
lại theo hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm của Liên Xô, gồm: 4 năm cấp 1 (tiểu học), 3 năm
cấp 2 (THCS), 3 năm cấp 3 (THPT). Sau 10 năm học, học sinh phải thi tốt nghiệp để nhận bằng
THPT.
Từ ngày 6/3/1956, tại Hà Nội đã mở 5 trường đại học, giảng dạy theo chương trình của Liên Xô
gồm: Đại học Bách Khoa, Đại học Nông Lâm, Đại học Sư phạm, Đại học tổng hợp (Văn và
Khoa học), Đại học Y Dược. Bậc Tiến sĩ thì được gửi đi đào tạo tại Liên Xô, Đông Âu.
Từ năm 1986, trong điều kiện đất nước đã thống nhất và đổi tên là CHXHCNVN, hệ thống giáo
dục phổ thông 12 năm được áp dụng trong cả nước cho đến nay. Sau 12 năm học, học sinh phải
dự kỳ thi quốc gia tốt nghiệp THPT, sau đó dự kỳ thi quốc gia tuyển sinh đại học.
Trong các trường đại học, tiếng Anh là ngoại ngữ thứ nhất. Trong khoảng 10 năm, từ năm 2000
đến năm 2012, số lượng trường đại học và cao đẳng đã phát triển đột biến: 307 trường đại học và

cao đẳng đã được thành lập mới hoặc do được nâng cấp. Năm 2012, Việt Nam có khoảng 91
triệu dân, đã có 409 trường đại học và cao đẳng và đào tạo theo tín chỉ.
4) Nền giáo dục ở miền Nam (1946-1975):
Sau ngày Việt Nam tuyên bố độc lập 2/9/1945 và thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa,
Pháp đã đem quân trở lại xâm lược lần thứ hai và trước tiên từ miền Nam. Vì vậy, chương trình
giáo dục ở miền Nam vẫn áp dụng theo chương trình của Pháp, cho đến thập kỷ 1970. Trong thời
kỳ này đã có chương trình giáo dục do người Việt khởi xướng. Trong thập kỷ 1970 (đến
30/4/1975), hệ thống giáo dục tại miền Nam áp dụng theo mô hình giáo dục của Hoa Kỳ.
Chương trình giáo dục phổ thông là 12 năm, gồm: 5 năm tiểu học, 4 năm trung học đệ nhất cấp,
3 năm trung học đệ nhị cấp. Sau 12 năm học, học sinh phải dự kỳ thi Tú tài để kết thúc chương
trình trung học.
Các Trường (và Viện) đại học tại miền Nam đã có trước ngày 30/4/1975 đào tạo các lĩnh vực và
các chuyên ngành sau: Y, Dược, Sư phạm, Nông nghiệp, Kinh tế và quản trị, kỹ thuật công nghệ,
quốc gia hành chính. Các đại học đào tạo theo tín chỉ.
Lịch sử giáo dục qua các thời kỳ nói trên cho chúng ta 2 kinh nghiệm lớn:
1. Nền giáo dục của Việt Nam ở từng thời kỳ đều vay mượn nền giáo dục nước ngoài (của Trung
Hoa phong kiến, Pháp, Liên Xô, Hoa Kỳ). Việt Nam chưa bao giờ tự thiết kế được cho mình một
hệ thống giáo dục hoàn chỉnh.
2. Tuy vay mượn nước ngoài nhưng hệ thống giáo dục ở những thời kỳ đó lại tương đối ổn định.
Còn trong khoảng hơn 10 năm gần đây, chúng ta đã rất cố gắng tự mày mò cải cách nền giáo dục
nhưng kết cục lại đưa đến những dấu hiệu rất đáng buồn phiền: Hệ thống giáo dục trở thành chắp
vá manh mún (dễ thấy nhất là tuy cùng có chức năng đào tạo nghề nhưng Tổng cục đào tạo và
Bộ Giáo dục - Đào tạo đã chia cắt thành những cắt cứ riêng. Chất lượng đào tạo bậc đại học và
đào tạo nghề dưới đại học ngày càng thua xa các nước láng giềng trong khu vực. Mò mẫm lúng
túng đến mức có những quyết sách thụt lùi, như trong việc phong học hàm đã châm trước tiêu
chuẩn ngoại ngữ cho chức danh Phó Giáo sư. Thầy cô giáo được ví như những sĩ quan tác chiến
ngoài chiến trường thì ngày càng mất dần nhuệ khí, giảm sự gắn bó với nghề dạy học.
Những dấu hiệu đó chứng tỏ Bộ Giáo dục - Đào tạo nhiều năm qua chưa đủ khả năng tự thiết
kế một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh để đổi mới.

×